VĂN HÓA CỔ Việt Nam – Bắc Sơn – Quỳnh Văn – Đa Bút – NÂNG CÁNH ƯỚC MƠ
HANG ĐÁ
RÌU ĐÁ MÀI
VỎ SÒ
Văn hóa Bắc Sơn – Quỳnh Văn –
Đa Bút
TRẦN KIÊM ĐẠT
Văn hoá Bắc Sơn
Nối tiếp văn hoá Hoà Bình là văn hoá Bắc Sơn và văn hoá Quỳnh Văn thuộc vào thời đại sơ kỳ đồ đá mới. Những di tích thuộc văn hoá Bắc Sơn được phát hiện đầu tiên trong những hang động vùng núi đá vôi Bắc Sơn và phụ cận.
Những di tích thuộc văn hoá nầy cũng đã phát hiện ở khu vực đã tìm thấy văn hoá Hoà Bình như Hoà Bình, Thanh Hoá, Quảng Bình. Một số ở miền TrungVN. Cũng tương tự như những vùng núi đá vôi khác ở VN, vùng đá vôi Bắc Sơn có nhiều loại hang động thuận lợi làm chỗ cư trú cho bầy người nguyên thủy.
Hang Bó Man ở Kéo Phầy (Lạng Sơn) là một loại hang đẹp, rộng khoảng 15m, ăn sâu vào trong núi 11m, cửa hang cao khoảng 6,50m. Hang Thẩm Khoách ở huyện Bình Gia là một di chỉ nổi tiếng của văn hoá Bắc Sơn, rông 60m, dài 100m, cao đến 40m. Qua khảo sát, tầng văn hoá trong những loại hang động Bắc Sơn là lớp đất xốp, đa phần là 1 lớp đá vôi lẫn nhiều vỏ nhuyễn thể, xen lẫn lớp tro xám. Dưới tầng văn hoá nầy là lớp đất sét trắng hayvàng, nâu. Người ta tìm thấy trong tầng văn hoá nầy những công cụđá của chủ nhân Bắc Sơn.
Kỹ thuật chế tác: Trong văn hóa Bắc Sơn, kỹ thuật mài đã khá phổ biến. Tuy nhiên bên cạnh những công cụ mài, trong một số địa điểm của văn hoá Bắc Sơn vẫn còn thấy những công cụ đẽo theo kiểu văn hoá Hoà Bình trước đó. Đó là những công cụ bằng đá cuội được ghè đẽo trên 1 mặt, còn mặt kia thì để nguyên. Đa phần đều có hình dáng bầu dục, hạnh nhân hay hình đĩa.
Người nguyên thủy đã dùng những công cụ nầy để chặt. Ngoài ra còn có những công cụ bằng cuội đẽo, có hình bán viên, lưỡi tròn đốc dày và thẳng ngang, dùng làm lao hay nạo.
Công cụ: Những công cụ tiêu biểu nhất của văn hoá Bắc Sơn là chiếc rìu chỉ mài ở lưỡi. Loại rìu nầy thường thấy ở mọi di chỉ của văn hoá nầy; khác hẳng với loại rìu ngắn của văn hoá Hoà Bình. Rìu có chiều ngang hẹp hơn và chiều dài dài hơn loại rìu ngắn của văn hoá Hoà Bình.
Người nguyên thủy đã chế tác rìu Bắc Sơn bằng cách chọn những viên cuội dài và dẹp, đẽo qua loa trên cả 2 mặt và rìa cạnh, làm sao cho viên cuội được cân xứng. Cũng có một số rìu làm bằng những hòn cuội để nguyên, đem mài một đầu làm lưỡi. Những phần khác không sửa sang gì. Rìu Bắc Sơn được lắp bằng cán tre hay cán gỗ, nhưng vì thời gian qua đã hư hỏng mất.
Rìu Bắc Sơn thường có lưỡi mài cân ở giữa, chứ không mài vẹt một bên. Những lưỡi rìu nầy chạy dọc song song với cán như kiểu rìu chặt hiện nay. Đốc rìu được để đẽo và tu sửa cho thon, tra cán dễ dàng. Những công cụ ghè đẽo thường được chế tác bằng loại đá Riolit; còn công cụ mài lưỡi thường làm bằng loại đá Flanit hay đá xanh thường thấy hiện nay. Những loại đá nầy rất dẻo và rắn chắc. Đây là bước tiến quan trọng trong cách chế tác dụng cụ, so với các văn hoá trước đó.
