Những Danh nhân văn hóa Việt Nam thời hiện đại — Diễn Đàn Forum

Diễn
từ bế mạc lễ trao giải Văn hóa
Phan Châu Trinh 2015

Những
Danh nhân văn hóa Việt Nam
thời hiện đại

Nguyên
Ngọc

Thưa

Hôm
nay, rất đúng hẹn, chúng ta lại
gặp nhau trong không gian đầm ấm này,
cho một sự kiện trang trọng: Lễ trao
giải Văn hóa Phan Châu Trinh lần thứ
8. Nếu kể cả lần trao giải năm
2007 của Quỹ Dịch Thuật Phan Châu
Trinh, tiền thân của Quỹ Văn hóa
Phan Châu Trinh, thì đây là lần
thứ 9.Vậy là chúng ta đã cùng
nhau đi được một chặng đường
dài 9 năm, và tôi nghĩ với tất
cả lòng khiêm tốn vẫn có thể
nói rằng, bằng một sinh hoạt đều
đặn, nhẹ nhàng và giản dị,
thân mật mà thâm trầm, chúng ta
đã tạo nên được gần như
là một tục lệ văn hóa mới
tốt đẹp và hằng năm được
mong đợi. Được mong đợi, đúng
thế, bởi vì quả thật mỗi năm
ở đây chúng ta lại được
gặp không chỉ những diện mạo văn
hóa xứng đáng, với những công
trình, không ít khi là những sự
nghiệp đồ sộ, đa dạng, sâu
sắc và đầy gợi mở được
phát hiện, phát hiện lại, để
tôn vinh và từ đó giới thiệu
rộng rãi với toàn xã hội; mà
cũng qua chính những con người đáng
kính ấy và các công trình tâm
huyết của họ, từng nêu lên, thống
thiết và đầy trách nhiệm với
toàn xã hội những vấn đề
bức thiết và nhiều khi khá cơ
bản về văn hóa và tinh thần,
nghĩa là về nền tảng tồn tại
và phát triển của đất nước.

Thật
vui mừng là năm nay truyền thống đó
vẫn được giữ vững.

“Học
vấn chỉ là phương tiện của
giáo dục. Hoạt động mới là
cứu cánh của nó


Xin
được nói trước hết về
Giải thưởng Giáo dục, lần này
được trao cho nhà giáo lão thành
Phạm Toàn đã ngoại bát tuần
và nhóm Cánh Buồm phơi phới trẻ
trung của ông. Như chúng ta đều
biết, trừ với Hồ Ngọc Đại,
hai giải thưởng về giáo dục trước
đây đã được trao cho Giáo
sư Hoàng Tụy và Hiệu trưởng
Bùi Trân Phượng, là những chuyên
gia toàn diện về giáo dục, song
thường đã tập trung rất đúng
đắn quan tâm và nỗ lực vào
đại học vốn là một trong những
khâu yếu nhất trong hệ thống giáo
dục chúng ta hiện nay. Lần này thì
là những người khởi sự từ
một đầu khác, ngược lại, từ
khâu thấp nhất, tiểu học.Và họ
có cái lý sâu sắc của họ.
Nếu quả thật thiêng liêng nhất
của giáo dục là tạo nên con
người tự do cho đất nước thật
sự tự do – bởi không có nó
thì mọi thứ trên đời này
có to tát đến mấy, kể cả
độc lập, đều thảy vô nghĩa
–thì con người đó phải được
tạo nên, đúng hơn nữa là tự
tạo nên ngay từ đầu, khởi thủy
đã là tự do, bằng tự do, và
lại chỉ có thể duy nhất với
phương pháp tự do. Nhà triết học
François Jullien có ví tâm trí con
người với một tờ giấy bạc
(mà ta thường thấy dùng gói các
bao thuốc lá) một khi đã bị vò
nhàu đi rồi thì sẽ không thể
nào vuốt lại cho phẳng được
hoàn toàn, trong sáng sạch sẽ hoàn
toàn. Vẫn thường nghe nói giáo
dục hiện nay rất nặng áp đặt,
áp đặt tư duy, áp đặt kiến
thức, áp đặt chân lý có
sẵn và từ đâu đó tít
trên cao, áp đặt đồng phục…
Áp đặt là nói cho sang, đúng
tên thì ấy chính là nô lệ.
Tôi nghĩ rằng tư duy lớn nhất, đẹp
đẽ nhất của Cánh Buồm là
quyết không để cho người ta biến
trẻ con thành nô lệ, không để
tâm trí con trẻ bị nhàu nát
ngay từ đầu bằng những nếp gấp
nô lệ sẽ suốt đời không còn
gỡ ra cho sạch hết được. Họ
tin rằng nếu học là khám phá
thế giới, và qua đó tự khám
phá chính mình, thì đối với
một con người thế giới chỉ được
thật sự khám phá khi tự mình
làm phám phá đó, đi lại
con đường khám phá đó, tự
mình “thi công” khám phá đó
như cách nói của Phạm Toàn và
Cánh Buồm. Và như vậy, tức cũng
chịu trách nhiệm về khám phá
của mình, về chân lý do tự mình
“thi công” mà tìm ra và có 
được cho mình. Đấy cũng là
ý nghĩa đích thực của điều
được gọi là “tự học”.
Tự học không chỉ là học ở
ngoài nhà trường, mà là tự
mình làm lấy để mà học,
như nhà giáo dục lớn John Dewey từng
nói: “Giáo dục tự nó là
hoạt động sống chứ không phải
là sự chuẩn bị cho cuộc sống
tương lai”. Hoạt động quan trọng
nhất ngay trong nhà trường cũng phải
là sống, tức là tự học, không
có tự học thì không thật sự
có giáo dục. Cũng không còn là
sống. Hay như khẳng định của vị
Bộ trưởng giáo dục đầu tiên
của Chính phủ nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa Vũ Đình Hòe: “Học
vấn chỉ là phương tiện của
giáo dục. Hoạt động mới là
cứu cánh của nó”. Trong giáo
dục, đấy là con đường duy
nhất để tạo nên con người tự
do. Vậy đó, một định nghĩa về
tự do, về giáo dục tự do vì con
người tự do, ngắn gọn, rõ ràng,
cơ bản. Nhân đây cho phép tôi
được nói điều này: điều
ta vẫn mong muốn được gọi đích
danh là Cải cách giáo dục, công
việc hiện nay được gọi là
Đổi mới toàn diện và căn
bản giáo dục, chủ trương to tát
ấy sẽ chẳng đi đến đâu
hết, sẽ vẫn mãi lúng túng,
loay hoay, chắp vá, rối ren…, nếu nó
còn không xác định được
rõ ràng và chắc chắn điều
vừa nói trên đây. Đấy có
thể là ý nghĩa của cái sự
kiện ta đang nói đến hôm nay, có
tên là Cánh Buồm.

