TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk
121
NHẬN THỨC VỀ “VĂN HÓA DU LỊCH”
VÀ “DU LỊCH VĂN HÓA”
AWARENESS ON “TOURISM CULTURE”
AND “CULTURAL TOURISM”
PHAN HUY XU
và VÕ VĂN THÀNH
PGS.TS. Trường Đại học Văn Lang, Email: [email protected]
ThS. Trường Đại học Văn Lang, Email: [email protected]
TÓM TẮT: Du lịch là một ngành công nghiệp đặc biệt, được ví von là ngành “công
nghiệp không khói”, “con gà đẻ trứng vàng”. Nhận thức được tầm quan trọng của ngành
du lịch trong cơ cấu kinh tế Việt Nam, Nhà nước ta đã đề ra chiến lược để phát triển du
lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn. Việc hiểu rõ các thuật ngữ chuyên ngành du lịch
để làm việc hiệu quả là một nhu cầu thiết thực đối với các nhà quản lý du lịch, những
người công tác trong ngành du lịch. Lâu nay, nhiều người công tác trong ngành du lịch
còn có sự nhầm lẫn giữa hai thuật ngữ văn hóa du lịch và du lịch văn hóa, nhưng thực ra
chúng khác nhau về nội hàm của khái niệm. Nhận diện và phân biệt rõ hai thuật ngữ này
là một nhu cầu cần thiết trong phát triển du lịch, đặc biệt là vấn đề văn hóa du lịch đang
đặt ra đối với ngành du lịch Việt Nam. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi bàn về thuật
ngữ văn hóa du lịch và du lịch văn hóa cũng như đề cập đến hệ giá trị của văn hóa du lịch
được tích lũy và sáng tạo trong hoạt động du lịch.
Từ khóa: văn hóa du lịch, du lịch văn hóa, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị của văn hóa du
lịch.
ABSTRACT: Tourism is a special industry, the industry is similar as “the smokeless
industry”, “the chicken laying golden egg”. Recognizing the importance of the tourism
industry, Vietnam have set out a strategy to develop tourism industry into a spearhead
economic sector. Understanding the terms of tourism industry in other to work effectively
as a practical demand for tourism managers or for whom work in the tourism industry.
However, such a long time, many people who are working in the tourism industry have
been confused the two terms of Tourism culture. We thought they are synonymous, but in
fact they are quite different in connotation of the concept. Identifying and distinguishing
two these terms are a necessity in other to develop tourism, especially tourism culture is a
matter of Vietnam tourism industry. In this paper, we try to clarify the function of the two
terms Tourism culture and Cultural tourism as well as the value system of tourism culture
which is accumulated and created by who involve in tourism activities.
Key words: tourism culture, culture tourism, value system of culture, value system of
tourism culture.
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 01 / 2017
122
1. VĂN HÓA DU LỊCH LÀ GÌ
Văn hóa du lịch được một số nhà nghiên
cứu trong các ngành văn hóa, du lịch đề cập,
thế nhưng cho đến nay, vẫn chưa có một
công trình nghiên cứu mang tính chất lý luận
nền tảng về văn hóa du lịch. Và với tư cách là
một bộ môn khoa học, văn hóa du lịch chưa
được giảng dạy rộng rãi tại các trường đại
học, cao đẳng và trung cấp có đào tạo về du
lịch. Vấn đề xác định đối tượng nghiên cứu,
nội dung cần nghiên cứu của Bộ môn Văn
hóa du lịch vẫn chưa có sự thống nhất giữa
các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học trong
ngành du lịch.
Thiên về cách tiếp cận ứng xử và kết
hợp với cách tiếp cận giá trị (triển khai
trong công trình nghiên cứu Bàn về văn hóa
du lịch Việt Nam) sẽ phù hợp hơn đối với
vấn đề văn hóa du lịch. Chúng tôi đưa ra
khái niệm văn hóa du lịch như sau: Văn
hóa du lịch là một hệ thống các giá trị được
du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch,
cộng đồng dân cư và nhà nước tích lũy,
sáng tạo qua biểu hiện tương tác giữa các
thành tố trên trong hoạt động du lịch và với
tài nguyên du lịch.
