Đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên đối với chất lượng dịch vụ đào tạo tại khu Hòa An, trường Đại học Cần Thơ

TCCTThS. Nguyễn Đỗ Như Loan (Trường Đại học Cần Thơ)

TÓM TẮT:

Mục tiêu của nghiên cứu nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của sinh viên đối với chất lượng dịch vụ đào tạo tại khu Hòa An, Trường Đại học Cần Thơ thông qua khảo sát ý kiến của 200 sinh viên các khóa 41, 42, 43, thuộc 11 chuyên ngành đang được đào tạo. Các phương pháp thống kê mô tả, kiểm định Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA, phân tích hồi quy được sử dụng trong nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhân tố “kết quả đạt được cuối khóa học” và nhân tố “cơ sở vật chất” có ảnh hưởng đến sự hài lòng của người học.

Từ khóa: Mức độ hài lòng của sinh viên, chất lượng dịch vụ đào tạo, khu Hòa An, Trường Đại học Cần Thơ.

1. Đặt vấn đề

Ngày nay, giáo dục được coi như là một loại “ dịch vụ ” vì ở đó người mua ( sinh viên, cha mẹ ) hoàn toàn có thể lựa chọn một nhà sản xuất dịch vụ ( những trường ĐH ) mà họ cho là phù hợp nhất ( Phạm Thị Liên, năm nay ). Chất lượng dịch vụ của một trường ĐH càng cao sẽ càng lôi cuốn được nhiều người học và ngược lại. Do đó, chất lượng đào tạo và giảng dạy đang là yếu tố được chăm sóc số 1 tại những trường ĐH nói chung và Đại học Cần Thơ nói riêng ( Lại Xuân Thủy và Phan Thị Minh Lý, 2011 ) .
Chất lượng dịch vụ huấn luyện và đào tạo được đánh giá trải qua sự thỏa mãn nhu cầu nhu yếu của sinh viên, sinh viên càng hài lòng thì dịch vụ giảng dạy đó có chất lượng càng cao và ngược lại ( Nguyễn Thị Xuân Hương, Nguyễn Thị Phượng và etc, năm nay ). Ngoài ra, trường ĐH có chất lượng càng cao sẽ lôi cuốn được nhiều sinh viên theo học, đồng thời tạo ra được nguồn lực có chất lượng tốt cho xã hội. Chính thế cho nên, có rất nhiều điều tra và nghiên cứu về mức độ hài lòng của sinh viên để giám sát chất lượng của chương trình giảng dạy trong những trường ĐH, như : Nguyễn Thị Bảo Châu và Thái Thị Bích Châu ( 2013 ), Dương Đăng Khoa và Bùi Cao Nhẫn ( năm ngoái ) đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên những trường ĐH tại đồng bằng sông Cửu Long, … Tuy nhiên, những điều tra và nghiên cứu này chỉ đánh giá ở mức độ hài lòng của người học mà bỏ lỡ sự hài lòng của người dạy ( giảng viên ) .
Giảng viên là một trong những tác nhân quan trọng và có ảnh hưởng tác động rất lớn đến sự hài lòng của người học. Giảng viên càng hài lòng, càng tự do thì năng lực truyền đạt kỹ năng và kiến thức càng cao, điều này khiến cho người học càng thỏa mãn nhu cầu và ngược lại. Qua đó hoàn toàn có thể thấy rằng, sự hài lòng của sinh viên và giảng viên có sự kết nối ngặt nghèo với nhau. Chính vì thế, đề tài “ Đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên và giảng viên so với chất lượng dịch vụ huấn luyện và đào tạo tại khu Hòa An, Trường Đại học Cần Thơ ” được thực thi nhằm mục đích nghiên cứu và phân tích mức độ hài lòng và những tác nhân ảnh hưởng tác động đến mức độ hài lòng của sinh viên, giảng viên so với chất lượng dịch vụ giảng dạy tại khu Hòa An, từ đó giúp yêu cầu giải pháp nhằm mục đích nâng cao mức độ hài lòng của người học và người dạy, đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ giảng dạy tại đây .

2. Mục tiêu nghiên cứu

Phân tích mức độ hài lòng và những tác nhân ảnh hưởng tác động đến mức độ hài lòng của sinh viên, giảng viên về chất lượng dịch vụ giảng dạy tại khu Hòa An, từ đó yêu cầu giải pháp nhằm mục đích nâng cao chất lượng dịch vụ huấn luyện và đào tạo, nâng cao mức độ hài lòng của sinh viên, giảng viên tại khu Hòa An, Trường Đại học Cần Thơ .

