Giáo trình môn địa lý du lịch năm 2021- 2022 – ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐÀ NẴNG KHOA THƯƠNG MẠI – DU LỊCH – Studocu
ĐẠI HỌC KINH TẾ ĐÀ NẴNG KHOA THƯƠNG MẠI – DU LỊCH *************
BÀI GIẢNG MÔN HỌC
TỔ CHỨC LÃNH THỔ DU LỊCH
Mục lục bài viết
Đà Nẵng, năm 2010
ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
Môn học: TỔ CHỨC LÃNH THỔ DU LỊCH
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ DU LỊCH
1.1. TỔ CHỨC LÃNH THỔ DU LỊCH VÀ ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC
1.2. HỆ THỐNG LÃNH THỔ DU LỊCH
1.3. HỆ THỐNG KINH TẾ – XÃ HỘI VÀ KẾT CẤU HẠ TẦNG
1.4. TÁC ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC LÃNH THỔ DU LỊCH ĐẾN
KINH TẾ – XÃ HỘI
CHƯƠNG 2: CẤU TRÚC PHÂN HỆT CỦA HỆ THỐNG LÃNH THỔ DU LỊCH
2.1. PHÂN HỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH
2.2. PHÂN HỆ CƠ SỞ VẬT CHẤT KỸ THUẬT DU LỊCH
2.3 PHÂN HỆ LUỒNG DU KHÁCH
CHƯƠNG 3: PHÂN VÙNG DU LỊCH VÀ HỆ THỐNG PHÂN VỊ DÙNG DU LỊCH
3.1 VÙNG DU LỊCH
3.2. Ý NGHĨA, NHIỆM VỤ VÀ NGUYÊN TẮC PHÂN VÙNG
DU LỊCH
3.3. HỆ THỐNG PHÂN VỊ VÙNG DU LỊCH
3.4. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU TRONG PHÂN VÙNG DU LỊCH
3.5. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH PHÂN VÙNG DU LỊCH
CHƯƠNG 4: TỔ CHỨC KHÔNG GIAN DU LỊCH VÀ BẢN ĐỒ DU LỊCH
4.1. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA, YÊU CẦU CHUNG VÀ CÁC BƯỚC XÂY DỰNG BẢN ĐỒ
4.2. CƠ SỞ TOÁN HỌC TRONG XÂY DỰNG BẢN ĐỒ
4.3. CÁC LOẠI BẢN ĐỒ TRONG TỔ CHỨC LÃNH THỔ DU LỊCH
CHƯƠNG 5: CÁC VÙNG DU LỊCH VIỆT NAM
5.1. VÙNG DU LỊCH TRUNG DU VÀ MIỀN NÚI PHÍA BẮC
5.2. VÙNG DU LỊCH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ DUYÊN HẢI ĐÔNG BẮC
5.3. VÙNG DU LỊCH BẮC TRUNG BỘ
5.4. VÙNG DU LỊCH DUYÊN HẢI NAM TRUNG BỘ
5.5. VÙNG DU LỊCH TÂY NGUYÊN
5.6. VÙNG DU LỊCH ĐÔNG NAM BỘ
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ DU LỊCH
1.1. TỔ CHỨC LÃNH THỔ DU LỊCH VÀ ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU MÔN HỌC
1.1.1. Tổ chức lãnh thổ du lịch
1.1.1.1. Khái niệm
Tổ chức lãnh thổ du lịch là một hệ thống liên kết không gian của các đối tượng du lịch và các cơ sở phục vụ du lịch liên quan dựa trên việc sử dụng tối ưu các nguồn tài nguyên du lịch (kinh tế, xã hội, môi trường) cao nhất.
1.1.1.2. Vai trò của tổ chức lãnh thổ du lịch
Nghiên cứu tổ chức lãnh thổ du lịch tạo điều kiện đẩy mạnh chuyên môn hóa du lịch. Gồm có 4 hướng chuyên môn hóa sau:
Chuyên môn hóa theo loại hình dịch vụ
Chuyên môn hóa theo du lịch
Chuyên môn hóa theo giai đoạn của quá trình du lịch
Chuyên môn hóa theo các công đoạn sản xuất dịch vụ du lịch
Nghiên cứu tổ chức lãnh thổ du lịch góp phần quan trọng trong việc tạo ra những sản phẩm du lịch đặc sắc có khả năng thu hút khách du lịch
Tài nguyên du lịch chỉ được khai thác và sử dụng có hiệu quả khi có sự tổ chức lãnh thổ du lịch và việc xây dựng các tuyến, điểm du lịch hợp lý
Tổ chức lãnh thổ du lịch tốt làm :
1.1.1.3. Các hình thức biểu hiện của tổ chức lãnh thổ du lịch
Hệ thống lãnh thổ du lịch là hệ thống xã hội được tạo thành bởi các yếu tố có quan hệ qua lại với nhau một cách mật thiết như: nhóm người du lịch, các tổng thể tự nhiên – văn hoá – lịch sử, các công trình kỹ thuật, đội ngũ cán bộ công nhân viên và bộ phận tổ chức quản lý.
Là sự kết hợp giữa các cơ sở du lịch với các xí nghiệp thuộc cơ sở hạ tầng được liên kết với nhau bằng các mối liên hệ kinh tế, sản xuất và cùng sử dụng chung vị trí địa lý, các nguồn tài nguyên thiên nhiên và kinh tế của lãnh thổ.
Có nhiều quan niệm khác nhau về vùng du lịch.
Theo I.I.Pirôgiơnic (1985) là quan niệm tương đối đầy đủ hơn cả.
Vùng du lịch là hệ thống lãnh thổ kinh tế – xã hội. Đó là tập hợp các hệ thống lãnh thổ du lịch thuộc mọi cấp có liên hệ với nhau và các xí nghiệp thuộc cơ sở hạ tầng, nhằm đảm bảo cho hoạt động của hệ thống lãnh thổ du lịch với việc có chung chuyên môn hoá và các điều kiện kinh tế – xã hội để phát triển du lịch.
Hệ thống lãnh thổ du lịch là hạt nhân tạo nên vùng du lịch và không phải là toàn bộ lãnh thổ của vùng, chỉ là nơi tập trung nguồn tài nguyên du lịch và các công trình kỹ thuật…
Còn vùng du lịch có không gian rộng lớn hơn nhiều, bao gồm cả những khu vực sản xuất hàng hoá, vật liệu, năng lượng.
1.1.2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu môn học
1.1.2.1. Đối tượng nghiên cứu môn học
Môn học này có những nhiệm vụ cụ thể sau:
Tài nguyên có ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển du lịch. Khi nghiên cứu chúng, ngoài việc xem xét một cách riêng lẻ (theo từng loại), cần phải tìm hiểu sự kết hợp tài nguyên theo lãnh thổ.
Sau đó là việc đánh giá tài nguyên trên những quan điểm nhất định (kinh tế, sinh thái, xã hội…) . Trên cơ sở đánh giá từng loại và sự kết hợp tài nguyên theo lãnh thổ mới có căn cứ xác định phương hướng khai thác
Phụ thuộc vào đặc điểm xã hội- nhân khẩu của dân cư
Căn cứ vào nhu cầu cùng với nguồn tài nguyên vốn có của lãnh thổ, mới tính toán xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật và cơ cấu hạ tầng thích hợp
1.1.2.2. Phương pháp nghiên cứu môn học
Phương pháp tiếp cận và phân tích hệ thống
Các hệ thống lãnh thổ du lịch thường tồn tại và phát triển trong mối quan hệ qua lại nội tại của từng phân hệ, giữa các phân hệ du lịch trong một hệ thống với nhau và với môi trường xung quanh, giữa các hệ thống lãnh thổ du lịch cùng cấp và khác cấp, giữa hệ thống lãnh thổ du lịch và hệ thống kinh tế – xã hội.
Khoa học tổ chức lãnh thổ du lịch mang đặc thù của ngành khoa học du lịch và kinh tế du lịch và có mối quan hệ với nhiều ngành khoa học có liên quan.
Khi nghiên cứu những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn xây dựng và thực hiện tổ chức lãnh thổ du lịch cần phải xem xét, vận dụng những tri thức của khoa học quy hoạch, của khoa học du lịch và các ngành khoa học có liên quan.
cần sắp xếp các vấn đề nghiên cứu, hoặc giải quyết theo trật tự có hệ thống, logic, khoa học,
Phương pháp nghiên cứu thực địa và thu thập tài liệu
Là nghiên cứu địa lý truyền thống để khảo sát thực tế, áp dụng việc nghiên cứu lý luận gắn với thực tiễn
nhằm nhận được các thông tin xác thực, cần thiết để thành lập ngân hàng số liệu làm cơ sở cho các phương pháp khác.
Phương pháp bản đồ
Thu thập những nguồn thông tin mới phát hiện phân bố trong không gian của các đối tượng nghiên cứu.
Bản đồ còn là phương tiện để cụ thể hoá; biểu đạt kết quả nghiên cứu về cấu trúc, đặc điểm và phân bố không gian của các đối tượng tổ chức quy hoạch lãnh thổ như những đặc điểm phân bố khôgn gian và khối lượng của nguồn tài nguyên, các lượng khách, cơ sở vật chất kỷ thuật phục vụ du lịch, kết cấu hạ tầng, các thuộc tính của hệ thống lãnh thổ du lịch. Phương pháp này còn dung để thu thập nguồn thông tin và vạch ra tính quy luật hoạt động của các hệ thống lãnh thổ du lịch
Phương pháp phân tích toán học và mô hình hoá
Là định hướng, thống kê các đối tượng tổ chức lãnh thổ, phân tích tương quan để phát hiện ra các yếu tố và sự ảnh hưởng của các yếu tố hệ thống lãnh thổ du lịch và sự tác động qua lại giữa chúng, đánh giá số lượng và chất lượng của các yếu tố, có được những nhận định về định tính của các yếu tố đúng đắn, mang tính khách quan.
Phương pháp xác định ranh giới vùng du lịch
Phần lớn các số liệu được thu thập theo đơn vị hành chính, vì vậy cũng giống như phân vùng các ngành kinh tế khác, ranh giới các vùng du lịch được xác định theo ranh giới hành chính.
Phương pháp cân đối
Là toàn bộ các phương pháp tính toán để phân tích, dự báo các mục tiêu sẽ được thực hiện của hệ thống lãnh thổ du lịch, có tính đến tổng hợp các yếu tố. Phương pháp này còn dùng để tính toán cân đối thu nhập của du lịch và chi phí cho du lịch, xác định diện tích cần thiết cho lãnh thổ, tài nguyên, lao động…
Phương pháp xã hội học
Nhằm khảo sát đặc điểm xã hội của các đối tượng du lịch. Phương pháp này dùng để lấy ý kiến của cộng đồng, du khách, các chuyên gia, các thành viên tham gia vào quá trình tổ chức, quy hoạch lãnh thổ du lịch.
Trong quy hoạch , tổ chức lãnh thổ du lịch, phương pháp này thường được sử dụng để điều tra, phân tích thị trường như: sở thích, nhu cầu tiêu dùng, mức chi tiêu của khách, sức hấp dẫn của các điểm du lịch, tài nguyên du lịch, chất lượng dịch vụ, chất lượng nguồn nhân lực , thái độ, nhận thức của dân cư đối với các vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trường du lịch, cũng như các vấn đề phát triển du lịch mà các quá trình tổ chức lãnh thổ du lịch thực hiện, mức sống của cộng đồng địa phương nơi tiến hành tổ chức, quy hoạch du lịch, lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia, của các cơ quan, các cấp chính quyền.
1.2. HỆ THỐNG LÃNH THỔ DU LỊCH
1.2.1. Quan niệm và đặc điểm của hệ thống lãnh thổ du lịch
1.2.1.1. Một số quan niệm về hệ thống lãnh thổ du lịch
Hệ thống lãnh thổ du lịch như một thành tạo toàn vẹn về hoạt động và lãnh thổ có sự lựa chọn các chức năng xã hội nhất định. Một trong những chức năng quan trọng được lựa chọn là phục hồi và tái sản xuất sức khoẻ, khả năng lao động , thể lực và tinh thần của con người. Vì vậy, hệ thống lãnh thổ du lịch thường được coi là hệ thống kinh tế -xã hội, được tạo thành bởi các yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau như nhóm người du lịch, các tổng thể tự nhiên, văn hoá, lịch sử, các công trình kỹ thuật, đội ngũ cán bộ công nhân viên và bộ phận tổ chức quản lý. Nét đặc trưng của hệ thống lãnh thổ du lịch là tính hoàn chỉnh về chức năng và lãnh thổ.
-Theo I.I. Pirogionhich trong cuốn Cơ sở địa lý du lịch và dịch vụ tham quan, tr.46 (Trần Đức Thanh và Nguyễn Thị Hải dịch): “ Hệ thống lãnh thổ du lịch là một hệ thống kinh tế -xã hội bao gồm các yếu tố có quan hệ tương hỗ với nhau như các luồng khách du lịch, tổng thể tự nhiên và tổng thể văn hoá, lịch sử, các công trình kỹ thuật, nhân viên phục vụ và cơ quan điều hành.
Hệ thống lãnh thổ du lịch như một thành tạo vẹn toàn về chức năng và lãnh thổ, có cả một loạt các chức năng chính là phục hồi và tái sản xuất mở rộng sực khoẻ và khả năng lao động, thể lực và tinh thần của con người (du khách). Về phương diện này, hệ thống lãnh thổ tương đương với các tổng thể lãnh thổ sản xuất, đồng thời cả về hệ thống giao thông và các hệ thống định cư”.
Khi nghiên cứu hai quan niệm trên cho thấy quan niệm của Ngô Tất Hổ phản ánh đầy đủ đặc điểm và các mối quan hệ bên trong và bên ngoài của hệ thống lãnh thổ du lịch hơn . Nhưng trong nhiều dự án quy hoạch phát triển du lịch và nhiều tài liệu nghiên cứu về du lịch, các nhà khoa học Việt Nam thường sử dụng quan niệm về hệ thống lãnh thổ du lịch của I.I. Pirogionhich
1.2.1.2. Đặc điểm của hệ thống lãnh thổ du lịch
1.2.2. Cấu trúc phân hệ trong hệ thống lãnh thổ du lịch
Cấu trúc bên trong của hệ thống lãnh thổ du lịch gồm 5 phân hệ:
Các yếu tố cấu trúc nên hệ thống lãnh thổ du lịch có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Vì vậy trong quá trình kiểm kê, phân tích, đánh giá các yếu tố của hệ thống lãnh thổ không những cần phân tích, đánh giá các đặc trưng của từng yếu tố mà còn phải tìm hiểu cả trong mối quan hệ giữa các yếu tố.
Nếu tập trung một lượng du khách quá lớn trong một lãnh thổ có quy mô nhỏ, không những dẫn tới sự huỷ hoại tổng thể tự nhiên mà còn gây ra áp lực với du khách. Vì vậy, phải xác định mức độ chịu tải với tổng thể tự nhiên, phải lựa chọn những hoạt động du lịch không gây tổn thất cho cân bằng sinh thái và khả năng phục hồi của cảnh quan tự nhiên và văn hoá – xã hội.
Cần phải chú ý đến độ bền vững trong quá trình sử dụng, bảo vệ, phải nghiên cứu các định hướng, biện pháp nâng cao khả năng duy trì cảnh quan cho hoạt động kinh doanh du lịch. Sự thích hợp của tổng thể tự nhiên là phản ánh những điều kiện thuận lợi. Thời gian kéo dài sự thích hợp cho cơ thể con người thông qua các yếu tố: nhiệt độ, tốc độ gió, độ ẩm, lượng mưa. Thích hợp với trạng thái sức khoẻ của du khách cho phép trong báo cáo quy hoạch du lịch đưa ra phân loại các yếu tố của khí hậu và thời gian khí hậu thích hợp hoặc không thích hợp cho sức khoẻ của du khách và cho phát triển du lịch.
Tính hấp dẫn của tổng thể tự nhiên và văn hoá, lịch sử như sự kỳ thú, tính độc đáo (tần số lặp lại hay không bao giờ lặp lại của đối tượng và hiện tượng được phản ánh thông qua đánh giá thẩm mỹ, sự đa dạng, đặc sắc của tổng thể tự nhiên, văn hoá – xã hội, độ chia cắt địa hình, độ che phủ của rừng, đặc điểm, độ ngập của nước, những giá trị văn hoá, lịch sử…)
Du khách luôn đòi hỏi nhân viên phục vụ có chất lượng cao. Họ mong muốn nhân viên phục vụ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, phẩm chất tốt.
Để xác định, đánh gía đội ngũ nhân viên phục vụ phải qua điều tra (điều tra nhân viên, trưng cầu ý kiến du khách và qua thống kê số liệu, qua đánh giá năng lực làm việc và phẩm chất nghề nghiệp của họ)
Trong quá trình chuẩn bị và tiến hành những chuyến đi du lịch, du khách có nhu cầu về các thông tin dịch vụ du lịch như tài nguyên và môi trường du lịch của điểm đến, thêm vào nữa là những thông tin trên góp phần hấp dẫn du khách đến với điểm hoặc khu du lịch. Vì vậy, trong quy hoạch du lịch các nhà quy hoạch cần phải nghiên cứu, khảo sát, đưa ra những giải pháp, chiến lược tuyên truyền, quảng bá hình ảnh du lịch của hệ thống lãnh thổ du lịch được quy hoạch, nhằm hấp dẫn du khách.
Cơ quan điều hành sẽ cung cấp định mức và nguồn thông tin về các phân hệ. Tài nguyên du lịch quy định về quy mô, kiểu dáng, chiều cao, mật độ của cơ sở vật chất kỹ thuật ở các điểm du lịhc biển cách mép nước thuỷ triều lên ít nhất là 100m, nhưng lại theo xu hướng phân bố dọc bờ biển nên cần mở các của ra phía biển. Hoặc một hecta mặt nước biển hay hồ chỉ có sức chứa tối đa là 8 du thuyền, trong đó chỉ có bốn du thuyền hoạt động… Hay ở các điểm du lịch sinh thái nên hạn chế mở những con đường lớn (vì phải chặt cây nhiều), mật độ xây dựng nhà cửa thưa, độ cao hạn chế từ một đến hai tầng, phải tránh những đường thoát nước…
Tài nguyên du lịch còn có mối quan hệ với bộ máy tổ chức quản lý điều hành du lịch. Trong một hệ thống lãnh thổ có một bộ máy tổ chức quản lý có cơ cấu hợp lý, tính chuyên môn nghiệp vụ cao, có hệ thống những quy định, chế tài hợp lý, khoa học và cách thức tổ chức quản lý đồng bộ, chặt chẽ, hiệu quả sẽ là điều kiện quan trọng để bảo vệ, tôn tạo, và khai thác tài nguyên du lịch hiệu quả và bền vững.
Từ những quan niệm và đặc điểm về hệ thống lãnh thổ du lịch cho thấy, để có thể xây dựng và thực hiện được những dự án quy hoạch phát triển du lịch có hiệu quả, góp phần phát triển du lịch bền vứng, các nhà quy hoạch cần có hiểu biết về hệ thống lãnh thổ du lịch và cần nghiên cứu về đặc điểm của hệ thống lãnh thổ du lịch cần quy hoạch.
1.3. ĐIỀU TRA, ĐÁNH GIÁ DÂN CƯ, KINH TẾ – XÃ HỘI VÀ KẾT CẤU HẠ TẦNG
1.3.1. Dân cư, dân tộc
1.3.2. Điều kiện kinh tế -xã hội
Mức tăng GDP/năm, tỷ lệ GDP theo các ngành, đặc điểm phát triển chung của các ngành kinh tế chủ yếu và của nền kinh tế
1.3.3. Kết cấu hạ tầng phục vụ du lịch
Những kế hoạch và dự án đầu tư, nâng cấp cơ sở giao thông vận tải
1.4. TÁC ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC LÃNH THỔ DU LỊCH ĐẾN KINH TẾ – XÃ HÔI
1.4.1. Tác động đến phát triển kinh tế
a. Tác động tích cực
b. Tác động tiêu cực
1.4.2. Tác động đến chất lượng cuộc sống
Du lịch không chỉ có chức năng kinh tế mà còn có cả chức năng chính trị, văn hoá-xã hội và môi trường. Do đó khi đánh giá tác động từ các dự án quy hoạch và tổ chức không gian du lịch nói riêng và hoạt động du lịch nói chung, ngoài việc đánh giá tác động đến chất lượng cuộc sống của nhân dân và an ninh, chính trị xã hội.
a. Tác động tích cực
b. Tác động tiêu cực
1.4.3. Tác động đến văn hoá xã hội
a. Tác động tích cực
Để tạo ra tài nguyên môi trường đa dạng, phong phú hấp dẫn du khách nhiều dự án quy hoạch du lịch đã có sự đầu tư cho bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa đặc sắc của các cộng đồng cư dân địa phương, nhất là ở các khu vực có các dân tộc ít người. Từ việc đầu tư cho bảo tồn, cùng với sự hấp dẫn du khách bởi các giá trị văn hóa truyền thống đã làm cho người dân tăng thêm lòng tự hào về di sản văn hóa địa phương, từ đó họ có ý thức hơn và đóng góp nhiều hơn cho việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống.
b. Tác động tiêu cực
CHƯƠNG 2: CẤU TRÚC PHÂN HỆ CỦA HỆ THỐNG LÃNH
THỔ DU LỊCH
2.1. PHÂN HỆ TÀI NGUYÊN DU LỊCH
2.1.1. Khái niệm
Tài nguyên du lịch là một dạng đặc sắc của tài nguyên nói chung. Tài nguyên hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các nguồn nguyên liệu, năng lượng và thông tin có trên trái đất và trong không gian vũ trụ liên quan mà con người có thể sử dụng phục vụ cho cuộc sống và sự phát triển của mình.