Khái niệm văn hóa du lịch nêu trên bao
gồm 5 thành tố có mối quan hệ biện chứng
với nhau mà nếu thiếu bất kỳ một thành tố
nào trong hệ thống đó sẽ dẫn đến việc hiểu
chưa chính xác về văn hóa du lịch. Năm
thành tố của văn hóa du lịch đó là Tài
nguyên du lịch (còn gọi là khách thể trong
hoạt động du lịch, gọi tắt là khách thể du
lịch); du khách (chủ thể của hoạt động du
lịch, gọi tắt là chủ thể du lịch); các tổ chức
và cá nhân kinh doanh du lịch có liên quan
đến việc điều hành, phối hợp và tạo ra các
sản phẩm du lịch cụ thể (gọi tắt là nhà cung
ứng dịch vụ du lịch); cộng đồng dân cư với
tư cách là chủ thể văn hóa tại chỗ và Nhà
nước với vai trò quản lý và giám sát mọi
hoạt động du lịch. Ba nhóm đối tượng đầu
của văn hóa du lịch nghiên cứu văn hóa
ứng xử của các nhóm đối tượng (du khách,
nhà cung ứng dịch vụ du lịch và cộng đồng
địa phương) => Nghiên cứu nhận thức, thái
độ và hành vi rất cụ thể (cái vi mô). Trong
khi đó, Nhà nước đưa ra các chính sách,
chủ trương nhằm định hướng và điều chỉnh
hành vi văn hóa (văn hóa ứng xử) trong du
lịch sao cho phù hợp với đạo đức của xã
hội, luật pháp và hội nhập quốc tế (cái vĩ
mô). Tuy nhiên, trong mối tương quan giữa
cái vi mô và cái vĩ mô, chính cái vĩ mô sẽ
tác động nhiều đến cái vi mô và ngược lại.
Cụ thể trong trường hợp nghiên cứu văn
hóa ứng xử trong du lịch: nội dung nghiên
cứu văn hóa du lịch là việc kỳ vọng xây
dựng nên giá trị cốt lõi về du lịch của quốc
gia, địa phương và điểm đến nhằm phát
triển du lịch một cách bền vững (hướng đến
việc cân bằng giữa bảo tồn và phát triển).
Điều này hoàn toàn phù hợp với chủ
trương, chính sách và định hướng quản lý
phát triển du lịch của Nhà nước. Thậm chí,
một số chủ trương và chính sách của Nhà
nước trở thành những căn cứ để xây dựng
bộ quy tắc ứng xử trong phát triển du lịch.
Như thế, rõ ràng hệ giá trị (Value System)
của quản lý Nhà nước trong phát triển du
lịch gặp gỡ hệ giá trị văn hóa du lịch. Qua
đó có thể nhận thấy văn hóa du lịch hướng
đến nghiên cứu những cái cụ thể (cái vi
mô) trên cơ sở tham chiếu các quy định
chuẩn mang tầm vĩ mô.
Có thể sơ đồ hóa các thành tố của văn
hóa du lịch như sau:
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk
123
Sơ đồ. Các thành tố cấu thành văn hóa
du lịch
Như vậy, thực chất của văn hóa du lịch
là mối quan hệ ứng xử giữa các thành tố:
tài nguyên du lịch, du khách, nhà cung ứng
dịch vụ du lịch, cộng đồng địa phương và
nhà nước nhằm tạo ra một hệ thống giá trị,
từ đó nó thỏa mãn các đối tượng tham gia
vào hoạt động du lịch. Trong bài viết này,
chúng tôi không có điều kiện bàn chi tiết
đến mối quan hệ giữa các thành tố cấu
thành nên văn hóa du lịch [1, tr.46-59]. Chỉ
xin nói thêm về giá trị văn hóa và giá trị
văn hóa du lịch là gì.
