Miền Nam (Việt Nam) – Wikipedia tiếng Việt

Miền Nam Việt Nam là một khái niệm để chỉ vùng địa lý ở phía nam nước Việt Nam. Tuy nhiên, tùy theo từng thời điểm lịch sử và thói quen sử dụng mà khái niệm này đôi khi được dùng để chỉ các vùng lãnh thổ khác nhau theo nghĩa chính trị một cách không chính thức.

Sắc lệnh số 143 – A / TTP của Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 23/10/1956 đã lao lý gọi Bắc Việt, Trung Việt, Nam Việt tương ứng là Bắc Phần, Trung Phần, Nam Phần. Miền Nam Việt Nam là danh từ để chỉ :

Các tiểu vùng địa lý[sửa|sửa mã nguồn]

Nam Bộ gồm có 17 tỉnh từ Bình Phước đến Cà Mau và hai thành phố : Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Cần Thơ .

Khu vực này chia làm 2 vùng chính:

Riêng tài liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam ( và 1 số ít ít tài liệu khác dựa theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê ) lại xếp 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận vào miền Đông Nam Bộ .

Các tên gọi khác[sửa|sửa mã nguồn]

Nam Bộ xưa vốn là vùng đất đã từng có nhiều lớp dân cư đến khám phá. Tên gọi Phù Nam Open vào khoảng chừng đầu Công nguyên. Đến khoảng chừng thế kỷ V-VI, Phù Nam được lan rộng ra và trở thành một đế chế to lớn với nhiều thuộc quốc phân bổ ở phía nam bán đảo Đông Dương và bán đảo Malaca. Vào đầu thế kỷ VII đế chế Phù Nam tan rã do nước Chân Lạp của người Khmer đã tiến công đánh chiếm vùng hạ lưu sông Mêkông ( tương tự với vùng đất Nam Bộ thời nay ) [ 4 ] .

Thuỷ Chân Lạp[sửa|sửa mã nguồn]

Sau khi đánh chiếm được Phù Nam, vùng đất này được đổi tên là Thuỷ Chân Lạp. Trong khoảng chừng thời hạn từ thế kỷ IX đến cuối thế kỷ XI, Chân Lạp trở nên một quốc gia cường thịnh, lan rộng ra chủ quyền lãnh thổ lên tận Nam Lào và lưu vực sông Chao Phaya. Đến thế kỉ XVI thì triều đình Chân Lạp bị chia rẽ thâm thúy và bước vào thời kì suy vong nên phần nhiều không có điều kiện kèm theo chăm sóc và trên trong thực tiễn đã không đủ sức quản trị vùng đất này. Nhiều dân cư Việt từ đất Thuận Quảng đã phải vào vùng Mô Xoài, Đồng Nai ( miền Đông Nam Bộ ) lập làng sinh sống [ 5 ] .
Trong cuộc chiến tranh Lê – Mạc ( 1533 – 1592 ), Việt Nam được phân loại với nhà Mạc nắm giữ đồng bằng sông Hồng ( Bắc Triều ) và nhà Lê kiểm soát miền Trung từ Thanh Hóa đến Tỉnh Bình Định ( Nam Triều ) .

Tên gọi này bắt nguồn từ thời Trịnh – Nguyễn phân tranh vào thế kỷ 17, với ranh giới xác định là ở phía nam sông Gianh (nay thuộc tỉnh Quảng Bình). Do đặc điểm cả hai vùng lãnh thổ tuy trên thực tế thuộc hai chính quyền khác nhau, nhưng về danh nghĩa vẫn cùng một quốc gia Đại Việt. Tên gọi Đàng Trong thường được dùng để chỉ vùng kiểm soát bởi chúa Nguyễn, vốn nằm xa Trung Quốc hơn nên mới có tên gọi này. Giai đoạn này người ngoại quốc đến giao thương với Việt Nam thường dùng tên gọi Cochinchina, hoặc Quinan để chỉ vùng lãnh thổ này.