Khái niệm tài nguyên du lịch luôn gắn với khái niệm du lịch. Tài nguyên du lịch là khách thể của du lịch, là cơ sở phát triển của ngành du lịch – kinh tế du lịch. Như vậy, Tất cả các nhân tố có thể kích thích động cơ du lịch của du khách được ngành du lịch tận dụng và từ đó sinh ra lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội thì đều gọi là tài nguyên du lịch. Nói một cách tóm tắt, hễ là nhân tố thiên nhiên, nhân văn và xã hội có thể thu hút du khách thì gọi chung là tài nguyên du lịch
Quan niệm về tài nguyên du lịch bao gồm các thành phần và sự kết hợp khác nhau của cảnh quan tự nhiên và nhân văn được sử dụng cho dịch vụ du lịch và thoả mãn các nhu cầu về chữa bệnh, nghỉ ngơi, tham quan hay du lịch
Thực chất, tài nguyên du lịch là các điều kiện tự nhiên, các đối tượng văn hoá-lịch sử đã bị biến đổi ở mức độ nhất định dưới ảnh hưởng của nhu cầu xã hội và khả năng sử dụng trực tiếp vào mục đích du lịch.
Tài nguyên du lịch bao gồm các yếu tố liên quan đến các điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử-văn hoá, kinh tế-xã hội vốn có trong tự nhiên hoặc do con người tạo dựng nên. Các yếu tố này luôn luôn tồn tại và gắn liền với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội đặc thù của mỗi địa phương, mỗi quốc gia, tạo nên những điểm đặc sắc cho mỗi địa phương, mỗi quốc gia đó. Khi các yếu tố này được phát hiện, được khai thác và sử dụng vào mục đích phát triển du lịch thì chúng sẽ trở thành tài nguyên du lịch. Việc đưa các tổng thể tự nhiên vào tài nguyên du lịch tự nhiên diễn ra theo sơ đồ sau:
Các tổng thể tự nhiên tồn tại như những thành tạo tự nhiên. Vì chưa có nhu cầu du lịch nên chúng cũng không có tính chất của tài nguyên du lịch
Nhu cầu du lịch xuất hiện đòi hỏi phải nghiên cứu và đánh giá tổng thể tự nhiên
Do tác động của nhu cầu xã hội và đầu tư lao động sống cũng như các phương tiện cần thiết khác, các tổng thể tự nhiên có giá tri nhất biến thành tài nguyên du lịch
Nhu cầu du lịch ngày càng tăng lên dẫn đến việc đưa cả các tổng thể tự nhiện kém thuận lợi hơn vào tài nguyên du lịch sau khi đã cải tạo chúng theo ý định của con người
Qúa trình tương tự cũng diễn ra khi chuyển các đối tượng văn hoá-lịch sử thành lớp tài nguyên du lịch. Các đối tượng văn hoá-lịch sử là sản phẩm lao động của nhiều thế hệ đi trước đang trở thành đối tượng lao động của ngành dich vụ- du lịch mang tính nhận thức.
Cách đây trên 40 năm khu rừng nguyên sinh Cúc Phương đã được phát hiện. Năm 1962, chính phủ ra quyết định cho phép xây dựng thành vườn quốc gia và đến năm 1966, Cúc Phương đã chính thức trở thành vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Cũng từ thời điểm khi tính đa dạng sinh học của vườn quốc gia được khai thác phục vụ mục đích du lịch thìư khu rừng nguyên sinh này trở thành một điểm tài nguyên du lịch đặc sắc, một điểm du lịch có sức hấp dẫn cao đối với du khách trong nước và quốc tế. Năm 1993, động thiên cung, một động đá vôi nguyên sơ, kỳ ảo ở Vịnh Hạ Long được phát hiện, khai thác sử dụng, và trở thành một điểm du lịch mới hấp dẫn, làm tăng thêm giá trị của tài nguyên du lịch của khu du lịch nổi tiếng này.Như vậy, tài nguyên du lịch được xem như là tiền đề để phát triển du lịch. Thực tế cho thấy, tài nguyên du lịch càng phong phú , càng đặc sắc bao nhiêu thì sức hấp dẫn và hiệu quả hoạt động du lịch cang cao bấy nhiêu.
Như vậy, khái niệm: “Tài nguyên du lịch là tổng thể tự nhiên và văn hoá-lịch sử cùng các thành phần của chúng góp phần khôi phục và phát triển thể lực và trí tuệ của con người, khả năng lao động và sức khoẻ của họ. Những tài nguyên này được sử dụng cho nhu cầu trực tiếp và gián tiếp cho việc sản xuất dịch vụ du lịch”
2.1.2. Phân loại tài nguyên du lịch
2.1.2.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên
Thiên nhiên là môi trường sống của con người và mọi sinh vật trên trái đất. Thiên nhiên bao quanh bao gồm các yếu tố và các thành phần tự nhiên, các hiện tượng tự nhiên và các quá trình biến đổi của chúng tạo nên các điều kiện tự nhiên thường xuyên tác động đến sự sống và mọi hoạt động của con người.
Chỉ có các thành phần và các thể tổng hợp tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp được khai thác sử dụng tạo ra các sản phẩm du lịch, phục vụ cho mục đích phát triển du lịch mới được xem là tài nguyên du lịch tự nhiên. Các tài nguyên du lịch tự nhiên luôn luôn gắn liền với các điều kiện tự nhiên cũng như các điều kiện lịch sử-văn hóa, kinh tế-xã hội ở xung quanh và chúng thường được khai thác đồng thời với các tài nguyên du lịch nhân văn.
Khi tìm hiểu, nghiên cứu về tài nguyên du lịch tự nhiên người ta thường nghiên cứu chúng dưới các dạng chính là nghiên cứu từng thành phần của tự nhiên, nghiên cứu các thể tổng hợp tự nhiên và nghiên cứu các hiện tượng đặc sắc của tự nhiên.
Các thành phần của tự nhiên
Trong số các thành phần của tự nhiên, có một số thành phần chính có tác động trực tiếp và thường xuyên đối với các hoạt động du lịch và trong số các thành phần này chỉ có một số yếu tố nhất định được khai thác như nguồn tài nguyên du lịch. Các thành phần tự nhiên tạo nên tài nguyên du lịch tự nhiên là địa hình, khí hậu, thủy văn và sinh vật.
Địa hình là một thành phần quan trọng của tự nhiên, là nơi diễn ra mọi hoạt động của con người. Đối với hoạt động du lịch, các dạng địa hình tạo nền cho phong cảnh, một số kiểu địa hình đặc biệt và các di tích tự nhiên có giá trị phục vụ cho nhiều loại hình du lịch.
Tâm lý và sở thích chung của khách du lịch là muốn đến với những phong cảnh đẹp, có những kiểu địa hình khác lạ so với nơi họ đang sinh sống. Địa hình miền núi thường có nhiều ưu thế hơn đối với hoạt động du lịch vì có sự kết hợp của nhiều dạng địa hình, vừa thể hiện được vẻ đẹp hũng vĩ và thơ mộng của thiên nhiên, vừa có khí hậu mát mẻ, không khí trong lành. Ở miền núi có nhiều đối tượng cho hoạt động du lịch. Đó là các sông suối, thác nước, hang động, rừng cây với thế giới sinh vật tự nhiên vô cùng phong phú. Miền núi còn là địa bàn cư trú của đồng bào các dân tộc ít người với đời sống và nền văn hóa rất đa dạng và đặc sắc.
Ở nước ta, địa hình được khai thác như một tài nguyên du lịch tự nhiên quan trọng thường là các dạng và các kiểu địa hình đặc biệt sau:
-Các vùng núi có phong cảnh đẹp
Các vùng núi có phong cảnh đẹp đã được phát hiện và khai thác phục vụ mục đích du lịch là cao nguyên Lâm Viên (Lang Biang) với thành phố Đà Lạt (Lâm Đồng), Sa Pa, Bắc Hà (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Ba Vì (Hà Tây), các vùng hồ tự nhiên và nhân tạo như Hồ Ba Bể (Bắc Cạn), hồ Hòa Bình ( Hòa Bình), hồ Thác Bà (Yên Bái), hồ Đồng Mô (Hà Tây)… Đặc biệt, Đà Lạt và Sa Pa có độ cao trên 1500m được mệnh danh là thành phố trong sương mù, mang nhiều sắc thài của thiên nhiên vùng ôn đới đã được xây dựng thành điểm du lịch tham quan nghỉ mát từ cách đây trên dưới 100 năm. Cao nguyên Bắc Hà, núi Ba Vì, núi Mẫu Sơn, núi Bạch Mã cũng là những điểm du lịch núi có tiếng đã từng có thời kỳ được khai thác phục vụ du lịch, hiện tại đang được từng bước phục hồi và hứa hẹn những triển vọng rất tổt đẹp.
-Các hang động
Các hang động ở nước ta chủ yếu là các hang động nằm trong các vùng núi đá vôi có kiểu địa hinh karst rất phát triển. Kiểu địa hình này chủ yếu được tạo thành do sự lưu thông của nước trong các loại đá dễ hoà tan (đá vôi, đá phấn, thạch cao, muối mỏ, đôlômit…). Chúng có thể được tạo từ sự hoà tan của nước trên mặt cũng như nước ngầm. Loại hang động Karst có cảnh quan tự nhiên đẹp, có ý nghĩa văn hoá, lịch sử có tiềm năng du lịch.
Vùng đá vôi ở nước ta có diện tích khá lớn, tới 50.000-60.000km2 chiếm gần 15% diện tích cá nước tập trung chủ yếu ở miền Bắc từ Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, ở biên giới Việt Trung, các cao nguyên đá vôi ở Tây Bắc . Vùng núi đá vôi Hoà Bình-Thanh Hoá cho đến vùng núi đá vôi Quảng Bình. Ở miền Nam, núi đá vôi chỉ có ở khu vực xung quanh thị xã Hà Tiên và một số đảo nằm rải rác ở vịnh Thái Lanh (Kiên Giang)
Các công trình điều tra, nghiên cứu hang động ở Việt Nam đã phát hiện được khoảng 200 hang động, trong đó phần lớn tới gần 90% là các hang ngắn và trung bình (có đô dài dưới 100m) hiện cho đến nay phần lớn tập trung ở Quảng Bình như hang Vòm tới 27km (chưa kết thúc), động Phong Nha 8.5km, hang Tối 5.5km. Ở Lạng Sơn có hang Cả- hang Bè dài hơn 3.3km
Các hang động ở nước ta thường nằm ở chân núi và lưng chừng núi. Nhiều hang có cửa rộng tới 110m và trần cao nhất tới 120m như hang Dơi ở Lạng Sơn. Hang sâu nhất là hang Cả-hang Bè có độ sâu 123m. Đặc biệt rất nhiều hang động ở nước ta có những mạch sông suối ngầm chảy xuyên qua vùng núi đá vôi và thông với hệ thống sông suối bên ngoài. Nhiều hàng động ở nước ta có vẻ đẹp lộng lẫy, tráng lệ và rất kỳ ảo, có sức hấp dẫn đặc biệt với khách du lịch. Bên cạnh những vẻ đẹp tự nhiên do tạo hoá sinh ra, các hang động còn chứa đựng những di tích khảo cổ học, những di tích lịch sử-văn hoá đặc sắc của dân tộc nên càng có giá trị để phát triển di lịch
Các hang động của nước ta tuy nhiều những số được khai thác sử dụng cho mục đích du lịch còn rất ít. Tiêu biểu nhất là động Phong Nha (Quảng Bình), động Hương Tích (Hà Tây), Tam Cốc – Bích Động (Ninh Bình), hang Pác Bó (Cao Bằng), động Nhị Thanh, Tam Thanh (Lạng Sơn), động Sơn Mộc Hương (Sơn La), Các hang động ở Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh) ….v…v… Và trong đó, đặc sắc nhất phải kể đến là động Phong Nha.
Động Phong Nha còn gọi là động Troóc hay chùa Hang nằm trong lòng khối núi đá vôi Kẻ Bàng. Động có cửa vào rộng 25m nối liền với sông Son nên có thể đi tiếp bằng thuyền vào sâu trong động tới 3.5km. Cửa động có độ cao 10m. Càng vào sâu hệ thống hang động càng trởi nên dài rộng với trên 20 vòm hang lớn và những hành lang dài từ vài chục mét đến hàng nghìn mét, trần cao từ 10-50m. Cảnh sắc trong động vô cùng đẹp mắt, kỳ ảo. Động Phong Nha đã được các nhà khoa học có uy tín của Hội Hang động Hoàng gia Anh đánh giá là hang nước đẹp nhất thế giới. Hiện nay, động Phong Nha đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
Thế giới có 650 hang động được sử dụng cho du lịch thu hút 15 triệu khách/ năm. 25 hang động dài nhất và 25 hang động sâu nhất. Có thể kể Flint Mamnhuth Cave System 530km ở Mỹ, Optimisticeskaya 152km ở Ukraina, Holloch 133.5km ở Thuỵ Sĩ, Rescau Jecan Bernard 1535m ở Pháp, Sistema de Trave 1380m ở Tây Ban Nha.
-Các bãi biến
Nước ta có đường bờ biển dài 3260 km và đã thống kê được có khoảng 125 bãi biển có bãi cát bằng phảng với độ dốc trung bình 1-3o cos nhiều điều kiện thuận lợi để khai thác phục vụ du lịch. Điều lý thú là cả hai điểm đầu và cuối của đường bờ biển nước ta đều là hai bãi biển đẹp: Bãi biển Trà Cổ ở Quảng Ninh có chiều dài gần 17km với bãi cát rộng, bằng phẳng tới mức lý tưởng và bãi biển Hà Tiên với thắng cảnh hòn Phụ Tử nổi tiếng.
Các bãi biển ở nước ta phân bố trải đều từ Bắc vào Nam. Nổi tiếng nhất là các bãi biển Trà Cổ, Sầm Sơn, Cửa Lò, Thuận An, Lăng Cô, Non nước, Sa Huỳnh, Văn Phong, Nha Trang, Ninh Chữ, Cà Ná, Vũng Tàu…
Bên cạnh đó, vùng biển nước ta có khoảng 3000 hòn đảo lớn nhỏ và các quần đảo ở gần và xa bờ có nhiều bãi biển và phong cảnh đẹp còn nguyên vẹn vẻ hoang sơ, môi trường trong lành và những điều kiện tự nhiên rất thuận lợi để phát triển các loại hình du lịch biển. Tiêu biểu nhất là các đảo Cái Bầu, Cát Bà, Cù Lao Chàm, Côn Đảo, Phú Quốc… nếu được đầu tư sẽ phát triển thành những điểm du lịch hấp dẫn và có sức cạnh tranh.
Trên bề mặt địa hình ở nước ta có rất nhiều vật thể có dáng hình tự nhiên song rất gần gũi với đời thường, có giá trị thẫm mỹ và gợi cảm, lại được mang tài các sự tích và truyền thuyết. Đó là các di tích tự nhiên và cũng là một đối tượng du lịch được khách du lịch ưa thích, ngưỡng mộ. Các di tích tự nhiên ở nước ta cũng rất phong phú và đa dạng. Nào là hòn Phụ Tử, núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, hòn Đá Chông, nào là hang Từ Thức, Thác Giải Oan; nào là hồ Ba Bể một hồ nước ngọt tự nhiên được hình thành do những hố sụt ở vùng núi đá vôi hoặc hồ Lắc, hồ Tơ Nưng là các hồ nước ở vùng miệng núi lửa cổ xưa nay đã tắt cùng nhiều di tích núi lửa khác hiện còn tồn tại ở Tây Nguyên. Trong các chuyên du lịch tham quan, du lịch sinh thái, các di tích tự nhiện thường làm tăng thêm tính hấp dẫn và hiệu quả của chuyến đi.
Khí hậu là thành phần của tự nhiên sớm được khai thác như một dạng tài nguyên du lịch quan trọng
Các điều kiện khí hậu được xem như các tài nguyên khí hậu du lịch cũng rất đa dạng và đã được khai thác để phục vụ cho các mục đích du lịch khác nhau.
Trong thực tế, khách du lịch ở vào mỗi thời điểm sống trong những điều kiện khí hậu không phù hợp thường đi du lịch đến những nơi có điều kiện khí hậu thích hợp hơn. Người ở xứ lạnh phương Bắc thường đi nghỉ đông ở những vùng ấm áp Phương Nam. Người ở xứ nóng trong những ngày hè oi bức thường thích đi nghỉ mát ở các xùng biển hoặc ở các vùng núi cao có khí hậu mát mẻ.
Các công trình nghiên cứu ở nước ta cho thấy điều kiện khí hậu dễ chịu nhất đối với con người ở Việt Nam là có nhiệt độ trung bình hàng tháng từ 15-230 và độ ẩm tuyệt đối từ 14-21mb. Các điều kiện đó ứng với khu vực Đà Lạt diễn ra quanh năm với nhiệt độ không khí trung bình hàng tháng dao động trong khoảng 16.40 đến 19.70 và độ ẩm tuyệt đối từ 13.8mb đến 19.5mb. Ở Sa Pa có tới 7 tháng có điều kiện khí hậu dễ chịu, từ tháng 4 đến thang 10, ứng với nhiệt độ trung bình hàng tháng từ 15.60 đến 19.80C và độ ẩm tuyệt đối từ 15.7mb đến 20.3mb. Điều đó đã cắt nghĩa cho lý do chính của hai nơi này đã được lựa chọn và xây dựng trở thành các điểm du lịch nghỉ mát nổi tiếng ở nước ta
Các điều kiện khí hậu có liên quan rất nhiều đến việc chữa bệnh, thậm chí còn được coi như một liệu pháp quan trọng. Một số bệnh về huyết áp, tim mach, thần kinh, hô hấp rất cần thiết được điều trị có sự kết hợp giữa các biện pháp y học với các điều kiện thiên nhiên. Các điều kiện thuận lợi về áp suất không khí, về nhiệt độ, độ ẩm, về ánh nắng, về lượng oxi và độ trong lành của không khí tỏ ra rất có hiệu quả trong việc chữa bệnh và an dướng, có tác dụng nhanh chóng làm lành bệnh và phục hồi sức khỏe của con người. Phần lớn các nhà an dướng, nhà nghỉ ở nước ta đã được xây dựng ở các điểm du lịch ven hồ nước, ven biển và ở các vùng núi có khí hậu tốt, thích hợp.
Các loại hình du lịch thể thao, vui chơi giải trí như nhảy dù, tàu lượn, khinh khí cầu, thả diều, thuyền buồm…rất cần thiết có các điều kiện thời tiết thích hợp như hướng gió, tốc đọ gió, quang mây, không có sương mù.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động du lịch, số ngày có thời tiết tốt, nắng ráo, không có mưa hoặc không có diễn biến thời tiết phức tạo nhiêu fkhi cũng được xem như nguồn tài nguyên khí hậu có thể khai thác để phục vụ mục đích du lịch. Thông thường vào thời kỳ ở các nơi có điều kiện khí hậu thuận lợi đối với sức khỏe con người và để triển khai các hoạt động du lịch cũng là một yếu tố quan trọng để thu hút khách tạo nên tính chất mùa vụ trong hoạt động du lịch. Để khắc phục tính chất mùa vụ do các điều kiện khai thác tài nguyên khí hậu du lịch gây nên rất cần thiết phải đa dạng hóa các loại hình du lịch và tạo thêm nhiều sản phẩm du lịch mới, thích hợp.