Phiến thạch: Trong hầu hết các hang động Bắc Sơn, có rất nhiều viên cuội phiến thạch nhỏ, có những dáu mài hai rãnh song song.
Những phiến thạch nầy rất nhiều đến nỗi người ta xem là dấu hiệu của văn hoá Bắc Sơn. Đó là loại bàn mài nhỏ, dùng để mài những công cụ nhỏ. Những dụng cụ nhỏ đến nay đã không tìm thấy, chỉ còn vết tích những viên cuội phiến thạch mà thôi. Tại vết tích Bình Long đã phát hiện được thỏi xương tròn có lưỡi vụm. Đó là chiếc đục nhỏ, đã để lại những dấu mài có 2 rãnh trên những viên phiến thạch.
Trong những di tích thuộc văn hoá Bắc Sơn còn tìm thấy một số công cụ bằng xương, như: rìu, mũi dùi, đục. Có những rìu xương rất lớn, dài đến 18cm.
Đồ gốm: Đồ gốm cũng đã được chế tác trong giai đoạn nầy. Trong hang động Bắc Sơn đã tìm thấy những mảnh gốm. Một số mảnh còn dấu vết đan. Căn cứ vào dấu đan trên gốm, cho thấy kỹ thuật đan trong giai đoạn nầy đã khá phát triển. Người nguyên thủy thời Bắc Sơn đã có thể đan những đồ đựng dày và đều. Họ cũng đã biết cách nặn những đồ gốm mà không cần đến khuôn đan. Hoa văn trên những đồ gốm nầy thường đơn giản, như vạch chéo, răng lược, văn sóng nước.
Xem xét những hoa văn nầy cho biết ngườỉ nguyên thủy tạo hoa văn khi đồ gốm còn ướt. Một số hoa văn khác cho thấy người nguyên thủy đã dùng đến bàn dập để in hoa văn lên bề mặt gốm. Một số hoa văn khác thì do người nguyên thủy đã dùng que nhọn để điểm xuyết thêm trên gốm ướt. Đồ gốm Bắc Sơn thường có miệng loe và đáy hình tròn. Một số hòn đá trong hang động có dấu vết khói đen, đó là những hòn đá kê lên để nấu những thức ăn. Về kỹ thuât nung của những loại gốm nầy vẫn chưa cao. Người nguyên thủy đã biết cách nhào đất sét lẫn với cát và tro để khi nung thì đồ vật không vỡ hay bị rạn nứt.
Xem như thế, đồ gốm trong văn hoá Bắc Sơn đã đánh dấu một bước tiến lớn trong đời sống của cư dân nguyên thủy. Tuy nhiên số lượng những mảnh gốm tìm thấy vẫn còn ít ỏi; điều nầy chứng tỏ việc chế tác đồ gốm chưa phát triển mạnh trong giai đoạn văn hoá Bắc Sơn.
Bên cạnh đồ gốm dùng trong nấu nướng, lại còn thấy vết tích của những vỏ cây, ống tre để nấu nướng hay dùng làm đồ đựng. Trong các hang động văn hoá Bắc Sơn còn tìm thấy xương và răng thú trong tầng văn hoá. Trong một số hang động khác, tìm thấy xương gấu, xương cầy cáo, xương nhím và xương khỉ. lại còn tìm thấy được xương và răng tê ngưu. Như thế nghề săn cũng khá phát triển.
Những xương thú nầy đều vỡ từng mảnh. Người nguyên thủy đã ăn thịt, vứt xương hay đập nát xương để hút tủy. Như thế, tuy đã chế tạo đồ gốm nhưng họ vẫn thích nấu nướng như trong giai đoạn trước.
Hái lượm Ngành hái lượm vẫn tiếp tục phát triển và đóng vai trò quan trọng trong việc tìm thực phẩm nuôi sống. Họ đi bắt ốc ở sông suối đem về ăn. Vỏ trai ốc chất lại thành từng đống lớp dày trong các hang động có người ở. Trong số ốc vặn tìm thấy nhiều nhất; đó là loài ốc nước ngọt, sống ở các sông sưới. Ngoài ra còn có ốc đất và các loài trai ốc khác.
