Bài 1: Văn hóa và văn hóa học – PGD – Ứng Hòa
Mục lục bài viết
Tóm tắt lý thuyết
1. Con người chủ/khách thể của văn hóa
Một trong những khía cạnh cần xem xét của vấn đề là quan hệ giữa con người và văn hóa.
Mối quan hệ này được bộc lộ ra ở ba khía cạnh quan trọng:
- Con người với tư cách là chú thể sáng tạo cùa văn hóa,
- Con người cũng là sản phẩm của văn hóa,
- Con người cũng là đại biểu mang giá trị văn hóa do con người sáng tạo ra.
Như vậy, con người vừa là chủ thể nhưng vừa là khách thể của văn hóa. Có nhìn nhận văn hóa như một chỉnh thể thống nhất, chúng ta mới giải được mối quan hệ hữu cơ giữa con người với xã hội, giữa con người với tự nhiên. Trong những mối quan hệ ấy, con người là chủ thể, là trung tâm, như mô hình sau:
Thế nhưng, từ trước đến nay cả ba thành tố trong mô hình này, không phải đã được mọi người, mọi thời nhìn nhận một cách nhất quán.
- Trong trường kì lịch sử, những câu hỏi “Ta từ đâu đến? Ta đi đến đâu?”, là những câu hỏi ám ảnh loài người từ muôn đời nay. Và loài người luôn tìm cách giải đáp những câu hỏi nàv bằng các huyền thoại, sáng thể luận, học thuyết triết học, tôn giáo v.v…
- Trong tư tưởng phương Đông, con người là vũ trụ thu nhỏ ”Nhân thân tiểu thiên địa” (Lào Tử). Con người là sự thống nhất của không gian và thời gian. Con người bao gồm cả vũ – không gian (trên dưới) và trụ – thời gian (xưa qua nav lại).
- Theo mô hình tam phân (bộ ba) hay thuyết Tam -Tài, con người là một trong ba ngôi ba thế lực của vũ trụ bao la tức Thiên – Địa – Nhân. Người nối liền trời với đất, dung hòa hai cực đối lập ấy để đạt được sự hài hòa hợp lí : ‘’Thiên thời – địa lợi – nhân hòa”.
- Trong hệ thống quan niệm của Phật giáo, người và muôn loài là bình đẳng, khác với quan niệm phương Tây cổ truyền cho con người là trung tâm vũ trụ, chúa tể của muôn loài.
- Quan niệm về con người của triết học phương Đông là : “Tam tài”, “Vạn vật tương đống”, “Thiên nhân hợp nhất” và quan niệm của Phật giáo cho rằng con người bình đẳng với muôn loài, hoàn toàn tương đồng với xu thế phát triển của sinh thái học hiện đại và sinh thái học văn hóa.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử nhìn con người như một thành tố đã tồn tại trong nhiếu mối quan hệ xã hội như định nghĩa của Các Mác : “Trong tính thực tiễn của nó, con người là sự tổng hòa các quan hệ xã hội”. Một số nhà nghiên cứu cho rằng định nghĩa này đúng nhưng để hiểu Các Mác hơn cần nhớ, năm 1860, khi hai cô con gái Laura và Jenny Mác đặt câu hỏi với bố : “Châm ngôn ưa thích nhất cúa bó là gì ? “, Mác đã trả lời bằng một câu nổi tiếng của thời cổ đại La Mã : “Không có cái gì của con người, mà tôi lại coi nó như xa lạ đối với tôi”
- Trong thời đại tin học, người ta hay sử dụng khái niệm con người nhiều chiều (Multidimension). Khái niệm này vể thực chất thể hiện quan niệm trên của Các Mác. Con người nhiểu chiểu ở đây có thể hiểu con người t.rong các chiêu hướng tự nhiên—xã hội, gia đình
—
xã hội, hành động
—
tâm linh, con người
—
chính mình.
- Trong khoa học sinh thái, con người được đặt trong sinh quyển, là một thành viên đặc biệt trong sinh quyển, do bản chất sinh vật phát triển hoàn hảo nhất và do bản chất văn hóa chỉ có ở con người. Con người cùng với quả đất là một hệ sinh thái. Tuy vậy do vị trí thuộc nhóm sinh vật tiêu thụ ăn tạp (con người là một kẻ tiêu thụ đặc biệt tham lam nhất và tàn nhẫn nhất ăn phá, khai thác và biến đổi tự nhiên) nên con người hầu như không có đóng góp gì đáng kể cho quá trình tiến hóa của sinh quyền củng như cho sự phát triển của hệ sinh thái, ngoài sự tồn tại và phát triển của chính xã hội của mình.
