Chúa sơn lâm – Wikipedia tiếng Việt

Chúa sơn lâm là một thuật ngữ có tính ước lệ trong biểu tượng văn hóa dùng để chỉ về một loài động vật có thật được tôn xưng lên vị trí cao nhất trong vương quốc các loài động vật (trừ con người). Vai trò ngự trị này hiện hữu ở những nơi chúng hiện diện cũng như trong tâm thức và văn hóa, đồng thời từ đó gắn liền với các hình thức thờ phụng, mê tín dị đoan. Vua của muôn thú được xưng tụng là loài vật mạnh mẽ nhất, khôn ngoan nhất, oai linh và ảnh hưởng thống trị đến các loài vật, muông thú, và cũng thường gắn liền với biểu tượng của Vương quyền, sự tôn nghiêm, cao thượng, quyền lực và lòng can đảm. Chúa sơn lâm còn được gọi với các mỹ từ tôn xưng khác như Chúa tể sơn lâm hay Chủ tể sơn lâm hay là Vua của muôn thú, hoặc là Vua của muôn loài, cũng như Dã thú chi vương, hay như Chúa tể rừng xanh rồi Mãnh chúa rừng xanh và nhiều tên gọi ước lệ khác.

Nhìn chung, những loài động vật hoang dã được xưng tựng là Vua sẽ chính là những loài dã thú can đảm và mạnh mẽ, hung hãn, to lớn, và cũng thường là những loài động vật hoang dã ăn thịt, luôn chiếm vị trí động vật hoang dã đầu bảng trong khu vực nơi chúng sinh sống. Thông thường, sự chăm sóc dành cho thương hiệu này lại tập trung chuyên sâu cho những dã thú sống trên cạn. Những sinh vật có thật thường được tôn xưng ở vị trí này hoàn toàn có thể kể đến là sư tử và hổ, những giống loài ít được nhắc đến hơn là đại bàng, gấu, voi, cá voi, báo, loài sói ở một số ít nơi cũng nhận được sự ngưỡng mộ nhưng phần nhiều nó chỉ được coi là thủ lĩnh trong tộc loài của chúng ( sói chúa, sói đầu đàn, sói thủ lĩnh ) mà hiếm khi chúng được xem là ngự trị trên muôn loài. Trong toàn bộ thú dữ sống trên cạn thì sư tử và hổ luôn được coi là có sức mạnh vô địch [ 1 ] .Sư tử với tầm ảnh hưởng tác động to lớn, thâm thúy về văn hóa truyền thống và tôn giáo của nó luôn được gắn liền với thương hiệu Chúa sơn lâm, Vua của muôn loài, vị vua đích thực của những loài thú ở những nơi có sự hiện hữu của chúng cũng như cả những nơi không có sự hiện hữu của chúng và có vẻ như thương hiệu này gắn với ý niệm về sư tử [ 2 ]. Hổ chỉ có ngôi vị này ở những nơi chúng sinh sống nhưng vẫn lép vế hơn nhiều so với sư tử ngay cả ở nhưng nơi có phân bổ của hổ mà không có sự sống sót của sư tử. Cuộc chiến giữa hổ và sư tử cho ngôi vị Vua của muôn loài luôn là đề tài lôi cuốn nhiều sự chăm sóc trong lịch sử dân tộc, văn hóa truyền thống và trong thực tiễn. Nhìn chung thì về mặt văn hóa truyền thống và tín ngưỡng, ý niệm thì sư tử chiếm lợi thế áp đảo, còn những cuộc đọ sức thực chiến thì hổ là loài được ghi nhận là có lợi thế nhỉnh hơn .

