Uỷ viên Trung ương Đảng – Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng: “Quyết liệt hành động, khát vọng cống hiến”
Trong dòng chảy của văn hóa Việt Nam thời gian qua, nhận thức về văn hóa, xã hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Một thực tế sống động để thấy sức mạnh của giá trị văn hóa, đó là: Dù dịch Covid-19 đã tác động mạnh đến nước ta, gây ra nhiều thiệt hại về kinh tế – xã hội và ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước, nhưng nhờ phát huy được những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đó là niềm tin của nhân dân đối với công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, là sự đoàn kết một lòng, là tinh thần yêu nước tương thân, tương ái, “Mình vì mọi người”, “Lá lành đùm lá rách”, chúng ta đã huy động được sức mạnh tổng hợp của dân tộc để “không ai bị bỏ lại phía sau”, đã và đang vượt qua khó khăn, thử thách.
Phóng viên (PV): Cảm ơn Bộ trưởng đã dành thời gian trò chuyện với phóng viên Tạp chí điện tử Văn hoá và Phát triển. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII cũng như Hội nghị Văn hóa toàn quốc đã rất nhấn mạnh quyết tâm chấn hưng văn hóa. Vậy, là cơ quan trực tiếp tham mưu cũng như quản lý văn hóa, ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch đã xác định sứ mệnh của mình như thế nào trong chiến lược phát triển văn hóa của đất nước?
Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng: Đảng ta đã xác định quan điểm rất rõ ràng về vị trí, vai trò và ý nghĩa của văn hóa đối với sự phát triển đất nước như văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội, là hệ điều tiết cho sự phát triển của đất nước. Phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 được tổ chức đúng 75 năm sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất do Bác Hồ kính yêu chủ trì (24/11/1946-24/11/2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Văn hóa là bản sắc của một dân tộc, văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất”. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ý thức rằng, đó là những quan điểm sâu sắc, rõ ràng và đúng đắn nhất về văn hóa.
Với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch xác định văn hóa là lĩnh vực rộng; khát vọng chấn hưng, phát triển văn hóa Việt Nam cần sự chung tay của các cấp, các ngành. Trước hết, cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa về văn hóa để văn hóa được đặt ngang hàng với kinh tế-chính trị. Mục tiêu quan trọng của Ngành là xây dựng, hoàn thiện thể chế, định hình hệ sinh thái văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa có trọng tâm, trọng điểm v.v… Từ những điều kiện như vậy, mọi tổ chức, đoàn thể và từng người dân có thể tích cực, chủ động và hạnh phúc khi tham gia vào sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Làm được như vậy cũng là cách chúng ta tạo lợi thế cho sự phát triển của đất nước bằng văn hóa và từ văn hóa, cũng là cách chúng ta xây dựng bản lĩnh và sự tự tin để hội nhập quốc tế.
PV: Được biết, Bộ Văn hoá, Thể thao &Du lịch đang tập trung xây dựng những đề án rất lớn như Đề án về xây dựng hệ giá trị Việt Nam, rồi Phát triển công nghiệp văn hóa đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030, việc đó sẽ tạo ra những đột phá gì cho văn hóa đất nước về lâu dài?
Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng:
Về nội dung thứ nhất: Xây dựng hệ giá trị Việt Nam tạo đột phá gì cho đất nước về lâu dài?
Như chúng ta đã biết, mỗi xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định đều có những hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa ở cấp vĩ mô, và ở cấp vi mô là hệ giá trị gia đình, hệ giá trị con người phù hợp để xây dựng và phát triển đất nước. Và Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó. Các giá trị này được hình thành và củng cố trong lịch sử phát triển dài lâu của mỗi dân tộc, được cộng đồng lựa chọn và cùng nhau chia sẻ; đó là tất cả những cái cần, cái tốt, cái hay, cái đẹp, là những giá trị vĩnh hằng chân, thiện, mỹ, góp phần điều chỉnh các mối quan hệ giữa người với người, giữa nhóm xã hội này với nhóm xã hội khác, giữa cá nhân với toàn thể xã hội.
