Minh Triết Phương Đông Và Triết Học Phương Tây
Minh triết phương đông và
triết học
phương tây
Francois Jullien
Nguyên Ngọc dịch
François Jullien, giáo sư trường
Đại học
Denis Diderot Paris VII, giám đốc Viện
tư tưởng
hiện đại
và Viện Marcel Granet của trường này, là một nhà
triết học
nổi bật
hiện nay ở Pháp, và cả ở phương Tây nói chung. Các
tác phẩm
của ông rất
phong phú
,
chứng tỏ
một sức
sáng tạo
rất
dồi dào
, và cũng thật độc đáo. Trong nhiều năm qua, ông chăm chú
nghiên cứu
về minh triết phương Đông, hoặc nói cho thật đúng hơn, ông làm một cuộc
đối
chiếu
, ngày càng sâu sắc,
tinh vi
,
triệt để
giữa minh triết phương Đông
với
triết học
phương Tây, – không chỉ để
cố gắng
thấu hiểu đến
thực chất
của nền minh triết ấy như một cách, một khả năng
tư duy
khác, một khả năng
tư duy
nữa của
nhân loại
, bên cạnh
tư duy
của
triết học
– mà còn, như chính ông nói, trong và qua sự
đối chiếu
ấy, “giả thuyết của tôi là, bằng cách dựng lại minh triết một cách hữu
cơ như
một cực đối nghịch của
triết học
, ta có thể nhìn nhận lại
triết học
từ một cái bên ngoài nào đó… để có thể lần ngược trở lên những
thiên kiến
của nó”. Cuộc
tìm kiếm
này đương nhiên là
vô cùng
khó khăn, và
chúng ta
có thể thấy, qua nhiều
công trình
mới rất
phong phú
của ông, nó đang được
tiếp tục
đầy
triển vọng
, với
mong ước
, cũng như chính ông nói, “có thể chăng,
đến một ngày nào đó, chúng (
triết học
và minh triết) có
thể không
còn chia cắt
với nhau
nữa?”.
Viết
công trình
này
tác giả
qua lại giữa hai bờ của
thượng lưu
dòng sông
tư tưởng
nhân loại
:
tư tưởng
Trung Hoa cổ đại (là cơ sở để
nghiên cứu
minh triết phương Đông) và triết lý Hy Lạp cổ đại (là căn cứ để xác định
tư duy
triết học
phương Tây).
Francois Jullien (F.J) có
quan niệm
riêng trong sự định nghĩa và phân hoá hai khái niệm: minh triết (sagesse) và
triết học
(philosophie).
Trong các
ngôn ngữ
phương Tây những từ để gọi
triết học
(Pháp: philosophie, Anh: philosophy, Tây Ban Nha: filosofia, Nga: filosofija…) đều có gốc ở từ La Tinh philosophia. Phân tích từ nguyên từ này: Philo là yêu mến, sophia là minh triết, như vậy philosophia (
triết học
) là yêu mến, quý chuộng minh triết.
Francois Jullien không
quan tâm
đến
trật tự
trên dưới giữa minh triết và
triết học
, ông xem đây là hai phương thức
trí năng
(mode d’intelligibiltté) khác nhau, có thể bổ sung cho nhau.
So sánh
tư duy
của minh triết phương Đông và
tư duy
của
triết học
phương Tây,
tác giả
không làm công việc suy tư quẩn quanh về những chỗ giống nhau và khác nhau, không dừng lại ở sự
đối lập
dễ dãi
nữa
tư duy
duy lý phương Tây và
tư duy
huyền bí phương Đông hoặc
năng lực
phân tích của
tư duy
phương Tây và
năng lực
tổng hợp của
tư duy
phương Đông. Có một chiều sâu khác thường trong
phương pháp
luận
so sánh
văn hoá Đông Tây của
tác giả
có thể trình bày như sau: “Hiểu
lý trí
Âu Châu từ
lý trí
Trung Hoa và ngược
lại”, “suy tư Trung Hoa bằng Âu Châu và ngược lại”. Từ
tư duy
đối sánh chiều sâu được
bộc lộ
khá bất ngờ những nhược điểm cơ bản của minh triết
phương Đông
phải chăng
tác giả
muốn làm
sáng tỏ
ngọn nguồn trì trệ của phương thức sản xuất tinh thần?). Mặt khác, cũng nêu lên được những gì minh triết phương Đông ngộ được mà bất cập đối với
triết học
phương Tây.
Tác giả
đã nhập được vào phương thức
trí năng
của minh triết để ngộ và
tìm cách
trình bày những gì ngộ được bằng
ngôn ngữ
trí năng
của
triết học
phương Tây.
Mục đích
của
tác giả
làtrình dẫn dư
duy Trung
Hoa… sao
cho gây được những
hiệu quả
vang dội
trong
tư duy
Châu Âu “mà
vẫn có
mạch lạc” (coherent). Đọc
công trình
của Francois Jullien những
độc giả
“Tây giả” (Á và Âu) có thể thấy được rằng người
bà con
nghèo của
triết học
có những sở đắc – không lẩn thẩn chút nào – mà
triết học
bỏ tuột mất.