Cánh
Buồm không chỉ nghĩ và nói, Cánh
Buồm làm. Sáu năm nay, lặng lẽ,
bắt đầu hoàn toàn từ tay
không, một nhà giáo già từng
trải và không nguôi trằn trọc vì
giáo dục, cùng một nhóm 6 người,
rồi dần dần non 20 người rất trẻ
trung, trong sáng và hăng hái, họ
hình thành một tổ chức kỳ lạ,
không một đồng xu tài trợ của
Nhà nước, nghĩa là không tốn
một đồng thuế của dân, không
ai có một đồng lương của tổ
chức, mỗi người tự tìm lấy
cách riêng mà sống, họ căm cụi
làm việc, tận tụy, thiện nguyện,
thậm chí khó nhọc xin mãi để
được làm không công. Và họ
đã cho ra đời sản phẩm, hẳn
là rẻ nhất trong tất cả các sản
phẩm giáo dục từng có ở ta hiện
nay: một bộ sách giáo khoa cấp I hoàn
chỉnh hoàn toàn mới, theo quan điểm
giáo dục hoàn toàn mới, với
phương pháp hoàn toàn mới; và
đang bắt tay làm tiếp sách cho cấp
2. Song song là một tủ sách dịch
những tác phẩm kinh điển quan trọng
nhất về tâm lý giáo dục…

Cái
mới đương nhiên bao giờ cũng
gợi tranh cãi, chính vì thế mà
nó là cái mới. Qua việc trao giải
hôm nay, Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh
trân trọng bày tỏ sự ủng hộ
mạnh mẽ của mình đối với
Cánh Buồm, đường hướng cơ
bản và công việc thật tốt đẹp
của nó, cũng là để nói lời
cảm ơn đối với nhà sư phạm
lão thành đáng kính Phạm Toàn
cùng các thành viên trẻ cũng
rất đáng kính trọng của nhóm
ông.

Đệ nhất danh
cầm


Thưa

Chúng
ta đều biết trong văn hóa có một
vấn đề lớn và sâu là mối
quan hệ biện chứng, tinh tế, phong phú
và phức tạp, tác động lẫn
nhau giữa bộ phận gọi là bác
học được coi là ở bên trên
và phần gọi là dân gian ở bên
dưới. Trong đó, một trong những
khía cạnh quan trọng là khi ở tầng
bên trên có những xao động, bất
ổn định, rối ren…, thì chính
ở bên dưới, trong văn hóa dân
gian lại là nơi gìn giữ, bảo
toàn những giá trị căn bản, lâu
dài, thậm chí cho những khả năng
và cơ hội phục hưng. Trong dân
gian, những giá trị đó thường
tản mác, không chỉ để nhìn
thấy, phát hiện chúng, mà ngay cả
để hiểu thấu và cả gìn giữ
chúng, cần có những chuyên gia uyên
thâm và tâm huyết đến mức
hiến trọn vẹn cả một cuộc đời
dài cho chúng. Hôm nay Quỹ Văn hóa
của chúng ta rất vui mừng và vinh dự
được tôn vinh đúng một một
con người như vậy, Nhạc sư Nguyễn
Vĩnh Bảo.

Trước
hết, tôi xin phép được đề
nghị trong đêm vui này tất cả
chúng ta cùng chúc mừng Đại thọ
Nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo. Năm nay ông
đã 98 tuổi. Nếu Phan Huy Vịnh ca ngợi
người kỹ nữ tài ba “học đàn
từ thưở 13”, thì còn sớm
hơn, Nguyễn Vĩnh Bảo học đàn
từ năm lên 7, và từ đó, gần
tròn 90 năm từng ngày gắn bó
với đờn ca tài tử Nam Bộ như
chưa từng có bất cứ một người
nào làm được như thế. Ông
là một trong những nghệ sĩ hàng
đầu của nền nghệ thuật độc
đáo này. Nhà nghiên cứu âm
nhạc nổi tiếng Trần Văn Khê gọi
ông là “Đệ nhất danh cầm”,
biết sử dụng ở trình độ cao
tất cả các nhạc khí chính của
đờn ca tài tử, đặc biệt đặc
sắc với đàn Tranh và đàn
Kìm (đờn nguyệt) “có
ngón
đàn điêu luyên, gân guốc và
sâu sắc”, đã từng hòa đờn
cùng các danh cầm lớn nhất, biết
rõ lai lịch của hầu hết nhạc sĩ,
nhạc sư cả miền Nam. Một tượng
đài, nói thế không hề quá
đâu, và một pho sử sống của
đờn ca tài tử Nam Bộ.