Theo lục địa[sửa|sửa mã nguồn]

Không phải tất cả các loài dã thú lớn và mạnh mẽ, hung hãn đều hiện diện ở khắp nơi trên thế giới hoặc hiện diện đồng loạt ở các hệ sinh thái khác nhau, mỗi châu lục, vùng sinh thái có những loài động mạnh mẽ, hung dữ, gây ảnh hưởng nhất định. Theo châu lục, Vua của muôn thú phổ biến có thể kể đến là:

Một con sư tử châu Phi, chúng được coi là bá chủ thảo nguyên, chúa tể sa mạc Đại bàng-Chúa tể của khung trời
Hổ được tôn thờ nhiều nơi ở châu Á

Hổ cũng là loài vật được tôn xưng là Chúa Sơn lâm. Những nơi hổ được coi là vị vua của muôn thú đến từ các nước phương Đông và Đông Nam của châu Á, nơi mà người ta chưa từng chứng kiến có sư tử hiện diện. Hổ là loài thú mạnh nhất trong rừng xanh ở nơi đây, biểu tượng cho sức mạnh của tự nhiên thủa còn sơ khai, từ đó đã đi vào tâm thức và văn hóa dân gian như một loài thú mạnh nhất của núi rừng, miền sơn cước. Người ta tôn xưng hổ là Sơn quân (tức là vua của núi rừng). Theo Thuyết Văn thì “Hổ sơn thú chi quân” (nghĩa là Cọp vua loài thú trên núi). Theo Hổ Uyển thì “Hổ vi thú trưởng, diệc viết Sơn quân” (nghĩa là Cọp lớn nhất trong bầy thú nên gọi là Sơn quân).

Những vùng lãnh thổ, quốc gia, dân tộc tôn sùng hổ có thể kể đến là Siberia, Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam, Mã Lai… Ở Siberia, hổ được gọi với danh xưng tôn kính là Amba và còn được tôn xưng là Chúa tể rừng Taiga hay Sa hoàng rừng Taiga. Ngoài ra nhiều quốc gia có sự đan xem giữa vương quyền của hai loài này chẳng hạn như trên biểu tượng quốc kỳ của Singapore có biểu tượng song song của sư tử và hổ. Trung Quốc và cả Việt Nam là xứ sở không có sư tử do đó, trong lịch sử xa xưa thì hổ hay còn gọi là cọp được tôn làm con vật thượng thủ của loài thú, thay vì sư tử như các xứ có sư tử[4].

Hổ được coi là hình tượng vương quốc chính thức ở những nước Nước Hàn, Ấn Độ, Bangladesh và Malaixia và hình tượng cho 1 số ít vùng miền, tổ chức triển khai ở châu Á, 1 số ít nơi hổ còn là hình tượng vương quốc một cách không chính thức. Theo cách nhìn phương Tây thì trong văn hóa truyền thống châu Á, hổ chỉ đóng vai trò sửa chữa thay thế sư tử để trở thành vua của muôn thú ( King of the Beasts ) khi sư tử luôn là hình tượng của hoàng gia, hình tượng của sức mạnh .

Trong quan niệm của người Trung Quốc, hổ chính là vua muôn thú, những sọc ngang trên trán của hổ liên tưởng tới chữ Vương và người Trung Quốc cho rằng khi sinh ra, hổ là vua của muôn thú. Ở Việt Nam, trong dân gian, nhất là ở những miền đồi núi, sơn cước, hổ chính và vì vua của muôn thú, là vị chúa trong khu rừng nơi chúng sinh sống (rừng nào cọp nấy), người ta thường lập bàn thờ, miếu thờ hổ ở khắp nơi, có thể ghi nhận như ở vùng Rùng núi Bắc Bộ, miền Trung như Thanh Hóa và đặc biệt là những vùng sông nước miền Tây nơi còn ghi dấu nhiều truyền thuyết, những câu chuyện dân gian về loài hổ trong quá trình khai hoang mở cõi khi Nam tiến. Tuy vậy, sức mạnh của loài hổ ở châu Á còn bị giới hạn bởi hình tượng con rồng, một sinh vật thần thoại biểu tượng cho sức mạnh siêu nhiên, sức mạnh của đất trời và vương quyền, thiên tử.