- Từ thế kỉ XVIII B.Franklin đã định nghĩa con người là “động vật làm ra công cụ”. Cho đến trước năm 1960 hầu hết các nhà khoa học đều đã nghĩ như vậy, Song những kết quả quan sát và nghiên cứu tập tính của các loài động vật cấp cao ở điều kiện thí nghiệm và điều kiện tự nhiên cho thấy ở nhưng tình huống nhất định, một số loài đã sử dụng đá, cành cây… (như vượn – người chimpanje). Như vậy, mầm mống sử dụng công cụ đã xuất hiện ở con vẹt. Nhiều học giả phương Tây đã lợi dụng kết quà nghiên cứu đó để chóng lại học thuyết về vai trò của lao động trong quá trinh biến chuyển từ vượn thành người. Vì thế, điểm mấu chốt là phải làm rõ những điều kiện và tình huống môi trường tự nhiên, xã hội của hai hoạt động này. Động vật sử dụng công cụ “ngẫu nhiên” không hệ thống, hay không muốn làm theo hệ thống và không bắt buộc. Con người sử dụng và chế tạo công cụ một cách có ý thức, có hệ thống và với một sự bắt buộc để có thể tồn tại do đã bị mất đi những khả năng thể lực. Hay “Con người còn tỏ ra là động vật duy nhất đã biết “chọn” cách thích nghi để phát triển hệ thn kinh tới mức đó (tư duy, chế tạo công cụ, ngôn ngữ), trong khi các động vật khác đã chọn cách biến đổi tứ chi của chúng để cải thiện dinh dưỡng. Con người giữa toàn bộ thế giới động vật là loài đã phát triển được bộ não.
- Ta có thể bổ sung thêm định nghĩa của B.Franklin “con người sơ khai – một loài linh trưởng biết chế tạo và sử dụng một cách hệ thống các công cụ bàng đá, tre, gỗ..,”
- Con người vừa là cá nhân không thể chia cắt được, vừa là một sinh vật xã hội. Đặc điểm của con người là sống cùng nhau, sống vớỉ nhau, thành một cộng đồng. Tuy thế loài vật cũng sống cùng nhau, sống với nhau, như vậy con người không phải là kẻ độc quyền vể tính xã hội. Song, tính xã hội của con vật được di truyền theo bản nâng, không thay đổi, bất di, bất dịch từ ngàn đời nay. Tính xã hội của con người được truyền qua con đường sinh học, và con đường văn hóa (thông qua trau đổi, tu dưỡng, giáo dục). Tính xã hội của con người là quá trình với những nguyên lí và cấp độ diễn biến phức tạp. Trong tất cả các loài, “Con người là sinh vật có tính xã hội cao nhất” (F. Ăngghen).
- Con người luôn luôn sống trong hai thế giới, thế giới thực và thế giới biểu tượng đặc điểm riêng của con người, theo L A.White, chính là năng lực biểu trưng của tư duy con người.
- Chúng ta nói văn hóa trước hết phải nói tới con người. “Trong toàn bộ sự phát triển xã hội, con người luôn luôn tồn tại với hai tư cách : vừa là chủ thể; vừa là đối tượng. Với tư cách là chủ thể, con người thực hiện sự phát triển của xã hội, mà trước hết là sự phát triển lực lượng sản xuất. Với tư cách là đối tượng, con người hưởng thụ những thành quả cùa sự phát triển đó. Không có con người thì không có sự hưởng thụ cũng không có sự cống hiến – nghĩa là không có sự phát triển. Dĩ nhiên giả thiết ấy là không thể có được, nhưng nó cho thấy một điểu trong tất cả nhửng gì có thể nói được về sự tiến hóa của lịch sử trên trái đất, con người là trung tâm. Hơn nữa cái vị trí trung tâm đó được đảm bảo bằng hai vế – cống hiến và hưởng thụ. Ở con người, với tư cách là con người hai vế này có sự gắn bó chặt chẽ và luôn luôn cần giữ được sự cân đối trong từng hoàn cảnh lịch sử”
- Như vậy từ góc độ vản hóa, ta thấy con người một mặt sáng tạo ra văn hóa (nghĩa vụ), mặt khác con người là đối tượng của văn hóa (quyển lợi – văn hóa vì con người).