Đối với haotj động du lịch, thủy văn cũng được xem như một dạng tài nguyên quan trọng. Nhiều loại hình du lịch gắn bó với đối tượng nước. Các đối tượng nước chính sau đây đã được khai thác như một tài nguyên du lịch
Bề mặt nước là mặt thoáng tạo nên phong cảnh đẹp, yên bình. Bên cạnh hồ rộng, các dòng sông lớn cảnh núi non, rừng cây, mây trời, mặt trời, ánh trăng, và các công trình kiến trúc soi bong nước là những phong cảnh hữu tình. Các bãi biển hoặc các bãi ven hồ thường được sử dụng để tắm mát, dạo chơi trên mặt nước và các hoạt động thể thao nước như bơi lội, đua thuyền, lướt ván. Ở nước ta dòng sông Hương thơ mộng, các sông ngòi, kênh rạch chằng chịt ở đồng bằng sông Cửu Long, các hồ nước thiên nhiên và nhân tạo rộng lớn và nhiều phong cảnh đẹp như hồ Ba Bể, hồ Tây, hồ Hòa Bình, các bãi biển đẹp như Trà Cổ, Sầm Sơn, Cửa Lò, Non nước, Nha Trang, Vũng Tàu…đều là những điểm du lịch có sức hấp dẫn rất cao đối với khách du lịch
Các điểm nước khoáng, suối nước nóng là tài nguyên thiên nhiên rất quý giá để triển khai các loại hình du lịch tham quan, nghĩ dưỡng, chữa bệnh. Tài nguyên này ở nước ta cũng rất phong phú và nhiều nơi có nguồn nước đạt chất lượng cao được sử dụng trực tiếp làm nước uống, nước giải khát và đáp ứng được nhiều nhu cầu an dưỡng, chữa bệnh cho khách du lịch, đặc biệt với một số bệnh về hệ vận động, thần kinh, tiêu hóa, da liễu và nội tiết
Ở nước ta đã điều tra khảo sát được trên 400 nguồn nước khoáng tự nhiên lộ ra trên mặt và dưới dạng nước ngầm
Nguồn nước khoáng Việt Nam được đặc trưng bởi thành phần hóa học rất đa dạng, có độ khoáng hóa cao (tời trên 30g/l) và hàm lượng các vi nguyên tố khá cao như Broom đến 64.04mg/l, Iot đến 19.04mg/l, Flo đến 16.3 mg/l, Asen đến 0.8mg/l, Bo đến 256.0mg/l, Sắt đến 373.0mg/l, Oxit Silic đến 488.0mg/l, Sunfua Hydro đến 150mg/l. Chính nhờ những yếu tố vi lượng này mà giá trị chữa bệnh và các giá trị kinh tế khác của nước khoáng ở nước ta tăng lên rõ rệt.
Riêng với mục đích chữa bệnh, nguồn nước khoáng ở nước ta đã được phân chia thành các nhóm như nhóm nước khoáng Cacbonic, nhóm nước khoáng Silic, nhóm nước khoáng Brom-Iot-Bo, nhóm nước khoáng Sunfua Hydro, nhóm nước khoáng phóng xạ, nhóm nước khoáng có thành phần Ion và tổng hàm lượng muối, và nhóm nước khoáng nóng
Đặc biệt nguồn nước khoáng nóng ở nước ta khá dồi dào, với trên 80% tổng số nguồn có nhiệt độ cao trên 35%, ngoài tác dụng chữa bệnh còn có điều kiện thuận lợi để hoạt động quanh năm, nhất là trong thời kỳ mùa đông tương đối lạnh ở miền Bắc nước ta
Các nguồn khoáng ở Vĩnh Hảo (Ninh Thuận), Mỹ Lâm (Tuyên Quang), Kim Bôi (Hòa Bình) là các điểm du lịch nước khoáng nổi tiếng ở nước ta được khai thác phục vụ đông đảo khách du lịch từ nhiều năm nay.
Nguồn tài nguyên sinh vật ở nước ta rất đa dạng và phong phú. Tài nguyên quý giá này cũng đã được khai thác để phục vụ cho mục đích du lịch.
Tài nguyên sinh vật có giá trị tạo nên phong cảnh làm cho thiên nhiên đẹp và sống động hơn. Đối với một số loại hình du lịch như du lịch sinh thái, tham quan, nghiên cứu khoa học, tài nguyên sinh vật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trước hết là tính đa dạng sinh học, là sự bảo tồn được nhiều nguồn gen quý giá rất đặc trưng cho vùng nhiệt đới, trong đó có nhiều loài đặc hữu của Việt Nam, là việc tạo nên những phong cảnh mang dáng dấp của vùng á nhiệt đới và ôn đới lạ mắt đối với những người sống ở vùng nhiệt đới.
Tài nguyên sinh vật ở nước ta phục vụ mục đích du lịch được tập trung khai thác ở:
-Các vườn quốc gia, các khu bảo tồn thiên nhiên và các khu rừng di tích, lịch sử, văn hóa, môi trường.
Để bảo vệ sự đa dạng và phong phú của các hệ sinh thái Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã chú trọng xây dựng hệ thống các khu rừng đặc dụng .
Tính đến năm 1997 trên phạm vi cả nước đã có 105 khu rừng đặc dụng, trong đó có 10 vườn quốc gia, 61 khu bảo tồn thiên nhiên và 34 khu rừng văn hóa-lịch sử-môi trường với tổng diện tích là 2.092.466 ha bằng 10.5% diện tích đất lâm nghiệp và gần 6% diện tích lãnh thổ Việt Nam.
Hệ thống vườn quốc gia bao gồm vường quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình) có diện tích 22.200 ha được thành lập từ năm 1962, các vườn quốc gia Ba Bể (Bắc Kạn) có diện tích 23.340 ha, Ba Vì (Hà Tây) có diện tích 7.377ha và Tam Đảo ( Vĩnh Phúc) có diện tích 36.883 ha được thành lập từ năm 1977, vườn quốc gia Nam Cát Tiên (Đồng Nai) có diện tích 35.302 ha được thành lập năm 1978, vườn quốc gia Côn Đảo (Bà Rịa-Vũng Tàu) có diện tích 15.043 ha được thành lập năm 1984, các vườn quốc gia Cát Bà (Hải Phòng) có diện tích 15.200 ha, Bến Én (Thanh Hóa) có diện tích 16.634 ha được thành lập từ năm 1986 và vườn quốc gia Yok Đon (Đắc Lắc) có diện tích lớn nhất tới 58.200 ha được thành lập từ năm 1991.
Hệ thống các vườn quốc gia là nơi tập trung tính đa dạng sinh học cao trong đó có nhiều loài động thực vật đặc hữu, quý hiếm. Theo kết quả điều tra nghiên cứu thì hiện ở nước ta đã phát hiện khoảng 11.000 loài thực vật và gần 2000 loài động vật, đặc biệt chỉ riêng trong 1997 trong tổng số 7 loài động vật đặc hữu phát hiện được trên thế giới thì ở Việt Nam có 4 loài. Tính đa dạng sinh học cao, đặc biệt là sự hiện diện của các loài động thực vật đặc hữu quý hiếm là yếu tố quan trọng để hệ thống các vườn quốc gia Việt Nam trở thành những tài nguyên du lịch có giá trị. Trong số các vườn quốc gia hiện nay, vườn quốc gia Ba Bể với hồ tự nhiên và hệ thống núi đá vôi được đánh giá là vào loại cổ nhất trên thế giới đang được đề nghị UNESCO xét đưa vào danh mục di sản thiên nhiên thế giới.
Ngoài ra còn một số khu rừng di tích lịch sử, văn hóa, môi trường khá tiêu biểu có giá trị du lịch như Hương Sơn (Hà Tây), Côn Sơn-Kiếp Bạc (Hải Dương), Đền Hùng (Phú Thọ), Hoa Lư (Ninh Bình), Sầm Sơn ( Thanh Hóa), Rừng thông Đà Lạt (Lâm Đồng), núi Bà Đen (Tây Ninh). Các vườn quốc gia và các khu rừng di tích lịch sử, văn hóa, môi trường này có giá trị khoa học và thẩm mỹ cao lại gắn liền với các điểm du lịch và tuyên du lịch nổi tiếng nên rất cần được chú trọng bảo vệ và khai thác phục vụ mục đích du lịch.
Trên đây là các dạng tài nguyên du lịch tự nhiên chủ yếu dựa trên các thành phần của tự nhiên để làm cơ sở cho việc xác định các loại hình du lịch và có định hướng khai thác chúng theo những chủ đề và chương trình nhất định. Nhưng trong thực tế, các dạng tài nguyên luôn gắn bó với nhau, có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung và hỗ trợ cho nhau và cùng được khai thác một lúc tạo nên các sản phẩm du lịch hoàn chỉnh, có tính tổng hợp cao. Vì thế các tài nguyên du lịch tự nhiên cần được xem xét dưới góc độ tổng hợp của các dạng tài nguyên với nhau tại mỗi một đơn vị lãnh thổ có không gian và thời gian xác định. Các đơn vị lãnh thổ này xet về mặt địa lý tự nhiên là các thể tổng hợp tự nhiên có cấu trúc thẳng đứng là các thành phần tự nhiên, có cấu trúc ngang bao gồm các bộ phận hợp thành, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về nguồn gốc hình thành, về quá trình phát sinh, phát triển. Các thể tổng hợp tự nhiên được phân chia ra các cấp phân vị khác nhau với các quy mô, kích thước và được khai thác cho nhiều mục đích khác nhau. Chỉ có một số cảnh quan tự nhiên hoặc các thành phần, bộ phận của chúng chứa đựng các tài nguyên du lịch mới tạo nên các cảnh quan du lịch tự nhiên. Tùy theo đặc điểm và quy mô mà có thể phân chia chúng thành các điểm du lịch tự nhiên hoặc các khu du lịch tự nhiên.
Điểm du lịch tự nhiên là nơi có dạng tài nguyên du lịch hấp dẫn, có khả năng thu hút khách du lịch nhưng có giới hạn trong một phạm vi không lớn lắm.
Khu du lịch tự nhiên có ưu thế nổi bật về cảnh quan thiên nhiên, có nhiều dạng tài nguyên du lịch hấp dẫn, bao gồm một phạm vị không gian rộng hơn trong đó có nhiều điểm du lịch tự nhiên. Có thể quan niệm Vịnh Hạ Long (hoặc Hạ Long-Cát Bà) là một khu du lịch tự nhiên, với ưu thế nổi bật của cảnh quan núi đá vôi ngập nước, có nhiều dạng tài nguyên du lịch tự nhiên đặc sắc (phong cảnh, hang động, khí hậu, sinh vật), có phạm vi không gian rộng lớn, hơn 1500km2 , và có nhiều điểm du lịch tự nhiên hang Đầu Gốc, động Thiên Cung, bãi Ti Tốp, hòn Gà Chọi…
Hiện nay, phạm vi, kích thước của các điểm du lịch và các khu du lịch cũng chưa được xác định thống nhất. Ngay việc Tổ chức Văn hóa Khoa học Giáo dục của Liên Hiệp Quốc (UNESCO) công nhận các di sản thiên nhiên thế giới cũng đã thừa nhận các di sản này có kích thước rất khác nhau. Nếu như di sản Mai Reserve ở Xây sen chỉ rộng có 18ha thì di sản Dải san hô ngầm vĩ đại ở Ôxtralia có tổng diện tích tới 35 triệu ha.
Theo UNESCO, một địa điểm trên trái đất được xem xét và công nhận là di sản thiên nhiên thế giới phải đáp ứng được ít nhất một trong các tiêu chuẩn và các điều kiện về tính toàn vẹn sau:
Chính vì vậy, các di sản thiên nhiên cũng như các di sản thế giới nói chung (bao gồm các di sản thiên nhiên và di sản văn hóa thể giới hoặc di sản hỗn hợp tự nhiên và văn hóa) có sức hấp dẫn đặc biệt đối với khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế)
Di sản thiên nhiên thế giới đầu tiên của Việt Nam là vịnh Hạ Long đã được UNESCO chính thức công nhận từ tháng 12 năm 1994. Vịnh Hạ Long là một thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam đã được Nhà nước công nhận là di tích thắng cảnh quốc gia từ năm 1962. Vịnh Hạ Long có diện tích rộng 1553 km2 , với 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên, có những giá trị đặc biệt về phong cảnh thiên nhiên, về địa chất, sinh học, về kinh tế và lịch sử văn hóa. Khu vực bảo vệ tuyệt đối của di sản theo quyết định của UNESCO có diện tích rộng 434km2 (43.400 ha) với 788 đảo, trong đó có 460 đảo có tên là 328 đảo chưa có tên.
Hiện nay Việt Nam đã hoàn tất hồ sơ và đệ trình lên Hội đồng Di sản Thế giới thuộc UNESCO để được xem xét công nhận tiếp 6 di sản thế giới nữa là các di tích thắng cảnh Hương Sơn, hồ ba Bề, thánh địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội An, động Phong Nha và bãi đá cổ Sa Pa, trong đó đã có 2 di sản thiên nhiên là hồ Ba Bề, động Phong Nha và 2 di sản hỗn hợp thiên nhiên và văn hóa là Hương Sơn và bãi đã cổ SaPa
Ngoài các tài nguyên du lịch tự nhiên có tính chất cố định kể trên cũng có thể xếp vào tài nguyên này những tài nguyên du lịch tự nhiên không có tính chất cố định. Đó là các hiện tượng thiên nhiên đặc biệt, rất đặc sắc, có thể diễn ra định kỳ hoặc không định kỳ, có sức hấp dẫn rất lớn đối với khách du lịch như sự xuất hiện của sao Chổi, hiện tượng nhật thực, hiện tượng phun trở lại của núi lửa, hiện tượng cực quang hoặc mưa sao.
2.1.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn
Khác với tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch nhân văn là nhóm tài nguyên có nguồn gốc nhân tạo, nghĩa là do con người sang tạo ra. Theo quan điểm chung được chấp nhận hiên nay, toàn bộ những sản phẩm có giá trị về vật chất cũng như tinh thần do con người sang tạo ra đều được coi là những sản phẩm văn hóa.
Như vậy tài nguyên du lịch nhân văn cũng được hiểu là những tài nguyên du lịch văn hóa. Tuy nhiên không phải sản phẩm văn hóa nào cũng đều là tài nguyên du lịch nhân văn, chỉ những sản phẩm văn hóa nào có giá trị phục vụ du lịch mới được coi là tài nguyên du lịch nhân văn. Hay nói cách khác, tài nguyên du lịch nhân văn cũng chính là những giá trị văn hóa tiêu biểu cho mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Thông qua những hoạt động du lịch dựa trên việc khai thác các tài nguyên du lịch nhân văn, khách du lịch có thể hiểu được những đặc trưng cơ bản về văn hóa của dân tộc, địa phương nơi mình đến
Từ khái niệm trên, có thể thấy các tài nguyên du lịch nhân văn có những đặc tính có bản sau:
Cho đến nay dù có rất nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa, song hầu như các ý kiến đều thống nhất ở một điểm thừa nhân văn hóa là những sản phẩm sang tạo của con nguời. Như vậy ở đâu có con người, ở đó có các sáng tạo văn hóa. Nhà văn hóa Đào Duy Anh cũng đã từng viết văn hóa là sinh hoạt, bao gồm các hình thức sinh hoạt kinh tế, sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trí thức. Như vậy theo quan điểm của Đào Duy Anh, sinh hoạt bao trùm toàn bộ hoạt động con người. Và bởi vì sinh hoạt là thuộc tính của bất cứ dân tộc nào, nên dân tộc nào cũng có văn hóa, chỉ khác nhau về trình độ. Suy rộng ra, tài nguyên du lịch nhân văn là thuộc tính của tất cả các dân tộc, các quốc gia.
Mặt khác, sinh hoạt của các dân tộc cũng rất khác nhau, cho nên văn hóa của mỗi dân tộc cũng mang những bản sắc riêng và có sức thu hút, hấp dẫn du khách tới thăm, tìm hiểu, nghiên cứu, hoặc đơn thuần chỉ để chiêm ngưỡng. Chừng nào bản sắc văn hóa riêng của các dân tộc còn được giữ gìn, bảo vệ, chừng đó chúng còn giá trị thu hút khách du lịch. Như vậy, có thể nói ở chừng mực nào đó tài nguyên du lịch nhân văn phụ thuộc vào mức độ bảo tồn của các giá trị văn hóa dân tộc truyền thống.
Cũng từ những phân tích trên có thể thấy rằng, khác với tài nguyên du lịch tự nhiên, thường ở vị trí phân bố khác nhau, nhiều khi phân tán ở cách xa nhau, tài nguyên du lịch nhân văn thường gắn bó với con người và tập trung ở các điểm quần cư, các thành phố lớn, do vậy thường dễ tiếp cận hơn. Tiu nhiên cũng vì vậy mà chũng cũng dễ chịu tác động của con người và nếu quản lý tốt thì các nguồn tài nguyên nhân văn rất dễ bị xâm hại
Sở dĩ nói như vậy vì những tài nguyên du lịch tự nhiên có khả năng cung cấp những nhận thức mới về giới tự nhiện. Đặc biệt hiện nay khi vấn đề bảo vệ môi trường đang được đặt ra một cách bức thiết, thì những nhận thức về tự nhiên là hết sức quan trọng và cần thiêt. Nó giúp con người nhận thức đúng đắn hơn về môi trường sinh thái tự nhiên và nhờ đó có trách nhiệm hơn đối với môi trường, với thiên nhiên góp phần bảo vệ môi trường sinh thái qua đó tạo nên sự phát triển bền vững cho các ngành kinh tế, xã hội trong đó có du lịch.
Mặc dù vậy trong thực tế, những tài nguyên du lịch nhân văn có tác dụng nhận thức trực tiếp và rõ rang hơn. Để đến với một sản phẩm du lịch văn hóa, nhân văn, du khách đã phải có ý niệm trước về sản phẩm này
Ngoài ra mục đích tiếp cận ban đầu tới hai đối tượng là tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn cũng khác nhau. Đối với tài nguyên du lịch nhân văn, mục đích ban đầu bao giờ cũng mang tính nhận thức. Bằng hành vi tiếp xúc trực tiếp với những tài nguyên du lịch nhân văn, khách du lịch mong muốn kiểm chứng lại những nhận thức của mình về các tài nguyên trên, qua đó làm giàu thêm kiến thức của mình
Là những sản phẩm văn hóa nên nguồn tài nguyên du lịch nhân văn cũng rất đa dạng, phong phú. Chúng có thể được phân thành nhữn dạng chính như sau:
Được coi là một trong những nguồn tài nguyên du lịch quan trọng theo Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử-văn hóa và danh lam thắng cảnh công bố ngày 4-4-1984, di tích lịch sử văn hóa được hiểu như là “những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và các tác phẩm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật, cũng như có giá trị văn hóa khác, liên quan đến các sự kiện lịch sử, quá trình phát triển văn hóa- xã hội
Theo khái niệm trên, chỉ những di tích nào có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật mới được coi là những di tích lịch sử văn hóa. Như vậy một trong những vấn đề quan trọng trong việc xác định các di tích lịch sử văn hóa, chính là việc đánh giá đúng giá trị của các di tích.
Theo các thang giá trị khác nhau, những di tích cũng được phân thành những cấp khác nhau: Những di tích cấp quốc gia và cấp địa phương. Những di tích có giá trị đặc biệt được coi là di sản thế giới. Như vậy trong di tích lịch sử văn hóa có thể được chia thành 2 nhóm: nhóm các di sản văn hóa thế giới và nhóm các di tích cấp quốc gia và địa phương
Nhìn chung, các di sản văn hóa là kết tinh cao nhất của những sáng tạo văn hóa của một dân tộc.Bất cứ quốc gia nào nếu có được những di tích được công nhận xếp hạng là di sản văn hóa thế giới thì không những là một vinh dự lớn cho dân tộc đó, mà còn là nguồn tài nguyên vô giá, có sức thu hút khách du lịch cao, đặc biệt là khách du lịch quốc tế.
Nhóm di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và địa phương được chia ra thành những loại sau: các di tích khảo cổ học, các di tích lịch sử, các di tích văn hóa nghệ thuật và các danh lam thắng cảnh.
Phạm vi của các di tích khảo cổ có thể được mở rộng hơn, bởi vì ngoài các di chỉ cư trú và mộ tang còn có cả những công trình kiến trúc cổ, những thành phố cổ, những tàu thuyền cổ bị đắm…
Trong lịch sử cổ đại nhiều thành phố cổ đã bị san phẳng, bị vùi lấp do thiên tai, do địch họa, sau này đã được các nhà khảo cổ học phát hiện nghiên cứu và tái tạo. Những thành phố Hi Lạp cổ đại trên bờ biển Đen hoặc Địa Trung Hải là những ví dụ điển hình.