Các triều đại phong kiến ở những nước Phương Đông coi hổ cùng với rồng là biểu trưng cho vương quyền, trong quân sự chiến lược, võ học và cho những thành đạt trong khoa cử. Trong tâm thức người dân phương Đông thì hổ vẫn là một ác thú, nó hung hãn nhất trong 12 con giáp, trong 12 con thú, hổ hội đủ những đặc chất như dũng mãnh, can trường, hiên ngang, dám tiến công cả những con thú to khỏe hơn nó. Nhờ những đặc chất ấy mà cọp là một trong những loài trở thành hình tượng của sự hùng cường và sức mạnh vô song, sự cường tráng. Trong rừng, không có một con vật nào sao chép được sự uy dũng của Hổ, đó chính là Hổ xú hùng tâm tại tức là, khi con Hổ về già xấu xí nằm yên một chỗ nhưng hùng tâm của Hổ vẫn còn, chẳng một con vật nào dám qua mặt .Với người phương Bắc thì hổ còn là hình tượng cho quyền uy, sự dũng mãnh nơi chiến địa và hổ trắng là hình ảnh của đấng minh quân đồng thời tượng trưng cho sức mạnh, uy quyền của vị tướng quân dũng mãnh, can trường. Ở Nước Ta, theo ý niệm thông tục, người ta cho rằng, hổ là chúa tể của muôn loài muông thú, thậm chí còn uy lực của hổ còn trấn ngự được cả những linh hồn người đã chết do nó ăn thịt, Từ rất lâu trong tín ngưỡng dân gian Việt, hổ được coi là con vật rất linh. Trong tín ngưỡng dân gian của nhiều dân tộc bản địa, vùng miền hổ là loài vật được tôn thờ và sùng bái trải qua tập tục thờ hổ, hổ còn đóng vai trò là thần giám hộ của vương quốc, sự ngưỡng mộ loài hổ còn bộc lộ trải qua tên tuổi, đặt tên, làm thiêng vật, hình tượng .Trong tiềm thức dân gian Nước Ta, hổ hay ông ba mươi là tên gọi đầy uy linh, quyền kính trong những gian thờ, đình, chùa, miếu mạo. Ở Nước Ta, hổ được xếp vào nhóm hộ môn thú ( những con thú canh gác nhà cửa, lăng mộ, đình, chùa, miếu mạo ), là một trong những con vật được tạc trong những khu lăng mộ người Việt. Người Việt không sử dụng những tượng đá sư tử để trấn yểm và để tạo nên sự thiêng liêng, hùng tráng cho khoảng trống này. Nếu cần có một con vật hung tàn, người Việt nghĩ ngay đến hổ / cọp và hầu hết trong suốt lịch sử vẻ vang tăng trưởng của lăng miếu của họ, hổ là con vật oai phong nhất, không gì thay thế sửa chữa được .
Sự sùng bái đến mức mê tín dị đoan hoang đường còn bộc lộ qua việc người ta thường làm chiếc nanh hoặc vuốt hổ, hoặc răng hổ bịt vàng bạc hoặc chiếc vuốt làm bằng sứ, sắt kẽm kim loại cho trẻ con đeo để trừ tà ma, hoặc người lớn cũng đeo cho đẹp và tỏ ra oai vệ, người Campuchia khi giết hổ thường lấy nanh hổ đánh bóng bán làm vật trừ tà. Ngay cả việc đi săn hổ, người ta cũng phải cúng để cầu phù hộ, thậm chí còn nấu nồi cao hổ có những chuyện ly kỳ và đa phần là do người ta thần thánh hóa. Xuất phát từ việc hổ là con vật được coi là chúa sơn lâm và được nhiều nơi người dân đưa vào đền, miếu để thờ. Do đó khi dùng hổ làm thuốc trị bệnh cứu người thì cũng phải được sự chấp thuận đồng ý của vong hồn Ông Hổ. Vì vậy, trước khi mang xương hổ đi làm sạch, người chủ nấu cao phải để bộ xương của hổ xếp theo đúng hình hài trên một chiếc bàn phủ vải điều và bày ở giữa sân. Lễ vật dâng lên cho hổ gồm có một chiếc thủ lợn, đuôi lợn để sống và có hương nến cẩn trọng .