Ở hang Làng Cườm (Lạng Sơn) lóp vỏ ốc nầy chấtcao lên đến 3m. Họ cũng dùng vỏ trai để làm công cụ thường dùng. Những vỏ trai lớn và cứng có thể dùng làm dao, nạo thay thìa. Ở di tích Đồng Lầy, còn tìm thấy mảnh vỏ trai hình tam giác, 1 đầu mài vẹt thành lưỡi sắc. Trong những hang động nầy, không tìm thấy được các công cụ liên quan đến nghề đánh cá. Xương cá cũng không thấy. Như vậy nghề đánh cá không phát triển trong thời đại văn hoá Bắc Sơn.
Như thế, chủ nhân Bắc Sơn sinh sống chính yếu là săn bắt, hái lượm. Vũ khí dùng săn bắt bằng tre gỗ; các công cụ đá thì dùng để chặt để chế tác đồ tre gỗ. Những mầm mống nông nghiệp phát sinh trong thời đại văn hoá Hoà Bình trước đó đã được phát triển thêm một bước. Đã tìm thấy rìu mài lưỡi chắc, để phát rừng làm rẫy. Con người thời văn hoá Bắc Sơn sống trong các hang động và mái đá. Những nơi nầy để che mưa nắng và tránh thú dữ. Họ làm các đồ nạo, dũa vỏ trai dùng trong việc chế tác da thú. Chưa tìm thấy được những mũi kim có lỗ khoan, nhưng đã thấy những mũi dùi nhỏ bằng xương, khá tinh tế.
Có thể con người thời nầy chế tác áo quần bằng da thú. Họ cũng dùng vỏ cây để làm quần áo che thân. Đồ đan đã thấy phát triển, tuy nhiên chưa có dấu vết chứng tỏ nghề dệt đã phát sinh.
Đồ trang sức Trong các di tích Bắc Sơn, đã tìm thấy những đồ trang sức. Trang mái đá Bình Gia, đã tìm thấy được nhiều loại vỏ ốc biển Cypraea. Họ khoét một lỗ lớn trên lưng vỏ ốc, xâu một sợi dây qua miệng ốc để làm đồ trang sức. Những vỏ ốc khoét lỗ nằm gần nhau trong tầng văn hoá nầy có thể đoán định là một xâu chuỗi dùng làm vật trang sức đeo ở cổ. Trong một số địa điểm khác, đã tìm thấy được đồ trang sức bằng phiến thạch mỏng, có lỗ đeo và những hạt chuỗi bằng đất nung, hình trụ hay hình thoi, có khoen lỗ ở chính giữa.
Qua những đồ trang sức đó cho thấy khả năng mỹ thuật của con người thời nầy đã phát triển hơn các giai đoạn trước. Trong một số hang động của văn hoá Bắc Sơn, cũng đã phát hiện những vật bằng đất sét hay bằng phiến thạch, trên đó có vạch những đoạn thẳng song song ở rìa cạnh làm thành từng nhóm. Có những mảnh phiến thạch khắc hình rẻ quạt, đường tròn, sóng nước. Đây là những biểu thị siêu linh. Những nghệ phẩm nầy mang tính huyền bí, khiến cho người ta nghĩ đến tín ngưỡng tôn giáo của họ.
Về niên đại Đã có nhiều ý kiến khác nhau về việc xác định niên đại của văn hoá Bắc Sơn. Hai mẫu vỏ ốc trong hang Bó Nam (Kéo Phẩy) đã được định niên đại bằng phương pháp C.14 vào khoảng 7,900 năm cách ngày nay. Hai mẫu vỏ ốc khác ở hang Thẩm Hai có niên đại C.14 là 9,700 năm cách ngày nay mẫu ốc trong hang Bó Lùm (Còn Khẻ) có niên đại C.12 là 8,010 năm cách ngày nay. Nhìn chung, tính niên đại tổng quát, văn hoà Bắc Sơn cách nay vào khoảng từ 1 vạn năm đến 8,000 năm.
Như thế văn hoá Bắc Sơn là sự tiếp nối kế thừa của văn hoá Hoà Bình; sự phát triển đó mang tính liên tục, liên hệ, dồi dào hơn lên. Những di tích văn hoá Bắc Sơn cũng đã tìm thấy được nhiều nơi vùng Đông Nam Á: Lào, Thái Lan , Malaysia , Indonésia.