Các di tích lịch sử thường bao gồm:
Thực ra rất khó phân biệt loại hình di tích lịch sử với các di tích văn hóa nghệ thuật, bởi vì bản thân mỗi di tích văn hóa đều đã mang trong mình những giá trị lịch sử và cũng như vậy mỗi di tích lịch sử đều mang trong mình chất văn hóa, hay nói cách khác chũng cũng là những sản phẩm văn hóa. Chính vì vậy nhiều khi người ta gọi chung là loại hình di tích lịch sử văn hóa nghệ thuật
Trong các dạng của tài nguyên nhân văn, lễ hội truyền thống là tài nguyên có giá trị phục vụ du lịch rất lớn. Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa đặc sắc phản ảnh đời sống tâm linh của mỗi dân tộc. Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tập thể của nhân dân sau những ngày lao động vất vả, hoặc là một dip để mọi người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại của dất nước, hoặc liên quan đến những sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân, hoặc chỉ đơn thuần là những hoạt động có tính chất vui chơi giải trí. Do vậy lễ hội có tính hấp dẫn cao đới với du khách. Bất kỳ lễ hội nào cũng có hai phần chính.
Phần nghi lễ có ý nghĩa quan trọng và thiêng liêng, nó chứa đựng những giá trị văn hóa truyền thống, giá trị thẩm mỹ và triết học sâu sắc của cộng đồng. Nó mang trọn ý nghĩa hấp dẫn của cả lễ hội đối với du khách. Phần nghi lễ là phần hạt nhân của cả lễ hội
Thông thường phần hội gắn với tính yêu, giao duyên nam nữ. Cũng có những lễ hội mà ở đó hai phần lễ và hội hòa quyện với nhau, trong đó trọng tâm là phần hội, nhưng bản thân phần hội đã mang trong mình ý nghĩa tâm linh của phần lễ. Hội chọi trâu Đồ Sơn là một ví dụ điển hình
Hội làng người Việt ở đồng bằng sông Hồng là loại lễ hội truyền thống rất tiêu biểu cho xã hội nông thôn Việt Nam. Có quan điểm cho rằng đồng bằng sông Hồng là quê hương của văn hóa lúa nước, của hội làng, điều đó không sai
Như vậy để tìm hiểu văn hóa Việt Nam, văn hóa làng xã cũng như văn hóa lúa nước, người ta có thể tìm hiểu qua lễ hội, hoặc trực tiếp tham gia vào lễ hội. Từ đó có thể thấy lễ hội là một dạng tài nguyên du lịch nhân văn rất quan trọng
Nghề thủ công truyền thống cũng là loại tài nguyên du lịch nhân văn quan trọng và có sức hấp dẫn lớn đối với du khách. Thông thường, những nghề thủ công truyền thống không chỉ thể hiện tài khéo léo của nhân dân lao động mà còn thể hiện những tư duy triết học, những tâm tư tình cảm của người dân. Điều đó được thể hiện qua những sản phẩm thủ công độc đáo, đặc sắc. Đấy cũng chính là những đặc tính riêng của nền văn hóa và là sức hấp dẫn của các nghề và làng nghề thủ công truyền thống
Nước ta là nước có nhiều nghề thủ công truyền thống khá đặc sắc, đặc biệt là các nghề đúc đồng, nghề kim hoàn, nghề gốm, nghề mộc, mây tre đan, nghề dệt…mỗi nghề đều có lịch sử phát triển lâu dài và khá độc đáo.
Nghề chạm khắc đá: Nghề chạm khắc đá là một trong những nghề có lịch sử lâu đới nhất trên thế giới. Có thể nói, nghề đầu tiên của con người chính là nghề chế tác đá. Bắt đầu từ thời đại đồ đá cũ, hành vi lao động đầu tiên của con người để đánh dấu bước thoát thai khỏi thế giưois động vật hoang dã chính là hành vi chế tác công cụ đá. Bước sang thời đại đá mới con người đã biết chế tác ra những công cụ bằng đã mài tinh xảo, những đồ trang sức bằng đá, nhất là vào hậu kỳ thời đại đồ đá mới, sơ kỳ đồ đồng, con người đã chế tác những vòng đeo tay, hạt chuỗi, khuyên tai, tượng bằng đá. Những làng nghề chuyên môn hóa đầu tiên trong việc chế tác đá đã ra đời ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ như di chỉ xưởng chế tác đá Bái Tự (Bắc Ninh), Trang Kênh (Hải Phòng), Bái Tê (Thanh Hóa)…
Có lẽ do đặc tính lịch sử của mình, nên nghề đá phát triển khá phổ biến. Ở Việt Nam những tư liệu cho thấy có 3 trung tâm chạm khắc đá chính thuộc các tỉnh Hải Dương (Kính Chủ), Thanh Hóa (làng Nhồi An Hoạch) và Đà Nẵng (Ngũ Hành Sơn). Ngoài ra còn rải rác ở nhiều nơi khác như Ninh Bình, Thừa Thiên Huế, Biên Hòa…
Sau này trong dân gian đã lưu truyền rằng, ông tổ nghề đúc đồng của nước ta là hai thiền sư Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ.
Có thể nói nghề đúc đồng phát triển ở nhiều nơi trong cả nước, nhưng nổi tiếng nhất là ở Ngũ Xá (Hà Nội), làng Trà Đúc (Thanh Hóa) và làng Điện Phương (Quảng Nam)
Ngày nay ở nước ta có rất nhiều địa phương làm nghề gốm. Có nơi còn giữ được những kỹ thuật làm gốm thô sơ nặn bằng tay rất độc đáo và đặc biệt hấp dẫn du khách. Có những địa phương đã làm nối tiếng cả trong và ngoài nước như Hương Canh (Vĩnh Phúc), Thổ Hà (Bắc Ninh), Lò Chum (Thanh Hóa), Bát Tràng (Hà Nội), Phước Tích (Huế), Biên Hòa (Đồng Nai)
Người Việt từ thời văn hóa Đông Sơn đã biết dựng nhà sàn bằng gỗ với kiểu dáng rất đẹp. Có thể nhận thấy điều đó qua hoa văn trang trí trên trống đồng Ngọc Lũ. Sau này trải qua hàng ngàn năm lịch sử, nghề mộc đã phổ biến trên phạm vi cả nước. Đặc biệt Việt Nam là một nước phát triển đạo Phật, nên kiến trúc chùa chiền phát triển.
Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học là những điều kiện sinh sống, những đặc điểm văn hóa, phong tục, tập quán, hoạt động sản xuất với những sắc thái riêng của của các dân tộc trên địa bàn cư trú của mình
Thông thường mỗi dân tộc trên thế giới đều có những tập tục riêng về cư trú, về tổ chức xã hội, về sinh hoạt, trang, y phục và văn hóa ẩm thực, ca múa nhạc dân tộc… Tất ca những điều đó đã làm nên nét văn hóa độc đáo, có sức thu hút khách du lịch rất lớn.
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó có tới 53 dân tộc thiểu số chủ yếu sinh sống và cư trú ở các vùng miền núi xa xôi. Nhiều dân tộc vẫn giữ nguyên được những nét sinh hoạt văn hóa truyền thống của minh, đặc biệt là các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Mường ở miền Bắc; các dân tộc Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na ở miền Trung và Tây Nguyên; và các dân tộc Khơ Me ở đồng bằng Sông Cửu Long, đều có những truyền thống văn hóa có giá trị cao có thể khai thác phục vụ phát triển du lịch;
Những đối tượng văn hóa như các trung tâm khoa học, các trường đại học, các thư viện lớn, các bảo tang đều có sức thu hút khách tham quan du lịch và nghiên cứu. Trong các tour du lịch thành phố (city tour) của du lịch Hà Nội bao giờ cùng có chương trình tham quan Bảo tang lịch sử, Bảo tàng Mỹ thuật, Bảo tang Hồ Chí Minh và quần thể khu tưởng niệm Người, nhà hát thành phố.
Ngoài ra những hoạt động mang tính sự kiện như các giải thể thao lơn, các cuộc triễn lãm các thành tựu kinh tế quốc dân, các hội chợ, cá liên hoan phim ảnh quốc tế, ca nhạc quốc tế hay dân tộc, các lễ hội điển hình… cũng là những đối tượng hấp dẫn du khách.
Thông thường những đối tượng văn hóa này thường tập trung ở những thành phố lớn. Vì vậy những thành phố này mặc nhiên trở thành những trung tâm văn hóa của các quốc gia, vùng và khu vực là những hạt nhân của các trung tâm du lịch.
2.1.3. Vai trò của tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển du lịch. Thật khó hình dung nếu không có tài nguyên du lịch hoặc tài nguyên du lịch quá nghèo nàn mà hoạt động du lịch lại có thể phát triển mạnh mẽ được
Vai trò của tài nguyên du lịch đối với hoạt động du lịch được thể hiện cụ thể trên các mặt sau đây:
-Tài nguyên du lịch là yếu tố cơ bản để hình thành các sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch được tạo bởi nhiều yếu tố, song trước hết phải kể đến tài nguyên du lịch. Để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của khách du lịch, các sản phẩm du lịch không thể đơn điệu, nghèo nàn, kém hấp dẫn dễ gây nhàm chán, mà cần phải phong phú, đặc sắc, và mới mẻ.
Chính sự phong phú và đa dạng của tài nguyên du lịch đã tạo nên sự phong phú và đa dạng của sản phẩm du lịch. Tài nguyên du lịch càng đặc sắc, độc đáo thì giá trị của sản phẩm du lịch và độ hấp dẫn khách du lịch càng tăng. Có thể nói chất lượng của tài nguyên du lịch sẽ là yếu tố cơ bản tạo nên chất lượng sản phẩm du lịch hiệu quả của hoạt động du lịch.
-Tài nguyên du lịch là cơ sở quan trọng để phát triển các loại hình du lịch
Trong quá trình phát triển du lịch, để không ngừng đáp ứng các yêu cầu và thỏa mãn các mục đích của khách du lịch, các loại hình du lịch mới cũng không ngừng xuất hiện và phát triển.
Các loại hình du lịch ra đời đều phải dựa trên cơ sở của tài nguyên du lịch. Và chính sự xuất hiện của các loại hình du lịch đã làm cho nhiều yếu tố của điều kiện tự nhiên và xã hội trở thành tài nguyên du lịch. Không có những hàng động ngầm bí ẩn, những đỉnh núi cao hiểm trơ, những cánh rừng nguyên sinh âm u, hoang vắng thì không thể xuất hiện loại hình du lịch thám hiểm. Không có những bãi san hô và thế giới sinh vật thủy sinh muôn màu muôn vẻ ngập chìm dưới làn nước trong xanh thì không thể có loại hình du lịch ngầm dưới biển.
-Tài nguyên du lịch là một bộ phận cấu thành quan trọng của tổ chức lãnh thổ du lịch
Trong phạm vi một lãnh thổ cụ thể, mọi hoạt động du lịch đều phản ánh một tổ chức không gian du lịch nhất định.
Hệ thống lãnh thổ du lịch thể hiện mối quan hệ về mặt không gian của các yếu tố có quan hệ mật thiết với nhau cấu tạo nên nó. Các yếu tố đó là khách du lịch,tài nguyên du lịch, cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch,đội ngũ cán bộ công nhân viên và tổ chức điều hành, quản lý du lịch
Hệ thống lãnh thổ du lịch có nhiều cấp phân vị khác nhau từ điểm du lịch tới trung tâm du lịch, tiểu vùng du lịch, á vùng và vùng du lịch. Dù ở cấp phân vị nào thì tài nguyên du lịch cũng đều đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức lãnh thổ du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch, tạo điều kiện để có thể khai thác một cách hiệu quả nhất các tiềm năng của nó.
Do đặc điểm phân bố của tài nguyên du lịch, trong tổ chức lãnh thổ du lịch đã hình thành nên các điểm du lịch, các cụm du lịch, các trung tâm du lịch và các tuyến du lịch. Từ các tuyến điểm du lịch này trong quá trình khai thác sẽ được lựa chọn, sắp xếp thành các tour du lịch tức là các sản phẩm du lịch cụ thể cung cấp cho khách du lịch. Tổ chức lãnh thổ du lịch hợp lý sẽ góp phần tạo nên hiệu quả cao trong việc khai thác các tài nguyên du lịch nói riêng cũng như trong mọi hoạt động du lịch nói chung.
2.1.4. Đặc điểm của tài nguyên du lịch
Để có thể khai thác và sử dụng tốt nhất các tài nguyên du lịch, trước hết cần phải tìm hiểu và nghiên cứu các đặc điểm của nguồn tài nguyên này. Tài nguyên du lịch có các đặc điểm chính sau:
a.Tài nguyên du lịch phong phú, đa dạng, trong đó nhiều tài nguyên đặc sắc và độc đáo có sức hấp dẫn rất lớn đối với du khách.
Khác với nhiều loại tài nguyên khác, tài nguyên du lịch rất phong phú và đa dạng. Đặc điểm này là cơ sở để tạo nên sự phong phú của các sản phẩm du lịch nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của khách du lịch. Ví dụ đối với loại hình tham quan, nghiên cứu phục vụ cho mục đích nâng cao nhận thức của khách du lịch thì tài nguyên có thể là các lễ hội, những sinh hoạt truyền thống của một vùng quê, các di tích lịch sử văn hoá, các bản làng dân tộc ít người ở miền núi, các viện bảo tàng, các thành phố, các thác nước, hang động, hay các cách rừng nguyên sinh có tính đa dạng sinh học cao. Đối với loại hình du lịch nghỉ mát, chữa bệnh nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ thì tài nguyên du lịch cần khai thác lại là các bãi biển, các vùng núi cao khí hậu trong lành, có phong cảnh đẹp, các suối khoáng…đặc biệt, nhiều tài nguyên du lịch đặc sắc và độc đáo có sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch. Ví dụ: Kim tự tháp ở Ai Cập, Vạn lý trường thành ở Trung Quốc, Thủ đô Pari của Pháp, vùng núi Anpơ ở Châu Âu, các vườn quốc gia ở Châu Phi, vùng biển Caribê ở Trung Mỹ… là những địa danh du lịch lý tưởng, hành năm thu hút hàng chục triệu khách du lịch.
Nếu chỉ đơn thuần tính toán dưới góc độ kinh tế thì hiệu quả thu được từ việc khái thác các tài nguyên du lịch là rất to lơn, có khi vượt trội hơn rất nhiều so với việc khai thác các tài nguyên khác (ngành công nghiệp không khói).
b. Tài nguyên du lịch là những tài nguyên không chỉ có giá trị hữu hình mà còn có những giá trị vô hình
Đây có thể xem là một trong những đặc điểm quan trọng của tài nguyên du lịch, khác với những loại tài nguyên khác. Trong thực tế, tài nguyên du lịch là phương tiện vật chất trực tiếp tham gia vào việc hình thành các sản phẩm du lịch. Đó chính là những giá trị hữu hình của tài nguyên du lịch. Ví dụ tắm biển là sản phẩm du lịch điển hình quan trọng được hình thành trên cơ sở tồn tại hữu hình của các bãi cát biển, nước biển với những đặc điểm tự nhiên cụ thể. Tuy nhiên, nếu chỉ hiểu ở khía cạnh vật chất này của tài nguyên du lịch thì chưa đủ bởi không phải bãi biển nào cũng được khai thác phát triển thành điểm du lịch. Nguyên nhân của thực trạng trên, ngoài yếu tố hạn chế của các điều kiện để khai thác thì quan trọng hơn cả là do sự hạn chế về “ giá trị vô hình” của tài nguyên. Giá trị vô hình này của tài nguyên du lịch được khách du lịch cảm nhận thông quan những cảm xúc lý trí, làm thoả mãn nhu cầu tinh thần (thẩm mỹ, văn hoá)-một nhu cầu đặc biệt của khách du lịch. Giá trị vô hình của tài nguyên du lịch nhiều khi cong được thể hiện thông qua những thông tin (nghe kể lại, qua báo chí, truyền hình, quảng cáo,…) mà khách du lịch cảm nhận được, ngưỡng mộ và mong muốn được đến tận nơi để thưởng thức. Ở Trung Quộc có câu “Bất đáo trường thành phi hảo hán” để nói về Vạn Lý trường thành, ở Việt Nam có Nam thiên đệ nhất động để ca ngợi vẻ đẹp động Hương tích hoặc các di sản, kỳ quan thế giới đều là những giá trị vô hình đã làm tăng thêm giá trị của tài nguyên du lịch lên rất nhiều.
c. Tài nguyên du lịch thường dễ khai thác
Hầu hết các tài nguyên du lịch được khai thác để phục vụ du lịch là các tài nguyên vốn đã sẵn có trong tự nhiên do tạo hoá sinh ra, con người đầu tư lao động sống cũng như phương tiện cần thiết khác hoặc do con người tạo dựng nên và thường dễ khai thác. Trên thực tế một cánh rừng nguyên sinh, một thác nước, một bãi biển, một hồ nước (tự nhiên hoặc nhân tạo) đề có thể trở thành một điểm du lịch. Đây là những tài nguyên vô giá cả về nghĩa đen và nghĩa bóng. Con người khó lòng có thể tạo nên các tài nguyên du lịch đó bởi vô cùng tốn kém và dù có mô phỏng lại được thì cũng không thể lột tả hết được sức sáng tạo phi thường của tạo hoá và vì thế sẽ giảm đi rất nhiều về giá trị và độ hấp dẫn.
Với tất cả những gì đã sẵn có của tài nguyên, chỉ cần đầu tư không lớn nhằm tôn tạo, để vừa tôn thêm vẻ đẹp và giá trị của tài nguyên du lịch, vừa tạo ra những điều kiện thuận lợi nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên du lịch này (động Phong Nha -Kẻ Bàng)
d. Tài nguyên du lịch có thời gian khai thác khác nhau
Trong số các tài nguyên du lịch, có những tài nguyên có khả năng khai thác quanh năm, lại có những tài nguyên mà việc khai thác ít nhiều lệ thuộc vào thời vụ. Sự lệ thuộc này chủ yếu dựa theo quy luật diễn biến của khí hậu.
Đối với các tài nguyên du lịch biển, thời gian khai thác thích hợp nhất là vào thời ký có khí hậu nóng bức trong năm. Điều này giải thích vì sao du lịch biển thường tổ chức vào mùa hè ở những khu vực phía Bắc. Từ Đà Nẵng trở vào, nơi ít chịu ảnh hưởng của không khí lạnh, hoạt động du lịch biển có thể tổ chức quanh năm. Các lễ hội, bên cạnh các tập quán là các nghi lễ tôn giáo, cũng đã được ấn định vào thời kỳ khác nhau trong năm và vì thế các hoạt động du lịch lệ thuộc vào thời gian diễn ra cá lễ hội đó. Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, mùa xuân là mùa của lễ hội với các lễ hội nổi tiếng như hội Lim, hội Gióng, hội Chùa Hương, hội Đền Hùng….
Thời kỳ mùa khô, ít mưa, có tiết trời ấm áp và có thời tiết tốt là thời kỳ thuận lợi cho nhiều loại hình du lịch.
Tài nguyên du lịch có thời gian khai thác khác nhau đã quyết định tình chất mùa vụ của hoạt động du lịch. Các địa phương, những người quản lý, điều hành và tổ chức các hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch cũng như du khách đểu quan tâm đến tính chất này đề có các biện pháo chủ động điều tiết thích hợp nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong công việc của mình
Dựa trên thời gian có thể khai thác để xác định tính mùa vụ du lịch, nhịp điệu dòng du lịch (chùa Hương)
g. Tài nguyên du lịch được khai thác tại chỗ để tạo ra các sản phẩm du lịch (tính không thể di chuyển)
Các sản phẩm du lịch được khách du lịch đến tận nơi để thưởng thức. Đây cũng là đặc điểm mà tài nguyên du lịch khác với một số tài nguyên khác-là những tài nguyên, sau khi khai thác có thể được vận chuyển tới nơi chế biến thành sản phẩm rồi lại được đưa đến tận nơi tiêu thụ.