Hổ được bộc lộ trong nền hội họa của phương Đông lẫn phương Tây, rất nhiều bức tranh vẽ về loài hổ. Với hình tượng về sức mạnh, không riêng gì ở phương Đông, rất nhiều nơi trên quốc tế có đại hội sơn lâm và theo ý niệm ở châu Á, với tư cách là chúa tể, hổ đóng vai trò của quyền uy thống trị, có vai trò điều phối, chia khu vực sơn lâm cho những dã thú khác. Đó là vai trò anh hùng. Đến khi có chủ nghĩa anh hùng phong kiến thì hổ ( cùng với đại bàng ) là hình tượng của anh hùng độc lập. Có thể thấy điều này qua những bức tranh cổ vẽ cảnh hổ đang gầm mặt trời. Lúc này, hổ là anh hùng giang hồ chống phá lại thể chế, không bị thu phục dưới bất kể một chính thể tập quyền nào .
Sư tử được coi là vị vua của muôn loài, hình tượng của Hoàng gia, Vương quyền, sự thống trị, sự can đảm và mạnh mẽ và cao quý, hình tượng trong nhiều tôn giáo lớn trên quốc tếSư tử là một động vật hoang dã có ảnh hưởng tác động mãnh mẽ tới nhiều nền văn hóa truyền thống nhất với tư cách là hình tượng của uy lực [ 5 ]. Các nhà động vật hoang dã học qua thực nghiệm đã chứng minh và khẳng định về khối lượng khung hình, sức mạnh cơ bắp, năng lực tiến công đối phương, sư tử xếp sau hổ và voi, nhưng với ý nghĩa là hình tượng của uy lực và sức mạnh, sư tử đã thực sự gắn bó ngặt nghèo với vương quyền và thần quyền của nhiều nền văn hóa truyền thống, nhiều vương quốc [ 5 ] .
Sư tử được biết đến là ” King Of The Jungle ” ( Vua của rừng rậm )Hình tượng sư tử Open trong khoảng trống thờ phụng của nhiều tôn giáo, trên quốc kỳ và quốc huy, huy hiệu, hình tượng, logo, được diễn đạt phổ cập trong văn học thẩm mỹ và nghệ thuật từ cổ chí kim ở nhiều vương quốc hơn bất kể động vật hoang dã nào khác. Sử tử còn là loại động vật hoang dã thống trị và cao quý nhất trong muôn loài trong những tôn giáo lớn trên quốc tế. Là con vật thượng thủ trong những loài thú, sư tử chính là hiện thân của quyền lực tối cao, của hiền minh và chân lý nên cũng khiến nó là hình tượng của những bậc tôn quý. Tại nhiều nơi trên quốc tế, sư tử là một hình tượng của hoàng gia và hiệp sĩ, tượng trưng cho sức mạnh, sự tự tôn và thống trị .Xét về thị giác và ngoại hình, sư tử đặc biệt quan trọng là những con sư tử đực với bộ lông bờm dày, ức và hông nở, săn chắc, răng sắc, móng nhọn, thân vàng óng, lực lưỡng, to đô, cơ bắp cuồn cuộn hoàn toàn có thể cho thấy sư tử hơn hẳn voi và hổ [ 5 ]. Sư tử đực còn có dáng vẽ và bước tiến oai vệ, tự tôn luôn chuyển dời trong tư thế tư thế ngẩng cao đầu từ đó, sư tử đã được tưởng tượng chính là Chúa tể của muôn loài .