Khi đã được xác lập, các giá trị ấy giữ vai trò quan trọng trong việc định hướng mục tiêu, phương thức hành động, cách ứng xử của con người, tham gia mạnh mẽ vào sự điều tiết xã hội. Nhiều giá trị có mối quan hệ hữu cơ liên kết lại với nhau thành hệ thống, tạo nên hệ giá trị hay bảng giá trị. Hệ giá trị của một quốc gia hay một nền văn hóa thường được xây dựng dựa trên nền tảng những căn tính, tính cách dân tộc, truyền thống văn hóa, tầm vóc văn hóa của dân tộc đó, đồng thời cũng luôn được nhìn nhận và đánh giá trong tiến trình vận động và biến đổi liên tục của đời sống thực tiễn trên cơ sở của phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Chính vì vậy, vấn đề xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa Việt Nam luôn được Đảng và Nhà nước đặt ra và đã trở thành mối quan tâm hàng đầu trong đường lối chính trị của Đảng nhà nước ta. Điều đó được thể hiện một cách liên tục và nhất quán trong các văn kiện chính thức của Đại hội Đảng với nhiều chủ trương, đường lối đúng đắn, phù hợp về phát triển văn hóa đất nước trong từng giai đoạn.
Với khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh nhiệm vụ bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong văn hóa Việt Nam, nhưng đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, từng bước đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới. Trong Nghị quyết này, Đảng ta tiếp tục khẳng định những quan điểm, nhiệm vụ mà ở các kỳ Đại hội trước đã nêu: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân-thiện-mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, tính nhân văn, dân chủ và khoa học; làm cho văn hóa phải thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh; làm rõ đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Trong Nghị quyết này, Đảng ta đã xác định một số nhiệm vụ mới là phát triển các ngành công nghiệp văn hóa và hoàn thiện thị trường văn hóa.
Đặc biệt, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh sự cần thiết trong việc “xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” bởi “văn hóa là hồn cốt của dân tộc, nói lên bản sắc của dân tộc. Văn hóa còn thì dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất.”.
Trong đó, để xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa cần tập trung thực hiện thật tốt một số nhiệm vụ trọng tâm như: “Xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia-dân tộc; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại: Yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo. Những giá trị ấy được nuôi dưỡng bởi văn hóa gia đình Việt Nam với những giá trị cốt lõi: Ấm no, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; được bồi đắp, phát triển bởi nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với hệ giá trị: Dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học; trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc ta: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc”.
Với trách nhiệm của mình, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã và đang tập trung triển khai thực hiện nhiều chương trình, đề án tiến tới đề xuất xây dựng và hoàn thiện hệ giá trị Việt Nam. Đặc biệt, Bộ đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo quốc gia “Hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới” nhằm tiếp cận, kiến giải và thống nhất nội hàm, phân tích các thành tố cấu thành hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam; đồng thời khẳng định tính cấp thiết cũng như ý nghĩa to lớn của việc xây dựng hệ giá trị Việt Nam, đưa các hệ giá trị vào cuộc sống, tạo nên những đột phá mới trong xây dựng văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời kỳ mới. Cụ thể:
+ Xây dựng hệ giá trị quốc gia gắn liền với mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh các giá trị dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; tôn vinh lý tưởng độc lập dân tộc, chủ nghĩa xã hội và vị thế đất nước trên tất cả các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị; bồi dưỡng lòng yêu nước, ý thức và lòng tự hào dân tộc gắn liền với cội rễ dân tộc, đức hy sinh, lòng dũng cảm.
+ Xây dựng hệ giá trị quốc gia nhằm phát huy cao độ tinh thần dân chủ dựa trên các chuẩn mực của Hiến pháp và pháp luật. Hoàn thiện bộ máy tổ chức từ trung ương đến địa phương; bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật và cơ chế, chính sách về văn hóa; xây dựng, củng cố và hoàn thiện các thể chế và thiết chế văn hóa đáp ứng được những yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.
+ Xây dựng hệ giá trị quốc gia, giá trị văn hóa phù hợp với bản sắc dân tộc đồng thời hướng vào mục tiêu phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế trên quan điểm kết hợp hài hòa giữa các giá trị truyền thống và hiện đại.
+ Xây dựng hệ giá trị quốc gia, giá trị văn hóa nhằm củng cố nội lực văn hóa bằng việc mở mang giáo dục, nâng cao dân trí và xây dựng một đời sống văn hóa tốt đẹp làm cho văn hóa thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống, thấm sâu vào các lĩnh vực hoạt động và sinh hoạt của con người, hình thành hệ giá trị mới của con người và văn hóa Việt Nam.