Nói tới văn hóa là nói tới thành quả mà
một dân tộc, một cộng đồng người hay
thậm chí một con người đã đạt được trong
quan hệ với thiên nhiên, với xã hội và sự
phát triển của chính bản thân mình. Văn
hóa còn là thái độ, trách nhiệm và những
quy tắc ứng xử của mỗi người trong quan
hệ giữa bản thân mình với những người
xung quanh, gia đình bè bạn, xã hội, môi
trường và giao lưu quốc tế... Giá trị văn hóa
của một con người hay của một dân tộc là
những giá trị không phải có được trong một
sớm một chiều, song nó cũng không phải là
hoàn toàn bất biến. Nó luôn phát triển cùng
với sự phát triển của kinh tế, cách thức tổ
chức xã hội và sự phát triển trong nội tại
của mỗi con người cả về vật chất lẫn tinh
thần [9, tr.37]. Giá trị của văn hóa du lịch là
một tiểu hệ thống của giá trị văn hóa do các
đối tượng tham gia vào hoạt động du lịch
tích lũy và sáng tạo trong quá trình hoạt
động du lịch. Do đó, nói đến giá trị của văn
hóa du lịch là muốn nói đến giá trị mà các
đối tượng tham gia vào hoạt động du lịch
tạo ra, đó là: sự tương tác giữa du khách
với tài nguyên du lịch, tổ chức cung ứng du
lịch và cộng đồng dân cư; ứng xử giữa
cộng đồng dân cư với tài nguyên du lịch,
du khách và nhà cung ứng dịch vụ du lịch;
ứng xử giữa nhà cung ứng dịch vụ du lịch
với du khách với vai trò là khách hàng,
giữa nhà cung ứng dịch vụ du lịch với việc
khai thác tài nguyên du lịch và mối liên kết
với cộng đồng dân cư để tạo ra sản phẩm
du lịch hấp dẫn, độc đáo và đặc thù. Hơn
thế nữa, sự tương tác giữa các nhóm đối
tượng trên là đa chiều nhằm nhận thức, bảo
tồn, làm giàu, khai thác và thụ hưởng các
giá trị tài nguyên du lịch. Du khách đạt
được mục đích của chuyến đi là thụ hưởng
các giá trị tài nguyên du lịch tại các điểm
đến. Nhà cung ứng dịch vụ du lịch đạt được
mục đích là bán được sản phẩm có chất
lượng cao, thu lợi nhuận chính đáng và góp
phần tôn tạo tài nguyên du lịch và chia sẻ
lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội với cộng
đồng địa phương. Cộng đồng địa phương
thu được lợi ích kinh tế được trả bằng tiền
hoặc hiện vật trực tiếp từ du khách hoặc
thông qua nhà cung ứng dịch vụ du lịch và
hơn thế nữa, họ còn giao lưu, tiếp biến văn
hóa với du khách, góp phần bảo tồn, làm
giàu và phát huy các giá trị của thiên nhiên
và văn hóa nơi cộng đồng của họ đang sinh
sống. Đối với tài nguyên du lịch, nó được
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 01 / 2017
124
các nhóm đối tượng tham gia vào hoạt
động du lịch bảo tồn, tôn tạo để phát huy
giá trị lâu dài. Nhà nước có chức năng điều
hòa mối quan hệ giữa các nhóm đối tượng
có liên quan trong hoạt động du lịch nhằm
quảng bá giá trị di sản văn hóa, thiên nhiên
và nâng cao hình ảnh quốc gia trên trường
quốc tế. Chúng tôi cho rằng, đó là hệ giá trị
của văn hóa du lịch.
2. DU LỊCH VĂN HÓA LÀ GÌ
Để có cái nhìn rộng hơn về du lịch văn
hóa là gì, chúng tôi nêu lên một số ý kiến
của các chuyên gia và các tổ chức trong
lĩnh vực du lịch.
Theo nhóm tác giả Trần Thúy Anh
trong giáo trình Văn hóa du lịch – Những
vấn đề lý luận và ứng dụng: “du lịch văn
hóa là một loại hình chủ yếu hướng vào
việc quy hoạch, lập trình, thiết kế các tour
lữ hành tham quan các công trình văn hóa
cổ kim” [9, tr.22].
“Du lịch văn hóa là du lịch dựa trên
các chương trình, sản phẩm du lịch chủ yếu
khai thác các giá trị, các loại hình văn hóa
như di tích, lễ hội, nghệ thuật, tín ngưỡng,
tôn giáo, ẩm thực nhằm tạo điều kiện cho
du khách tìm hiểu, khám phá về các nền
văn minh, văn hóa dân tộc, địa phương
vùng, miền... hệ thống giá trị lịch sử - văn
hóa của các địa danh như đã nêu ở trên rõ
ràng là cơ sở nền tảng vững chắc để có thể
“thiết kế” thành những “điểm đến” hấp dẫn
với những chương trình sản phẩm dịch vụ
du lịch mang hàm lượng văn hóa cao” [4,
tr. 290].
Theo Dương Hồng Hạnh: “du lịch văn
hóa bao gồm hoạt động của những người
với động cơ chủ yếu là nghiên cứu, khám
phá về văn hóa như các chương trình
nghiên cứu, tìm hiểu về nghệ thuật biểu
diễn, về các lễ hội và các sự kiện văn hóa
khác nhau, thăm các di tích và đền đài, du
lịch nghiên cứu thiên nhiên, văn hóa hoặc
nghệ thuật dân gian và hành hương” [2,
tr.165].