Vua Sư tử (Lion King) hay Sư vương với những ý niệm về loài vật mang quyền uy tối thượng, sự tôn nghiêm khiến muôn loài phải phủ phục khi nó bước qua, với thân hình khôi vĩ, dáng vẻ đường bệ và trở thành biểu tượng cho sức mạnh, lòng dũng cảm, khí chất cao quý, sự kiêu hãnh, thống trị. Nó còn tượng trưng cho vị vua, vua của muôn vua, tượng trung cho hiệp sĩ bởi lòng quả cảm và chiến binh với khả năng chiến đấu tuyệt vời. Sư tử là biểu tượng của hoàng gia Anh và nhiều nước châu Âu, nhiều quốc gia với hình tượng con sư tử đội vương miện hay sư tử có cánh, nhiều sự kiện quan trọng đều lấy sư tử làm linh vật.

Trong tôn giáo[sửa|sửa mã nguồn]

Có thể thấy rõ trong các tôn giáo lớn trên thế giới như Thiên chúa giáo, Phật giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo sư tử đã trở thành một biểu tượng có tính tôn nghiêm không thể thiếu của các tôn giáo trên. Trong Thiên chúa giáo và Hồi giáo, Sư tử (Aslan) là biểu tượng cho ý chí của Chúa trời. Trong Phật giáo, sư tử (Simha) biểu tượng cho sức mạnh, oai linh nhưng tuân phục, trợ giúp cho Phật pháp, nó là một linh vật biểu trưng cho sức mạnh Phật giáo[6]. Nó tượng trưng cho sức mạnh của giáo lý chánh pháp, nên trong kinh phật có rất nhiều câu chuyện về sư tử chúa[7].

Trong Phật giáo, Phật Thích Ca Mâu Ni được tôn là Pháp vương, giống như sư tử là vua của loài thú lời thuyết pháp của Phật được gọi là Sư tử hống (Simhanada) tức là tiếng rống của sư tử, biểu thị uy lực và diệu dụng của Phật pháp thu nhiếp được tất thảy chúng sinh. Cũng có dữ liệu cho rằng Phật là sư tử của dòng họ Sakya, và kinh, luận Phật giáo thường lấy sư tử dụ cho đức vô úy và sự vĩ đại của Đức Phật, tòa ngồi của Đức Phật gọi là Tòa sư tử (Simha-sana) ngoài ra còn có hình ảnh tượng Bồ-tát Văn Thù cưỡi sư tử thuộc quy phạm đồ tượng học truyền thống Phật giáo hay xa xưa hơn là biểu tượng Nara-simha (người sư tử), kẻ có sức mạnh và lòng dũng cảm diệt trừ cái ác và sự ngu muội và vô minh.

Trong Kinh Thánh, sư tử (Aslan) là biểu tượng cho ý chí của Chúa trời. Nếu chiêm bao thấy hình ảnh sư tử đực uy nghi, như hình ảnh của Khải Huyền (Khải-huyền 5:5), thì đó là quyền tể trị của Đấng Chúa trời. Trong Kinh Thánh, từ “sư tử” được đề cập khoảng 150 lần, những người viết nó đã rất quen thuộc với loài sư tử. Trong khi đó một số lời tường thuật thì nhắc đến việc chạm trán với sư tử thật. Chẳng hạn, Sam-sôn, Đa-vít và Bê-na-gia đã giết sư tử (Các Quan Xét 14:5, 6; 1 Sa-mu-ên 17:34, 35; 2 Sa-mu-ên 23:20). Những nhân vật khác thì bị sư tử sát hại (Các Vua 13:24; 2 Các Vua 17:25). Ngoài ra, hổ (láyísh), cũng được nhắc đến trong Kinh Thánh, tại cuốn Sách Job: iv, 11, nhưng nó lại chỉ về sư tử.