3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Yếu tố ảnh hưởng tác động đến mức độ hài lòng của sinh viên so với chất lượng dịch vụ huấn luyện và đào tạo tại khu Hòa An, Trường Đại học Cần Thơ .

3.2. Phương pháp nghiên cứu

Số liệu sơ cấp được tích lũy từ tháng 4/2019 đến tháng 5/2019 theo chiêu thức chọn mẫu thuận tiện, phỏng vấn trực tiếp, ngẫu nhiên với cỡ mẫu 200 sinh viên ( sinh viên năm 2, 3, 4, thuộc những chuyên ngành huấn luyện và đào tạo tại khu Hòa An ) dựa trên bảng câu hỏi được phong cách thiết kế sẵn. Câu hỏi được đo lường và thống kê bằng thang đo Likert 5 mức độ với 1 là rất kém đến 5 là rất tốt. Các khái niệm được kiểm định bằng giải pháp kiểm định thống kê Cronbach’s Alpha về mức độ an toàn và đáng tin cậy của thang đo, sau đó chiêu thức nghiên cứu và phân tích tác nhân mày mò ( EFA ) và chiêu thức nghiên cứu và phân tích hồi quy Binary Logistic được sử dụng để xác lập những tác nhân tác động ảnh hưởng, mức độ ảnh hưởng tác động của từng tác nhân đến sự hài lòng của sinh viên so với chất lượng dịch vụ giảng dạy tại khu Hòa An .
Phương trình hồi quy có dạng :

Nguyễn Đỗ Như Loan

Trong đó :
Y là biến nhờ vào, là mức độ hài lòng của sinh viên so với chất lượng dịch vụ đào tạo và giảng dạy tại khu Hòa An .
X1, …, X8 là những biến độc lập lần lượt là : Chương trình đào tạo và giảng dạy, trình độ giảng viên, giáo trình – tài liệu, cơ sở vật chất, hoạt động giải trí quản trị và tương hỗ huấn luyện và đào tạo, hoạt động giải trí trào lưu, những chương trình tương hỗ khác, hiệu quả đạt được cuối khóa học .

4. Kết quả nghiên cứu

4.1. Thực trạng chất lượng dịch vụ đào tạo tại khu Hòa An, Trường Đại học Cần Thơ

Khu Hòa An là 1 trong 4 phân khu của Trường Đại học Cần Thơ, tọa lạc tại ấp Hòa Đức, xã Hòa An, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Năm 2011, khoa Phát triển nông thôn được xây dựng tại khu Hòa An với mục tiêu huấn luyện và đào tạo sinh viên của 11 chuyên ngành cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tuy chỉ mới xây dựng được 5 năm và có vị trí cách xa TT thành phố Cần Thơ 40 km nhưng 200 sinh viên thuộc 11 chuyên ngành giảng dạy khá hài lòng về chất lượng dịch vụ giảng dạy tại đây với điểm trung bình là 3,73 ( có độ lệch chuẩn xê dịch trong khoảng chừng 0,772 – 0,959 ), trong đó đối tượng người tiêu dùng khảo sát là nam có mức độ hài lòng trung bình là 3,79 cao hơn mức độ hài lòng trung bình của nữ là 3,68. Điều này là do phái mạnh thường có ít tiêu chuẩn khắc nghiệt hơn và dễ cảm thấy hài lòng hơn so với phái đẹp .
Do Khoa chỉ mới xây dựng được 9 năm nên cơ sở vật chất còn chưa triển khai xong, chưa có nhiều phòng thí nghiệm sâu xa do đó sinh viên những chuyên ngành về kỹ thuật như khuyến nông, nuôi trồng thủy hải sản có mức độ hài lòng thấp hơn những ngành thiên về xã hội như quản trị kinh doanh thương mại, kinh doanh thương mại nông nghiệp, …

4.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về chất lượng dịch vụ đào tạo tại khu Hòa An, Trường Đại học Cần Thơ

Trước khi thực thi xác lập những yếu tố ảnh hưởng tác động đến sự hài lòng của SV về chất lượng dịch vụ huấn luyện và đào tạo tại khu Hòa An cần kiểm định độ đáng tin cậy bằng thông số Cronbach’s Alpha của những nhóm yếu tố nhằm mục đích vô hiệu những biến quan sát không đủ điều kiện kèm theo nghiên cứu và phân tích tiếp theo ra khỏi quy mô điều tra và nghiên cứu. Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha của tổng số 32 biến quan sát cho thấy, có 3 biến bị loại khỏi quy mô do thông số < 0,3. ( Hình 1 )

