Trang hiển thị chi tiết nội dung bài viết trên cổng thông tin điện tử

Trước năm 1760, ba đồng đội họ Lưu từ miền Trung vào miền Nam lập nghiệp Gia phả họ Lưu được lập vào khoảng chừng năm 1860 do cụ Lưu Tánh Thiện sinh năm 1823 vợ bà Lê Thị Côn, lúc đương thời là Tri Phủ của Triều Nguyễn, cụ Lưu Tánh Thiện đổ cử nhân vào đời thứ 4 trong phổ hệ Lưu Gia do đó Thuỷ Tổ họ Lưu lúc bấy giờ không biết rõ được năm sinh, mà chỉ ghi nhớ được ngày mất là mùng 10 tháng giêng năm 1797. Thời giờ đây phổ hệ Lưu Gia được viết bằng chữ nho trên vải lụa, mực đen, theo ông Lưu Vĩnh Lữ đời thứ 8 nhân Hồng Kông ý kiến đề nghị hoàn toàn có thể gọi vị Tổ Lưu Tánh Thiện là Thánh Tổ là vị tổ tiên phong lập gia phả .
Khi cụ Lưu Tánh Thiện qua đời phổ hệ lưu truyền lại cho cụ Lưu Đình Ngoạn có chánh thất là bà Nguyễn Thi Hoàn, vợ thứ là bà Đoàn Thị Châu, ông Lưu Đình Ngoan làm quan với chức Tri Phủ. Kế đến ông Lưu Vĩnh Hy, ông Chánh trong làng lưu giữ, lúc bấy giờ vẫn dùng chữ nho. Hằng năm trong những dịp lễ giỗ thường đem ra ghi chép thêm vào tên con cháu mới sinh ra theo thứ bậc từng chi, lúc đó chi tộc Tường Lộc thì được ghi vừa đủ, vấn đề này được thấy qua bút tích trong phổ hệ và qua di tích lịch sử bia mộ để lại. ( ông Lưu Đình Ngoạn lập mộ cho ông bà Thuỷ Tổ Lưu Phước Tấn và Cao Tổ Lưu Tánh Thiện ) .

Đến năm 1948, phổ hệ Lưu Gia ông Lưu Vĩnh Hỹ giao lại cho con là ông Lưu Hoàng Linh đời thứ 7 vợ là bà Vương Thị Hương, di tích ông Lưu Hoàng Linh và Lưu Trí Phương lập mộ cho cha mẹ là ông Lưu Vĩnh Hỹ và bà Nguyễn Thị Hân có ghi trên bia mộ, cũng từ đây phổ hệ Lưu Gia được dịch ra chữ quốc ngữ. Đến năm 1969 – 1970, ông Lưu Hoàng Linh có lập một phòng thờ, trong đó có bảng phổ hệ Lưu Gia chiếm một mảng tường rộng có chiều cao 3 mét chiều dài 6 mét tại số 2 đường Huyện Cự Tỉnh Vĩnh Long, lần này có tham khảo tờ phổ hệ Lưu Gia của ông Lưu Thanh Hương đời thứ 7 viết trên giấy dầu màu vàng để tổng hợp lại cho thêm đầy đủ, lúc bây giờ bảng phổ hệ Lưu gia được 10 đời, đến năm 1976 bảng phổ hệ Lưu gia này bị thất lạc do diễn biến của thời cuộc, anh Lưu Trường Giang em của chị Bác sĩ Lưu Thị Dân Thanh đời thứ 8 biết và chứng kiến.

Vào năm 1990 – 1991 ông Lưu Hoàng Linh có tôn tạo 1 số ít phần mộ gồm những mộ cha mẹ là ông Lưu Vĩnh Hỹ và bà Nguyễn Thị Hân và mộ cụ ông Lưu Đình Ngoạn và cụ bà Nguyễn Thị Hoàn, Đoàn Thị Châu trước khi xuất cảnh sang Úc, cũng từ đó ông Linh đã hoạt động họ hàng ở quốc tế là ông Lưu Vĩnh Lương đời thứ 6 ông Lưu Trí Phương đời thứ 7, và ông Lưu Vĩnh Lữ đời thứ 8 của ít lòng nhiều gởi về tôn tạo những mộ Thủy Tổ và Cao Tổ qua ông Lưu Vĩnh Triều đời thứ 8, 148 Lê Lai Hồ Chí Minh và Hội Đồng Gia Tộc Lưu gia .
Theo sự thừa kế được lưu truyền lại, qua tư liệu mái ấm gia đình từ đời Cao Tổ Lưu Tánh Thiện, Lưu Đình Ngoạn, Lưu Vĩnh Hỹ, Lưu Hoàng Linh đến cháu Lưu Vĩnh Lịch đời thứ 8 .
Nhắc lại thuở xưa ba đồng đội họ Lưu từ miền Trung vào lập nghiệp ông anh là Lưu Phước Tấn đến lập nghiệp khai khẩn đất hoang tại Hồi Xuân nay là xã Xuân Hiệp thuộc huyện Trà Ôn tỉnh Vĩnh Long, còn hai ông em kế không rõ tên, ông em thứ nhất đến xã Phú Đức nay là xã An Đức huyện Long Hồ tỉnh Vĩnh Long, ông em thứ hai đến xã Tiên Thuỷ huyện Hàm Luông tỉnh Bến Tre mà phần sau có nói đến do đã gặp được và lập được một phần gia phả của gánh Tiên Thuỷ Bến Tre. Được biết Hội Đồng Gia Tộc ( HĐGT ) Lưu Gia được xây dựng năm 1991 do ông Lưu Thanh Mậu đời thứ 7 làm Hội Trưởng, đến năm 1993 HĐGT đương nhiệm được chỉ định lại như cũ và có tăng cường thêm phần nhân sự Ban Điều Hành Trưởng Ban là ông Lưu Thế Lữ đời thứ 8 .