Trong Tân ước : sách Khải huyền, Trong sách sau cuối của Tân ước, sách Khải Huyền của Thánh Gioan tông đồ, thị kiến của Ngôn sứ Ezechiel có bốn sinh vật bên ngai Thiên Chúa Open. Bốn con vật được Ezechiel viết lại trong sách Kinh Thánh, để miêu tả về ngai Thiên Chúa : Ở chính giữa, có cái gì tựa như bốn sinh vật. Mỗi sinh vật có bốn mặt và bốn cánh. Còn chân của chúng thì thẳng ; bàn chân tựa bàn chân con bê, lấp lánh lung linh như đồng sáng bóng loáng. Bên dưới cánh, có những bàn tay giống tay người quay về bốn phía ; mặt và cánh của bốn sinh vật cũng đều như vậy .Chúng đều xuất hiện người, cả bốn đều xuất hiện sư tử bên phải, cả bốn đều xuất hiện bò rừng bên trái, cả bốn đều xuất hiện phượng hoàng ( Ezechiel 1, 5-12 ). Người, sư tử, con bò và chim đại bàng còn hoàn toàn có thể nói lên thang cấp của uy quyền ( St 1,26 ). Sư tử là loài quái vật hoang dã, ” con bò ” là loài quái vật thực dụng cho con người, và ” đại bàng “ là loài chim trời. Sách Ezechiel là bốn khuôn mặt : mặt người, mặt sư tử, mặt con bò và mặt chim đại bàng. Còn nơi sách Khải huyền là hình dạng sư tử, hình dạng con bò, hình dạng người, và hình dạng chim đại bàng .Giêsu Kito được bốn khuôn mặt, bốn hình dạng của sinh vật loan báo, như Chúa Giêsu tỏ mình ra trong bốn phúc âm là người dũng lực qua hình ảnh con sư tử, là linh mục lo phần tế tự qua hình ảnh con bò, trở thành con người qua hình ảnh một người, và là thần linh hướng dẫn tâm linh con người qua hình ảnh con chim đại bàng. Giáo phụ Irenaeus sắp xếp hình ảnh Sư tử cho Thánh sử Gioan, con bò cho Thánh sử Luca, hình người cho Thánh sử Mattheo, và hình con chim đại bàng cho Thánh sử Marcô .Hieronimo cũng sắp xếp thứ tự khác như Hình dạng con người là hình tượng cho Mattheo. Hình dạng con sư tử là hình tượng cho Marco. Vì phúc âm theo Thánh sử Marco ngay khởi đầu có tiếng lời lôi kéo của Thánh Gioan Tiền hô trong sa mạc như tiếng sư tử gầm thét lôi kéo ăn năn thống hối cải tổ đời sống dọn đường cho Chúa đến. Hình ảnh con sư tử biểu trưng cho sự sống lại của Chúa Giêsu, Thánh sử Marcô với hình con sư tử, Thánh sử Matthêu với hình một người, Thánh sử Luca với hình con bò, và Thánh sử Gioan với con chim đại bàng .

Trong tạo hình

[sửa|sửa mã nguồn]

Sư tử theo phong thái huy hiệu Âu châuNgay từ thời kỳ Đồ đá sớm tại hang động ở Lascaux và Chauvet tại Pháp, sư tử Open trong nhiều nền mỹ thuật của quốc tế, ngay cả ở những khu vực không thuộc địa phận cư trú của nó như Trung Quốc, Nước Ta, Triều Tiên, Nhật Bản và những vương quốc Khu vực Đông Nam Á. Trong điêu khắc ở châu Âu và Trung Quốc về sư tử đều hướng đến yếu tố tả chân, từ hình dáng lẫm liệt cho đến cụ thể lông, bờm bệ vệ, nanh nhọn, cơ bắp cương cứng và tạo hình thường giẫm ngọc, giẫm quả địa cầu dưới chân với tham vọng uy quyền [ 6 ] bộc lộ ở tư thế chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu và hình tướng luôn có hình dáng rình rập đe dọa .Ở Nước Ta, Sư tử Việt thường có chữ vương trên trán, mình mập, tròn, đầu ngẩng lên, bờm xoắn lên hoặc dựng ra phía sau, động tác miêu tả thì đang vươn lên để gầm, miệng ngậm ngọc, thân mình sư tử phủ kín loại vân xoáy, hay còn gọi là hình thức lôi văn [ 8 ] trong khi đó những tượng sư tử đá Trung Quốc cơ bắp cuồn cuộn, bờm râu dữ dằn, nhe răng rình rập đe dọa. Các loại sư tử này là hình tượng của giới công quyền và thương gia, quyền lực tối cao và sự phồn vinh vật chất [ 9 ] .