Nhan đề của
tác phẩm
Un sage est sans ideé có thể dịch sang tiếng Việt: Minh triết là “vô ý”.
Vô ý
là từ của
Khổng Tử
được trích từ một câu nói của
Khổng Tử
: Đức
Khổng Tử
chẳng hề có bốn điều lỗi này:
vô ý
, vô tất,
vô cố
,
vô ngã
(Tử tuyệt tứ:
vô ý
, vô tất,
vô cố
,
vô ngã
) [
Luận ngữ
, IX].
F.J đã hiểu như thế nào là
vô ý
, vô tất,
vô cố
, vô ngã?
XEM NỘI DUNG PHIÊN BẢN PDF:
François Jullien, giáo sư trườngDenis Diderot Paris VII, giám đốc Việnvà Viện Marcel Granet của trường này, là một nhàhiện nay ở Pháp, và cả ở phương Tây nói chung. Cáccủa ông rấtmột sứcrất, và cũng thật độc đáo. Trong nhiều năm qua, ông chăm chúvề minh triết phương Đông, hoặc nói cho thật đúng hơn, ông làm một cuộc, ngày càng sâu sắc,giữa minh triết phương Đông vớiphương Tây, – không chỉ đểthấu hiểu đếncủa nền minh triết ấy như một cách, một khả năngkhác, một khả năngnữa của, bên cạnhcủa- mà còn, như chính ông nói, trong và qua sựấy, “giả thuyết của tôi là, bằng cách dựng lại minh triết một cách hữumột cực đối nghịch của, ta có thể nhìn nhận lạitừ một cái bên ngoài nào đó… để có thể lần ngược trở lên nhữngcủa nó”. Cuộcnày đương nhiên làkhó khăn, vàcó thể thấy, qua nhiềumới rấtcủa ông, nó đang đượcđầy, với, cũng như chính ông nói, “có thể chăng, đến một ngày nào đó, chúng (và minh triết) cócòn chia cắtnữa?”.Viếtnàyqua lại giữa hai bờ củadòng sôngTrung Hoa cổ đại (là cơ sở đểminh triết phương Đông) và triết lý Hy Lạp cổ đại (là căn cứ để xác địnhphương Tây).Francois Jullien (F.J) córiêng trong sự định nghĩa và phân hoá hai khái niệm: minh triết (sagesse) và(philosophie).Trong cácphương Tây những từ để gọi(Pháp: philosophie, Anh: philosophy, Tây Ban Nha: filosofia, Nga: filosofija…) đều có gốc ở từ La Tinh philosophia. Phân tích từ nguyên từ này: Philo là yêu mến, sophia là minh triết, như vậy philosophia () là yêu mến, quý chuộng minh triết.Francois Jullien khôngđếntrên dưới giữa minh triết và, ông xem đây là hai phương thức(mode d’intelligibiltté) khác nhau, có thể bổ sung cho nhau.của minh triết phương Đông vàcủaphương Tây,không làm công việc suy tư quẩn quanh về những chỗ giống nhau và khác nhau, không dừng lại ở sựnữaduy lý phương Tây vàhuyền bí phương Đông hoặcphân tích củaphương Tây vàtổng hợp củaphương Đông. Có một chiều sâu khác thường trongluậnvăn hoá Đông Tây củacó thể trình bày như sau: “HiểuÂu Châu từTrung Hoa và ngược lại”, “suy tư Trung Hoa bằng Âu Châu và ngược lại”. Từđối sánh chiều sâu đượckhá bất ngờ những nhược điểm cơ bản của minh triết phương Đôngmuốn làmngọn nguồn trì trệ của phương thức sản xuất tinh thần?). Mặt khác, cũng nêu lên được những gì minh triết phương Đông ngộ được mà bất cập đối vớiphương Tây.đã nhập được vào phương thứccủa minh triết để ngộ vàtrình bày những gì ngộ được bằngcủaphương Tây.củalàtrình dẫn dưHoa… sao cho gây được nhữngtrongChâu Âu “màmạch lạc” (coherent). Đọccủa Francois Jullien những”Tây giả” (Á và Âu) có thể thấy được rằng ngườinghèo củacó những sở đắc – không lẩn thẩn chút nào – màbỏ tuột mất.Nhan đề củaUn sage est sans ideé có thể dịch sang tiếng Việt: Minh triết là “vô ý”.là từ củađược trích từ một câu nói của: Đứcchẳng hề có bốn điều lỗi này:, vô tất,(Tử tuyệt tứ:, vô tất,) [, IX]. F.J đã hiểu như thế nào là, vô tất,, vô ngã?XEM NỘI DUNG PHIÊN BẢN PDF:
Minh triết phương đông và triết học phương tây PDF