Nhà
nghiên cứu âm nhạc, GS.TS Nguyễn Tuyết
Phong thì gọi ông là “Người
bảo vệ cuối cùng của truyền
thống”.Về mặt này, Nguyễn Vĩnh
Bảo cũng cho chúng ta những bài học
thật sâu sắc. Bảo vệ không chỉ,
không phải là gìn giữ khư khư.
Bảo vệ phải đi cùng với sáng
tạo, bằng sáng tạo. Bảo vệ không
mâu thuẫn với phát triển, bảo vệ
để phát triển, phát triển để
mà bảo vệ. Đương nhiên chỉ
có thể làm được điều
đó khi và chỉ khi có một tình
yêu tha thiết và một hiểu biết
uyên thâm đối với di sản; có
lẽ còn hơn thế nữa, cả một
hiểu biết rộng rãi âm nhạc thế
giới. Chính trên cơ sở như vậy
mà Nguyễn Vĩnh Bảo đã vượt
qua lối ký âm theo solfège phương
Tây, sáng tạo ra cách ký âm
đặc biệt rất tinh vi cho nhạc khí
Việt Nam theo phong cách “tablature” –
như cách gọi của GS Trần Văn Khê,
hoàn toàn thích hợp với nhạc
dân tộc Việt; lại kết hợp linh
hoạt, tinh tế với cách truyền khẩu,
truyền ngón riêng độc đáo
trong đời sống âm nhạc truyền
thống của người Việt.

Ông
còn là nhà sáng tạo nhạc khí
tài năng; là tác giả đầu
tiên của cây đàn tranh 17 dây (để
về sau có thêm những cây đàn
tranh 19, 21, 25 dây).  “Đờn tranh Vĩnh
Bảo” hoàn chỉnh, đặc sắc,
nổi tiếng đến mức được
nhà thanh học lừng danh Émile Leipp coi là
hoàn toàn phù hợp với nguyên
tắc thanh học (acoustisme) và thậm chí
được sánh với Violon Stradivarious huyền
thoại của phương Tây.

Nhạc
sư Nguyễn Vĩnh Bảo có hàng trăm
học trò trong nước và trên khắp
thế giới; cách truyền dạy của
ông cũng rất sáng tạo, kết hợp
nhuần nhuyển lối truyền khẩu, truyền
ngón dân gian Việt Nam với lối dạy
hiện đại hàm thụ quathư từ và
internet, hoặc giảng dạy trực tiếp ở
nhiều trường đại học nước
ngoài, Paris, Tokyo, Singapour, Illinois… Năm 2008,
Tổng thống Pháp đã trao tặng ông
Huy chương Officier des Arts et des Lettres, Hiệp sĩ
Nghệ thuật và Văn chương. Ông
thật xứng đáng với danh hiệu ấy.

Xin
chúc mừng Nhạc sư Nguyễn Vĩnh Bảo,
lần nữa xin kính chúc ông đại
thọ, vượt ngưỡng trăm tuổi,
mãi cường tráng trong sự nghiệp
sáng tạo đẹp đẽ của mình.

Những công trình đánh dấu
những cái mốc tư tưởng quan trọng…

Thưa
…,


trên, chúng ta đã nhắc lại cùng
nhau rằng hoạt động đầu tiên
của Quỹ Văn hóa chúng ta là một
giải thưởng về dịch thuật. Hẳn như
vậy là tất yếu. Chúng ta đi theo
con đường Duy tân Phan Châu Trinh. Và
nhìn lại mà xem, tất cả các
trào lưu duy tân, ngay từ đầu thế
kỷ trước, từ Nhật Bản, Trung Hoa,
qua Việt Nam… đều bắt đầu
bằng dịch thuật. Như là một quy
luật, không thể khác. Để tồn
tại và phát triển trong thế giới
toàn cầu hóa và hội nhập ngày
nay, càng phải coi trọng dịch thuật,
nhất thiết phải đẩy mạnh không
ngừng dịch thuật. Quỹ chúng ta có
chủ trương, qua Tủ sách Tinh Hoa, cố
gắng trong vòng nửa thế kỷ, trang bị
cho mọi người Việt Nam, trong tiếng
Việt, toàn bộ những tác phẩm
lớn nhất của nhân loại, trước
hết và chủ yếu về khoa học xã
hội và nhân văn. Tham vọng lớn ấy
từng ngày được thực hiện bởi
những dịch giả tâm huyết, lặng lẽ
từng ngày vật lộn trên từng con
chữ – những ai đã từng lao mình
vào công việc có người gọi
là rất “bạc bẽo” này đều
biết, đúng như vậy, khó nhọc
kiên trì vật lộn trên từng con
chữ – như những con ong chăm chút khó
nhọc khưi tìm tận đáy hằng
trăm hàng nghìn đài hoa, tẩn mẩn
vo tròn từng hạt phấn hoa, để
kiên nhẫn góp nhặt từng chút
từng chút… tạo nên kho mật
ngọt cho đời. Hôm nay chúng ta chào
mừng và cám ơn một con người
như vậy, dịch giả Nguyễn Nghị.
Cũng như ở tất cả những người
dịch nghiêm túc, đáng nói trước
hết là ở cách ông chọn lựa
những gì cần công phu đem lại cho
xã hội ta hôm nay. Trong hoạt động
trí tuệ và xã hội rộng lớn
của mình, Nguyễn Nghị đặc biệt
quan tâm đến lịch sử; và trong
lịch sử đó, như nhận xét
của một nhà nghiên cứu thường
gần gũi ông, “ông có một sự
mẫn cảm đặc biệt đối với
những khía cạnh ‘bình thường’
cụ thể của đời sống xã hội,
theo chiều hướng ‘lịch sử xã
hội’, nghĩa là bao hàm cả những
khía cạnh kinh tế, xã hội và
văn hóa của thường dân, chứ
không chỉ bận tâm tới chiều kích
chính trị của các sự kiện…”.
Hãy xem một số tác phẩm ông
chọn dịch: Xứ
Đàng Trong – Lịch sử kinh tế – xã
hội Việt Nam thế kỷ 18 và 19