Nguyễn Đỗ Như LoanCác biến có hệ số Cronbach’s Alpha > 0,3 được tiếp tục tiến hành phân tích nhân tố khám phá EFA. Sau 3 lần phân tích nhân tố, có 19 biến có hệ số tải nhân < 0,5 hoặc có khoảng cách giữa các hệ số tải nhân < 0,3; bị loại khỏi mô hình. Kết quả phân tích nhân tố lần 3 có hệ số KMO = 0,743 > 0,5 và hệ số Sig. 0,000 < 0,05 thang đo được chấp nhận và đạt mức tốt. Vì vậy, các biến trong mô hình có sự tương quan với nhau và hệ số tổng phương sai trích đạt 63,487% > 50% được chấp nhận và cho biết các nhân tố giải thích được 63,487% độ biến thiên của dữ liệu. (Bảng 1)

Nguyễn Đỗ Như Loan

Ngoài ra, tác dụng nghiên cứu và phân tích tác nhân mày mò so với những yếu tố thang đo sự hài lòng thì gộp thành 1 nhóm. Các yếu tố đánh giá đủ điều kiện kèm theo để thống kê như : Hệ số KMO = 0,872 > 0,5 đạt điều kiện kèm theo và giá trị Sig. trong kiểm định Barlett’s ở mức 0,000 < 0,05 có ý nghĩa về mặt thống kê. Tổng phương sai trích 59,199, tức là lý giải được 59,199 % cho những biến quan sát. Kết quả nghiên cứu và phân tích EFA thu được 1 thành phần tại Eigenvalue là 3,936 > 1 đạt nhu yếu. Tất cả những thông số tải tác nhân đều > 0,5 tương thích với quy mô. ( Bảng 2 )

Nguyễn Đỗ Như Loan

Tuy nhiên, sau nghiên cứu và phân tích tác nhân EFA lần 3, một vài biến bị trộn lẫn và gom thành những nhóm tác nhân khác với quy mô đề xuất kiến nghị bắt đầu. Mô hình lúc này chỉ còn lại 5 tác nhân có tác động ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của sinh viên về chương trình huấn luyện và đào tạo tại khu Hòa An. Các tác nhân mới được đặt lại tên tương ứng lần lượt là : Hoạt động quản trị, trào lưu ; Kết quả đạt được cuối khóa ; Cơ sở vật chất, Chương trình giảng dạy, tương hỗ khác .
Sau khi nghiên cứu và phân tích tác nhân, tác giả triển khai nghiên cứu và phân tích thông số đối sánh tương quan bằng Pearson nhằm mục đích mục tiêu kiểm tra mối đối sánh tương quan ngặt nghèo giữa biến nhờ vào với biến độc lập. Hệ số đối sánh tương quan là một chỉ số giám sát mối liên hệ đối sánh tương quan giữa 2 biến số. Khoảng giá trị của thông số đối sánh tương quan chạy trong đoạn giá trị [ – 1 đến 1 ]. Dấu của thông số đối sánh tương quan nói lên tính liên hệ thuận – nghịch giữa những biến ( Phan Thị Thanh Hằng, năm trước ) .
Kết quả trên cho thấy, biến độc lập “ Hỗ trợ khác ” giá trị Sig. = 0,927 > 0,05 vậy nên không có mối quan hệ đối sánh tương quan tuyến tính giữa biến độc lập “ Hỗ trợ khác ” và biến phụ thuộc vào “ Sự hài lòng của sinh viên ”. Vì thế, ta loại biến “ Hỗ trợ khác ” ra khỏi quy mô nghiên cứu và phân tích tiếp theo. Còn lại 4 biến ( hoạt động giải trí quản trị, hiệu quả cuối khóa, cơ sở vật chất, chương trình giảng dạy ) đều có mối quan hệ đối sánh tương quan tuyến tính với nhau vì giá trị Sig. đều < 0,05, từ đó đủ điều kiện kèm theo nghiên cứu và phân tích hồi quy. Giá trị R2 hiệu chỉnh = 0,425 có nghĩa là 4 biến độc lập đưa vào tác động ảnh hưởng 42,5 % sự biến hóa của biến mức độ hài lòng của sinh viên, còn lại 57,5 % là do những biến ngoài quy mô và sai số ngẫu nhiên. Ngoài ra, thông số Durbin Watson là 1.844, giá trị này nằm trong khoảng chừng 1 < D < 3 nên không có hiện tượng kỳ lạ đối sánh tương quan giữa những biến .Trong số 4 tác nhân đưa vào quy mô, tác nhân hoạt động giải trí quản trị và chương trình giảng dạy có thông số Sig. > 0,05 nên bị loại ra khỏi quy mô điều tra và nghiên cứu. Nhân tố tác dụng cuối khóa và tác nhân cơ sở vật chất có ảnh hưởng tác động thuận chiều đến mức độ hài lòng của sinh viên so với chất lượng dịch vụ đào tạo và giảng dạy tại khu Hòa An, trong đó tác nhân Kết quả cuối khóa có ảnh hưởng tác động đến mức độ hài lòng mạnh hơn. Điều này cho thấy, mặc dầu cơ sở vật chất được triển khai xong khá đầy đủ tốt hơn thì mức độ hài lòng của người học sẽ tăng cao hơn nhưng yếu tố mà người học chăm sóc nhiều hơn là năng lực thích ứng với nghề nghiệp và được học thêm những kiến thức và kỹ năng nâng cao về chuyên ngành sau khi ra trường .
Ngoài ra, quy mô không xảy ra hiện tượng kỳ lạ đa cộng tuyến do giá trị thông số phóng đại phương sai VIF của những biến được tổng kết đều < 10. ( Bảng 3 )