Như vậy, du lịch văn hóa là loại hình
du lịch mà khách muốn tìm hiểu và thẩm
nhận về văn hóa, lịch sử dân tộc của nước
sở tại thông qua di sản văn hóa, di tích lịch
sử văn hóa, lễ hội truyền thống, làng nghề,
những phong tục tập quán, cách tổ chức
cộng đồng, lối sống của một dân tộc v.v...
du lịch văn hóa về cơ bản mà nói, nó sử
dụng nguồn tài nguyên du lịch văn hóa để
làm nền tảng xây dựng nên sản phẩm du
lịch. Về tài nguyên du lịch văn hóa, Luật du
lịch Việt Nam [5] gọi là tài nguyên du lịch
nhân văn bao gồm “Truyền thống văn hóa,
các yếu tố văn hóa, văn nghệ dân gian, di
tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc,
các công trình lao động sáng tạo của con
người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật
thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục
đích du lịch” [5, tr. 17]. Trong loại hình du
lịch văn hóa có thể được chia nhỏ thành
nhiều loại du lịch khác như: du lịch di tích
lịch sử, du lịch phố cổ, du lịch lễ hội, du
lịch di sản văn hóa... Ngoài ra, chúng ta còn
có du lịch văn hóa đại trà cho nhiều đối
tượng và du lịch văn hóa chuyên sâu cho
một vài loại khách đặc biệt muốn tìm hiểu
sâu về văn hóa. Cũng theo Luật du lịch Việt
Nam [5]: “du lịch văn hóa là hình thức du
lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự
tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và
phát huy các giá trị truyền thống” [5, tr.
11]. Dương Văn Sáu cho rằng: “du lịch văn
hóa là loại hình du lịch khai thác giá trị của
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk
125
các thành tố trong kho tàng di sản văn hóa
Việt Nam nhằm đáp ứng và thỏa mãn các
nhu cầu của du khách mà vẫn bảo tồn và
phát huy giá trị của văn hóa dân tộc” [3].
Theo Tổ chức du lịch Thế giới
(UNWTO): “du lịch văn hóa bao gồm hoạt
động của những người với động cơ chủ yếu
là nghiên cứu, khám phá về văn hóa như
các chương trình nghiên cứu, tìm hiểu về
nghệ thuật biểu diễn, về các lễ hội và các
sự kiện văn hóa khác nhau, thăm các di tích
và đền đài, du lịch nghiên cứu thiên nhiên,
văn hóa hoặc nghệ thuật dân gian và hành
hương”. Hội đồng Quốc tế các di chỉ và di
tích (ICOMOS) thì lại cho rằng: “du lịch
văn hóa là loại hình du lịch mà mục tiêu là
khám phá những di tích và di chỉ. Nó mang
lại những ảnh hưởng tích cực bằng việc
đóng góp vào việc di tu, bảo tồn. Loại hình
này trên thực tế đã minh chứng cho những
nổ lực bảo tồn và tôn tạo, đáp ứng nhu cầu
của cộng đồng vì những lợi ích văn hóa -
kinh tế - xã hội” [10, tr.7].
Như vậy, du lịch văn hóa trước hết là
một loại hình du lịch (như đã đề cập) cũng
như nhiều loại hình du lịch khác. Du lịch
văn hóa lấy chỗ dựa cơ bản là tài nguyên
du lịch văn hóa, đó là bản sắc văn hóa dân
tộc, nhưng nói rộng ra là dựa vào văn hóa
mà văn hóa là tất cả những gì con người
sáng tạo ra và tích lũy trong quá trình sống
của mình [7],[8]. Nói đến du lịch văn hóa,
chúng tôi muốn nhấn mạnh đến việc thẩm
nhận, thụ hưởng các giá trị văn hóa tại chỗ
của du khách tại các điểm đến mang đậm
chất văn hóa do con người sáng tạo và tích
lũy trong suốt quá trình lịch sử của họ.
Du lịch văn hóa tận dụng tất cả các giá
trị văn hóa vật thể và phi vật thể có sức hấp
dẫn du khách và trở thành một bộ phận của
tài nguyên du lịch. Du lịch văn hóa còn là
phương thức để đánh thức giá trị văn hóa
tiềm năng của một dân tộc. Thông qua du
lịch, các giá trị văn hóa phát lộ và đem lại
lợi ích thiết thực cho quốc gia và dân tộc.