+ Xây dựng hệ giá trị quốc gia, giá trị văn hóa trên quan điểm đề cao tinh thần tự do sáng tạo, giải phóng mọi năng lực sáng tạo của xã hội và cởi mở, tiếp nhận những ảnh hưởng của tinh hoa văn hóa nhân loại hướng đến sự thống nhất trong đa dạng về phong cách sống và khuôn mẫu ứng xử trong các tầng lớp nhân dân, trang bị những tư tưởng đổi mới phù hợp với bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế góp phần bảo đảm sự ổn định và lành mạnh xã hội.
+ Xây dựng chuẩn giá trị văn hóa nhằm khuyến khích, động viên, kích thích ý thức tự hoàn thiện của mỗi cá nhân thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống như ứng xử, giao tiếp, nghiên cứu, học tập, làm việc v.v…, phát huy tinh thần tập thể, đoàn kết phần đấu vì lợi ích chung nhưng vẫn đẩy mạnh tính tự do cá nhân, tính tự quản và năng lực làm chủ trong đời sống văn hóa.
+ Xây dựng chuẩn giá trị văn hóa hướng tới tạo lập môi trường xã hội lành mạnh, kiên trì đấu tranh chống nguy cơ xói mòn các giá trị văn hóa truyền thống làm suy thoái đạo đức, lối sống của dân tộc, góp phần tạo chuyển biến rõ rệt về bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, trí tuệ người Việt Nam theo năm đức tính đã được Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương (khoá VIII) xác định.
Về nội dung thứ hai: Phát triển công nghiệp văn hóa đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 thì sẽ tạo ra những đột phá gì cho văn hóa đất nước về lâu dài?
Tại Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 8/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” nêu rõ: Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam bao gồm: Quảng cáo; kiến trúc; phần mềm và các trò chơi giải trí; thủ công mỹ nghệ; thiết kế; điện ảnh; xuất bản; thời trang; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; truyền hình và phát thanh; du lịch văn hóa trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua việc sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam; xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa; ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng của Việt Nam. Phấn đấu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đến năm 2030 đóng góp 7% GDP và tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, trong đó đóng góp của một số ngành cụ thể như sau: Ngành Điện ảnh đạt khoảng 250 triệu USD (phim Việt Nam đạt khoảng 125 triệu USD); ngành Nghệ thuật biểu diễn đạt khoảng 31 triệu USD; ngành Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm đạt khoảng 125 triệu USD; ngành Quảng cáo (trên truyền hình, đài phát thanh, báo, tạp chí, internet và quảng cáo ngoài trời) đạt khoảng 3.200 triệu USD; ngành Du lịch văn hóa khoảng 40.000 triệu USD doanh thu từ khách du lịch.
Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030 cần phải tạo ra một bước đột phá trong kiến tạo môi trường thể chế thuận lợi cho các ngành công nghiệp văn hóa khai thác và chuyển hóa các nguồn tài nguyên văn hóa thành các sản phẩm và dịch vụ có sức hấp dẫn. Theo thống kê, so với mức GDP chiếm 2,68% năm 2015, các ngành công nghiệp văn hóa của Việt Nam ước đạt 3,61% GDP cả nước năm 2018. Như vậy, công nghiệp văn hóa Việt Nam trong 5 năm trước đã bước đầu phát huy tiềm năng, song, muốn đột phá thì cần phải chuyển hóa tài nguyên văn hóa và chuyển hóa giá trị văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế thông qua các sản phẩm và dịch vụ công nghiệp văn hóa có tính liên kết ngành, liên kết vùng, liên kết địa phương, quốc gia và quốc tế. Công nghiệp văn hóa phải trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, thành một kênh chủ lực của sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam. Theo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, muốn tạo được đột phá, trước hết phải xây dựng, hoàn thiện “Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, trong đó đặt trọng tâm nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập của thị trường văn hóa và hình thành cấu trúc ngành có trọng tâm, trọng điểm, thể hiện rõ tầm nhìn ngắn, trung, dài hạn.
PV: Bộ trưởng cho biết giải pháp ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức xã hội và văn hóa ứng xử; xây dựng nếp sống văn hóa và bảo tồn, phát triển văn hóa xã hội?
Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng: Trước sự tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa, cạnh tranh quốc tế, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, các vấn đề liên quan đến con người, đạo đức xã hội sẽ phải đối diện với nhiều vấn đề phức tạp hơn, vừa đem lại những cơ hội, vừa tạo ra thách thức mới trong việc xây dựng, quản lý và phát triển văn hóa. Gần đây, một số vụ việc xảy ra cho thấy sự xuống cấp về đạo đức xã hội và văn hóa ứng xử của một bộ phận người dân, nhất là giới trẻ với lối hành xử “dị thường”, lệch chuẩn, đã và đang làm ảnh hưởng không nhỏ đến nếp sống văn minh mà cộng đồng dày công vun đắp. Đặc biệt là, trong giới văn nghệ sĩ cũng có hiện tượng xuống cấp về lối sống, đạo đức. Đây là một thực trạng đáng báo động, vì văn hóa ứng xử hiện nay có nhiều không gian để tồn tại, từ đời thực, trên các diễn đàn cả chính thống lẫn không chính thống, trên không gian mạng v.v… Ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức xã hội và văn hóa ứng xử rất cần sự chung tay vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các cấp chính quyền, các ban, ngành, địa phương cũng như toàn xã hội.
Thời gian qua, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có những bước đổi mới, chuyển đổi tư duy từ “làm văn hóa” sang “quản lý nhà nước về văn hóa”; xác định quản lý nhà nước thông qua các công cụ pháp luật, cơ chế, chính sách là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt. Nhằm ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức xã hội, văn hóa ứng xử, xây dựng nếp sống văn hóa và bảo tồn, phát triển văn hóa, Bộ đã chủ động rà soát, tham mưu Quốc hội ban hành các luật về vấn đề này; tham mưu Chính phủ ban hành các nghị định, quyết định để lãnh đạo, chỉ đạo và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã và đang tập trung thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Tham mưu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành: Nghị định số 110/2018/NĐ-CP ngày 29/9/2018 của Chính phủ quy định về quản lý và tổ chức lễ hội; Nghị định số 122/2018/NĐ-CP ngày 17/9/2018 của Chính phủ quy định về xét tặng danh hiệu “Gia đình văn hóa”; “Thôn văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”; Quyết định số 2214/QĐ-TTg ngày 27/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình thực hiện Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” giai đoạn 2021 – 2026; Quyết định số 04/2022/QĐ-TTg ngày 18/02/2022 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy định tiêu chí, trình tự, thủ tục xét công nhận đạt chuẩn đô thị văn minh; Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 09/02/2018 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang; Chỉ thị số 11/CT-TTg ngày 29/3/2017 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc đẩy mạnh giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình.
Việc triển khai các nhiệm vụ theo chức năng được giao: Theo thẩm quyền, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành các văn bản chỉ đạo, triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của Ngành: Quyết định số 71/QĐBVHTTDL ngày 12/4/2019 ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện các giải pháp tăng cường thực hiện nếp sống văn minh trong hoạt động lễ hội giai đoạn 2019-2021; Quyết định số 3020/QĐ-BVHTTDL ngày 30/8/2019 ban hành Kế hoạch triển khai các nhiệm vụ, giải pháp ngăn ngừa mê tín dị đoan, loại bỏ hủ tục lạc hậu, văn hóa phẩm đồi trụy trái với thuần phong mỹ tục giai đoạn 2020- 2022; Quyết định số 2708/QĐ- BVHTTDL ngày 02/8/2019 ban hành Kế hoạch 4 tổ chức thực hiện Phong trào thi đua “Cán bộ, công chức, viên chức thi đua thực hiện văn hóa công sở giai đoạn 2019-2025”; Quyết định số 586/QĐ-BVHTTDL ngày 17/3/2022 ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án truyền thông về phát triển Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” năm 2022; Quyết định số 1983/QĐ-BVHTTDL ngày 04/6/2019 Phê duyệt Đề án Tuyên truyền thực hiện nếp sống văn minh trong lễ hội giai đoạn 2020-2021. Đặc biệt, “Quy tắc ứng xử của người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật” lần đầu tiên được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành, là bản quy tắc tập hợp các hướng, điều chỉnh hành vi của những người làm nghệ thuật (bao gồm cả hoạt động tự do và biên chế ở các đơn vị nghệ thuật) theo tinh thần “nhân cái đẹp, dẹp cái xấu”, lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực.