Chính vì khách du lịch phải đễn tận các điểm du lịch, nơi có các tài nguyên du lịch và thưởng thức các sản phẩm du lịch nên muốn khai thác các tài nguyên này điều đầu tiên cần quan tâm là chuẩn bị tốt các cơ sở hạ tầng, các cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và vận chuyển khách du lịch. Thực tế cho thấy những điểm du lịch có vị trí địa lý thuận lợi, tiện đường giao thông và các cơ sở dịch vụ du lịch tốt thì hoạt động du lịch ở đó sẽ đạt được hiệu quả cao. Ngược lại có những điểm du lịch có nguồn tài nguyên du lịch rất đặc sắc như bãi biển Trà Cổ (Quảng Ninh), thị trấn SaPa, cao nguyên Bắc Hà (Lào Cai), động Phong Nha (Quảng Bình) những vì ở vị trí quá xa xôi cách trở thì sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng thu hút khách du lịch. Nều đầu tư tốt hơn về cơ sở hạ tầng và phương tiện vận chuyển khách, chắc chắn lượng khách du lịch ngày càng đông. (Do tính bất biến về mặt lãnh thổ của đa số các loại tài nguyên tạo nên lực hút cơ sở hạ tầng). Trong điều kiện khoa học kỹ thuật cao phát triển hiên nay, tuy tài nguyên du lịch mô phỏng đã trở thành hiện thực nhưng các sản phẩm mô phỏng này do thoát ly môi trường lịch sử và tự nhiên nên mất đi sức hấp dẫn và ý nghĩa của nó, chênh lệch xa về bản chất và nội dung vốn có của nó.
e. Tài nguyên du lịch có thể sử dụng được nhiều lần
Các tài nguyên du lịch được sắp xếp vào loại tài nguyên có khả năng tái tạo và sử dụng lâu dài. Vấn đề chính là phải nắm được quy luật của tự nhiên, lường trước được sự thử thách khắc nghiệt của thời gian và những biến động, đổi thay do con người gây nên. Từ đó có định hướng lâu dài và các biện pháp cụ thể để khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên du lịch, không ngừng bảo vệ, tôn tạo và hoàn thiện tài nguyên nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển du lịch (ngược lại nếu lợi dụng và bảo vệ không thoả đáng rất dễ gây nên sự phá hoại, dẫn tối tổn thất nghiêm trọng, đặc biệt là tài nguyên du lịch hữu hình lại càng như thế, một khi sử dụng quá mức bị huỷ hoại thì khó khôi phục được trong thời gian ngắn.
Đây cũng là điều sống còn của mỗi điểm du lịch, mỗi khu du lịch nhằm thực hiện phương hướng chiến lược phát triển du lịch bền vững. Chỉ có phát triển du lịch bền vững mới đảm bảo tài nguyên du lịch ít bị tổn hại, mỗi điểm du lịch, mỗi khu du lịch ngày càng trở nên hấp dẫn hơn, không những thoả mãn các nhu cầu phát triển du lịch hiện tại, mà cón sẵn sàng để đáp ứng yêu cầu phát triển của du lịch trong tương lai.
2.1.5. Điều tra và đánh giá tài nguyên du lịch
Căn cứ vào hệ thống phân loại tài nguyên nhất định mà tiến hành điều tra, kiểm kê tài nguyên du lịch, sau đó tiến hành đánh giá vị trí, đẳng cấp, sự đặc sắc của tài nguyên
Việc điều tra thường được tiến hành với từng loại tài nguyên, còn đánh giá phải tiến hành với từng loại tài nguyên và tổng hợp các tài nguyên trong lãnh thổ quy hoạch.
2.1.5.1. Điều tra tài nguyên
Điều tra tài nguyên bao gồm: điều tra bên trong, điều tra bên ngoài, tham khảo sách vở, điều tra bằng kỹ thuật dự báo.
Điều tra bên trong bao gồm: tư liệu văn bản liên quan đến khu vực điều tra như: sử liệu, sách vở, báo, các tài liệu không chính thức khác, tư liệu thống kê, báo cáo, kế hoạch, dự trù, tư liệu quy hoạch đã có, các tư liệu đã có.
Điều tra bên ngoài: Thường được áp dụng với các vùng mới khai phá và tư liệu tích luỹ chưa nhiều, thì phải tiến hành điều tra thực tế. Điều tra thực địa không chỉ mang lại cho chúng ta những văn bản, những số liệu hoàn toàn mới mẻ, mà còn thông qua hình ảnh ghi lại, việc quan sát cảnh quan, hiện trường, giúp chúng ta hiểu thêm về hình ảnh, cũng như phong cảnh của địa phương và của đất nước nói chung.
Điều tra bên ngoài có thể tính toán được theo yêu cầu chuyên môn về việc đo đạc các số liệu theo từng hạng mục chuyên dụng, có trường hợp điều tra không thể có được số liệu hữu quan, song qua điều tra thực tế, có thể mô tả được tình hình hiện trường, và đảm bảo căn cứ cho việc đánh giá.
Việc điều tra còn phải được tiến hành thông qua phỏng vấn, điều tra xã hội học phải thiết kế tốt đề cương điều tra các cơ quan, các ban ngành, các cấp quản lý cần điều tra
Việc điều tra tài nguyên còn có thể được tiêếnhành thông qua việc phỏng vấn dân cư và du khách, từ đó thấy được nhận thức của người dân và du khách về tài nguyên, giúp cho việc tổ chức lãnh thổ có những giải pháp phù hợp, nâng cao sự thoả mãn của du khách và lợi ích cho cộng đồng địa phương
2.1.5.2. Đánh giá tài nguyên
Đánh giá các loại tài nguyên du lịch là một việc làm khó và phức tạp vì có liên quan tới yêu cầu, sở thích, đặc điểm tâm lý, sinh lý của con người rất khác nhau, đặc điểm của tài nguyên và các điều kiện kỹ thuật. Vì vậy các nội dung và phương pháp đánh giá phải không ngừng hoàn thiện
Các nhà nghiên cứu chỉ ra 3 kiểu đánh gía tài nguyên du lịch:
Về phương pháp đánh giá tài nguyên được tiến hành với từng loại và tổng thể các loại tài nguyên bao gồm cả số lượng, chất lượng, thực trạng khai thác và bảo vệ, phát triển, khả năng phát triển các loại hình du lịch.
Việc đánh giá tổng thể các loại tài nguyên thường đánh giá về độ hấp dẫn, sức chứa du khách, thời gian khai thác, độ bền vững, vị trí khả năng tiếp cận, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, sự phù hợp giữa tài nguyên du lịch và các phân hệ khác của hệ thống lãnh thổ du lịch, hiệu quả khai thác, khả năng phát triển các loại hình du lịch và tổ chức không gian lãnh thổ du lịch. Trong việc đánh giá tài nguyên du lịch của mỗi vùng, mỗi địa phương cần xem xét, tính toán việc kết hợp khai thác tổng hợp các loại tài nguyên trong từng hệ thống lãnh thổ và với các hệ thống lãnh thổ khác trong mối quan hệ biện chứng
a. Vị trí địa lý, diện tích
Đặng Duy Lợi (1995) đã đánh giá mức độ thuận lợi về vị trí địa lý của điểm du lịch, trung tâm hoặc khu du lịch căn cứ vào khoảng caác giữa điểm du lịch đối với nơi cung cấp nguồn khách chính (các trung tâm kinh tế, văn hoá, giao thông hoặc các trung tâm du lịch) và các điểu kiện về giao thông, thời gian đi đường) theo làm 4 mức độ:
b.Tài nguyên du lịch tự nhiên
Đối với địa hình đá vôi cần điều tra, đánh giá các dạng địa hình trong đó đặc biệt là các hang động gồm những đặc điểm như: số lượng các hang động, chiều dài, chiều rộng, độ cao, độ sâu của hang, kích thước của hang, thời gian địa chất, các quá trình địa chất, địa mạo, thành phần không khí trong hang, các di tích lịch sử văn hoá trong các hang động
Các di tích tự nhiên như: hòn Phụ Tử, núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, hòn Chồng, hòn Ông Sư…
Sau khi điều tra đánh giá địa hình và địa chất của mỗi vùng hay mỗi địa phương cần có sự so sánh với đặc điểm và giá trị của loại tài nguyên này với các vùng, các địa phương khác, đồng thời đánh giá khả năng khai thác, bảo vệ chúng cho phát triển những loại hình du lịch nào.
c. Khí hậu
Điều tra và đánh giá tài nguyên khí hậu gồm các bước và các nội dung sau:
Ví dụ: Bảng: Một số yếu tố khí hậu
Yếu tố
T1
T
2
T
3
T
4
T
5
T
6
T
7
T
8
T
9
T1
0
T1
1
T1
2
Cả
nă m
Nhiệt độ
TB 0(C)
….
Độ ẩm tuyệt đối
TB
(mb)
…. .
Độ ẩm tương đối
…. .
Sau khi kiểm kê các chỉ số về các yếu tố của khí hậu, đối chiếu với bảng chỉ tiêu khí hậu sinh học đối với con người, cũng như các chỉ tiêu đánh giá khí hậu để đánh giá mức độ thuận lợi hay khó khăn với các hoạt động du lịch, thời gian hoạt động du lịch, khả năng phát triển các loại hình du lịch
Ví dụ chỉ tiêu khí hậu ở Việt Nam dễ chịu với con người: nhiệt độ trung bình tháng từ 15 -230 C, độ ẩm tuyệt đối từ 14-21mb, tương ứng với khu vực Sapa, Đà Lạt, Tam Đảo, Mẫu Sơn, Bà Nà, Bạch Mã…
Khí hậu nước ta nhìn chung khá thích nghi với hoạt động du lịch
Khí hậu điều hoà thuận lợi cho phát triển du lịch, tuy nhiên mỗi loại hình du lịch đòi hỏi những điều kiện khí hậu khác nhau.
Ví dụ, loại hình du lịch biển cần có các điều kiện khí hậu:
Nhiệt độ trung bình ban ngày không quá cao hoặc quá thấp
Nhiệt độ nước biển thích hợp tư 20-250C là thích hợp với du khách tắm biển, một số du khách du lịch Bắc Âu có thể chịu nhiệt độ nước biển từ 17-200C
Cần có đánh giá chi tiết những tháng có khí hậu rất thuận lợi, khá thuận lợi, không thuận lợi cho hoạt động du lịch, từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp để khắc phục tính theo mùa trong hoạt động du lịch
Các điều kiện khí hậu thích hợp nhất với con người là có nhiệt độ 18-260C, độ ẩm tương đối trên 80%,tốc độ gió 0.3-0.6m/s ( Đào Ngọc Phong 1987)
Điều kiện khí hậu dễ chịu nhất với con người ở Việt Nam (theo phương pháp thực nghiệm được Tổ chức Du lịch Thế giới WTO áp dụng toàn cầu) là có nhiệt độ trung bình tháng từ 15-200C, độ ẩm tuyệt đối từ 14-21mb
Tốc độ chảy quá lớn hoặc hiện tượng nước ô nhiễm, hiện tượng sa bồi, nước quá cạn đề ảnh hưởng đến hoạt động du lịch
Những nơi diện tích mặt nước rộng lớn có độ trong sạch và trong suốt cao, nguồn nước không bị ô nhiếm cộng với phong cảnh đẹp thuận lợi cho hoạt động tham quan nghỉ ngơi, thể thao, tắm biển hoặc hồ.
Đánh giá công dụng của một số loại nước khoáng: nước khoáng Cacbonic là nhòm nước khoáng quý công dụng giải khát, chữa một số bệnh như cao huyết áp, sơ vữa động mạch nhẹ, các bệnh về hệ thần kinh ngoại biên (ở Việt Nam có nước khoáng Vĩnh Hảo, hàm lượng cacbonic trên 500g/lit)
Nhóm nước khoáng silic, hàm lượng Silic trên 50mg/lít, có tác dụng chữa bệnh đường tiêu hoá, thần kinh, thấp khớp, phụ khoa (Kim Bôi – Hoà Bình, Hội Vân – Phù Cát – Bình Định)
Nhóm nước khoáng Brôm-lốt có tác dụng chữa bệnh ngoài da, thần kinh, phụ khoa… (Quang Hanh -Quảng Ninh, Thạch Khôi -Hải Dương)
Nhóm nước khoáng phóng xa: có khả năng chữa bệnh thần kinh, ngoài da, tiêu hoá
Nước khoáng nóng, nhiệt độ trên 340C
e. Tài nguyên sinh vật
Điều tra, đánh giá đặc điểm chung của tài nguyên sinh vật trên lục địa, tài nguyên sinh vật biển như:
Các kiểu rừng: rừng nhiệt đới gió mùa, mưa lá rộng thường xanh, các tầng rừng, độ cao của rừng á nhiệt đới ở miền Bắc khoảng 700-1500m, rừng lùn (ôn đới đai cao); rừng khộp, rừng rậm nhiệt đới mua mưa lá rộng trên địa hình đá vôi; rừng ngập mặn; rừng trồng…
Các hệ sinh thái như: hệ sinh thái chân núi, sườn núi, đỉnh núi trên các loại núi có cấu tạo địa chất khác nhau, thuộc các kiểu rừng khác nhau, hệ sinh thái rừng ngập nước ngọt, hệ sinh thái rừng ngập nước mặn, hệ sinh thái san hô…
Thực trạng khai thác và bảo tồn:
Đánh giá chung về chỉ tiêu phát triển một số loại hình du lịch:
Ví dụ: khảo sát đánh giá tài nguyên sinh vật của VQG Phong Nha – Kẻ Bàng – Di sản thiên nhiên thế giới
Đánh giá tổng hợp các loại tài nguyên tự nhiên
Các loại tài nguyên du lịch nói chung, tài nguyên du lịch nói riêng không tồn tại độc lập mà thường tồn tại, phát triển trên cùng một không gian có quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Vì vậy, sau khi điều tra, đánh giá từng loại tài nguyên tự nhiên cần tiến hành đánh giá tổng hợp các loại tài nguyên tự nhiên cũng như tài nguyên du lịch nhân văn thường theo các cách: xây dựng thang-bậc điểm đánh giá; dựa vào một số tiêu chí thông dụng, đánh giá bằng cảm quan, điều tra qua cảm nhận đánh giá của du khách dựa trên đặc điểm và các giá trị thẩm mỹ, mức độ thuận lợi của tài nguyên với sức khoẻ, các hoạt động tham quan, nghỉ dưỡng, thể thao.. của con người
Trong phương pháp đánh giá tổng hợp tài nguyên bằng cách cho điểm cần phải xác định được mục tiêu đánh giá và xây dựng được thang điểm
Mục tiêu đánh giá cho phát triển các loại hình du lịch nà hoặc cho việc bảo vệ, tôn tạo tài nguyên sẽ quy định cụ thể thang đánh giá cũng như việc vận dụng các chỉ tiêu đánh giá
Thang đánh giá bao gồm: các yếu tố được căn cứ để đánh giá, các bậc của thang đánh giá, chỉ tiêu của từng bậc, số điểm của bậc, hệ số của các yếu tố, cách tính kết quả
Kết quả của việc đánh giá tổng hợp các điều kiện tự nhiên, tài nguyên tự nhiên phục vụ mục đích du lịch thường được xác định bằng cách cộng điểm. Tổng số điểm càng cao thì tài nguyên du lịch ở khu vực đó càng nhiều thuận lợ cho phát triển du lịch. Phương pháp đánh giá dựa trên việc xây dựng thang đánh giá có phần không thật khách quan do việc lựa chọn thang số bậc, hệ số điểm, tuy nhiên vẫn có ưu điểm thể hiện mối quan hệ giữa các yếu tố được đánh giá và kết quả đánh giá vẫn có độ tin cậy. Trong việc đánh giá từng loại tài nguyên hay tổng hợp các loại tài nguyên không có một phương pháp riêng nào có thể đạt mức độ xác thực cao, vì vậy cần kết hợp nhiều phương pháp để việc đánh giá mang tính khách quan và xác thực
Bên cạnh việc đánh giá mức độ thuận lợi và sức hấp dẫn, các dự án quy hoạch du lịch còn phải đánh giá được những hạn chế của các loại tài nguyên tự nhiên cũng như những hạn chế và tác động tiêu cực trong việc khai thác, bảo vệ, tôn tạo nguồn tài nguyên này. Đây là cơ sở cho việc xây dựng các định hướng, giải pháp nhằm phòng ngừa cũng như khai thác bảo vệ tài nguyên hợp lý và bền vững.
Có thể xác định độ hấp dẫn của các điều kiện tự nhiên thông qua việc nghiên cứu sở thích của du khách. Theo tài liệu thống kê của Tổ chức Du lịch thê giới (UNWTO) điều tra về sở thích của khách du lịch quốc tế cho thấy: 45% số khách du lịch thích nghỉ ở vùng biển hoặc hồ, 24% du khách thích nghỉ ở vùng núi, 7% số du khách thích kết hợp vừa tham quan vừa chữa bệnh bằng nước khoáng, còn lại 10% số khách có các sở thích khác.
Độ hấp dẫn của một vùng hoặc một khu vực có thể được đánh giá theo 4 bậc tương ứng với các mức độ thuận lợi theo các chỉ tiêu sau:
Nếu những áp lực này nhỏ thì thiên nhiên có khả năng phục hồi và ngược lại. Các chỉ tiêu này được đánh giá theo 4 thể thức:
Thời gian hoạt động du lịch quyết định tính chất thường xuyên hay mùa vụ của hoạt động du lịch từ đó liên quan đến phương hướng đầu tư tổ chức quản lý, kinh doanh phục vụ du lịch.
Thời gian hoạt động du lịch ở khu vực được đánh giá theo 4 bậc mức độ thuận lợi:
Tài nguyên du lịch nhân văn là nhóm tài nguyên có nguồn gốc nhân tạo do con người tạo ra
Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm tài nguyên du lịch nhân văn vật thể và tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể
Tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể bao gồm: nghệ thuật sản xuất hàng thủ công truyền thống, lễ hội, văn hoá ẩm thực, văn hoá nghệ thuật, tôn giáo, phong tục tập quán các giá trị văn hoá liên quan tới dân tộc học, các phát minh sáng kiến, văn học dân gian và thơ ca…
Khi kiểm kê đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn cần kiểm kê các giá trị của từng di tích từng loại tài nguyên sau đó mới đánh giá chung.
Các giá trị văn hoá nghệ thuật là tài nguyên du lịch hấp dẫn du khách, thuận lợi cho phát triển loại hình du lịch tham quan giải trí, nghiên cứu. Việc bảo tồn, khôi phục phát huy các giá trị văn hoá nghệ thuật góp phần làm phong phú hấp dẫn thêm cho các loại tài nguyên du lịch khác và nhiều loại hình du lịch khác như: du lịch sông nước, du lịch văn hoá các dân tộc, du lịch tham quan, du lịch lễ hội
Việc điều tra, đánh giá các giá trị văn hoá nghệ thuật phục vụ du lịch gồm các nội dung như: các loại nhạc cụ: số loại và chất lượng đóng ráp các loại nhạc cụ, các loại hình biểu diễn, thời gian, môi trường biểu diễn, các nghệ nhân biểu diễn, nghệ thuật trình diễn các loại nhạc cụ, các làn điệu dân ca, các loại hình nghệ thuật truyền thống, các loại hình văn hoá nghệ thuật bác học: lịch sử hình thành và phát triển, không gian phân bố, các bài há, các nghệ nhân, các giá trị về lời ca, âm vực, nghệ thuật biểu diễn, không gian biểu diễn, các loại nhạc cụ được dùng để cùng biểu diễn, các loại hình nghệ thuật dân gian và nhã nhạc, thực trạng và khả năng khai thác bảo tồn phát triển du lịch.
Số lượng các dân tộc, tỷ lệ giữa số dân, giữa các dân tộc đa số và các dân tộc thiểu số, tên, số lượng, tỷ lệ của từng dân tộc
Địa bàn cư trú, các tập tục về cư trú, phương thức tổ chức sản xuất, tổ chức xã hội, các giá trị văn hoá đặc sắc của từng tộc người
Việc kiểm kê đánh giá các dạng tài nguyên du lịch nhân văn phải được tiến hành kiểm kê đánh giá về mặt số lượng (số lượng cụ thể của từng loại, tổng số lượng mật độ), chất lượng của từng thành tó của di tích và cấp bậc xếp loại (quốc tế, quốc gia, vùng, địa phương), phương pháp đánh giá cho từng di tích, các dạng tài nguyên du lịch nhân văn phi vật thể sẽ là cơ sở cho việc đánh giá từng loại tài nguyên và là cơ sở cho việc thực hiện đánh giá tổng thể tài nguyên phát triển du lịch của vùng, của các địa phương
Việc đánh giá nguồn tài nguyên du lịch nhân văn nói chung được tiến hành theo các kiểu: đánh giá bằng cảm quan trên cơ sở kết quả điều tra về số lượng cũng như chất lượng tài nguyên và đánh giá thông qua điều tra về sức hấp dẫn vơi du khách
Riêng các loại tài nguyên du lịch nhân văn vật thể có thể được đánh giá theo phương pháp xây dựng thang, bậc điểm để đánh giá mức độ thuận lợi cho phát triển du lịch và thực trạng bảo vệ, phát huy giá trị của từng di tích cũng như các di tích. Thang điểm để đánh giá có 4 bậc
Loại rất tốt: 4 điểm
Loại tốt: 3 điểm
Loại khá: 2 điểm
Loại trung bình: 1 điểm
Và theo hệ số 1,2,3 thêo các mức độ rất thuận lợi, thuận lợi, thuận lợi trung bình và không thuận lợi.
a. Tác động lên tài nguyên địa hình, địa chất và đất đai
Tác động tích cực
Ví dụ việc nghiên cứu, lập hồ sơ xếp hạng các hang động, các vùng địa hình đá vôi như ở Vườn Quốc Gia Phong Nha-Kẻ Bàng, Vịnh Hạ Long, Chùa Hương… đã tôn vinh giá trị tài nguyên. Việc khai thác tài nguyên địa hình, các giá trị địa chất của các dạng đá vôi hoặc các địa hình núi cao nếu có biện pháp bảo vệ hợp lý sẽ khai thác được nhiều lần, tài nguyên không bị suy giảm như việc khai thác của các ngành kinh tế khác.