Nhờ có du lịch nói chung và du lịch văn
hóa nói riêng mà nhiều quốc gia và dân tộc
trên thế giới đã tiến hành trùng tu, tôn tạo
các di tích lịch sử văn hóa vật chất và phục
nguyên các giá trị văn hóa tinh thần (văn
hóa phi vật thể) vốn lâu nay bị lãng quên
hay chìm đắm trong nhiều sự kiện khác của
quốc gia và dân tộc. Nhờ có du lịch văn
hóa mà các di sản văn hóa được bảo vệ,
trùng tu, tôn tạo đồng thời với việc xây
dựng mới các công trình văn hóa đương
đại, làm phong phú thêm giá trị văn hóa,
văn minh đương đại của quốc gia và dân
tộc.
Từ những lập luận trên chúng ta muốn
khẳng định lại rằng, du lịch văn hóa là một
loại hình du lịch trong nhiều loại hình du
lịch khác có thể kể ra đây như du lịch sinh
thái, du lịch thể thao, du lịch nghỉ dưỡng,
du lịch khám phá, du lịch MICE v.v. Nó là
một sản phẩm cụ thể của quá trình kết hợp
tài nguyên du lịch văn hóa và các dịch vụ
cần thiết như cơ sở hạ tầng, phương tiện
vận chuyển, quảng bá sản phẩm v.v...
3. KẾT LUẬN
Từ ngày đổi mới cho đến nay, du lịch
nước ta đang từng bước phát triển đáng
khích lệ. Về doanh thu, lượng khách, nhiều
người nước ngoài biết đến Việt Nam là một
đất nước có nhiều danh lam thắng cảnh, có
nền văn hóa lâu đời, con người hiếu khách
và thân thiện, giúp nâng cao vị thế nước ta
trên trường quốc tế. Tiềm năng du lịch lớn,
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Số 01 / 2017
126
nhiều danh lam thắng cảnh, di sản văn hóa
mang tầm cỡ thế giới, dân tộc Việt Nam
thân thiện, mến khách nhưng ngành du lịch
nước ta phát triển chưa tương xứng với
tiềm năng và cho đến nay du lịch Việt Nam
chưa thực sự trở thành một ngành kinh tế
mũi nhọn như được kỳ vọng. Hơn nữa, so
với các nước trong khu vực, du lịch Việt
Nam có số lượng khách tăng chậm, doanh
thu chưa cao, du khách nước ngoài ít trở lại
Việt Nam.
Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng một
nguyên nhân chủ yếu là văn hóa ứng xử
trong du lịch còn nhiều bất cập. Phó Thủ
tướng Vũ Đức Đam đã đề cập đến 6 điều
đáng sợ với du khách khi đến Việt Nam,
đó là tình trạng “làm giá, chặt chém”, giao
thông Việt Nam không an toàn, tình trạng
ăn xin, ăn cắp vặt, vệ sinh an toàn thực
phẩm kém, vệ sinh môi trường bẩn. Suy
đến cùng, đó là văn hóa du lịch của chúng
ta còn nhiều vấn đề bất cập đã ảnh hưởng
đến sự phát triển du lịch Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập quốc tế. Do đó, công việc
cần thiết và cấp bách hiện nay là nhận thức
đúng đắn về tầm quan trọng của văn hóa du
lịch, cũng như hệ giá trị của nó như một lý
luận nền tảng cho sự phát triển du lịch Việt
Nam và triển khai nó trong thực tế phát
triển.