- Vì thế, dần dà, nhân loại càng nhận ra vai trò của con người và càng ngày vai trò của con người càng được đánh giá cao.
- Ở Liên Xô (cũ), trước hiến pháp Xtalin 1936, Xtalin có một luận điểm, trong đó nêu vấn đề con người là quyết định.
- Ở Việt Nam, đã có lúc khoa học xã hội Việt Nam ít, hoặc còn né tránh chuyện nghiên cứu những vấn đề về con người Việt Nam. Tình hình đó đã thay đổi đặc biệt từ sau Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Yếu tố con người ngày càng được coi trọng. Nhiều tri thức Việt Nam đã nêu ý kiến: chiến lược đầu tiên là chiến lược về con người. Nhiều học giả của các ngành khoa học xã hội, nhân văn tham gia soạn thảo cuốn Chiến lược con người. Con người là động lực, con người làm ra văn hóa, kinh tế xã hội. Nhiều ngành khoa học có liên quan tới con người Việt Nam như sử học, văn học, đạo đức học, tâm lí học, giáo dục học, xã hội học, …đã đạt được không ít thành tựu trong nghiên cứu về con người Việt Nam với tư cách là đối tượng của ngành mình. Trong đó đáng lưu ý là đề tài khoa học cấp nhà nước KX-O7 “Con người với tư cách là niục tiêu và động lực phát triển kinh tế xã hội.
- “Con người ở khắp mọi nơi đều giống nhau vì họ đều là con người”. Đó là nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa nhân văn triết học, con người có quyền bình đẳng với nhau trên khắp hành tinh. Tuy vậy khi chuyển khái niệm con người sang các ngành khoa học xã hội, nhân văn có tính phân tích ta lại phải đối diện với những hiện thực khác, trong đó con người là giống nhau, đồng thời là khác nhau, bởi vì họ ở trong những tập hợp người đủ mọi kiểu, họ mang trong mình dấu ấn dân tộc, chế độ xã hội, đặc điểm thời đại, địa lí, giới tính, lứa tuổi, nghẽ nghiệp. Khái niệm con người được, nhìn nhận từ các góc độ khác nhau, tùy thuộc vào vấn đề tiếp cận. Điều đó cũng bắt nguồn từ tính đa dụng vô cùng của con người trong sự thống nhất hiển nhiên của giống loài.
2. Con người Việt Nam, chủ-khách thể của văn hóa Việt Nam
- Đã có rất nhiêu nhận xét (theo tình cảm, theo lí trí) tù các quan điểm truyển thống, hiện đại, từ các góc độ nhận thức dân tộc, thế giới,… về con người Việt Nam từ xưa tới nay. Song cho tới nay nhận thức vể con người Việt Nam thực sự chưa đầy đủ. Từ góc độ là chủ thể của văn hóa, con người Việt Nam một mặt là con người cá nhân, mặt khác mang tải trong mình tính dân tộc truyền thống. “Con người phải có tính dân tộc cũng như phải có mũi, có tai, và tính dân tộc được trao cho con người từ lúc sinh ra và còn lại một cách bất biến suốt cuộc đời người ấy. Nó củng tồn tại chắc chắn trong ta chẳng hạn như là giới tính”.
- GS. Dào Duy Anh đã chú ý các đặc điểm khí chất của người Việt Nam khi ông viết cuốn Việt Nam văn hóa, sử cương, tuy nhiên theo ông, những tính chất ấy không phải là bất di bất dịch. Ông cho rằng : “Về tính chất tinh thần thì người Việt Nam đại khái thông minh, nhưng xưa nay thấy ít người có trí tuệ lỗi lạc phi thường. Sức kí ức thi phát đạt làm mà giàu trí nghệ thuật hơn trí khoa học, giàu trực giác hơn luận lí. Phần nhiều người có tính ham học. Song thích văn chương phù hoa hơn thực học, thích thành sáo và hình thức hơn là tư tưởng hoạt động. Não tưởng tượng thường bị não thực tiễn hòa hoãn bớt, nên dân tộc Việt Nam ít người mộng tưởng mà phán đoán thường có vẻ thiết thực lắm. Sức làm việc khó nhọc, nhất là người ở miễn Bác thì ít dân tộc bì kịp, cảm giác hơi chậm chạp, song giỏi chịu đau đớn cực khổ và hay nhẫn nhục. Tính khí cũng hơi nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, hay khoe khoang trang hoàng bề ngoài; ưa hư danh và thích chơi cờ bạc. Thường thì nhút nhát và chuộng hòa bình, song ngộ sự thì cũng biết hi sinh vì đại nghĩa. Não sáng tác thì ít, nhưng mà bát chước thích ứng và dung hóa thì rất tài. Người Việt Nam lại rất trọng lễ giáo song cũng có não tinh vặt, hay bài bác chế nhạo”. PGS. Phan Ngọc trong công trình Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, khẳng định : “Văn hóa là một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác”. Trên nền ấy, ông cho rằng : “Bản sắc văn hóa, do đó, không phải – là một vật mà là một kiểu quan hệ. Kiểu quan hệ kết hợp, chẳng nói từ nhiễu góc rất khác nhau, nhưng tạo nên một thể thống nhất hữu cơ kì diệu Tôi tạm dùng chữ bricolage… người Việt Nam là bậc thầy vẽ nghệ thuật bricolage”. Thực ra ý này đấu tiên là cùa nhà sử học – nhà báo Jean Lacouture.