của Li Tana, Nền
đạo đức Tin Lành và tinh thần
của chủ nghĩa tư bản

của Max Weber, Các
nhà tư tưởng lớn của Kitô
giáo

của Hans Küng,
Bức tranh kinh tế Việt Nam thế kỷ XVII
và XVIII

của Nguyễn Thanh Nhã, Lịch
sử Việt Nam từ nguồn gốc đến
thế kỷ XX

của Lê Thành Khôi… Một đóng
góp, một gợi ý rõ ràng và
thuyết phục, chúng tôi nghĩ, thật
sự có ý thức, cho một cách
nhìn lịch sử khác với thói
quen ở ta từ đã khá lâu, cho một
lịch sử của đời sống thật,
cụ thể, của nhân dân, trong tất
cả hiện thực thường ngày và
đích thực của họ. Không chỉ
để nhìn nhận lại chân xác
quá khứ, mà còn quan trọng hơn,
cho “lịch sử” của chính hôm
nay.

Mặt
khác cũng còn có thể nhận ra sự
tinh tường của Nguyễn Nghị qua những
mốc tác phẩm ông chọn để
tập trung nỗ lực dịch: đấy đều
là những công trình đánh dấu
những cái mốc tư tưởng quan trọng
trong các lĩnh vực sử học, triết
học, thần học, xã hội học… Cách
làm như vậy giúp người đọc
tiếp thu tri thức lớn một cách có
hệ thống. Một đóng góp không
nhỏ cho phương cách tư duy về nền
tảng tri thức chung, thật cần thiết cho
tất cả những ai quan tâm.


một người có tri thức rộng, lại
nắm vững nhiều ngôn ngữ khác
nhau, nhưng Nguyễn Nghị luôn coi “dịch
là một thách thức to lớn” như
chính ông nói, người dịch cần
có trách nhiệm rất cao không chỉ
với tác giả mà còn với người
đọc, cả những thế hệ người
đọc sẽ đến. Ông làm việc
miệt mài, nhọc nhằn hằng nhiều
năm cho mỗi cuốn sách dịch, coi công
việc dịch cũng chính là công
việc nghiên cứu, cẩn thận và
chặt chẽ trên từng thuật ngữ,
kiên trì lục tìm, tra cứu, không
ngại trao đổi, hỏi han, luôn cố
gắng diễn đạt trong một thứ tiếng
Việt trong sáng và dễ hiểu nhất
cả những khái niệm thường rất
phức tạp của các khoa học xã
hội…

Xin
chân thành cám ơn dịch giả
Nguyễn Nghị.

Dùng chính lời
của họ, sử liệu của họ để
bẻ gãy ngụy luận của họ

Thưa
…,

Dường
như giải thưởng Văn hóa Phan Châu
Trinh có một truyền thống đáng
quý: nó đã giữ mình không
bị thu hút vì những vẻ ngoài
ồn ào, mà ngược lại thường
tìm đến những nhân vật đặc
sắc mà lẫn khuất. Năm 2009, giải
dịch thuật đã được trao cho
một người mà cho đến tận
ngày trao giải toàn bộ hội đồng
chấm giải và cả chính người
đề cử chưa hề gặp mặt. Lần
ấy dịch giả Lê Anh Minh được
phát hiện, thẩm định và trao
giải qua công trình dịch thuật công
phu và rất xuất sắc: bộ Lịch sử
triết học Trung Quốc nổi tiếng của
Phùng Hữu Lan; bản dịch ra tiếng Việt
của Lê Anh Minh là bản dịch trọn
vẹn ra tiếng nước ngoài đầu
tiên của bộ lịch sử đã trở
thành kinh điển này. Năm nay giải
nghiên cứu của chúng ta rất vui mừng
được trao cho một người mà
chắc giới nghiên cứu và học
thuật rất ít khi được gặp
mặt, học giả Phạm Hoàng Quân. Ông
sống tận Cai Lậy, Tiền Giang, lặng lẽ
sống và lặng lẽ làm việc. Suốt
hơn hai mươi năm nay. Tập trung ráo
riết vào một đề tài nóng
bỏng: Biển Đông, Hoàng Sa, Trường
Sa. Thực ra cũng đã có một thời
gian ngắn ông sống ở Sài Gòn,
nhưng rồi không thuộc biên chế nào
hết, công việc nghiên cứu không
nuôi sống được nhà khảo cứu,
ông lui về quê, một mình căm cụi
làm việc trong những điều kiện
hết sức khó khăn, xa các thư viện
lớn, xa các hiệu sách, xa các cộng
đồng nghiên cứu, thực sự là
một nhà nghiên cứu độc lập,
theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng,
nói vậy để biết rằng mặt
khác cũng chính điều kiện khắc
nghiệt đó lại tạo cho ông một
tư thế độc lập độc đáo,
đặc biệt quý trong nghiên cứu,
nhất là với đề tài rất
nhạy cảm ông đeo đuổi. Dường
như độc lập, độc đảm là
đặc điểm nổi bật của Phạm
Hoàng Quân. Hầu như hoàn toàn
tự học, chẳng có bao nhiêu bằng
cấp, nhưng ông nắm chắc, am hiểu
sâu sắc cổ ngữ Hán Nôm để
có thể bao quát được nhiều
sử liệu Trung Quốc, dùng chính lời
của họ, sử liệu của họ để
bẻ gãy ngụy luận của họ; lại
đọc rộng trong tất cả các nguồn
tư liệu khác, chăm chú nghiên cứu
các công trình của những người
đi trước; kết hợp với những
chuyến tự mình khảo sát thực
địa ở hầu khắp các tỉnh ven
biển miền Trung, Phạm Hoàng Quân đã
hoàn tất công trình “Hoàng
Sa – Trường Sa – Nghiên cứu từ
sử liệu Trung Quốc