Công tác tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình được triển khai, thực hiện thường xuyên, liên tục và đang được duy trì, phát triển, nổi bật là: Phối hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, các cơ quan thông tấn, báo chí tổ chức các chương trình, chuyên mục truyền thông về giáo dục đạo đức, lối sống trong gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình. Chủ trì, phối hợp với các ban, bộ, ngành Trung ương hướng dẫn các địa phương hằng năm tổ chức các hoạt động truyền thông trọng điểm nhân Ngày Quốc tế hạnh phúc 20/3, Ngày Gia đình Việt Nam 28/6, Tháng hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình, Ngày Thế giới xoá bỏ bạo lực với phụ nữ và trẻ em gái 25/11 v.v…
Ngoài ra, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tăng cường phối hợp với các địa phương trong công tác xây dựng môi trường văn hóa, thực hiện Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” theo hướng thực chất; thanh tra, kiểm tra, xử lý các sai phạm đạo đức trong hoạt động nghệ thuật biểu diễn, bản quyền tác giả, mỹ thuật, nhiếp ảnh, điện ảnh, tổ chức lễ hội, du lịch, thể dục, thể thao, nhất là những hành vi bạo lực, phản cảm, ứng xử thiếu văn hóa; siết chặt quản lý các sản phẩm, dịch vụ văn hóa độc hại. Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ban, ngành triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm như: Với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tổ chức các đợt phát động sáng tác tranh cổ động tuyên truyền phục vụ nhiệm vụ chính trị được giao; với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học giai đoạn 2018 – 2025” nhằm tạo chuyển biến căn bản về ứng xử văn hóa của cán bộ quản lý, nhà giáo, nhân viên, học sinh, sinh viên để phát triển năng lực, hoàn thiện nhân cách, lối sống văn hóa; xây dựng văn hóa trường học lành mạnh, thân thiện; nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo; với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam xây dựng “Chương trình phối hợp về xây dựng đời sống văn hóa trong công nhân, viên chức, lao động giai đoạn 2021 – 2026”, trong đó tập trung lồng ghép, triển khai các nội dung tuyên truyền thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội với các phong trào khác; với Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho nam, nữ thanh niên về trách nhiệm xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; ký kết “Chương trình phối hợp với Hội Người cao tuổi Việt Nam giai đoạn 2022-2026” gồm 9 nội dung, trong đó có nội dung “phát huy vai trò người cao tuổi trong giáo dục, gìn giữ và trao truyền các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc; giáo dục văn hóa ứng xử và xây dựng gia đình hạnh phúc”.
Để ngăn chặn kịp thời tình trạng xuống cấp về đạo đức xã hội và văn hóa ứng xử; xây dựng nếp sống văn hóa và bảo tồn, phát triển văn hóa xã hội, thời gian tới, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch sẽ tiếp tục triển khai thực hiện tốt các văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước: Kết luận số 76-KL/TW ngày 04/6/2020 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33- NQ/TW; kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021. Tập trung thực hiện “Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030”, “Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2030”.
Trong xây dựng văn hóa, phải xây dựng con người văn hóa, vì con người vừa là chủ thể, vừa là động lực, vừa là người thực hiện vấn đề này; xây dựng môi trường văn hóa trong gia nhà trường và xã hội tốt, chúng ta sẽ hạn chế và ngăn chặn được những vấn đề tiêu cực về đạo đức xã hội và văn hóa ứng xử.
Bên cạnh đó, xây dựng nếp sống văn hóa cũng là một việc vô cùng quan trọng, tác động trực tiếp tới tư tưởng, đạo đức và lối sống, cách ứng xử của người dân. Muốn bảo tồn, phát triển văn hóa trong xã hội, trước tiên chúng ta phải có những chuẩn mực đúng đắn, phù hợp giữa nếp sống văn hóa và đời sống xã hội trong thời đại hiện nay. Xây dựng nếp sống văn hóa như việc chúng ta tạo nên một nền móng ban đầu. Nền móng có vững chắc thì chúng ta mới dựng được trên nó những công trình lâu bền. Muốn bảo tồn và phát triển văn hóa xã hội, xa hơn là phát huy và nâng tầm những giá trị tinh hoa của văn hóa dân tộc Việt Nam, điều đầu tiên chúng ta cần xây dựng một nếp sống văn hóa đúng đắn, lành mạnh, có định hướng trong từng cá thể con người, cộng đồng dân cư cho đến toàn xã hội.
Bảo tồn và phát triển văn hóa-xã hội là việc không của riêng ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Những chuẩn mực đạo đức văn hóa cần được tuyên truyền sâu rộng, đưa vào giáo dục trong các môi trường phù hợp, tránh tính trạng “hình thức” dẫn đến không đạt hiệu quả cao. Giáo dục để mỗi chúng ta phải thấy được vai trò và trọng trách của mình trong công cuộc bảo tồn và phát triển văn hóa xã hội trong thời đại hiện nay.