Mục lục bài viết
Văn hoá Quỳnh Văn
Đại cương Cùng với văn hoá Bắc Sơn, văn hoá Quỳnh Văn cũng thuộc vào sơ kỳ thời đại đồ đá mới ở VN, nhưng lại được phân bố ở vùng ven biển.
Tiêu biểu cho văn hoá nầy là di chỉ Quỳnh Văn ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Chủ nhân văn hoá Quỳnh Văn là những người hầu như chủ yếu sống bằng vào kinh tế khai thác nhuyễn thể và các hải sản biển.
Hơn 20 di chỉ cồn sò đập ven biển Quỳnh Lưu (Nghệ An) và Thanh Hà (Hà Tĩnh) đã không chỉ phản ánh định hướng khai thác biển một cách toàn diện, mà còn chứng tỏ văn hoá Quỳnh Văn là văn hoá có quy mô lớn nhất vùng duyên hải, độc đáo trong bình tuyến trung tâm văn hoá đá mới ven biển VN sau thời văn hóa Hoà Bình.
Văn hoá cồn sò đập Quỳnh Văn cho đến nay đã trải qua hơn 60 được các nhà khảo cổ học trong và ngoài nước phát hiện, nghiên cứu.Quá trình và thành tựu nghiên cứu trong hơn nửa thế kỷ được nhiều nhà khảo cổ học triển khai qua những luận chứng khác nhau.
Qua đặc điểm môi trường phân bó các di chỉ, khảo cổ, cấu tạo tầng văn hóa, các dấu tích hoạt động của chủ nhân văn hoá nầy, các mộ táng, nơi cư trú, qua đặc trưng của tổ hợp di vật bằng đá, xương răng, động vật, vỏ nhuyễn thể, cơ cấu khai thác kinh tế biển, nguồn gốc và quá trình phát triển… cho chúng ta thấy: chủ nhân văn hoá Quỳnh Văn là một trong số những đại diện tiêu biểu cho trình độ khai thac biển của VN thời đồ đá mới.
Di chỉ Quỳnh Văn Đặc điểm của sự phân bố các di chỉ cồn sò điệp văn hoá Quỳnh Vănlà phân bố tập trung chung quanh đồng bằng Quỳnh Lưu. Hình thái phân bố chia thành hai tuyến: phía bồ đông và phía bờ tây của sông Quèn.Tuyến bờ tây: có 8 địa điểm: Cồn Hang Thờ, Cồn Lẹp, Cồn Rườn, Rú Cửa Gan, Quỳnh Văn, Cồn Đề, Đông Hà Nam , Đông Hà Bắc.
Những vùng nầy sò điệp phân bố tản mạn, hầu hết là sò điệp bám dựa chân núi.Tuyến bờ đông: gồm có: Cồm Trạm Xá, Cồn Lò Ngói, Cồn Đất, Cồn Nghĩa Trang, Gò Lạp Nam, Gò Tùng Điệp, Gò Lạp Bắc, Gò Ong Lựu, Gò Mới, Gò Lăng và Gò Trạm Máy Kéo. Sò điệp tập trung dần từ trung lưu sông Quèn ăn ra biển. Phía trên tằng văn hoá nầy là lớp vỏ nhuyễn thể bị mủm nát.
Thành phần chủ yếu là: vỏ điệp (placuna placenta lin), sò nhẵn (areasabinze lin), sò gai (arccagranaca lin) ốc đinh (tuvitellabacillum kienner), ốc sắt (cerilicat), ốc gai (murex), vỏ ngao (keretix)… Bên cạnh những vỏ nhuyễn thể, còn có các loại: vụn cua bể (eriocheir), xương cá, mai rùa, ba ba, mực… xương răng động vật gồm: voi, trâu bò rừng, hươu, nai, tê giác.
Công cụ: Trong tầng văn hoá và trong các mộ táng, đã tìm thấy nhiều công cụ đá của người nguyên thủy. Ngoài một số ít chày đá, hòn ghè, hầu hết công cụ được chế tạc bằng “đá gốc”. Loại đá nầy dùng làm công cụ Keratophia – thạch anh. Cũng tìm thấy những loại nạo bằng đá. Nạo làm bằng hạch đá hay mảnh tước, có loại thô những cũng có loại khá tinh tế. Con người thời đó cũng sử dụng những chiếc rìu to, nhỏ khác nhau. Tất cả các loại rìu đều được ghè cả hai mặt.