dày gần 400 trang, gồm 14 bài nghiên
cứu công phu, nghiêm túc, khách quan,
chặt chẽ, sắc bén, có thể đưa
ra đối thoại, tranh luận trên các
diễn đàn quốc tế, “từ
phân tích tổng quan đến khảo cứu
những sử liệu tiêu biểu trong chính
sử, phương chí, địa đồ …
chứng minh rằng từ thời nhà Hán
đến thời nhà Thanh Trung Quốc chưa
từng quản lý và xác lập chủ
quyền trên quần đảo Hoàng Sa,
quần đảo Trường Sa và vùng
Biển Đông Việt Nam”.

Xin
cho phép tôi, từ diễn đàn này,
thay mặt tất cả chúng ta nói lời
cám ơn đóng góp to lớn của
nhà nghiên cứu độc lập Phạm
Hoàng Quân.

Một lịch sử của người Việt
Nam

Thưa
quý vị,

Hôm
nay chúng ta rất tiếc về sự vắng
mặt của vị tân khoa của giải Việt
Nam học 2015, GS. Keith Weller Taylor. Ông
không đến được vì lý
do sức khỏe. Keith Taylor là một trong những
nhà Việt Nam học nổi tiếng nhất,
cả ở Việt Nam cả ở nước
ngoài. Ông cũng là một nhà Việt
Nam học độc đáo, từ điểm
xuất phát, đến con đường
nghiên cứu Việt Nam học ông đã
đi, các chặng khác nhau và những
chuyển hướng trên con đường
đó, và có lẽ cả ở sự
gắn bó, gần gũi kỳ lạ của
ông với giới nghiên cứu
lịch
sử ở Việt Nam, những chuyển động
bên trong nghiên cứu ấy.

Keith
Taylor là cựu binh của chiến tranh Việt
Nam. Sống sót sau chiến tranh, ông muốn
nghiên cứu kẻ đã đánh bại
mình. Họ
là ai,
họ đến từ đâu trong lịch sử
thăm thẳm của nhân loại? Sự kết
hợp của thân phận con người và
thân phận lịch sử có lẽ đã
thôi thúc Taylor, khiến ông trở thành
người xông pha miệt mài trong lĩnh
vực Việt Nam học trong suốt quãng đời
của mình. Cuốn sách lớn đầu
tiên của ông về Việt Nam có tên
The
birth of Vietnam
,
viết năm 1983, được dịch là
Việt
Nam khai quốc
.
Ông đi tìm câu trả lời trong lịch
sử bốn nghìn năm liên tục chống
ngoại xâm phương Bắc của Việt
Nam, mà ông coi là vốn có cội
nguồn từ buổi mà ông gọi là
thuở “khai quốc”, trong đêm mờ
xa xăm của những huyền thoại, những
huyền thoại được lịch sử hóa,
từ những An Dương Vương, Kinh Dương
Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ trăm
trứng, Sơn tinh Thủy tinh, Tản Viên, Chử
Đồng tử…, khởi nguồn từ
đấy và thống nhất xuyên suốt
cho đến tận người Việt hôm
nay đã đánh bại ông. Đến
từ bên kia chiến tiuyến, vậy mà
ông giống những người ở bên
này một cách lạ lùng. Một nhận
thức và thể hiện lịch sử đẹp
đẽ, đơn tuyến, một mạch nhất
quán xuyên suốt như vậy là cần
thiết cho nhu cầu tuyên truyền động
viên trong chiến tranh mất còn, và đã
được giới sử học trong nước,
ít ra cũng là số đông trong họ,
chăm chú thực hiện. Đấy là
khi – và điều này là hoàn toàn
có thể hiểu – lòng yêu nước
được lấy làm chuẩn thay vì
khoa học. Còn ở Keith Taylor thì có
thể đó là lòng khâm phục,
và cả tình cảm kinh ngạc nữa.
Có người đã gọi đấy là
“Kẻ chiến bại hát theo giọng của
người chiến thắng”; hoặc nghiêm
trọng hơn, “một biểu hiện di thực
của chủ nghĩa quốc gia dân tộc (từ
Việt Nam) ra nước ngoài”.

Nhưng
là nhà khoa học nghiêm khắc, Keith
Taylor đã không dừng lại ở đó.
Cũng có thể hiện thực thế giới
và hiện thực Việt Nam hậu chiến
đã đánh thức dậy trong ông
một nhu cầu chuyển động nhận thức
quan trọng. Năm 2003 ông viết một tác
phẩm lịch sử mới về Việt Nam với
cái tên có thể hơi lạ; không
phải The
History of Vietnam