Trích bản nội qui sinh hoạt của HĐGT Họ Lưu : “Hội Đồng Gia Tộc Họ Lưu đã có từ năm 1990 đến nay nhưng hoạt động chưa tốt. Tuy nhiên đã làm được một số việc đáng kể, nhưng chưa đáp ứng được sự mong đợi của dòng họ. Muốn thực hiện được tôn chỉ của HĐGT trước đây việc chấn chỉnh lại HĐGT là điều cần thiết và lập nên một nội qui để mọi thành viên theo đó mà thi hành” (Nội qui này gồm 9 điểm, phía sau có trọn vẹn văn bản này do anh Lưu Văn Nam đời thứ 8 em của anh Lưu Thế Lữ Trưởng Ban Điều Hành viết soạn và ban hành).

Hội Đồng Gia Tộc có nhóm họp ngày 09/8/2001 nhân lễ giỗ Cao Tổ Lưu Văn Phụng tự Đức Loan ngày 20/6 Tân Tỵ niên với sự chủ trì của ông Lưu Thanh Mậu nguyên Hội Trưởng HĐGT đã đề cử và tin tưởng bầu cháu Lưu Vĩnh Lịch đời thứ 8 người kinh doanh TP Hồ Chí Minh làm Hội Trưởng ( Trưởng Tộc ) Hội Đồng Gia Tộc Họ Lưu 2001 – 2005 .
Hoạt động của Hội Đồng Gia Tộc là TT đoàn kết của tộc họ, trợ giúp tương hỗ lẫn nhau, nhất là bảo vệ những di tích lịch sử, trùng tu mồ mả đồng thời tìm tung tích người thân tộc ở nhiều nơi để bổ trợ cho list được hoàn hảo và rất đầy đủ hơn .

        Theo tư liệu ngoài di tích lưu truyền lại trên bia mộ, vào năm 1917 lăng mộ Cụ Thủy Tổ họ Lưu (ông, bà) được tu sửa do Cao Tổ Lưu Đình Ngoạn đời thứ 5, giỗ cụ Thủy Tổ được xác định từ đây. Sau đó Cao Tổ Lưu Đình Ngoạn giao lễ giỗ này lại cho cụ Lưu Vĩnh Tăng đời thứ 6. Khi cụ Lưu Vĩnh Tăng mất, lễ giỗ cụ Thủy Tổ do ông Lưu Văn Huấn tự Ba Đại, giỗ liên tục tại thị xã Vĩnh Long và ở đường Cao Đạt Quận 5, TP. Hồ Chí Minh đến ngày đoàn tụ cùng các con ở nước ngoài (khoảng năm 1984 – 1985). Nhắc lại khi thiếm ba Nguyễn Thị Huệ, vợ chú Ba Đại đi đoàn tụ. Tủ thờ bộ lư cụ Thủy Tổ, thiếm có giao lại cho chị Lưu Thị Tuyết đời thứ 8, ngụ Thiền Đức, Thị xã Vĩnh Long. Sau tủ thờ lư hương này giao lại cho Lưu Hoàng Anh đời thứ 8, ngụ Quận 10 TP. Hồ Chí Minh hiện nay. Về phân mộ của ông, bà Thủy Tổ do Cao Tổ Lưu Đình Ngoạn đời thứ 5 làm tri phủ là con trai của tri phủ Lưu Tánh Thiện xuất tiền ra tu sửa với qui mô lớn, mộ trước làm bằng đá ong do thời gian bị hư hỏng nhiều, Cao Tổ Lưu Đình Ngoạn làm lại mới bằng đá xanh Biên Hòa, có cẩn đá vòng thành, có dạ đài và mái che cũng bằng đá xanh; có nơi lễ cúng nhang khói cho con cháu. Lăng mộ tọa lạc tại nền mộ cũ tại Xuân Hiệp cách bờ sông Măng Thít khoảng 30m. Năm 1965 trùng tu lần 2 do ông Lưu Văn Lâm đời thứ 6. Năm 1985 trùng tu lần 3 do con cháu trong gia tộc.

                                                                                                   Minh Chiến – CCVTLT

Source: https://mix166.vn
Category: Gia Đình

Xổ số miền Bắc