Kỹ thuật chế tác đá duy nhất ở đây là cách ghè đẽo. Trong những mảnh tước tìm thấy ở đây, bên cạnh các mảnh tước có đặc trưng Clacton , còn có loại mảnh tước có mặt ghè hẹp. Cũng có các hạch đá kiểu Levaloa. Không có kỹ thuật mài và không tìm thấy bàn mài.Ngoài ra, người nguyên thủy Quỳnh Văn cũng dùng xương để kiến tạo các công cụ.
Ở Quỳnh Văn còn tìm thấy 1 đoạn xương ống, một đầu được vót nhọn khá sắc và một chiếc răng động vật cũng có dấu gọt ở đầu nhọn của răng. Đây là những mũi dùi Trong các mộ táng, còn tìm thấy những chiếc đục bằng xương, có lưỡi mài sắc và xinh xắn. Hầu hết những công cụ ở đây được chế tác bằng cách ghè đẽo, chưa thấy cách mài đá, nhưng khẳng định là văn hoá nầy ở vào thời đồ đá mới.
Người Quỳnh Văn cũng đã biết làm đồ gốm. Gốm Quỳnh Văn là loại gốm thô. Đất làm gốm còn trộn nhiều hạt cát to bê ngoài có phủ 1 lớp đất mịn. Độ nung còn thấp cho nên gốm thường bị nứt vỡ. Họ làm gốm bằng tay, chưa có bàn xoay, nhưng gốm cũng có độ dày đều. Mặt ngoài của gốm có trang trí hoa văn thô sơ. Một số mảnh gốm bị ám khói, chứng tỏ dùng để đun nấu.
Trong tầng văn hoá nầy tìm thấy các bếp của người nguyên thủy. Đó là những đám tro than, có những hòn đá ám khói. Một số bị nứt có thể do lửa nung. Trong tro than thường lẫn lộn xương cá và xương thú. Đó là những thức ăn được nấu nướng.
Sinh hoạt : Những dấu vết hoạt động của người cổ Quỳnh Văn còn lưu lại đếnnay theo 3 dạng thức: – Các dấu vết bếp lửa – Các hố đất đào – Các mộ táng Loại dấu vết hố đào và một táng mối chỉ phát hiện được ở những địa điểm Quỳnh Văn, còn dấu vết bếp lửa là hiện tượng phổ biến ở tất cả các địa điểm khác của văn hoá nầy. Ở di chỉ Quỳnh Văn, đã phát hiện được 11 hố đất ở lớp thứ 2 và lớp thứ 9.
Trong một số hố đất đã phát hiện được những thể loại công cụ bằng đá và những mảnh gốm. Các dấu vết bếp đun nấu là hiện tượng phổ biến nhất.
Đã phát hiện hàng trăm bếp lửa ở 4 địa điểm khai quật. Những chiếc bép nầy có diện tích rộng hẹp khác nhau, đống than tro dày mỏng khác nhau, nhưng lại không có cấu trúc tiêu chuẩn nào. Hầu hết bếp là những vùng than tro với vỏ sò điệp, xương răng, than củi bị đốt cháy, cùng với những hòn cuội làm đá kê bắc bếp bị ám khói, bên cạnh những mảnh gốm và những công cụ đá.
Cũng tìm thấy được những thể loại đồ đá có đáy nhọn. Trừ một số ít có lớp than tro dày, phần lớn các bếp cho thấy việc sử dụng chúng trong khoảng thời gian không lâu dài lắm.
Tài liệu còn cho thấy: chủ nhăn văn hoá Quỳnh Văn sử dụng nguồn thức ăn nhuyễn thể, hải sản tại chỗ là chính yếu; bên cạnh có một số lượng nhỏ thịt rừng. Các nhà khảo cổ học gọi đó là “đống rác bếp” (Kjokkenmbding).
Mộ táng: Ở địa điểm Quỳnh Văn trong cuộc khai quật năm 1963 đã phát hiện được 31 ngôi mộ. các huyệt mộ đều hình tròn hay gần tròn, đường kính khoảng 70cm. Đất xây dựng mộ màu nâu lẫn vỏ sò điệp.