– Lịch sử Việt Nam, mà là A
history of the Vietnamese

– Một lịch sử của người Việt
Nam. Ông đã hoài nghi những gì
mình viết năm 1983. Ông nói: “Quyển
sách (kia) của tôi in 20 năm trước
rồi. Trước kia tôi chịu ảnh hưởng
của chủ nghĩa quốc gia, tôi đã
nghĩ rằng không có (khác biệt)
quan điểm quan trọng gì giữa thời
cận đại và thời quá khứ…
Cho nên, (nay) tôi nghi ngờ về ý kiến
phát triển lịch sử liên tục, một
lịch sử thống nhất liên tục, tức
là lịch sử của một nhóm lấy
quyền hành chính trị muốn dùng
chuyện lịch sử để giảng dạy
và tuyên truyền dân chúng phải
theo chính sách quốc gia của chính
phủ. Lịch sử thống nhất liên tục
là lịch sử bị chính trị hóa,
không là lịch sử khoa học.”[1]
Trong cuốn sách mới của mình, ông
dã dùng 30 trang để xóa hết
những gì mình đã viết bằng
tưởng tượng suốt 400 trang trước
kia. Lần này lịch sử Việt Nam được
bắt đầu bằng chương An Dương
Vương, chứ không phải chương
“Lạc hầu”. Ông viết: “Nhu
cầu truy tầm nguồn gốc trong quá khứ
xa xăm là nỗ lực nhận thức chung
của nhiều dân tộc ở mọi thời
điểm và mọi không gian… Nhưng
nhu cầu bức thiết kết nối với quá
khứ đó chỉ là một ham muốn
chứng thực tự thân, chứ không
phải là nỗ lực học thuật”.
Ông cũng nói: “Tôi tin
rằng, công
việc của giới sử học là nhìn
vào những gì may mắn còn sót
lại từ quá khứ trong mối quan hệ
tương hỗ với sự tồn tại của
những người đương thời, chứ
không phải là bằng chứng về
những người được coi là tổ
tiên của người hôm nay. Quá khứ
Việt Nam không thể hiện một logic tự
thân cho sự phát triển dẫn đến
hiện tại.” Vì vậy “trong
cuốn sách này, tôi kết hợp một
tự sự chính trị theo tuyến tính
lịch đại, với trình bày theo đề
mục thuyết minh và thảo luận về
địa lý, giáo dục, tư tưởng,
ngôn ngữ, văn học, tôn giáo, xã
hội, chính quyền, kinh tế, và chiến
tranh… Như một thám sát hoa tiêu,
cuốn sách này cung cấp một điểm
vào/ một lối vào lịch sử Việt
Nam, và chưa thể phát quật hết
khối sử liệu đã tạo nên
những ý tưởng của tôi. Nó
hy vọng sẽ cung cấp những phác thảo
về quá khứ người Việt bằng
việc sử dụng các thông tin về
chính trị, hành chính, kinh tế, và
văn hóa”. Đấy là một lịch
sử Việt Nam với tính đa diện, đa
chiều của nó, lịch sử Việt Nam
không phải chỉ là lịch sử của
chiến tranh chống ngoại xâm, lịch sử
của chính trị với vua chúa và
quan lại, mà còn là lịch sử
của thơ ca, nghệ thuật, của thương
mại, của đời sống thật và
thường nhật của con người, của
nhân dân, của “người Việt
Nam” như tên sách mới của ông,
con người thật với vô số hay và
dở, được và thiếu, thịnh và
suy, thành công và thất bại, thường
thắng lợi huy hoàng trong chiến tranh mà
nhọc nhằn thất bại trong xây dựng
… Một cuốn sách như vậy không
chỉ “tường thuật”, ngợi ca,
mà đặt vấn đề, tất sẽ
gây tranh cãi, thậm chí gay gắt.
Nhưng đấy là cuốn sách của
một người thật sự yêu đất
nước này, muốn hiểu nó tận
cùng như hiểu chính mình, để
cho đất nước anh hùng mà khổ
đau này sống được thật đàng
hoàng trong thế giới xiết bao khó
nhọc ngày nay.

Xin
cám ơn Keith Weller Taylor, vì tình yêu
chân chính và nỗ lực trằn trọc
của ông cho khoa học lịch sử Việt
Nam, cho Việt Nam.

Tôn
vinh những Danh nhân văn hóa Việt Nam
thời hiện đại

Thưa
quý vị,

Như
Chủ tịch Nguyễn Thị Bình đã
tuyên bố trong lời khai mạc, bắt đầu
từ năm nay Quỹ Văn hóa của chúng
ta có thêm một hoạt động thường
niên quan trọng: Tôn
vinh những Danh nhân văn hóa Việt Nam
thời hiện đại
. Chúng
tôi xác định “Thời hiện
đại” ở đây, trong chương
trình này, là bắt đầu từ
khi có chữ quốc ngữ, và cho đến
năm 1945. Với thời kỳ Hán Nôm
trước đó, có lẽ các giá
trị văn hóa đã được xác
định khá rõ, đã khá ổn
định. Với thời kỳ sau 1945, Nhà
nước Việt Nam bằng nhiều cách đã
thường xuyên làm công việc này.
Qua chương trình của Quỹ chúng
ta, chúng ta muốn đóng góp vào
việc dựng lại một cách ngày
càng cố gắng đầy đủ, khách
quan, công bằng hơn những giá trị
văn hóa, nhiều khi rất lớn của
thời kỳ vừa nói trên, do những
điều kiện lịch sử, xã hội,
chính trị nhất định, đã
không được minh định thích
đáng. Đây là một công việc
khó khăn nhưng thật hết sức cần
thiết, cần sự chung trí, chung tay của
toàn xã hội. Chúng tôi dự định
làm lần lượt, không nhất thiết
theo đúng thứ tự biên niên. Đối
với mỗi nhân vật được tôn
vinh sẽ xây dựng hồ sơ đầy
đủ, xuất bản hoặc tái bản
các công trình của các vị và
về các vị, tổ chức những tọa
đàm rộng rãi, tìm học bổng
cho những nghiên cứu sâu hơn về
từng vị, ở cấp tiến sĩ…

Năm
nay, để mở đầu, chúng tôi đề
nghị rước vào ngôi đền
Panthéon của chúng ta ba vị Trương
Vĩnh Ký, Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh. Với sự giúp đỡ của các
chuyên gia, chúng tôi đã chuẩn
bị các ấn phẩm dày dặn về
từng người, rất tiếc không in kịp
cho hôm nay. Tối nay chỉ xin tạm gửi
đến quý vị một bài viết
khá đầy đủ của Nguyễn Văn
Tố về Trương Vĩnh Ký, và hai
bài ngắn gọn về Phan Châu Trinh, Phan
Bội Châu.