Ví dụ ở những khu vực đồi trọc, đất đai kém phì nhiêu khi đưa vào xây dựng sân golf để phát triển du lịch thì hiệu quả kinh tế cao hơn với việc trồng rừng hoặc sản xuất nông nghiệp
Tác động tiêu cực
b. Tác động lên tài nguyên môi trường nước
Tác động tích cực
Các dự án tổ chức và quy hoạch phát triển du lịch có chất lượng, hiệu quả được lập và thực hiện trên quan điểm phát triển bền vững có thể tiến hành nghiên cứu, thực thi các giải pháp phòng ngừa để góp phần nâng cao chất lượng nước. Ví dụ, việc đầu tư cho việc thu gom, xử lý, tái chế chất thải rắn, thu gom xử lý nước thải đã làm cho nguồn nước ở các địa phương quy hoạch phát triển du lịch giảm thiểu được ô nhiễm do các chất thải rắn và chất thải lỏng gây ra
Tác động tiêu cực
Như vậy thực hiện các dự án quy hoạch và tổ chức không gian du lịch có tác động cả tích cực và tiêu cực đến tài nguyên và môi trường nước, trong đó chủ yếu là các tác động tiêu cực. Vì thế khi lập và thực hiện dự án quy hoạch và phát triển du lịch cần phải đánh giá tác động của dự án đến tài nguyên nước gồm cả tài nguyên nước ngầm và nước mặt bằng các chỉ tiêu sử dụng nước sạch. Nước thải mà mỗi du khách và người dân sử dụng một ngày và sử dụng các chỉ tiêu về sinh vật, Coliforn, Ecoli, dầu, độ đục, các nguyên tố hoá học theo tiêu chuẩn loại A, B của tiêu chuẩn Việt Nam để phân tích chất lượng nước ở các khu quy hoạch để có những biện pháp phòng ngừa, dự báo chi phí xử lý, thu thuế môi trường, có các chính sách quản lý và đầu tư cho phù hợp.
c. Tác động đến tài nguyên và môi trường không khí
Bụi và các chất ô nhiễm không khí xuất hiện chủ yếu là do hoạt động của các phương tiện giao thông, do sản xuất, sử dụng năng lượng, và các thiết bị lạnh… Tăng cường sử dụng các phương tiện giao thông cơ giới, các loại máy xây dựng không chỉ gây bui, khí thải làm ô nhiễm không khí mà còn gây tiếng ồn,làm ô nhiễm không khí bởi tiếng ồn… Hoạt động của du khách tại các điểm dịch vụ du lịch như ở các sàn nhảy cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm tiếng ồn. Vì vậy, các dự án quy hoạch phát triển du lịch có thể tác động lên tài nguyên không khí
Tác động tích cực
Các dự án quy hoạch phát triển du lịch khi tiến hành trồng cây, trồng rừng bảo vệ rừng cũng đã góp phần làm trong sạch không khí, vì cây có khả năng lọc bụi và khí CFCS (loại khí thải chính làm ảnh hưởng đến tầng ôzôn của khí quyển).Việc bảo vệ diện tích mặt nước ở các khu du lịch cũng góp phần làm sạch không khí, điều hoà khí hậu
Tác động tiêu cực
Nhiều nguyên ngân gây ô nhiễm không khí nói chung và các dự án quy hoạch du lịch nói riêng chưa được nghiên cứu cụ thể, khó kiểm soát. Song để đạt được hiệu quả nhằm phát triển du lịch bền vững việc nghiên cứu, đánh giá tác động của các dự án quy hoạch du lịch lên tài nguyên không khí là cần thiết để có các giải pháp phòng ngừa, khắc phục
d. Tác động lên tài nguyên sinh vật
Tác động tích cực
Nhiều dự án quy hoạch phát triển du lịch, nhất là các dự án nhằm mục đích bảo tồn tài nguyên và môi trường như các dự án quy hoạch phát triển du lịch sinh thái ở nhiều khu bảo tồn, các vườn quốc gia hoặc một số khu vực vùng núi có nhiều tác động tích cực đến tài nguyên sinh vật như:
Tác động tiêu cực
Tác động tích cực
Tác động tiêu cực
b. Tác động đến nghề và làng nghề
Tác động tích cực
Tác động tiêu cực
c. Tác động đến văn hoá nghệ thuật
Tác động tích cực
Tác động tiêu cực
d. Tác động đến phong tục tập quán và lễ hội
Tác động tích cực
Tác động tiêu cực
e. Tác động đến cảnh quan, kiến trúc mỹ thuật bản địa
Tác động tích cực
Tác động tiêu cực
2.2. PHÂN HỆ CƠ SỞ VẬT CHẤT KỸ THUẬT DU LỊCH
2.2..1. Các cơ sở lưu trú, ăn uống
Các cơ sở lưu trú, ăn uống gồm khách sạn Motel, Camping, Bungalow, làng du lịch, biệt thự, nhà nghỉ, nhà trọ, nhà hàng, Cafeteria night Club, Snack bar.. Điều tra đánh giá về: số lượng, chất lượng, quy mô, công suất buồng và phòng, mức độ tăng trưởng, số lượng phòng khách sạn, mức độ tiện nghi và hiện đại của trang thiết bị, công suất buồng phòng, công suất phải đạt từ 60% hoạt động kinh doanh lưu trú mới có lãi; mức độ hiện đại, tiện nghi, phù hợp hài hoà của các thiết bị, vật liệu xây dựng, kiến trúc mỹ thuật, độ cao, mật độ của cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch với tài nguyên, cảnh quan du lịch, văn hoá bản địa, kết cấu hạ tầng và nhu cầu của du khách.
2.2.2. Hiện trạng công tác vận chuyển khách du lịch
Điều tra, đánh giá về số lượng, chất lượng, phương tiện vận chuyển, nhà ga, bến bãi, năng lực vận chuyển, mức độ đáp ứng nhu cầu của du khách
2.2.3. Các cơ sở vui chơi giải trí
2.3 PHÂN HỆ LUỒNG DU KHÁCH
2.3.1. Nghiên cứu và đánh giá thị trường du lịch
Một trong những nguyên tắc quan trọng được thực hiện trong quy hoạch và tổ chức không gian du lịch là nguyên tắc thị trường. Thị trường sẽ quyết định việc ai sẽ tiêu thụ các sản phẩm du lịch được tạo ra. Các sản phẩm này bao gồm những cấu thành gì, được thiết kế như thê nào, được bán với giá bao nhiêu…Có thể hiểu quy hoạch du lịch là quá trình lập kế hoạch khai thác hợp lý, hiệu quả các nguồn lực để tạo ra sản phẩm phù hợp. Sản phẩm du lịch cũng mang những đặc điểm của sản phẩm thông thường khác là trong quá trình xây dựng và bán sản phẩm cần bám sát nhu cầu của thị trường. Nghiên cứu thị trường du lịch chủ yếu là nghiên cứu thị trường tạo nguồn khách. Để quy định cách thức, quy mô, tiến độ, loại hình sản phẩ du lịch trược tiên cần tiến hành nghiên cứu thị trường, tính toán đặc điểm phân bố, đặc điểm hành vi, xu hướng phát triển đề ra phương án phát triển đúng đắn, phù hợp.
2.3.2. Phân bố thị trường
Phân bố thị trường ở đây là chỉ sự phân bố về phần không gian cuả thị trường tạo nguồn khách. Một thành phố là nơi tạo nguồn khách thì khả năng toả rộng của nguồn khách là bao nhiêu. Nếu một hệ thống lãnh thổ du lịch là nơi thu hút khách thì phạm vi không gian hấp dẫn khách là bao xa. Theo nhiều nhà khoa học thì quy luật không gian của cư dân các thành phố lớn đi du lịch là: nếu cự ly du lịch tăng thì số người đi du lịch giảm.
Theo khảo sát tần suất du lịch từ các khoảng cách khác nhau tới bốn thành phố của Trung Quốc (Thượng Hải, Tây An, Thành Đô, Trường Xuân): trong thành phố (0-15km) tỷ suất viếng thăm 91%; giữa các thành phố (15-50km) đạt 40-70%, (500-1500km) đạt 20-40%; khoảng cách lớn hơn 1500km chỉ còn 5-30%. Nhưng các hướng toả, đặc điểm của các điểm hấp dẫn khách không giống nhau nên tần suất đi du lịch tăng giảm cũng khác nhau. Ví dụ, thành phố Thượng Hải từ phía đông hướng ra biển Đông, ba hướng còn lại đều có điểm đến có thể lựa chọn, nên tần suất đến thăm ở ngoài 1500km chỉ còn 6%; Tây An ở vào vị trí trung tâm của đất nước, diện tích rộng nên tỷ suất đi du lịch khá thấp, ngoài 1500km chỉ còn 6%. Nhưng đối với hai thành phố Thành Đô và Trường Xuân, phạm vi du lịch hạn chế nên tần suất đi ra ngoài 1500km chỉ còn 20%. Ngoài ra, do sự hấp dẫn của sản phẩm du lịch khác nhau nên về không gian cũng biểu hiện sự dao động của tần suất khách du lịch đã tạo nên tính không liên tục của khôgn gian hoạt động du lịch
Như vậy thị trường nguồn khách thay đổi theo cự ly. Thị trường nguồn khách du lịch của một thành phố đạt 37% ở trong cự ly 15km; 24% ở trong cự ly 15-50km; 21% ở trong cự ly 50-500km; ngoài 500km chỉ còn khoảng 6%. Trong vùng du lịch có khoảng cách 50-800km dân cư từ thành phố đó đi du lịch được gọi là thị trường tạo nguồn cấp I; còn các nơi khác lấy thành phố đó làm điểm trung chuyển rồi từ đó đi các thành phố khác từ bốn phía thì gọi là thị trường cấp II của các thành phố xung quanh vùng du lịch.
Đối với thị trường cấp II, theo nhiều nghiên cứu cho thấy phạm vi toả đi từ trung tâm khoảng 250km, nhìn chung phạm vi toả đi từ trung tâm không quá 500km
2.3.3.. Phân tích thị trường
Việc nghiên cứu thị trường khách du lịch được tiến hành theo bốn góc độ khoa học gồm: địa lý, tâm lý, kinh tế và lịch sử.
Hoạt động du lịch thường di chuyển, thay đổi theo không gian. Do đó nghiên cứu hoạt động du lịch theo phân bố địa lý là quan trọng, trong đó nghiên cứu địa lý thị trường khách là một đặc điểm quan trọng của tổ chức không gian lãnh thổ du lịch. Từ đó xác định được khu vực nào và quốc gia nào là thị trường mục tiêu, khu vực nào quốc gia nào là thị trường khách để có giải pháp thu hút khách
Theo các nhà nghiên cứu về du lịch, ở cả các nước đang phát triển và phát triển thì tỷ lệ du khách được điều tra thích đi du lịch biển hơn là lục địa. Dân thành thị có khả năng đi du lịch cao hơn; còn đối với nông thông thì tỷ lệ dân vùng nội địa có khả năng đi du lịch cao hơn dân vùng biển.
Khách du lịch có chuyển biến từ trạng thái dự định sang trạng thái hiện thực hay không phụ thuộc vào đặc điểm chung của hành vi kinh tế-văn hóa, chọn điểm đến, thái độ của họ ấn tượng với vùng tới du lịch, những biểu hiện của họ về cự ly, về cảnh quan và môi trường nơi đến. Nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra các mô hình phân tích loại hình và đặc trưng của thị trường khách dưới góc độ tâm lý.
Thu nhập có ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ của người muốn đi du lịch, đặc điểm này đã được các nhà tâm lý và kinh tế chứng minh. Dung lượng lớn hay nhỏ của thị trường nguồn khách, tần số khách cao hay thấp (một năm có bao nhiêu người dân đi du lịch quốc tế trên tổng số dân (%), có bao nhiêu khách quốc tế đến từ các nước) tham gia vào các hoạt động du lịch đều có quan hệ mật thiết với thu nhập của du khách. Do vậy trong những năm gần đây, việc nghiên cứu thị trường khách theo quan điểm kinh tế, trong quy hoạch du lịch cụ thể và quản lý du lịch được nhiều nhà khoa học ở các nước quan tâm.
Đi du lịch còn là một hành vi văn hóa, nó có mối quan hệ chặt chẽ với truyền thống văn hóa, trình độ giáo dục, bề dày lịch sử, lịch sử du lịch. Việc nghiên cứu và phân tích này rất quan trọng trong việc lý giải và dự báo nguồn khách du lịch xác thực
Những điểm du lịch, các vùng du lịch hoặc các quốc gia có lịch sử phát triển, có nền văn hóa lâu đời, còn bảo tồn được nhiều di sản văn hóa đặc sắc không những tạo nên sự hấp dẫn nội tại, mà còn có ảnh hưởng tới hành vi du lịch của người dân ở các vùng, các quốc gia đó.
Ví dụ: Du khách Hoa Kỳ, Canada, Úc thường thích loại hình du lịch sinh thái, du lịch thể thao. Khách du lịch Pháp, Tây Ban Nha và Anh lại thường thích loại hình du lịch văn hóa. Khách du lịch Trung Quốc và các nước Châu Á thường thích tham quan những diu tích lịch sử văn hóa có mối quan hệ về văn hóa và lịch sử của đất nước minh.
2.3.4. Phân tích luồng khách du lịch
Trong việc tổ chức quy hoạch không gian lãnh thổ du lịch, nhiều trường hợp cần phân tích luông khách du lịch bao gồm: phân tích cự ly du lịch, phân tích không gian hoạt động du lịch, phân tích thời vụ du lịch
Khoảng cách về không gian từ các trung tâm cấp khách đến các điểm du lịch, khu du lịch đón khách có ảnh hưởng quan trọng với hoạt động du lịch của du khách. Sự phân bố của lưu lượng khách theo cự ly không giống nhau. Nhìn chung cự ly gần 5-100km là khoảng cách thuận lợi cho hoạt động du lịch của du khách; cự ly gần thì lượng du khách lớn, cự ly xa thì khả năng phân bố lưu lượng khách nhỏ. Chú ý là quy luật tăng giảm theo cự ly này là một quy luật thống ke bình quân, bởi vì địa hình của nguồn khách được giả định là đồng bằng hoặc đồi núi thấp, không có sự cách trở nhiều của núi, sông, biển, điều kiện giao thông giống nhau, khoảng cách sức hấp dẫn du lịch bình quân giống nhau; tố chất tâm lý, thể lực, khả năng du lịch của du khách giống nhau. Ở trong điều kiện lý tưởng này, khả năng đi du lịch sẽ giảm hoặc tăng theo cự ly và giá thành du lịch
Trong thực tế ít tồn tại những điều kiện lý tưởng giống nhau giữa các điểm du lịch hoặc ở cá địa phương khác nhau. Như tác động của tâm lý đối với khách có tính hiếu kỳ, hướng ngoại thường thích đi du lịch với những khoảng cách xa hơn; nên có thể ở những điểm, những vùng có khoảng cách xa trung tâm cấp khách vẫn có thể có lưu lượng du khách lớn. Tuy nhiên ngoài yếu tố cự ly, các yếu tố ảnh hưởng đến lưu lượng du khách của một điểm du lịch hay của các vùng còn bị chi phối bởi các điều kiện kinh tế, thời gian, sự hấp dẫn, số lượng về tài nguyên môi trường, các điều kiện phát triển du lịch của điểm đến. Nhìn chung, những điểm hoặc vùng du lịch có cự ly xa từ nơi cấp khách du lịch, du khách thường phải chi phí nhiều hơn về thời gian, tài chính, sức lực thì nhu cầu ham muốn du lịch của họ giảm. Và vì vậy số lượng du khách đễn cũng giảm theo.
Ngoài yếu tố cự ly, thị trường du lịch còn biến đổi theo ngày trong tuần và mùa vụ trong năm. Sự biến đổi này tạo nền tính tạm thời của thị trường nguồn khách. Thông thường ở các điểm du lịch, nhất là các điểm du lịch có khoảng cách đến các điểm đón khách tăng từ 5-150km và các điểm du lịch ở ngoại ô, các thành phố lớn thường tăng khách vào những ngày cuối tuần (thứ 7, chủ nhật). Hay các điểm, các khu du lịch thường đong khách vào mùa xuân, mùa thu và vắng khách vào mùa đông, mùa hè. Tính theo mùa còn bị phụ thuộc vởi tài nguyên du lịch, thời gian nghỉ của khách. Từ những đặc điểm này các doanh nghiệp, các điểm, khu du lịch và các địa phương, các quôc gia cần có những cơ chế, chính sách, kế hoạch phát triển du lịch phù hợp, đúng đắn để đầu tư tổ chức, quản lý, phát triển các nguồn lực và kinh doanh du lịch hợp lý.
Việc điều tra, nghiên cứu thị trường du lịch là cơ sở quan trọng cho việc dự báo: lưu lượng thị trường, số lượng, chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch; nguồn lao động du lịch; hiệu quả kinh doanh; vốn đầu tư xây dựng các định hướng chiến lược phát triển du lịchl đánh giá tác động từ hoạt động du lịch với tài nguyên và môi trường du lịch
2.4. PHÂN HỆ CÁN BỘ NHÂN VIÊN PHỤC VỤ
Điều tra, đánh giá nguồn lao động du lịch bao gồm các nội dung sau: các chỉ tiêu về số lượng, chất lượng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, phẩm chất, mức thu nhập của lao động trong ngành du lịch bao gồm cả những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những mặt hạn chế (do đào tạo, tuyển dụng, sử dụng-quản lý, cơ chế chinh sách). Cơ sở khoa học và thực tiễn của việc điều tra, đánh giá nguồn lao động du lịch; căn cứ vào số liệu thống kê, điều tra từ các cơ sở kinh doanh du lịch và thông qua điều tra xã hội học bằng bảng hỏi
Căn cứ vào tiêu chí lao động bình quân trên một phòng khách sạn quốc tế là 1.7 lao động, 1 phòng khách sạn nội địa là 1.2 lao động, cứ 1 lao động trực tiếp trong hoạt động du lịch có 2.2 lao động gián tiếp (hoặc 2 lao động cho 1 phòng khách sạn) để đánh giá mức độ phù hợp của nguồn lao động
Căn cứ vào trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, phẩm chất, cường độ làm việc của nguồn lao động để đánh gí về chất lượng và khả năng đáp ứng nhu cầu của du khách
Căn cứ vào tiêu chí kết cấu lao động theo trình độ chuyên môn nghiệp vụ làm việc của nhà hàng và khách sạn: nhân viên quản lý chiếm 6%; nhân viên giám sat 8%, nhân viên thành thục có trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngoại ngữ cao 22%. Ba nhóm nhân viên này được gọi là tốp thành thạo; 64% nhân viên thuộc tốp thao tác (nhóm nhân viên được đào tạo nghiệp vụ cho những công việc cụ thể)
2.5. PHÂN HỆ ĐIỀU HÀNH QUẢN LÝ DU LỊCH
2.5.1. Mô hình tổ chức quản lý và cán bộ quản lý
Điều tra, đánh giá về những ưu điểm và hạn chế của hệ thống tổ chức quản lý, chức năng của các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch. Đồng thời điều tra đánh giá về chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất, năng lực tổ chức quản lý của đội ngũ cán bộ các bộ phận chức năng.
2.5.2. Nội dung quản lý
Xem xét đánh giá việc phối hợp hệ thống tổ chức quản lý theo ngành, về kiến tạo chiến lược phát triển tại địa phương hoặc quốc gia, tạo hành lang pháp lý và môi trường cho các chiến lược cụ thể.
Phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc soạn thảo các văn kiện quy chế, chính sách cho các hoạt động du lịch
Việc lập và tổ chức thực hiện các dự án chương trình, kế hoạch, quy hoạch phát triển du lịch.
Công tác xúc tiến và phát triển du lịch, tổ chức giám sát chỉ đạo hoạt động đầu tư quản lý, khai thác, bảo vệ tài nguyên môi trường du lịch, các hoạt động kinh doanh du lịch, hoạt động đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, các hoạt động tuyên truyền quảng bá về du lịch.