Những đồ tùy táng cũng khá phổ biến trong những ngôi mộ nầy, như: công cụ đá, dao, đục xũm bằng xương, ngà voi, vỏ ốc xuyên lỗ. căn cứ vào huyệt mộ, vào vị trí xương cốt còn lưu lại, cho thấy người chết được chôn với táng thứa nằm co hay ngồi bó gối. Cũng có những khu chôn tẫp thể được tìm thấy ở địa điểm Quỳnh Văn.
Táng tục của chủ nhân văn hoá Quỳnh Văn có nhiều nét tương tự như táng tục của chủ nhân văn hoá Đa Bút. Tính chất táng tục nầy thấy ở văn hoá Hoà Bình trong các địa điểm khảo cổ: Hang Đắng, Mộc Long, Con Moong (Ninh Bình) Mai Đá Điều (Thanh Hoá), Hang Muối (Hoà Bình), Hang Chùa (Nghệ An)…
Điều nầy cho thấy có những liên hệ giữa văn hoá Hoà Bình trước đó với văn hoá Quỳnh Văn về sau. Do đó cũng có thể xác định thành phần nhân chủng của chủ nhân văn hoá Quỳnh Văn thuộc đại chủng Australo – Negroid.
Di vật Di vật của chủ nhân văn hoá Quỳnh Văn còn lại ở di chỉ sò điệp Quỳnh Lưu gồm: các công cụ bằng đá, bằng xương răng động vật, bằng vỏ nhuyễn thể, đồ gốm.
Đồ đá Phân loại, nghiên cứu cho thấy: bộ sưu tập đồ đá Quỳnh Văn gồm có: mảnh tước, các loại hình công cụ đá ghè từ đá gốc, đá cuội, đá lăn, công cụ mài, các loại công cụ không gia công hay cuội nguyên chày, hòn ghè, hòn kê, bàn nghiền, bàn mài.
Chủ nhân văn hoá Quỳnh Văn đã chế tác và sử dụng những loại hình công cụ vừa mang những yếu tố truyền thống Sơn Vi – Hoà Bình trước đó, vừa mang những đặc điểm riêng của Quỳnh Văn. Những công cụ nầy có hình bầu dục, hình dĩa, hình khối tam giác, hình mai rùa, hình quả trám, hình rìu dài, hình rìu ngắn, công cụ không định hình, công cụ từ mảnh tước tu chỉnh. hầu hết công cụ ghè đẽo Quỳnh Văn đều có 1 mặt phẳng, 1 mặt kum hay gần nhọn. Ở địa điểm Quỳnh Văn chỉ thu được hơn 100 mảnh gốm, còn ở các điạ điểm khác thu được khoảng 5,000 mảnh gốm.
Những hiện tượng kể trên cho thấy nền kinh tế khai thác hải sản, chủ yếu là nhuyễn thể sò, điệp, ốc; còn công cụ đá không giữ vai trò quan trọng như chủ nhân văn hoá Đa Bút
Công cụ bằng xương răng động vật Cư dân văn hoá Quỳnh Văn cũng gia công một số xương răng, sừng của động vật để làm đục, làm mũi nhọn, nhưng số lượng không nhiều. Những công trình khai quật của bà Madeleine Colani tìm được hàng chục đồ dùng bằng vỏ sò, vỏ ốc, vỏ hà.
Việc dùng vỏ nhuyễn thể như trai, trục, ốc, sò làm công cụ và đồ trang sức cũng là hiện tượng khá phổ biến trong những di chỉ hang động văn hoá Quỳnh Văn.
Đồ gốm Đồ gốm là thành tố quan trọng và cơ bản trong cơ cấu nền văn hóa vật chất ở Quỳnh Văn. Quỳnh Văn là 1 trong 3 trung tâm gốm sớm nhất, không những tại Việt Nam , mà của cả vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo.
Đồ gốm tập trung tạp Quỳnh Văn phía Nam, Gò Lạp Bắc, Cồn Đất, tính ra có đến 17,000 mảnh gốm. Có 4 loại gốm: gốm văn chải đáy nhọn, gốm văn in dập kiểu nan rá có đáy trò, gốm văn chải mặt trong, văn thừng mặt ngoài, gốm văn thừng đáy tròn. Hai loại gốm kiểu văn chải đấy nhọn và văn in dập kiểu nan rá xuất hiện sớm nhấttại Quỳnh Văn.