Xin
nói đôi lời về Trương Vĩnh
Ký. 

Ông
sinh năm 1837 và mất năm 1898, hai năm
trước khi kết thúc thế kỷ 19.

Trước
hết, đấy là một nhà bác
học, nhà bác học lớn đầu
tiên của Việt Nam ở thời hiện
đại. Jean Bouchot bấy giờ gọi ông
là “nhà bác học duy nhất

Đông Dương và cho đến cả
Trung Hoa hiện đại nữa”. Theo Bouchot,
“người dân hoàn toàn Nam
Kỳ
ấy sánh kịp với các nhà thông
thái xứng đáng nhất của châu
Âu trong đủ ngành khoa học”. Một
đánh giá không hề quá. Trương
Vĩnh Ký là một thiên tài về
ngôn ngữ học. Một vị giáo sĩ
một lần đến thăm ông thấy ông
nói thành thạo và một cách
sang trọng tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng
Ý, tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào
nha, Hy Lạp … và nhiều ngôn ngữ
phương Đông Ấn Độ, Nhật
Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Mã Lai…
Và buổi chiều khi từ giã ông thì
lại thấy một nhà truyền giáo
đến thảo luận với ông về
thần học bằng tiếng La Tinh… Ông
học ngoại ngữ ở Chủng viện
Pénang, và tự học. Ông còn am
hiêu sâu, hết sức cập nhật và
với một đầu óc độc lập,
cực kỳ nhạy cảm và sáng tạo
những vấn đề lý thuyết ngôn
ngữ học mới nhất đương thời.
Ông thành thạo hàng chục ngôn
ngữ và hiểu sâu sắc các nền
văn hóa và văn minh đằng sau các
ngôn ngữ ấy.

Năm
1886, coi là đã xong công cuộc bình
định, Pháp đưa Paul Bert, một nhà
bác học, viện sĩ Viện Hàn lâm
sang làm toàn quyền Đông Dương.
Đã biết và khâm phục Trương
Vĩnh Ký từ khi gặp ông ở Pháp
cùng phái đoàn Phan Thanh Giản, Paul
Bert mời ông ra Huế, sung vào nội các
Nam triều, với mục đích giúp
người Pháp hiểu Việt Nam, và
người Việt Nam hiểu Pháp, cũng là
tâm nguyện của Trương Vĩnh Ký.
Nhưng chỉ 7 tháng sau Paul Bert chết đột
ngột vì bệnh tả. Lạc lõng giữa
một đám thực dân khinh khỉnh và
cao ngạo, một đám quan lại Nam triều
hèn mọn, hiềm khích, Trương Vĩnh
Ký bỏ về. Và từ đấy cho
đến khi qua đời, ông đã cống
hiến toàn bộ tài năng và công
sức của mình, mà Nguyễn Văn Tố
gọi là một “lao động mênh
mông”, cho công cuộc văn hóa, tập
trung nhiều nhất cho việc nghiên cứu,
phân tích với một trình độ
chuyên môn uyên bác về ngôn ngữ
học và các khoa học tinh tế liên
quan đến văn học và nghệ thuật,
và chuyển ngữ các tác phẩm ưu
tú nhất trong gia tài văn học dân
tộc mà ông thiết tha yêu quý.
Ông là người đầu tiên chuyển
dịch Truyện Kiều ra quốc ngữ. Ông
để lại hơn trăm tác phẩm,
nghiên cứu và sáng tác, về văn
học Việt Nam, về ngôn ngữ học, về
lịch sử, về sư phạm…, cả
những tác phẩm mô tả sinh động
hiện thực xã hội Việt Nam đương
thời, một gia tài mênh mông mà
chắc chắn chúng ta có nhiệm vụ
phải tận khai, cho cả hôm nay.

Trương
Vĩnh Ký đã sống trong một thời
kỳ xáo động và đã trải
một cuộc đời đẹp đẽ mà
cũng lại có nét éo le, bi tráng.
Ngay khi phải sống và làm việc cho
Pháp, ông vẫn nhắc câu châm
ngôn “Sic
vos non vobis

– Ở với họ mà không theo họ. Sưu
tầm, chú thích bản Gia
Định thất thủ vịnh
,
ông gọi rõ ràng Tây là “giặc”.
Ông phản đối quyết liệt chủ
trương có màu sắc đồng hóa
của chính quyền thực dân muốn
đưa tất cả những người Việt
là thuộc dân (sujet français – tức
dân thuộc địa Nam Kỳ và ba thành
phố nhượng địa Hà Nội, Hải
Phòng, Đà Nẵng) vào quốc tịch
Pháp, tự mình suốt đời nhất
quyết chỉ giữ quốc tịch Việt
Nam. Học
giả Vương Hồng Sển viết: Trương
Vĩnh Ký ở “gần
bùn mà chẳng nhuốm mùi bùn,
không ham “đục nước béo cò”
như ai, chỉ say đạo lý và học
hỏi, sống đất Tào mà lòng
giữ Hán, thác không tiếng nhơ
…“.