2.5.3. Cách thức tổ chức quản lý
Phân tích đánh giá việc phối hợp với các Bộ, Ngành, Chính phủ hoặc các cơ quan quản lý Nhà nước của tỉnh, cơ quan chính quyền của tỉnh.
Phân tích đánh giá việc theo dõi, giám sát các hoạt động du lịch, tuyên truyền quảng bá, khai thác, bảo tồn tài nguyên du lịch, xúc tiến phát triển du lịch, đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đầu tư phát triển du lịch.
Việc hướng dẫn phổ biến các quy định pháp luật có liên quan tới du lịch đến các tổ chức, doanh nghiệp du lịch và nhân dân
Phối hợp mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và trong nước, thu hút đầu tư du lịch
Phối hợp tổ chức hệ thống đào tạo cán bộ nghiệp vụ du lịch, nghiên cưu ứng dụng khoa học nhằm nâng cao đa dạng hóa chất lượng sản phẩm du lịch
Quản lý việc thực hiện quy hoạch và xây dựng các công trình du lịch, an ninh du lịch, các thiết bị du lịch và các khu du lịch
Đánh giá tác động của hoạt động du lịch tới tài nguyên môi trường và kinh tế -xã hội cũng như việc phối hợp hành động để khắc phục các sự cố môi trường do hoạt động du lịch gây ra, khắc phục các rủi ro thiên tai dịch bệnh hoặc những biến động về kinh tế, chính trị -xã hội gây ra.
CHƯƠNG 3: PHÂN VÙNG DU LỊCH VÀ HỆ THỐNG PHÂN VỊ DÙNG DU LỊCH
3.1 VÙNG DU LỊCH
3.1.1. Quan niệm về vùng du lịch
Hệ thống lãnh thổ du lịch không thể tồn tại nếu không có không gian. Trong không gian mà hệ thống lãnh thổ du lịch tồn tại còn có các hệ thống chức năng khác, nó có tác động tới hệ thống lãnh thổ du lịch như tổng thể lãnh thổ sản xuất, các hệ thống dân cư, giao thông liên lạc. Không gian tồn tại của môi trường nuôi dưỡng hệ thống lãnh thổ du lịch bao giờ cũng lớn hơn không gian của hệ thống lãnh thổ du lịch được coi là vùng du lịch.
Vùng du lịch bao gồm hai thành phần quan hệ tương hỗ, là hệ thống lãnh thổ du lịch và không gian kinh tế -xã hội bao quanh đảm bảo cho hoạt động hữu hiệu của nó. Như vậy, vùng du lịch là một hệ thống lãnh thổ du lịch không đồng nhất, bao gồm: hệ thống lãnh thổ du lịch và môi trường nuôi dưỡng nó. Do vậy, có nhiều quan niệm về vùng du lịch khác nhau.
Có ý kiến cho rằng, vùng du lịch có thể chỉ là một lãnh thổ, nơi mà du lịch có ý nghĩa quan trọng, chủ chốt (Prikryl và Thesty, 1968), song những lãnh thổ như vậy rất hiếm.
Quan niệm về vùng du lịch của V.P. Xtauxkas là rất hiếm, những vùng du lịch như vậy thường là ở những cấp phân vị thấp. Trong khi đó việc chuyên môn hoá du lịch do tác động của sự phân công lao động theo lãnh thổ có thể là một ngành liên vùng, một vùng hay ngành liên khu của một tổng thể kinh tế quốc dân. Vì vậy, quan niệm này không được các nhà khoa học chấp nhận
Như vậy, có nhiều quan niệm về vùng du lịch, nhưng quan niệm về vùng du lịch của I.I. Pirogionhich và quan niệm về vùng du lịch trong “Báo cáo tóm tắt Quy hoạch phát triển tổng thể du lịch Việt Nam thời kỳ 1995-2010” về nội hàm có nhiều đặc điểm giống nhau, nó đã phản ánh khách quan và xác thực về đặc điểm của vùng du lịch hơn, được nhiều nhà khoa học trong nước và quốc tế chấp nhận hơn.
Trên quan điểm hệ thống, có thể coi vùng du lịch như một tập hợp hệ thống lãnh thổ được tạo nên bởi hai yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau là hệ thống lãnh thổ du lịch và môi trường kinh tế -xã hội xung quanh nhằm đảm bảo cho cả hệ thống này hoạt động có hiệu quả
Hệ thống lãnh thổ du lịch là hạt nhân tạo nên vùng du lịch. Từ hạt nhân này đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện và phát triển vùng du lịch trong mối quan hệ với môi trường kinh tế -xã hội, chính trị. Các yếu tố nuôi dưỡng hạt nhân tạo vùng giúp nó cùng với hạt nhân trở thành vùng du lịch.
Trong một hệ thống phân vùng du lịch không thể loại ra những lãnh thổ khác biệt, chúng cần được coi như những phần đất du lịch tiềm năng hay những lãnh thổ mà chức năng du lịch chỉ có ý nghĩa khu vực hoặc địa phương. Vì vậy, khi phân vùng du lịch cần phải xác định chức năng hoạt động của tất cả các lãnh thổ cũng như vị trí của nó trong hệ thống phân công theo chức năng và lãnh thổ
Vùng du lịch và vùng kinh tế -xã hội là hai thái cực và thực tế khác nhau. Vùng du lịch là vùng kinh tế ngành, còn vùng kinh tế-xã hội mang tính tổng hợp. Việc phân vùng du lịch dựa trên lý luận, cơ sở khoa học của phân vùng kinh tế nhưng lại có những nguyên tắc, phương pháp riêng, dựa trên những tiêu chuẩn riêng. Do vậy, ranh giới của vùng du lịch thường không trùng với phân vùng tự nhiên, văn hoá hay kinh tế- xã hội.
Về phương diện lý thuyết, vùng du lịch được tạo thành bởi các yếu tố tạo vùng. Mỗi vùng có những đặc trưng riêng được thể hiện qua lợi thế các nguồn lực phát triển của ngành chuyên môn hoá. Chuyên môn hoá du lịch của vùng được hình thành bởi các yếu tố về vị trí địa lý, tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, nhu cầu về số lượng khách du lịch. Vùng du lịch gồm có vùng đã hình thành và vùng đang hình thành. Các vùng du lịch đang trong quá trình hình thành thì các loại hình du lịch chuyên hoá chưa rõ nét
3.1.2. Những đặc trưng cơ bản của vùng du lịch và các loại vùng du lịch
Vùng du lịch được phân chia theo cấp bậc:
3.2. Ý NGHĨA, NHIỆM VỤ VÀ NGUYÊN TẮC PHÂN VÙNG DU LỊCH
3.2.1. Ý nghĩa của phân vùng du lịch
Phân vùng du lịch cho phép xác định cơ cấu và sự phân hoá tối ưu theo lãnh thổ của vùng gồm: cấu trúc cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, nguồn lao động phù hợp với nguồn tài nguyên, nhu cầu du lịch, mối quan hệ giữa các thành phân trong vùng và mối quan hệ giữa các hệ thống lãnh thổ du lịch khác. Từ đó đề xuất các định hướng, các chính sách nhằm phát huy lợi thế của vùng góp phân nâng cao hiệu quả phát triển du lịch của vùng và làm cơ sở cho quy hoạch du lịch, lựa chọn vùng đầu tư
3.2.2. Nhiệm vụ của phân vùng du lịch
3.2.3. Nguyên tắc của phân vùng du lịch
Để thực hiện các nhiệm vụ phân vùng, việc phân vùng du lịch cần thực hiện theo những nguyên tắc sau:
3.3. HỆ THỐNG PHÂN VỊ VÙNG DU LỊCH
Khi tiến hành phân vùng du lịch, việc xác định được hệ thống phân vị là một nhiệm vụ quan trọng. Trên thế giới và Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã sử dụng các hệ thống phân vị khác nhau:
Hệ thống phân vị trong phân vùng luôn là đề tài gây nhiều tranh cãi. Nhiều nước trong đó có Việt Nam sử dụng hệ thống phân vị theo 5 cấp từ thấp đến cao.
3.3.1. Điểm du lịch
Điểm du lịch là cấp thấp nhất trong hệ thống phân vị về mặt lãnh thổ, điểm du lịch có quy mô nhỏ, trên bản đồ các vùng du lịch người ta có thể hiểu điểm du lịch là những điểm riêng biệt. Sự chênh lệch về diện tích của các điểm du lịch là tương đối lớn.
Điểm du lịch là nơi tập trung tài nguyên du lịch hay cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ du lịch, hoặc kết hợp cả hai ở quy mô nhỏ. Vì thế điểm du lịch có thể được phân thành hai loại: điểm tài nguyên và điểm chức năng.
Thời gian lưu trú của khách từ 1 đến 2 ngày (trừ các điểm du lịch chức năng, như điểm du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh)
Theo khoản 6, Điều 1-Luật Du lịch Inđônêxia đã xác định điểm du lịch như sau: “ Trước hết đó là một vị trí có tài nguyên du llịch và có sức hấp dẫn, sức hút đối với con người. Tất cả những điều này đều được Chính phủ xác định và quản lý. Việc xây dựng các điểm này phục vụ cho du lịch phải được đảm bảo bốn yêu cầu: Thứ nhất, có khả năng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hoá – xã hội tại địa phương; Thứ hai, đảm bảo giữ gìn được những giá trị văn hoá, tín nguỡng và phong tục tập quán đang tồn tại ở đại phương; Thứ ba, bảo vệ được môi trường sinh thái; Thứ tư, đảm bảo sự phát triển du lịch lâu dài”
Theo khoản 8, Điều 4, Chương I-Luật Du lịch Việt Nam (năm 2005): “ Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch”
Theo Khoản 1,2, Điều 24 – Chương IV, Luật Du lịch Việt Nam (năm 2005): “ Các điều kiện để công nhận là điểm du lịch gồm:
3.3.2. Trung tâm du lịch
Trung tâm du lịch là một cấp hết sức quan trọng. Về đại thể, đó là sự kết hợp lãnh thổ của các điểm du lịch cùng loại hay khác loại. Trên lãnh thổ của trung tâm du lịch tập trung rất nhiều điểm du lịch. Nói cách khác, mật độ điểm du lịch trên lãnh thổ này tương đối dày đặc. Mặt khác, trung tâm du lịch gồm các điểm chức năng được đặc trưng bởi sự gắn kết lãnh thổ về mặt kinh tế, kỹ thuật và tổ chức. Nó có khả năng và sức thu hút khách du lịch (nội địa, quốc tế) rất lớn. Điều kiện của trung tâm du lịch:
3.3.3. Tiểu vùng du lịch
Tiểu vùng du lịch là một tập hợp bao gồm các điểm du lịch, các khu du lịch, các đô thị du lịch và trung tâm du lịch (nếu có). Về quy mô, tiểu vùng du lịch bao trùm lãnh thổ của một vài tỉnh. Tuy vậy, sự giao động về diện tích giữa các tiểu vùng cũng khá lớn.
Tiểu vùng du lịch có nguồn tài nguyên tương đối phong phú về số lượng, đa dạng về chủng loại
Trong thực tế, ở nước ta có thể phân biệt hai loại tiểu vùng du lịch: tiểu vùng du lịch đã hình thành (hay còn gọi là tiểu vùng du lịch thực tế) và tiểu vùng du lịch đang hình thành (tiều vùng du lịch tiềm năng)
Giữa hai loại tiểu vùng du lịch có sự chênh lệch đáng kể về trình độ phát triển. Loại tiểu vùng thứ nhất tập trung nhiều tài nguyên đã và đang được khai thác để phát triển du lịch. Loại hình thứ hai có tài nguyên và các nguồn lực để phát triển du lịch, song vì những lý do nhất định nên tiềm năng chưa có điều kiện trở thành hiện thực.
3.3.4. Á vùng du lịch
Á vùng du lịch là tập hợp của các điểm du lịch, các trung tâm (nếu có) và các tiểu vùng du lịch thành một thể thống nhất với mức độ tổng hợp cao hơn, vao trò của cơ sở hạ tầng lớn hơn, các thông số hoạt động và lãnh thổ du lịch rộng hơn. Xét về các mối quan hệ dân cư, quần cư và cung cấp những nhu cầu vật chất cho khách du lịch thì Á vùng bao gồm cả những địa phương không có điểm tài nguyên du lịch. Các mối liên hệ bên trong lãnh thổ cũng đa dạng hơn.
Trong Á vùng du lịch có nhiều loại tài nguyên du lịch. Ở chừng mực nhất định, chuyên môn hóa đã bắt đầu được thể hiện, mặc dù có thể chưa đậm nét. Sự hình thành và phát triển Á vungd du lịch phụ thuộc rất nhiều yếu tố. Có thể trong một số vùng du lịch, sự phân hóa lãnh thổ chưa dẫn đến sự hình thành các Á vùng. Trong trường hợp ấy, hệ thống phân vị thực sự chỉ còn 4 cấp: điểm du lịch-trung tâm du lịch- tiểu vùng du lịch- vùng du lịch.
3.3.5. Vùng du lịch
Vùng du lịch là cấp cao nhất trong hệ thống phân vị. Đó là một sự kết hợp lãnh thổ của các á vùng (nếu có), tiểu vùng, trung tâm, cụm du lịch và điểm du lịch có những đặc trưng riêng về số lượng và chất lượng. Nói cách khác, như trên đã trình bày, vùng du lịch như một tổng thể thống nhất của các đối tượng và hiện tượng tự nhiên, nhân văn, xã hội…. bao gồm hệ thống lãnh thổ du lịch và môi trường kinh tế -xã hội xung quanh với chuyên môn hoá nhất định trong lĩnh vực du lịch.
Nói tới vùng du lịch, không thể không đề cập tới chuyên môn hoá, nó chính là bản sắc của vùng du lịch, làm cho vùng này khác hẳn vùng kia.
Ở nước ta, chuyên môn hoá của các vùng du lịch đang trong quá trình hình thành. Tuy nhiên, mỗi vùng chuyên môn hoá phát triển loại hình du lịch nào và xu hướng phát triển ra sao thì còn cần phải nghiên cứu sâu hơn nữa các mối liên hệ nội, ngoại vùng dựa trên nguồn tài nguyên, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất -kỹ thuật sẵn có của vùng. Về phương diện lãnh thổ vùng du lịch có diện tích rất lớn, bao gồm nhiều tỉnh. Ngoài ra với hoạt động du lịch mạnh mẽ, nó còn bao chiếm cả các khu vực không phát triển du lịch (điểm dân cư, các khu vực không có tài nguyên và cơ sở du lịch nhưng có mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế)
Cũng như các tiểu vùng, người ta chia vùng du lịch thành vùng du lịch đang hình thành (vùng du lịch tiềm năng) và vùng du lịch đã hình thành (vùng du lịch thực tế). Ở nước ta, có thể có tiểu vùng du lịch thực tế và tiểu vùng du lịch tiềm năng. Song trên bình diện vùng du lịch, chúng ta chưa có vùng du lịch đã hình thành. Vì vậy, vùng du lịch Việt Nam là vùng du lịch đang hình thành.
Chính trong trường hợp này, phân vùng du lịch thể hiện rõ tính kiến thiết của nó.
3.4. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU TRONG PHÂN VÙNG DU LỊCH
Xác định hệ thống chỉ tiêu trong phân vùng du lịch là một trong những nhiệm vụ quan trọng để đánh giá được các nguồn lực, xác định các mối quan hệ nội tại trong các hệ thống lãnh thổ trong vùng và giữa các vùng. Từ đó mới có thể tiến hành phân chia ranh giới của vùng.
Vùng du lịch được tạo thành bởi nhiều yếu tố tạo vùng. Các yếu tố chủ yếu là nguồn tài nguyên du lịch, nguồn lao động du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, kết cấu hạ tầng, nhu cầu và số lượng khách du lịch và các yếu tố kinh tế -xã hội. Vùng du lịch (theo cấp phân vùng lớn) bao gồm nhiều hệ thống lãnh thổ du lịch ở cấp nhỏ hơn vùng. Khi nghiên cứu phân vùng du lịch phải nghiên cứu, khảo sát, đánh giá các nguồn lực phát triển du lịch của vùng như: tài nguyên du lịch, nguồn lao động du lịch, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, nhu cầu và số lượng khách du lịch, các nhân tố ảnh hưởng khác.
Các nguồn lực để phát triển du lịch ở các vùng không giống nhau. Đó là cơ sở để phát triển các loại hình chuyên môn hoá và hướng chuyên môn hoá của vùng. Như vậy, đặc trưng của mỗi vùng trước hết thể hiện ở sự khác biệt về các nguồn lực phát triển và hướng chuyên môn hoá. Theo vào nữa, mỗi vùng cần phải có ít nhất một trung tâm du lịch để làm động lực thúc đẩy sự phát triển vùng, thu hút nguồn khách và các điều kiện để phát triển vùng.
Từ những quan niệm trên về vùng du lịch và thực tế của việc hình thành, phát triển vùng du lịch của Việt Nam và các nước cho thấy các chỉ tiêu phân vùng đã được áp dụng gồm các chỉ tiêu chính là:
Các trung tâm tạo vùng phải có sức thu hút mạnh mẽ với các vùng xung quanh, là động lực cho các hệ thống lãnh thổ khác trong vùng phát triển. Quy mô các nguồn nhân lực trong trung tâm vùng càng lớn thì sức hút của nó càng mạnh
Về nguyên tắc, trung tâm tạo vùng có hai loại: trung tâm tạo vùng của vùng du lịch lớn và trung tâm tạo vùng quy mô địa phương (tạo nên các á vùng, tiểu vùng hoặc tạo điều kiện thúc đẩy du lịch địa phương phát triển).Những trung tâm du lịch lớn thường có sức hút lớn và tạo nên các vùng du lịch lớn. Ngược lại, những trung tâm du lịch có quy mô nhỏ, các nguồn lực phát triển du lịch hạn chế hơn sẽ tạo nên các hệ thống lãnh thổ du lịch ở cấp nhỏ hơn.
Trung tâm tạo vùng có ý nghĩa quan trọng, đôi khi mang tính chất quyết định trong quá trình xác định ranh giới của vùng. Nhiều nhà nghiên cứu của Liên Xô và một số nước Xã hội chủ nghĩa trước đây và nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam cho rằng: “Ranh giới của vùng được xác định ở nơi mà sức chứa của trung tâm tạo vùng yếu nhất”
Các lãnh thổ gần trung tâm tạo vùng càng bị thu hút mạnh, vừa ảnh hưởng theo cả hướng tích cực và tiêu cực của trung tâm tạo vùng
3.5. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH PHÂN VÙNG DU LỊCH
3.5.1. Xác định sự phân hóa theo nguồn tài nguyên
3.5.3. Xác định các trung tâm tạo vùng
Ví dụ: Hà Nội có vị trí nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, là thủ đô, trung tâm kinh tế -chính trị và văn hoá của cả nước. Hà Nội có nguồn tài nguyên phong phú, mức độ tập trung cao, cơ sở hạ tầng-vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch khá tốt. Ở đây lại là đầu mối giao thông lớn của các vùng kinh tế phía Bắc, có sân bay quốc tế Nội Bài. Vì vậy, Hà Nội trở thành trung tâm du lịch lớn để tạo vùng du lịch Bắc Bộ. Cũng tương tự như vậy, đối với thành phố Hồ Chí Minh. Còn Huế và Đà Nẵng, các yếu tố tạo vùng hạn chế hơn, quy mô nhỏ hơn, sức hút không mạnh bằng Hà Nộ và thành phố Hồ Chí Minh nhưng cũng tạo nên vùng du lịch Bắc Trung Bộ.