- GS. Hà Văn Tấn khi viết về sự hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam cũng khẳng định sự tồn tại của tính cách dân tộc và tâm lí dân tộc. “Tâm lí dân tộc biểu hiện trong phong cách tư duy, lối ứng xử (hay hành vi), đống thời biểu hiện ra trong tình cảm dân tộc. Nó bị che ước bởi các điều kiện tự nhiên mà trong đó công đồng đang tồn tại, điều kiện xã hội và điều kiện lịch sử”. Các yếu tố này bao gồm cả biến số và hằng số, chính vì vậy tính cách dân tộc và tâm lí dân tộc có biến chuyển, vì thế, khi tìm hiểu tâm lí dân tộc hay tính cách dân tộc (cả mặt tích cực và tiêu cực), phải xem xét vai trò tác động, sự chi phối của cả ba yếu tố tự nhiên, xã hội và lịch sử.
- Có như vậy, ta mới cò thể lí giải một cách cặn kẽ, khoa học, lí tính những yếu tố trội trong tính cách, tâm lí, bản sác dân tộc, bản sắc văn hóa của người Việt Nam trong lịch sử và cả giai đoạn hiện nay. Trong công trình nghiên cứu “Các giá trị truyến thống và con người Việt Nam hiện nay” thuộc đề tài KX-O7, các tác giả đều thống nhất trong những nhìn nhận về giá trị tinh thần, tính cách dân tộc Việt Nam mà điển hình là tinh thần yêu nước kiêni cường gắn bó với quê hương xứ sở, cụ thể là với làng và nước, với nhà làm tế bào chung ; ý thức sâu sắc và vững bền về bản ngã ; tinh thần cổ kết cộng đồng ; cần cù, chịu thương, chịu khó, giỏi chịu đựng gian khổ, tình nghĩa ; ứng xử linh hoạt mềm dẻo ; dễ thích nghi, hội nhập… Mặt khác, do những điều kiện môi trường tự nhiên khắc nghiệt, thất thường, điều kiện xã hội làm chiến tranh cùng với những hạn chế của một nền sản xuất nông nghiệp (tiểu nông) truyền thống chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, nên căn tính nông dân với những mật tiêu cực của nó như tâm lí bình quân- cào bằng ; tác phong tùy tiện ; “ăn xôi” ; tâm lí cầu an, cầu may ; thủ cựu ; gia trường đã và đang ảnh hưởng không ít tói công cuộc xây dựng vã phát triển một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến mang đậm dà bản sắc dân tộc.
Tóm lại, ở Việt Nam từ xa xưa có con người cá nhân trên nền tảng tiểu nông, tuy nhiên do tư tưởng công xã phương Đông bao trùm nên vai trò cá nhân không được phát huy. Luôn luôn cá nhân được đặt trong và dưới cộng đồng. Hằng số văn hóa Việt Nam cổ truyền về mật chủ thể là người nông dân Việt Nam với tất cả những tính chất tích cực và hạn chế của nó. Trên nền cơ bản là nông dân, song người nông dân đó lại tuỳ thuộc vào tùng vùng (xứ, miền) vẳn hóa khác nhau mà lại mang những nét trội, riêng trong tinh cách. Vượt lên cả vé không/thơi gian là đặc điểm duy tình, duy nghĩa, duy cảm cùa con người Việt Nam trong mối quan hệ người-người, người– tự nhiên ; người – tâm linh ; thần linh và nhất là thái độ trách nhiệm với những thế hệ sau thể hiện qua khái niệm phúc đức.