Nguyễn Đỗ Như Loan

5. Kết luận

Qua hiệu quả khảo sát cho thấy, sinh viên khá hài lòng về chất lượng dịch vụ huấn luyện và đào tạo tại khu Hòa An. Tuy nhiên, Trường Đại học Cần Thơ cần trang bị cơ sở vật chất không thiếu hơn nữa cũng như trang bị thêm cho người học kiến thức và kỹ năng trình độ sâu hơn về nghề nghiệp, tăng cường thêm những hoạt động giải trí tương hỗ năng lực thích ứng nghề nghiệp sau khi ra trường để giúp sinh viên cảm thấy hài lòng hơn về chất lượng dịch vụ huấn luyện và đào tạo .

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Dương Đăng Khoa và Bùi Cao Nhẫn, 2015. Các nhân tố tác động đến mức độ hài lòng của sinh viên các trường đại học tại đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, số 40, trang 19-30.
  2. Lại Xuân Thủy và Phan Thị Minh Lý, 2011. Đánh giá chất lượng đào tạo tại Khoa Kế toán – Tài chính Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế trên quan điểm của người học. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, số 3, trang 230 – 237.
  3. Lê Thị Anh Thư, 2016. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của sinh viên đối với chất lượng dịch vụ đào tạo tại Trường Đại học Tây Đô. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, số 43, trang 26-33.
  4. Nguyễn Thái Quỳnh Loan và Nguyễn Thị Thanh Thoản, 2009. Đánh giá chất lượng đào tạo từ góc độ cựu sinh viên Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh. Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh.
  5. Nguyễn Thành Long (2006). Sử dụng ng đo SERVERF để đánh giá chất lượng đào tạo đại học tại Trường Đại học An Giang. Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại học An Giang.
  6. Nguyễn Thị Bảo Châu và Thái Thị Bích Châu, 2013. Đánh giá mức độ hài lòng của sinh viên đối với chất lượng đào tạo của Khoa Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Cần Thơ giai đoạn năm 2012-2013. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, số 28, trang 117-123.
  7. Nguyễn Thị Xuân Hương, Nguyễn Thị Phượng và etc, 2016. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên với điều kiện cơ sở vật chất và phục vụ của Trường Đại học Lâm nghiệp. Tạp chí Khoa học và Công nghệ lâm nghiệp, số 2, trang 163 – 172.
  8. Phạm Thị Liên, 2016. Chất lượng dịch vụ đào tạo và sự hài lòng của người học – Trường hợp Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, tập 32, số 4 trang 81-89.

ASSESSING THE SATISFACTION OF STUDENTS WITH THE QUALITY OF TRAINING SERVICES IN HOA AN AREA, CAN THO UNIVERSITY

Master. Nguyen Do Nhu Loan

Can Tho University

Abstract:

This study is to identify the factors affecting the satisfaction of students with the quality of training services in Hoa An area, Can Tho University through surveying 200 students of 41, 42 and 43 Classes with 11 majors. This study uses descriptive statistical methods, Cronbach’s alpha, Exploratory Factor Analysis ( EFA ) and regression analysis method. This study’s results reveal that the achieved results at the end of the course and the facilities factors affect the satisfaction of students with the quality of training services .

Keywords: Student satisfaction, quality of training services, Hoa An Area, Can Tho University.

[Tạp chí Công Thương – Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 22, tháng 9 năm 2020]

Xổ số miền Bắc