3.5.4. Xác định ranh giới của vùng
Xác định ranh giới của vùng du lịch dựa trên sự tổng hợp của ba chỉ tiêu trên và hệ thống phân vùng đã xây dựng. Khi xác định ranh giới của vùng cần căn cứ vào những đặc điểm tương đồng của tài nguyên, kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật…, sức hút của trung tâm tạo vùng, của mỗi vùng, nguyên tắc hành chính…Ngoài việc phân vùng du lịch còn phải tính đến tính liền kề giữa các lãnh thổ cấu trúc nên vùng du lịch. Những địa phương không có nguồn lực thuận lợi cho phát triển du lịch, nhưng nằm liền kề với những địa phương có nhiều nguồn lực thuận lợi cho phát triển du lịch vẫn nằm trong lãnh thổ vùng. Hoặc hai tỉnh thành gần nhau đều có các chỉ tiêu trên cũng không thể đưa về một vùng du lịch, mà cần phải tính đến khoảng cách, khả năng hút từ trung tâm tạo vùng
CHƯƠNG 4: TỔ CHỨC KHÔNG GIAN DU LỊCH VÀ BẢN ĐỒ DU LỊCH
4.1. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA, YÊU CẦU CHUNG VÀ CÁC BƯỚC XÂY DỰNG BẢN ĐỒ
Công tác này bao gồm việc chắt lọc, tìm mối liên hệ giữa các yếu tố với nhau, thể hiện chúng trên giấy. Đây là một phương pháp tiếp cận có ý nghĩa căn bản, được vận dụng để tìm hiểu mối liên hệ về phương diện kế hoạch hoá các yếu tố tự nhiên, kinh tế xã hội và xác định vị trí, đặc điểm của các hệ thống lãnh thổ du lịch và các điểm, tuyến du lịch được đầu tư phát triển. Phương pháp này cho phép rút ra những tiêu chí có vai trò then chốt, tổng hợp chúng thành nhóm thông tin có liên quan chặt chẽ với nhau. Phương pháp này cho phép rút ra những tiêu chí có vai trò then chốt, tổng hợp chúng thành nhóm thông tin có liên quan chặt chẽ với nhau. Ví dụ, mối quan hệ giữa vị trí, diện tích lãnh thổ, tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch, kết cấu hạ tầng bao gồm cả đặc điểm và sự phân bố.
Việc xây dựng bản đồ, sơ đồ phải được dựa trên việc khảo sát, đánh giá tài nguyên du lịch, kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lao động cũng như việc xây dựng các chỉ tiêu dự báo, các định hướng và chiến lược phát triển.
Việc xây dựng bản đồ quy hoạch phải tuân theo cơ sở lý luận chung về bản đồ. Bản đồ phải được xây dựng trên cơ sở toán học, theo phương pháp chiếu đồ (ảnh vệ tinh), phải có tỷ lệ, có lưới toạ độ, có phương vị
Bản đồ được xây dựng phải thể hiện được tính tổng quát hoá, tức là lựa chọn các yếu tố chủ yếu và khái quát các đặc điểm về hình dạng, số lượng và chất lượng của yếu tố nội dung, phù hợp với mục đích, tuỳ thuộc vào mục đích, tỷ lệ bản đồ mà lựa chọn nội dung cho phù hợp.
Phải dùng hệ thống hoá ký hiệu để biểu hiện
Trong bản đồ, các sự vật, hiện tượng phải được trình bày làm sao biểu hiện được mối quan hệ với nhau
Bản đồ vừa phải đảm bảo tính chính xác, vừa phải bảo đảm tính trực quan, dễ đọc, dễ hiểu.
4.1.2. Các bước xây dựng bản đồ
Bước 1: Đo đạc thực địa, thu thập tài liệu (bản đồ có sẵn, các tài liệu, văn bản có chứa đựng nội dung thể hiện các chỉ tiêu, dự báo của bản quy hoạch), lựa chọn phương pháp chiếu đồ, xác định tỷ lệ của bản đồ
Bước 2: Lựa chọn những sự vật, hiện tượng, đối tượng để đưa lên bản đồ, xác định mối quan hệ giữa chúng, lựa chọn phương pháp thể hiện (nền màu chất lượng hay phương pháp mật độ, biểu đồ). Từ đó xây dựng hệ thống ký ước hiệu, xây dựng bảng chú giải
Bước 3: Xây dựng cơ sở địa lý, gồm các yếu tố địa lý, có vai trò là các sườn để đưa (định vị nội dung chuyên đề của bản đồ như: các đường ranh giới (địa giới, hải giới), các điểm dân cư thành phố, thị xã, đường giao thông…), kinh vĩ độ. Các yếu tố này sẽ tạo điều kiện thuận lợi làm sáng tỏ các đặc điểm và quy luật phân bố của các đối tượng được nghiên cứu
Bước 4: Đưa nội dung chuyên đề lên bản đồ, cơ sở địa lý (sau khi có khung (đường viền bản đồ), có các nội dung địa lý cơ sở)
4.2. CƠ SỞ TOÁN HỌC TRONG XÂY DỰNG BẢN ĐỒ
4.2.1. Phép chiếu
Trong bản đồ học tồn tại nhiều phép chiếu hình khác nhau. Mỗi phép chiếu có ưu và nhược điểm nhất định, vì vậy tuỳ thuộc vào yêu cầu và phương pháp nghiên cứu mà các chuyên gia lựa chọn một phép chiếu cho phù hợp. Ở Việt Nam, Tổng cục Địa chính đã cho phát hành cuốn “ Tập lưới bản đồ” (Hà Nội, 1975). Đây là tài liệu quan trọng để giúp lựa chọn lưới chiếu cho phù hợp
Trong công tác xây dựng bản đồ quy hoạch cần xem xét, so sánh diện tích các khoang vi của các đối tượng nghiên cứu, nhu cầu so sánh hình dạng (tức là góc và chiều dài). Mặt khác, để lựa chọn phép chiếu còn phải quan tâm đến nguồn cung cấp bản đồ nền. Ở nước ta hiện nay, Tổng cục Địa chính và Cục Bản đồ Tổng tham mưu là hai cơ quan được giao nhiệm vụ thành lập và in ấn phát hành bản đồ. Loại bản đồ được làm thống nhất trong cả nước với nhiều tỷ lệ khác nhau là bản đồ địa hình. Bản đồ Việt Nam được thành lập trong hai loại lưới chiếu. Đó là lưới chiếu hình trụ nganh chia múi 60 giữ góc Gau – Kruger và lưới chiếu hình trụ ngang giữ góc toàn cầu của Mercator (thường gọi là phép chiếu Gauss và UTM)
Trong điều kiện thực té ở nước ta hiện nay, theo các chuyên gia về bản đồ nên sử dụng bản đồ địa hình trong pháp chiếu hình trụ ngang chia múi 60 giữ góc Gau – Kruger, hay bản đồ địa hình trong phép chiếu hình trụ ngang toàn cầu của Mercator
4.2.2. Tỷ lệ bản đồ
Những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc lựa chọn tỷ lệ là diện tích lãnh thổ nghiên cứu, mật độ nội dung cần thể hiện, yêu cầu độ chính xác của nội dung cần thể hiện và kích thước mong muốn của tờ bản đồ
Diện tích các tỉnh của một quốc gia thường không đồng nhất. Vì vậy cần tính toán để tìm ra một số tỷ lệ phù hợp cho việc xây dựng bản đồ quy hoạch không gian du lịch các địa phương
Theo Sukhov độ lớn của lãnh thổ có thể được biểu hiện qua kích thước của nó theo chiều dọc và chiều ngang. Kết hợp với kích thước mong muốn của tờ bản đồ, có thể tính tỷ lệ cần lựa chọn theo công thức:
Trong đó:
M – mẫu số tỷ lệ bản đồ cần chọn
L – kích thước lãnh thổ theo chiều ngang và chiều dọc
K – kích thuớc kỹ thuật giấy
S – Lề
Do mức độ tập trung tài nguyên du lịch, mật độ mạng lưới cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch ở các địa phương có sự khác nhau. Như vậy, tải trọng nội dung khi thể hiện lên bản đồ cũng se không đồng đều. Để xác định tỷ lệ bản đồ cho phù hợp với nội dung được thể hiện, có thể áp dụng công thức của Salischer, 1978:
Trong đó:
Trong đó
Tỷ lệ bản đồ ở cấp quốc gia và các vùng lớn thường từ 1:500 000 đến 1: 1000 000
Bảng: Gợi ý tỷ lệ dùng cho bản đồ quy hoạch
Bản đồ
Nước Cộng Hoà
Tỉnh
Huyện
Thành phố
Chính
1:750 000
1:400 000
1: 200 000
1: 50 000
Trích
1: 500 000
1:300 000
1:100 000
1: 25 000
Phụ
1: 500 000
1: 500 000
1: 1000 000
1: 100 000
4.2.3. Bố cục bản đồ
Bản đồ phục vụ mục đích quy hoạch không gian du lịch phải thể hiện được tính tổng quát hoá,tức là chọn các yếu tố chủ yếu, khái quát được về số lượng, chủng loại, chất lượng của các đối tượng thể hiện, phù hợp với mục đích xây dựng bản đồ
Các ký hiệu thể hiện các sự vật, hiện tượng phải được trình bày sao cho bảo đảm tính chính xác, khoa học và mỹ thuật, biểu hiện mối quan hệ giữa các nguồn lực du lịch với nhau
Với triển vọng ứng dụng máy tính với công nghệ của hệ thống tin địa lý GIS, bố cục thống nhất của bản đồ đưa vào máy tính sẽ giàm được thời gian nhập dữ liệu, không cần xử lý các bản đồ đưa vào như chỉnh toạ độ, chỉnh kích thước.
4.3. CÁC LOẠI BẢN ĐỒ TRONG TỔ CHỨC LÃNH THỔ DU LỊCH
4.3.1. Nhóm các bản đồ hiện trạng
Trong số các bản đồ phục vụ quy hoạch phát triển du lịch, nhóm bản đồ hiện trạng giữ vai trò quan trọng. Nó phản ánh hiện trạng các tài nguyên du lịch, kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịc, tổ chức không gian lãnh thổ du lịch. Dựa theo quan điểm phân loại hệ thống lãnh thổ du lịch, có thể chia bản đồ phân tích hiện trạng theo các chủ đề sau
4.3.1.1. Bản đồ vị trí địa lý
Muốn lập và thực hiện các dự án quy hoạch và tổ chức không gian du lịc của mỗi địa phương hay quốc gia, phải xác định rõ vị trí của ngành du lịch ở địa phương hay quốc gia trong bối cảnh chung toàn quốc, toàn vùng hay trong khu vực. Bản đồ vị trí địa lý du lịch cần tạo ra được một không gian của lãnh thổ trong hệ thống cấp cao hơn
Đặc thù của bản đồ vị trí địa lý du lịch là phải chỉ rõ mối quan hệ qua lại giữa các hoạt động du lịch của hệ thốg lãnh thổ du lịch được quy hoạch với các hệ thống lãnh thổ du lịch cùng cấp và cấp cao hơn
Nội dung chính được thể hiện của bản đồ này bao gồm:
Phương pháp thể hiện chủ yếu của loại bản đồ này là phương pháp ký hiệu, đường chuyển động, nền chất lượng
4.3.1.2. Bản đồ tài nguyên du lịch
Các bản đồ tài nguyên du lịch được phân ra làm hai loại chính:
Phương pháp thể hiện các nội dung của loại bản đồ này phù hợp nhất là cartodiagram
4.3.1.3. Bản đồ cơ sở hạ tầng
Đối với việc quy hoạch và tổ chức không gian du lịch, những yếu tố sau của cơ sở hạ tầng phải được điều tra, thể hiện lên bản đồ:
Các thông tin cần thể hiện trên bản đồ về nội dung vận tải hàng không chủ yếu
Trên mối chuyên bay được thể hiện bằng ký hiệu chuyển động, có ghi ngày có chuyền bay, số lượng hành khách thực tế (mùa hè, mùa đông), số lượng hành khách có khả năng phục vụ
Giao thông vận tải đường bộ đóng vai trò chủ đạo trong việc phục vụ đi lại
Nội dung đường bộ có thể chia thành: đường ôtô, đường sắt
Mạng lưới đường ôtô được phân cấp theo 2 chỉ tiêu chính là chất lượng lớp phủ bề mặt và độ rộng mặt đường. Chất lượng mặt đường thể hiện bằng phương pháp ký hiệu tuyến phân mày, các chỉ tiêu kỹ thuật biểu hiện bằng ký hiệu chữ ghi. Các công trình kỹ thuật phụ thuộc đường otô dễ gây cản trở giao thông như phà, đò, cầu phao cũng được biểu diễn đầy đủ
Một yếu tố nội dung của vận tải hành khách rất cần cho quy hoạch du lịch là vị trí các bến xe khách, các tuyến xe khách và số lượng chuyến theo bến
Bản đồ giao thông phục vụ quy hoạch phát triển du lịch nhất thiết phải thể hiện một cách chi tiết các tuyến giao thông đến những điểm du lịch đang hoạt động và tiềm năng
Khi thể hiện mạng lưới giao thông đường thuỷ, cần cung cấp các thông tin sau:
Đối với các tuyến sông trong nước nên phân ra:
Loại bản đồ này thường được xây dựng khi quy hoạch phát triển và tổ chức lãnh thổ ở các tỉnh, các khu du lịch, điểm du lịch
Trong việc quy hoạch cấp tỉnh thì chỉ quan tâm chủ yếu đến mạng lưới và khả năng đảm bảo điện
Theo các chỉ tiêu kỹ thuật của ngành điện lực Việt Nam, cần phân biệt mạng lưới đường dây và trạm biến áp
Có thể dùng phương pháp areal để thể hiện những khu vực chưa được phủ mạng lưới điện dân dụng, đặc biệt lưu ý mức độ đảm bảo điện năng ở những khu vực có khả năng phát triển du lịch
Vị trí bưu cục ở gần trung tâm, điểm du lịch sẽ tạo thuận lợi cho khách du lịch sử dụng các dịch vụ bưu chính như gửi thư, đánh điện, gọi điện, gửi bưu kiện…
Về số lượng, cần thực hiện mức độ đảm bảo máy điện thoại công cộng, cơ quan, nhân dân trong địa bàn khu vực. Một số liệu đáng chú ý là khả năng phục vụ (dung lượng thiết kế) của các tổng đài trong khu vực so với số lượng máy đang khai thác
Mạng dây cáp trần; mạng cáp thông tin; mạng vi ba
4.3.1.4. Bản đồ cơ sở vật chất kỹ thuật
Các cơ sở lưu trú như nhà trọ, nhà nghỉ, khách sạn…
Các cơ sở nhà hang như nhà hang ăn, bar, cà phê, restaurant, cửa hang bán đồ lưu niệm…
Các cơ sở vui chơi giải trí như dancing, night-club, rạp hát, sân thể thao, bể bơi, khu vui chơi giải trí…
Các cơ sở nhà hang nói chung rất phong phú, không thể điều tra thống kê được. Chỉ nên tập trung thể hiện các cơ sở phục vụ ăn uống do ngành du lịch quản lý và những nhà hang ăn, nhà hang đặc sản, tiệm cà phê nổi tiếng trong khu vực
4.3.1.5. Bản đồ luồng khách
Thị trường khách du lịch là yếu tố tạo nhu cầu du lịch. Khách du lịch chủ yếu được phân thành khách nội địa, khách quốc tế. Khách quốc tế được phân theo nguồn gửi khách.
Đối với việc quy hoạch du lịch cấp tỉnh, ngoài nguồn gửi khách gốc cần lưu ý đến cửa khẩu mà qua đó khách quốc tế đến tỉnh
Trên bản đồ khách du lịch cần lưu ý đến số lượng khách vào theo các cửa ngõ giao thong của tỉnh, các điểm hấp dẫn khách du lịch (số lượng khách tham quan một điểm du lịch nào đó). Trong nhiều trường hợp, nội dung bản đồ này được thể hiện trên bản đồ các cơ sở lưu trú hay trên bản đồ dự báo thị trường khách du lịch. Phương pháp phù hợp để thể hiện nội dung cơ cấu và số lượng khách du lịch là phương pháp đường truyền động và cartodiagram
4.3.1.6. Bản đồ hiện trạng kinh tế du lịch
Trước khi đưa ra một dự án quy hoạch không gian du lịch, nhà quy hoạch du lịch cần nắm được hiện trạng hoạt động kinh tế của ngành. Những nội dung chính trong bản đồ này là lao động và doanh thu
Lao động trong ngành du lịch được phân thành lao động trực tiếp và lao động gián tiếp, lao động chuyên môn và lao động thời vụ, không có chuyên môn
Doanh thu được của các đơn vị cơ sở được tổng hợp theo từng khối nghiệp vụ. Qua chỉ tiêu lao động và doanh thu có thể xác lập được chỉ tiêu hiệu quả lao động
Phương pháp thể hiện bản đồ này bằng các biểu đồ kết hợp với ký hiệu
4.3.2. Nhóm bản đồ đánh giá
4.3.2.1.Bản đồ đánh giá tài nguyên du lịch tự nhiên
Để đánh giá các điều kiện tự nhiên phục vụ mục đích quy hoạch phát triển du lịch có thể căn cứ vào các yếu tố độ hấp dẫn, thời gian hoạt động du lịch, sức chứa khách du lịch, độ bền vững của môi trường tự nhiên, vị trí điểm du lịch, mật độ tập trung tài nguyên du lịch
Độ hấp dẫn là yếu tố rất quan trọng cần đặc biệt quan tâm khi quy hoạch. Chỉ tiêu này có tính tổng hợp rất cao.
Thời gian hoạt động du lịch được tính theo tổng số ngày có các điều kiện thời tiết thích hợp nhất cho loại hình du lịch.
Sức chứa khách du lịch là khả năng tiếp nhận một cách tối ưu khách du lịch vào một thời điểm nhất định cho một loại hình du lịch nào đó. Khi đánh giá chỉ tiêu này có thể lấy số lượng khách du lịch làm căn cứ.
Phương phap biểu hiện nội dung của loại bản đồ này là dung nền chất lượng, ký hiệu điểm và các đường biểu diễn
4.3.2.2. Bản đồ đánh giá tài nguyên du lịch nhân văn
Đánh giá tài nguyên nhân văn chủ yếu đánh giá tài nguyên di tích lịch sử văn hoá theo lãnh thổ, gồm các chỉ tiêu sau:
Trong đó chỉ tiêu mật độ được coi là chỉ tiêu quan trọng nhất. Có thể phân ra bốn cấp độ:
Trong quy hoạch du lịch, số lượng di tích được xếp hạng là chỉ tiêu dung để đánh giá chất lượng của di tích trong hoạt động du lịch. Thông thường những di tích được Bộ Văn hoá xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá loại đặc biệt quan trọng và các di sản văn hoá thế giới có sức hấp dẫn đặc biệt với du khách
Phương phap biểu hiện nội dung của loại bản đồ này là dung nền chất lượng và ký hiệu
4.3.2.3. Bản đồ đánh giá cơ sở hạ tầng
Thực chất nội dung đánh giá của bản đồ này có thể biểu thị ngay trên bản đồ hiện trạng và bao gồm những nội dung sau:
Độ chịu tải của đường giao thông là mật độ thông xe tối đa của tuyến mà con đường có thể chịu đựng
Độ chịu tải của phương tiện phục vụ là sức chứa tối đa cho phép của nó
4.3.2.4. Nhóm bản đồ định hướng phát triển và khai thác không gian lãnh thổ
Nội dung của bản đồ này gồm: các yếu tố của bản đồ nền như: đường ranh giới của tỉnh thành, đường biên giới, hệ thống kinh, vĩ độ, các tuyến đường giao thong, các nhà ga, bến cảng, sân bay, các đô thị, các điểm, khu du lịch, trung tâm du lịch, các tuyến du lịch
Nội dung của bản đồ này trong quy hoạch phát triển du lịch của các tỉnh thành còn thể hiện cả các vùng không gian phát triển du lịch như: không gian văn hoá lịch sử, không gian xanh, không gian phát triển các loại hình du lịch, có thể còn bổ trợ cả nội dung tài nguyên du lịch
Bản đồ định hướng phát triển và khai thác không gian du lịch trong quy hoạch các khu du lịch bao gồm các nội dung không gian xây dựng, cơ sở vui chơi giải trí, không gian sinh thái, không gian dành cho phát triển mở rộng trong tương lai.
Phương pháp thể hiện nội dung của loại bản đồ này là dung nền chất lượng, ký hiệu, đường biểu diễn.
Mục đích của loại bản đồ này chỉ ra khoảng cách, các hướng và không gian khai thác phát triển du lịch không chỉ của địa phương hoặc quốc gia nơi quy hoạch du lịch, mà còn của các địa phương lân cận, các quốc gia láng giền có các tuyến đường giao thong và những điều kiện tài nguyên môi trường kinh tế xã hội chính trị thuận lợi cho phát triển du lịch
Nội dung của bản đồ này bao gồm: không gian thuận lợi cho phát triển du lịch từ trung tâm du lịch của tỉnh hoặc trung tâm của vùng du lịch (bán kính nhỏ hơn 120km); không gian phát triển các loại hình du lịch như: du lịch sinh thái VQG, du lịch sinh thái văn hoá lễ hội, du lịch nghĩ dưỡng, di lịch cuối tuần, du lịch tham quan, du lịch hang động, du lịch nghỉ biển, du lịch văn hoá các tộc người, du lịch hội nghị hội thảo.
Nội dung bổ trợ của bản đồ này gồm các yếu tố nền và các điểm tham quan du lịch
Phương pháp thể hiện các nội dung của bản đồ này là nền chất lượng, khoanh vi, ký hiệu các điểm và đường biểu diễn.