3. Khái niệm văn hóa và các khái niệm khác
Đây là những công cụ – khái niệm hay công cụ – nhận thức dùng để tiếp cận những vấn đề nghiên cứu. Chúng thường hay bị, hay được sử dụng lẫn lộn, dù mỗi một khái niệm đều có những đặc trưng riêng của mình.
- Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh của xã hội loài người. Ở phương Đông, từ văn hóa đã có trong đời sống ngôn ngữ từ rất sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ vàn và hóa : Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ (Quan hổ nhân văn di hóa thành thiên hạ). Người sử dụng từ văn hóa sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 77-6 trước công nguyên), thời Tây Hán với nghĩa như một phương thức giáo hóa con người – văn trị giáo hóa. Văn hóa ở đây được dùng đối lập với vũ lực (phàm dấy việc võ là vì không phục tùng, dùng văn hóa mà không sửa đổi, sau đó mới thêm chém giết). Ở phương Tây, để chỉ đối tượng mà chúng ta nghiên cứu, người Pháp, người Anh có từ culture, người Đức có từ kultur, người Nga có từ kultura. Những chữ này lại có chung gốc Latinh là chữ cultus animi là trồng trọt tinh thần. Vậy chữ cultus là văn hóa với hai khía cạnh: trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và giáo dục đào tạo cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên, và họ có những phẩm chất tốt đẹp.
- Tuy vậy, việc xác định và sử dụng khái niệm văn hóa không đơn giản và thay đổi theo thời gian thuật, ngữ văn hóa với nghĩa “canh tác tinh thần” được sử dụng vào thế kỉ XVII-XVIII bên cạnh nghía gốc là quản lí, canh tác nông nghiệp.
- Vào thế kỉ XIX thuật ngữ “văn hóa” được những nhà nhân loại học phương Tây sử dụng như một danh từ chính. Những học giả này cho rằng văn hóa (văn minh) thế giới có thể phân loại ra từ trình độ thấp nhất đến cao nhất, và văn hóa của họ chiếm vị trí cao nhất. Bởi vì họ cho rằng bản chất văn hóa hướng về trì lực và sự vươn lên, sự phát triển tạo thành văn minh, E.B. Taylo (E.B. Taylor) là đại diện của họ. Theo ông, văn hóa là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội.
- Ở thế kỉ XX, khái niệm ” văn hóa” thay đổi theo F.Boa (F Boas), ý nghĩa văn hóa được quy định do khung giải thích riêng chứ không phải bắt nguồn từ cứ liệu cao siêu như “trí lực”, vì thế sự khác nhau về mặt văn hóa từng dân tộc cũng không phải theo tiêu chuẩn trí lực. Đó cũng là “tương đối luận của văn hóa”. Văn hóa không xét ở mức độ thấp cao mà ở góc độ khác biệt.
- A.L.Kroibơ ( A.L KroeberI và C.L.Kluchôn (c L.Kluckhohn) quan niệm văn hóa là loại hành vi rò ràng và ám thị đà được đúc kết và truvền lại bàng biểu tượng, và nó hỉnh thành quả độc đáo của nhân loại khác với các loại hình khác, trong đó bao gồm cả đồ tạo tác do con người làm ra.
Văn minh là danh tù Hán – Việt (văn là vẻ đẹp, minh là sáng), chỉ tia sáng của đạo đức, biểu hiện ở chính trị, pháp luật, văn học, nghệ thuật. Trong tiếng Anh, Pháp, từ civilisation với nội hàm nghĩa văn minh, có từ căn gốc La tinh là civitas với nghĩa gốc: đô thị, thành phố, và các nghĩa phái sinh: thị dân, công dân.
W.Duran (W.Durrant) sử dụng khái niệm văn minh để chỉ sự sáng tạo văn hóa, nhờ một trật tự xã hội gây ra và kích thích. Văn minh được dùng theo nghĩa tổ chức xã hội, tổ chức luân lí và hoạt động văn hóa.
Văn minh trong tiếng Đức là để chi các xã hội đã đạt được tới giai đoạn tổ chức đô thị và chữ viết.