Như thế, từ khi mới đặt chân đến bờ biển QuỳnhLưu, chủ nhân văn hoá Quỳnh Văn đã tạo đồ gốm để dùng. Hầu hết những mảnh gốm khai quật được tại Quỳnh Văn là mảnh vỏ của nồi đun nấu; có vết ám khói hay tro đen ở thân gốm và đáy gốm, tức là dùng dụng cụ nấu nướng.
Những mảnh gốm khai quật được thường bị vỡ thành từng bộ phận, cũng có chỗ lẫn lộn với đồ đá, than tro, xác hải sản. Gốm đáy nhọn rất phổ biến trong vùng nầy. Thân gốm thì cấu trúc theo hình nón hay hình phễ; chất liệu pha nhiều cát sạn, vỏ nhuyễn thể và xương gốm tán vụn tạo thành độ cứng chắt, diện tích tiếp xúc với lửa nhiều hơn so với gốm đáy tròn.
Các loại gốm Quỳnh Văn để chế tác chủ yếu bằng phương pháp nặn bằng tay, giải cuộn, kết hợp với thủ pháp kê, đập, chải. Điều nầy khác với gốm Đa Bút. Trên cổ và miệng của các loại gốm được khoét những chiếc lỗ nhỏ chừng 3mm. Lỗ nầy dùng để luồn dây buộc chovững khi đun hay di chuyển. Như thế, sự xuất hiện của loại gốm có văn in dập kiểu nan rá đáy tròn, văn chải 2 mặt, đáy nhọn, văn thừng cổ thắt… đều là nét tiêu biểu nhất của văn hoá Quỳnh Văn.
Sinh hoạt kinh tế Qua những dấu tích của thức ăn, có thể biết được hoạt động kinh tế của họ. Người nguyên thủy Quỳnh Văn sinh sống bằng cách bắt điệp, sò, ốc ven sông biển. Người nguyên thủy Quỳnh Văn cũng sống bằng nghề bắt cá. Trong tầng văn hoá, tìm thấy các đốt xương sống cá và vây cá khá lớn. Tất nhiên là họ dùng thuyền và có thể ra biển.
Nghiên cứu về môi trường, đặc điểm phân bố các di chỉ cồn sò điệp và đặc biệt là tầng văn hoá, loại di tích nầy được cấu cạo bởi chính vỏ, xác và tàn tích các loại nhuyễn thể. Hầu hết là điệp, ở ngay môi trường vịnh Quỳnh Lưu. Hơn thế nữa, các di tích sò điệp không những phong phú về số lượng, lại còn có quy mô rất lớn, lớn hơn nhiều nếu đem so với mật độ và tổng số di vật trong một đơn vị diện tích khai quật.
Tuy nhiên, trong khảo sát, vẫn thấy một số lượng rất nhiều về những con sò điệp vẫn còn ngậm miệng, nghĩa là không phải dùng làm thức ăn. Từ thực tế cho thấy, khối lượng những di vật sò điệp nầy tập trung do 2 nguồn gốc: (a) do hoạt động của con người; (b)do ảnh hưởng của thủy triều, sóng gió.
Căn cứ vào dấu vết tác động lên những nhuyễn thể, vào đặc điểm phân bố di tích và di vật cho thấy: chủ nhân văn hoá Quỳnh Văn đã thu lượm, đánh bắt nhuyễn thể và hải sản ở những giai đoạn, những điều kiện thuận lợi nhất định, theo vòng sinh trưởng của các giống hải sản, theo diễn biến của môi trường chịu ảnh hưởng các đợt biển tiến và biển lùi. Đó là cách khai thác theo từng mùa.
Người nguyên thủy Quỳnh Văn cũng làm nghề săn bắt. Trong di chỉ, đã tìm thấy xương và răng hươu nai, trâu bò, chó và nhím. Đó là những thú rừng săn bắt được. Cũng tìm thấy có ngà voi. Như thế, con người Quỳnh Văn còn săn bắt các thú lớn. Nhưng xương thú rất ít, có lẽ nghề săn bắt đã không đóng vai trò lớn bằng nghề sông biển.
Niên đại văn hoá Quỳnh Văn
Niên đại: Văn hoá Quỳnh Văn thuộc thời đại sơ kỳ đá mới để dần dà chuyển sang thời đại kim khí. Giai đoạn nầy liên hệ với sự thành lập đồng bằng
Nhắn tin cho tác giả
Nguyễn Thị Thanh Thuỷ @ 10:33 11/07/2012
Số lượt xem: 2199
Số lượt thích:
0 người