PV: Phát triển văn hóa là một nhiệm vụ chiến lược lớn hướng đến các mục tiêu căn bản là phát triển xã hội. Trong giai đoạn 2021 – 2030, các mục tiêu chúng ta cần tiếp tục thực hiện là gì, thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng: Giai đoạn 10 năm (2021-2030), trong bối cảnh đổi mới toàn diện và sâu sắc hơn với những chuyển động chung của đất nước và sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, lĩnh vực văn hoá tiếp tục được nhìn nhận như một trong những trụ cột của sự phát triển bền vững, là yếu tố nền tảng, là động lực, là nguồn lực nội sinh cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Để đáp ứng được sứ mệnh này, chúng ta xác định cần thực hiện các mục tiêu, trong đó bao gồm những mục tiêu tổng thể, xuyên suốt và những mục tiêu thành phần cụ thể.
Trong giới hạn của bài phỏng vấn này, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xin chia sẻ, trao đổi một số mục tiêu mà Ngành cần tập trung thực hiện:
Thứ nhất, cần xây dựng được nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hoá có trí tuệ, năng lực chuyên môn, bản lĩnh, khát vọng. Lực lượng này bao gồm đội ngũ lãnh đạo, quản lý, cán bộ có tâm có tầm, có tư duy chiến lược, năng lực xây dựng và hoàn thiện chính sách; lực lượng nghệ sĩ, nghệ nhân, người thực hành, người lao động trong lĩnh vực văn hoá có tri thức, đạo đức và năng lực sáng tạo; đội ngũ doanh nhân năng động, đổi mới, dám nghĩ dám làm, có ý thức trách nhiệm xã hội; các cộng đồng, cá nhân và các nhóm xã hội có ý thức và sự tự tôn về nền văn hoá dân tộc giàu bản sắc, thống nhất trong đa dạng. Cần tăng cường xây dựng chất lượng vốn con người thông qua hợp tác, trao đổi thông tin, học hỏi về kinh nghiệm và chuyên môn trong khu vực công và tư liên quan, tăng cường đào tạo, đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực, sử dụng công nghệ, phát triển và chuyển giao kỹ năng v.v…, đi cùng với quy định rõ ràng về quyền lợi, trách nhiệm nhằm tạo động lực để họ cống hiến và nỗ lực hết mình cho văn hoá. Nguồn vốn con người chính là nhân tố cốt lõi, là nguyên nhân đầu tiên cho mọi sự thành bại trong sự nghiệp văn hoá, vì vậy mục tiêu xây dựng nguồn vốn con người, nguồn nhân lực cho văn hoá cần phải là mục tiêu xuyên suốt và hàng đầu.
Thứ hai, thể chế, chính sách trong lĩnh vực văn hoá cần được tiếp tục được bổ sung, chỉnh sửa, hoàn thiện, đảm bảo tính đồng bộ, tính hiệu quả và khả thi để thực sự trở thành bệ đỡ, khung pháp lý tạo điều kiện và điều tiết kịp thời cho sự phát triển. Qua đó giúp khơi thông các nguồn lực cho văn hoá, giúp cho lĩnh vực văn hoá được phát triển lành mạnh, hài hoà, bền vững, đáp ứng các mục tiêu cân bằng và tổng thể về văn hoá, kinh tế, xã hội, môi trường (ví dụ: Đảm bảo các khía cạnh nhân văn, “phúc lợi” và “phát triển con người”, văn hoá như một hàng hoá công, bên cạnh việc tăng cường năng lực tự chủ, tạo ra nguồn thu nhập, sinh kế bền vững cho văn hoá), bảo vệ quyền và chủ thể của các bên liên quan, phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực, bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ quyền con người, tăng cường hiệu quả của Nhà nước pháp quyền, thúc đẩy hệ sinh thái đa dạng của văn hoá như nền tảng của đổi mới và sáng tạo.
Thứ ba, tăng cường chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ trong lĩnh vực văn hoá nhằm thúc đẩy năng lực sáng tạo, sản xuất, phân phối và hưởng thụ các hoạt động văn hóa, hàng hóa và dịch vụ trong nước, đồng thời xây dựng hạ tầng thông tin và từng bước đưa các sản phẩm văn hoá Việt Nam tiếp cận với thị trường quốc tế. Đây cũng là mục tiêu tất yếu trong bối cảnh sự phát triển của khoa học và công nghệ mang tính cách mạng đang diễn ra, của xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng, đa phương hóa, khu vực hóa và toàn cầu hóa hiện nay./.
PV: Xin trân trọng cảm ơn Bộ trưởng