Theo F.Ângghen, vản minh là chính trị khoanh văn hóa lại và sợi dây liên kết văn minh là Nhà nước. Như vậy khái niệm văn minh thường bao hà bốn yếu tố cơ bản : đô thị, nhà nước chữ viết, các biện pháp kỉ thuật cải thiện, xếp đặt hợp lí, tiện lợi cho cuộc sống của con người.
Tuy vậy, người ta vẫn hay sử dụng thuật ngữ văn minh đồng nghĩa với văn hóa. Các học giả Anh và Pháp thường sử dụng lẫn lộn hai khái niệm văn hóa (culture), văn minh (civilisation) để chỉ toàn bộ sự sáng tạo và các tập quán tinh thần và vật chất riêng cho mọi tập đoàn người.
Thực ra, văn minh là trình độ phát triển nhất định của văn hóa về phương diện vật chất, đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại, hoặc cả nhân loại. Như vậy, văn minh khác với văn hóa ở ba điểm:
- Thứ nhất, trong khi văn hóa có bề dày của quá khứ thi văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại.
- Thứ hai. trong khi ván hóa hao gồm cả văn hóa vật chất lần tinh thán thì vân minh chi thiên vế khía cạnh vật chất, kỉ thuật.
- Thứ ba, trong khi văn hóa mang tính dân tộc rõ rệt thì văn minh thường mang tính siêu dân tộc – quốc tế. Vỉ dụ nển văn minh tin học hay văn minh hậu công nghiệp và văn hóa Việt Nam, văn hóa Nhật Bản, văn hóa Trung Quốc… Mặc dù giữa văn hóa và văn minh có một điểm gặp gd nhau đó là do con người sáng tạo ra
Ở phương Đông, trong đó có Việt Nam, từ xa xưa đã phổ biến khái nịệm văn hiến. Có thế hiểu văn hiến là văn hóa theo cách dùng, cách hiểu trong lịch sử. Từ đời Lý (1010) người Việt đã tự hào nước mình là một “văn hiến chi bang”, đến đời Lê (thế kỉ XV) Nguyễn Trãi viết “Duy ngã Đại Việt chi quốc thực vi văn hiến chi bang”- (Duy nước Đại Việt ta thực sự là một nước văn hiến). Từ văn hiến mà Nguyễn Trãi dùng ở đây là một khái niệm rộng chỉ một nến văn hóa cao, trong đó nếp sống tinh thần, đạo đức được chú trọng.
Văn hiến (hiến = hiến tài)- truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp. GS. Đào Duy Anh khi giải thích từ “văn hiến” khẳng định : “là sách vở” và nhân vật tốt trong một đời. Nói cách khác văn là văn hóa, hiến là hiến tài, như vậy văn hiến thiên về những giá trị tinh thần do những người có tài đức chuyên tài, thể hiện tính dân tộc, tính lịch sử rỏ rệt.
- Truyền thống văn hóa tốt đẹp biểu hiện ở nhiều nhân tài trong lịch sử và nhiều di tích lịch sử. “Hà Nội nghìn năm vạn vật”. Văn vật còn là khái niệm hẹp để chỉ những công trình hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử, khái niệm văn vật cũng thể hiện sâu sắc tinh dân tộc và tính lịch sử. Khái niệm văn hiến, văn vật thường gắn với phương Đông nông nghiệp trong khi khái niệm văn minh thường gắn với phương Tây đô thị. Như vậy, cho đến nay chưa phải mọi người đã đồng ý với nhau tất cả về định nghĩa của văn hóa. Từ năm 1952, hai nhà dân tộc học Mĩ A.L. Kroihơ (A.L Kroeber) và C.L. Kluchôn (C.L Kluckhohn) đã trích lục được trên dưới ba trăm định nghĩa, mã các tác giả khác nhau của nhỉều nước từng phát ra từ trước nữa cho đến lúc bấy giờ. Từ đó đến nay, chắc chắn số lượng định nghĩa tiếp tục tăng lên và đương nhiên, không phải lúc nào các định nghĩa đưa ra củng có thể thống nhất, hay hòa hơp bổ sung cho nhau. Chúng tôi xin trích dần một số định nghĩa đã được công bố trong những giáo trình và công trình nghiên cứu về văn hóa học hay Cơ sở văn hóa Việt Nam. Theo một số học giả Mĩ “Văn hóa là tấm gương nhiều mặt phàn chiếu đời sống và nếp sống của một cộng đồng dân tộc”.Ở trung tâm của văn hóa quyển là hệ tư tưởng cũng được xem là một hệ văn hóa.
- Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói : “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chủ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ẩn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”.
- Cựu thủ tướng Phạm Văn Đồng viết : “Nói tới văn hóa là nói tới một linh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con ngươi trong suốt quá trình tổn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… cốt lõi của sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả hệ thống giá trị : tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bàn linh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và không ngùng lớn mạnh.”
- PGS. Phan Ngọc đưa ra một định nghĩa văn hóa mang tính chẫt thao tác luận, khác với những định nghía trước đó, theo ông đều mang tính tinh thần luận. “Không có cái vật gì gọi là văn hóa cả và ngược lại bất kì vật gì cũng có cái mặt văn hóa. Văn hóa là một quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác. Nét khác biệt giữa các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau là độ khúc xạ. Tất cả mọi cái mà tộc người tiếp thu hay sáng tạo đều có một độ khúc xạ riêng có mặt ở mọi lĩnh vực và rất khác độ khúc xạ ở một tộc người khác”.
Trên cơ sở phân tích các định nghĩa văn hóa, PGS, TSKH. Trần Ngọc Thêm đã đưa ra một định nghĩa về văn hóa như sau : “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. Định nghĩa này đã nêu bật 4 đặc trưng quan trọng của văn hóa: tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính nhân sinh. Chúng tôi cho rằng, trong vô vàn cách hiểu, cách định nghỉa về văn hóa, ta có thể làm quy về hai loại. Văn hóa hiểu theo nghía rộng như lõi rộng, lôi suy nghĩ, lôi ứng xử… Văn hóa hiểu theo nghĩa hẹp như văn học, văn nghệ, học văn., và tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà có những định nghĩa khác nhau. Ví dụ xét từ khía cạnh tự nhiên thì văn hóa là “cái tự nhiên được biến đổi bời con người” hay “tất cả những gì không phải là thiên nhiên đều là văn hóa”‘.
Gần đây nhất, trong một bài viết của mình, PGS. Nguyền Từ Chi đã quy các kiểu nhìn khác nhau vế văn hóa vào hai góc độ :
- Góc rộng, hay góc nhìn “dân tộc học” đây là góc chung của nhiều ngành khoa học xã hội.
- Góc hẹp, góc thông dụng trong cuộc sống hàng ngày, còn gọi là góc báo chí.
Theo cách hiểu góc rộng – văn hóa là toàn bộ cuộc sống (nếp sống, lối sống) cà vật chất xã hội và tinh thần của từng cộng đồng. Ví dụ : nghiên cứu văn hóa Việt Nam là nghiên cứu lối sống cứa các dân tộc Việt Nam.
Văn hóa từ góc nhìn “báo chí” tuy cũng có những cách hiểu rộng hơn hay hẹp hơn, nhưng trước đây thường gấn với kiến thức của con người, của xã hội. Ngày nay, văn hóa dưới góc “báo chỉ” đã hướng vể lối sống hơn là vê kiến thức mã theo tác giả là lối sống gấp, đằng sau những biến động nhanh của xã hội.
4. Định nghĩa văn hóa của Unesco
Trong ý nghĩa rộng nhất, “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thân và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưởng : Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có li tính, có óc phê phán và dẫn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đãt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mở và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân”.
Như vậy, văn hóa không phải là một lĩnh vực riêng biệt. Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hóa là chìa khóa của sự phát triển.
Theo quan niệm của UNESCO có 2 loại di sản văn hóa :
- Một là, những di sản văn hóa hữu thể (Tangible) như đình, đền, chùa, miếu, lăng, mộ, nhà sàn v.v…
- Hai là, những di sản văn hóa vô hình (Intangible) bao gồm các biểu hiện tượng trưng và “không sờ thấy được” của văn hóa được lưu truyền và biến đổi qua thời gian, với một số quá trình tái tạo, “trùng tu” của cộng đồng rộng rãi… Những di sản văn hóa tạm gọi là vô hình này theo UNESCO bao gồm cả âm nhạc, múa, truyền thống, văn chương truyền miệng, ngôn ngữ, huyền thoại, tư thế (tư thái), nghi thức, phong tục, tập quán, y dược cổ truyền, việc nấu ăn và các món ăn, lễ hội, bí quyết và quy trình công nghệ của các nghề truyền thống…
Cái hữu thể và cái vô hình gắn bó hữu cơ với nhau, lồng vào nhau, như thân xác và tâm trí con người.