Tên gọi Nam Hà xuất hiện cùng thời với tên gọi Đàng Trong. Nó có nghĩa đơn giản là “ở phía nam con sông”, ở đây hàm ý chỉ con sông Gianh. Tuy nhiên, tên gọi này ít sử dụng phổ biến như tên gọi Đàng Trong và không bao gồm vùng đất Gia Định ở phía nam.

Gia Định ban đầu chỉ là cái tên để chỉ vùng lãnh thổ nhỏ ở phía nam vào năm 1698, sau mở rộng dần đến năm 1779 thì được dùng để chỉ toàn bộ vùng tương ứng với Nam Bộ hiện nay. Để tương ứng với đơn vị hành chính Bắc Thành ở phía bắc, từ năm 1802, vua Gia Long đã đặt ra Gia Định Trấn để cai quản vùng lãnh thổ từ Bình Thuận trở vào, gồm 5 trấn. Do dễ có sự nhầm lẫn nên từ năm 1808 đã được đổi tên là Gia Định Thành. Đứng đầu đơn vị hành chính này là một chức quan Lưu Trấn, sau 1808 đổi thành Tổng trấn. Vị Tổng trấn nổi tiếng nhất của Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt. Gia Định Thành tồn tại mãi đến năm 1832, sau khi Lê Văn Duyệt mất và vua Minh Mạng quyết định giải thể Gia Định Thành.

Nam Kỳ là tên gọi từ năm 1832, dùng để chỉ vùng lãnh thổ thuộc quyền cai quản của Gia Định Thành trước kia. Do vua Minh Mạng chia vùng lãnh thổ này thành 6 tỉnh trực tiếp đặt dưới quyền cai quản của triều đình, nên nó còn có tên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh. Sau khi chiếm được Nam Kỳ, người Pháp thường sử dụng tên gọi Cochinchine để chỉ vùng này.

Danh xưng Nam Kỳ quốc (tiếng Pháp: République de Cochinchine) được người Pháp dùng để chỉ một quốc gia do họ lập nên vào năm 1946, về danh nghĩa cai quản vùng trước đây là thuộc địa Nam Kỳ. Tuy nhiên, quốc gia này chỉ tồn tại trên danh nghĩa và chỉ đến năm 1948 thì bị giải thể.

Sau cuộc đảo chính Pháp tại Đông Dương ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật đã tuyên bố trao lại quyền độc lập cho Đế quốc Việt Nam. Song song với quá trình thành lập chính phủ, Hoàng đế Bảo Đại cũng cho phân vùng lãnh thổ Việt Nam thành 3 khu vực hành chính, và đặt các chức quan Khâm sai thay mặt nhà vua để cai quản từng vùng. Nam Bộ là khu vực tương ứng với Nam Kỳ cũ.

Tên gọi Nam Bộ được sử dụng vĩnh viễn cho đến ngày này .
Tên gọi Nam Phần sinh ra vào khoảng chừng năm 1947, sau khi cơ quan chính phủ Nam Kỳ quốc quy trình tiến độ đầu giải tán, và chính phủ nước nhà Nam phần Việt Nam được xây dựng. Sau đó chính phủ nước nhà Pháp và cựu hoàng Bảo Đại ký thỏa ước xây dựng Quốc gia Việt Nam, theo đó chủ quyền lãnh thổ Việt Nam được phân thành 3 đơn vị chức năng hành chính cấp Phần, là một cấp cao hơn tỉnh, đứng đầu là một Thủ hiến do Quốc trưởng chỉ định. Vùng chủ quyền lãnh thổ Nam Phần tương ứng với vùng chủ quyền lãnh thổ của Nam Bộ vào năm 1945 .

  • Atlat địa lý Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục 2009
  • Atlat hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản Bản Đồ 2008
  • Li, Tana (1998). Nguyen Cochinchina: Southern Vietnam in the Seventeenth and Eighteenth Centuries. Ithaca, NY: Cornell University Press.

Source: https://mix166.vn
Category: Món Ngon

Xổ số miền Bắc