Hơn nữa, ngày nay du lịch không chỉ
còn “ngắm cảnh” hoặc “viếng thăm” mà du
khách đến Việt Nam cần tìm hiểu sâu và
thụ hưởng những giá trị văn hóa đặc sắc
của dân tộc Việt Nam và đó là vấn đề của
du lịch văn hóa. Du lịch Việt Nam trước
đây nặng về khai thác tài nguyên du lịch
sẵn có hay thậm chí còn có tình trạng lẫn
lộn giữa tài nguyên du lịch và sản phẩm du
lịch. Với tình hình hội nhập quốc tế hiện
nay, du lịch Việt Nam cần phải có sự “lột
xác” căn bản, phải có bước “đột phá” về
chất lượng, nâng cao giá trị sản phẩm và
dịch vụ du lịch, đậm tính văn hóa. Suy cho
cùng, mọi mục đích của du lịch đều hàm
chứa yếu tố văn hóa, nếu không muốn nói
là rất văn hóa vì: mục đích trí tuệ (hiểu
biết), mục đích tinh thần (vui vẻ, sảng
khoái, tận hưởng), mục đích tình cảm, mục
đích nhân bản (yêu con người, yêu thiên
nhiên, yêu hòa bình, đoàn kết hữu nghị các
dân tộc...), mục đích vì sức khỏe... Ứng xử
là một yếu tố cấu thành bản sắc văn hóa
dân tộc. Bất cứ dân tộc nào cũng có hiện
tượng tiếp nhận nhiều yếu tố văn hóa ngoại
sinh nhưng vẫn có bản sắc riêng phong
phú. Nhờ bản sắc đó mà hình thành sự khác
biệt giữa văn hóa dân tộc này và văn hóa
dân tộc khác [9].
Chúng tôi bàn về văn hóa du lịch và du
lịch văn hóa như đã trình bày trên với
mong muốn được các nhà nghiên cứu bàn
bạc, mổ xẻ thêm để có một nhận thức
(Epistemology) hợp lý nhất về chúng cũng
như giải quyết tốt mối quan hệ giữa khách
thể du lịch, du khách, nhà cung ứng dịch vụ
du lịch, cộng đồng dân cư và nhà nước.
Mục tiêu sau cùng của việc nhận thức về lý
luận là áp dụng chúng vào thực tiễn để tạo
ra một hệ giá trị của văn hóa du lịch nhằm
nâng cao sức cạnh tranh cùng thắng cảnh
của du lịch Việt Nam với các nước trong
khu vực ASEAN cũng như trên phạm vi
quốc tế rộng lớn hơn, thúc đẩy du lịch nước
ta phát triển ở một tầm cao mới. Một vấn
đề nữa tuy không liên quan đến vấn đề
đang bàn bạc cụ thể ở đây nhưng chúng tôi
cũng muốn phát biểu, đó là, hiện nay, nhiều
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN LANG Phan Huy Xu và tgk
127
cơ sở đào tạo ở bậc đại học và cao đẳng về
du lịch vẫn chưa đưa bộ môn văn hóa du
lịch vào giảng dạy và thực hành nhằm nâng
cao hiệu quả của hoạt động du lịch. Chúng
tôi mong muốn bộ môn Văn hóa du lịch
sớm được đưa vào giảng dạy tại các cơ sở
đào tạo về du lịch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bàn về khái niệm văn hóa du lịch, Tạp chí Văn hóa & Nguồn lực, số 5/2016 và công
trình mới nhất Bàn về văn hóa du lịch Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
2. Dương Hồng Hạnh (2015), Du lịch văn hóa Việt Nam trong thời kỳ toàn cầu hóa, in
trong Toàn cầu hóa du lịch và Địa phương hóa du lịch, Nxb. Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh.
3. Dương Văn Sáu, Văn hóa du lịch: Sản phẩm của Văn hóa Việt Nam trong tiến trình hội
nhập, toàn cầu hóa hiện nay, đăng trên website: dulichsaigonact.vn và website: Văn
hóa học.
4. Huỳnh Quốc Thắng (2015), Địa danh với toàn cầu hóa và địa phương hóa du lịch, in
trong Toàn cầu hóa du lịch và Địa phương hóa du lịch, Nxb. Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh.
5. Luật du lịch Việt Nam (2005) và văn bản hướng dẫn thi hành (2013), Nxb. Chính trị
Quốc gia.
6. Phan Huy Xu & Võ Văn Thành 2016a: “Bàn về khái niệm văn hóa du lịch”, tạp chí Văn
hóa & Nguồn lực, số 5/2016.
7. Trần Ngọc Thêm 2004: Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh.
8. Trần Ngọc Thêm 2013: Những vấn đề về Văn hóa học – Lý luận và ứng dụng, NXb. Văn
hóa - Văn nghệ.
9. Trần Thúy Anh (cb) 2010: Ứng xử văn hóa trong du lịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội.
10. Trần Thúy Anh (Chủ biên, 2014). Giáo trình du lịch văn hóa – Những vấn đề lý luận
và nghiệp vụ, Nxb. Giáo dục Việt Nam.
11. Trần Thúy Anh, Ứng xử văn hóa trong du lịch, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 07-11-2016. Ngày biên tập xong: 27-11-2016. Duyệt đăng: 15/12/2016