Đổi mới công nghệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam

(TN&MT) – Công nghệ luôn được xem là trung tâm của phát triển kinh tế – xã hội và thúc đẩy đổi mới công nghệ thông qua việc tiếp cận và sử dụng công nghệ mới đã trở thành một thành phần quan trọng của chiến lược phát triển của mọi quốc gia trên thế giới. Tại Việt Nam, đổi mới công nghệ và hấp thụ công nghệ là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Kết quả nghiên cứu và điều tra của Bộ KH&CN gần đây cho thấy trong quy trình tiến độ từ 2001 – 2019, thay đổi công nghệ và hấp thụ công nghệ là động lực chính thôi thúc tăng trưởng ở Việt Nam. Giai đoạn 2001 – 2019, góp vốn đầu tư thực tiễn vào ứng dụng, thay đổi công nghệ trên lao động tại Việt Nam tăng gần 250 % .
Khoa học, công nghệ và thay đổi phát minh sáng tạo đã góp phần quan trọng, tổng lực trong tăng trưởng kinh tế tài chính – xã hội. Năng suất những tác nhân tổng hợp ( TFP ) góp phần vào tăng trưởng tăng từ 33,6 % ( quy trình tiến độ 2011 – năm ngoái ) lên 45,2 % ( quy trình tiến độ năm nay – 2020 ). Tính chung 10 năm 2011 – 2020 đạt 39,0 % ( vượt tiềm năng 35 % ). Tỉ trọng giá trị xuất khẩu loại sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị hàng hoá tăng từ 19 % năm 2010 lên khoảng chừng 50 % năm 2020. Chỉ số thay đổi phát minh sáng tạo toàn thế giới – GII tăng 17 bậc trong tiến trình năm nay – 2020, đứng thứ 3 khu vực Khu vực Đông Nam Á, đứng đầu trong số những vương quốc ở mức thu nhập trung bình thấp .

Tự động hóa nâng cao năng lực sản xuất nhíp ô tô

Từ năm năm ngoái – 2019, thay đổi công nghệ đã vượt qua thâm dụng vốn để trở thành động lực chính của tăng trưởng sản lượng đầu ra trên lao động. Tăng trưởng sản lượng đầu ra trên lao động trung bình là 5,64 % trong quá trình năm ngoái – 2019. Thâm dụng vốn đã góp phần 55 % ( 3,06 % trong tăng trưởng tổng thể và toàn diện 5,64 % mỗi năm ), 45 % còn lại ( 2,58 % ) là góp phần của TFP vào tăng trưởng. Đáng chú ý quan tâm là tác động ảnh hưởng của ứng dụng, thay đổi công nghệ có khuynh hướng ngày càng tăng trong quá trình này, vượt yếu tố tăng cường vốn để trở thành tác nhân có góp phần lớn nhất tới tăng trưởng sản lượng đầu ra trên lao động. Kết quả nhìn nhận cho thấy nỗ lực thay đổi công nghệ đã góp phần tới 3,3 % trong mức tăng tổng 5,6 % của sản lượng trung bình hàng năm trên mỗi lao động .

Đóng góp của TFP vào tăng trưởng sản lượng đầu ra trên lao động đến từ: Nỗ lực của các doanh nghiệp dẫn đầu trong nâng cao sản lượng tiềm năng (đường biên công nghệ không điều kiện) của ngành; cải thiện hiệu suất (nâng cao hiệu quả kỹ thuật) của các doanh nghiệp trung bình (các doanh nghiệp đi sau) trong hoạt động sản xuất; tác động của đầu tư liên quan đến đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp dẫn đầu nhằm gỡ bỏ các rào cản trong nâng cao hiệu suất và năng lực công nghệ.

Đáng chú ý, dù giá trị tuyệt đối còn hạn chế nhưng các doanh nghiệp đã chiếm phần đáng kể trong đầu tư và phát triển (R&D). Tỉ lệ các doanh nghiệp Việt Nam đóng góp khoảng 64% vào R&D quốc gia, tỉ lệ này có thể so sánh với Singapore (52%), Hàn Quốc (77%) và Trung Quốc (77%). Trong những năm gần đây tại Việt Nam có nhiều hơn các doanh nghiệp mở rộng hoạt động R&D.

Các chuyên viên kinh tế tài chính đã nghiên cứu và phân tích, tăng 1 % ngân sách cho R&D hoàn toàn có thể mang lại khoảng chừng 106 nghìn tỷ đồng cho GDP thực của Việt Nam ( theo giá năm 2010 ). Con số này giao động 1,0 % tổng GDP vào năm 2030. Tuy nhiên, đến năm 2045, tăng 1 % vận tốc tăng góp vốn đầu tư cho R&D sẽ tạo thêm khoảng chừng 600 nghìn tỷ đồng, khoảng chừng 3,7 % tổng GDP thực năm 2045 .

Nhờ thay đổi công nghệ trong sản xuất tôm giống, Công ty Việt – Úc đã xây dựng trang trại tôm giống với năng lực sản xuất 15 tỷ thành viên tôm giống hậu ấu trùng

Trong toàn cảnh toàn thế giới hóa lúc bấy giờ, công nghệ ngày càng có vai trò thiết yếu để doanh nghiệp cạnh tranh đối đầu và thịnh vượng. Do vậy, chỉ có ứng dụng và thay đổi công nghệ thì doanh nghiệp Việt mới nâng cao được hiệu suất cao hoạt động giải trí và năng lực cạnh tranh đối đầu, góp thêm phần thôi thúc tăng trưởng kinh tế tài chính xã hội .

Xổ số miền Bắc