Nhà
bác học Trương Vĩnh Ký xứng
đáng là một trong những danh nhân
đầu tiên làm vinh dự cho ngôi đền
văn hóa của chúng ta.

Hôm
nay chúng ta cũng rước vào Panthéon
của chúng ta hai nhà chí sĩ yêu
nước lớn nhất của Việt Nam đầu
thế kỷ XX, Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh. Hai nhân vật chính trị và văn
hóa kỳ vĩ, và cũng thật kỳ
lạ. Là đồng chí, đồng tâm,
gắn bó sâu sắc, hiểu nhau đến
tận cùng, thương yêu, kính trọng
và bảo vệ nhau hết mực; nhưng
cũng lại hết sức khác biệt, đến
gay gắt,trong chủ thuyết cứu nước
và cực kỳ thẳng thắn trong khác
biệt đó. Một thái độ văn
hóa chính trị mẫu mực, chỉ
riêng điều này thôi hẳn cũng
đã đáng để chúng ta hôm
nay trân trọng suy nghĩ.

Phan
Bội Châu, mà có thể nói mỗi
từ, mỗi chữ trong những trước tác
thống thiết của ông dường như
không chỉ được viết bằng nước
mắt mà thật sự bằng máu, mỗi
tác phẩm đều là một “huyết
lệ thư”, khăng khăng chủ trương
“thiết huyết”, bằng mọi cách
dùng bạo lực vũ trang để giành
cho kỳ được độc lập. Tranh
luận với Phan Châu Trinh về mục tiêu
hàng đầu dân chủ, ông nói:
“Có dân đâu mà chủ!”. Chưa
độc lập, lấy đâu ra dân mà
chủ.

Phan
Châu Trinh coi độc lập là tất yếu
cần thiết, nhưng là một đoạn,
một bước, có thể trước có
thể sau, của một mục tiêu cơ bản
và lâu dài hơn là phát triển,
cùng với thế giới, với nhân
loại, bởi vì ông là người
đầu tiên nhận ra thật rõ rệt,
rằng thế giới đã khác, như
cách nói ngày nay, thế giới đã
là thế giới toàn cầu hóa, hồi
bấy giờ là cuộc toàn cầu hóa
lần thứ nhất. Dù bằng cách nào
đó giành lại được độc
lập, mà dân vẫn ngu dốt, dân tộc
chưa được làm lại thành dân
tộc văn minh, thì độc lập cũng
vô nghĩa và không thể vững chắc.
Có dân mà dân ngu dốt, tăm tối,
thì dân để làm gì? Ông
đáp lại. Ông nói: “Dân
trí
đã mở, trình độ ngày một
cao, tức là cái nền độc lập
ngày sau đấy”. Giải pháp hàng
đầu của ông do vậy tất yếu
là khai dân trí. Bất bạo động
mà khai dân trí.Có lẽ cách
nói của Hoàng Xuân Hãn đúng
và rõ hơn: Phan Châu Trinh chủ trương
một cuộc cách mạng tân văn hóa…

Lịch
sử hiện thực đã đi theo con đường
của Phan Bội Châu. Chiến tranh anh hùng
và khốc liệt đã đem lại độc
lập. Nhưng, lạ thay, mà cũng hay thay,
có lẽ với thời gian, với hiện
thực hậu chiến, những câu hỏi
cháy bỏng mà dở dang của Phan Châu
Trinh nay lại được đặt ra. Vẫn
nóng bỏng như một trăm năm trước.

Như
vậy ngôi đền danh nhân của chúng
ta không chỉ là để tôn thờ,
mà còn để tiếp tục suy tưởng. Cho
chính hôm nay. Như bao giờ cũng vậy,
những nhà tư tưởng và văn
hóa lớn, cỡ Trương Vĩnh Ký,
Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu… còn
sống mãi vì tính thời sự kỳ
diệu và kỳ lạ của họ, từng
lúc lại thức dậy, tinh khôi và
sống động trong cuộc sống phát
triển…

Thưa
quý vị,

Đến
đây tôi nghĩ tôi có thể được
phép nói rằng, bằng nỗ lực
chung, năm nay một lần nữa chúng ta đã
có một giải thưởng và một
hoạt động tôn vinh đẹp đẽ
và thành công. Thay mặt Quỹ Văn
hóa Phan Châu Trinh, tôi xin chân thành
cám ơn sự chỉ đạo chặt chẽ
và sáng suốt của Bà Chủ tịch
kính mến, xin cám ơn các vị tân
khoa bằng sự nghiệp và các công
trình của mình đã mang lại uy
tín và giá trị cho giải thưởng
của chúng ta, xin cám ơn các thành
viên Hội đồng Quản lý và
Hội đồng Khoa học, và các chuyên
gia phản biện đã tận tụy và
sáng suốt giúp chúng tôi trong công
việc xét chọn, cám ơn các bạn
ở IRED đã rất tích cực chăm
lo thật chu đáo mọi việc tổ chức,
cám ơn các nhà tài trợ đã
đồng hành cùng chúng tôi, cám
ơn Khách sạn Caravelle đã tạo cho
chúng ta đêm nay một không gian văn
hóa thật đẹp và đầm ấm.

Xin
chúc sức khỏe tất cả chúng ta,
xin cám ơn, và xin hẹn gặp lại
đúng ngày này năm sau.

Nguyên Ngọc

Nguồn:
Văn
Việt, nhan đề và các tiểu đề do Diễn Đàn đặt.

[1] Bài
phỏng vấn BBC (London). 26-6-2003.
Nguồn link:
www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/…/030912_keithtaylor.shtml

Xổ số miền Bắc