Ở châu Á, sư tử vốn tồn tại khắp nơi trong giới hạn lịch sử của vùng Tây Nam Á (được gọi là Shir hay Shar), Trung Á và rồi cũng được xác tín là con vật canh giữ/bảo vệ trong văn hóa Trung Quốc vào thời nhà Hán, thông qua việc trao đổi văn hóa nhờ sự phát triển thương mại của Con đường tơ lụa nối các quốc gia cổ vùng Trung Á của người Sgdiana, Samarkand và Nguyệt Thị với Trung Quốc. Sư tử được đưa đến Trung Quốc hoặc là loại da sống hay vật sống dùng để cống tiến, biếu tặng cùng với những tích truyện về sư tử được các Tăng sĩ Phật giáo và những nhà du hành kể lại. Việc biếu tặng sư tử từ Trung Á được ghi chép nhiều lần trong Hậu Hán thư. Hình tượng sư tử từ Trung Quốc truyền sang Cao Ly, rồi Nhật Bản, Việt Nam, Đông Nam Á… và tín niệm ở từng quốc gia đó cũng đổi khác.

Sư tử đá Trung QuốcNgười Iran, người Ấn Độ truyền thuyết thần thoại hóa con sư tử, người Tây Tạng thờ sư tử tuyết ( snow lion ), Hoàng gia Anh ngày này vẫn dùng huy hiệu sư tử đội vương miện. Con thú này cũng là hình tượng những đội rugby của Anh và Ireland. Trong ngôn từ thông tục của giới sưu tập cổ vật phương Tây, sư tử thường được gọi là ” Phúc khuyển ” hay ” Phật khuyển ” là do ảnh tượng sư tử luôn gắn với ảnh tượng Phật giáo, với chùa chiền Phật giáo. Cách gọi này trong văn hóa truyền thống phương Tây, bắt nguồn từ cách người Nhật Bản gọi sư tử là ” Cao Ly khuyển “, hoặc từ cách người Trung Quốc gọi một loài chó xù của Trung Quốc là ” sư tử cẩu ” .Ngay cả con nghê và lân của vùng Đông Á đã hình thành qua sự vay mượn từ hình tượng sư tử có cánh ( Shedu ) trong thần thoại cổ xưa Iran. Và sư tử là con vật phổ cập nhất ở đền miếu ở châu Á, không riêng gì ở Trung Quốc, tại Triều Tiên từ rất sớm đã xuất hiện hình tượng sư tử trong những lăng mộ và hình tượng con sư tử đá Trung Quốc còn sống sót và chễm trệ nhiều nơi ở Nước Ta ( khởi đầu từ thời nhà Lý có tượng sư tử, nhưng hầu hết là sư tử đội bệ tượng phật ) tác động ảnh hưởng của con sư tử bắt nguồn từ Phật giáo. Ở Nhật Bản, loại sư tử-chó Komainu thường đặt cặp đôi bạn trẻ để bảo vệ những đền thờ Thần Đạo, được coi là có nguồn gốc từ tượng sư tử trấn giữ Trung Quốc. Đôi khi Komainu cũng được thấy đặt ở chùa Phật và những tư dinh của những tầng lớp quý tộc Nhật Bản. Komainu là cặp đôi bạn trẻ có công suất trấn giữ, trừ tà .
Ở Trung Quốc, tác động ảnh hưởng của sư tử được xác lập là có từ thế kỷ thứ III của Công Nguyên. Bị tác động ảnh hưởng từ Trung Đông và Ấn Độ, Trung Quốc từ thời Tam Quốc về sau, ngày càng mê hồn sư tử, một loài vật dữ tợn nhất trong những loài vật. Trong trong thực tiễn, sư tử không Open trong hạng mục đề tài mỹ thuật sơ kỳ của Trung Quốc. Hình tượng sư tử được gia nhập theo sự truyền bá của Phật giáo. Sư tử đá Open khoảng chừng 3.000 năm bắt nguồn từ người Ba Tư, trải qua việc những nước Tây Á cống nạp sư tử cho những triều đình phong kiến Trung Quốc. Từ đó, Trung Quốc gia nhập sư tử đá vào chủ quyền lãnh thổ và biến nó thành thiêng vật để canh mộ [ 10 ] .Trong ngữ cảnh văn hóa truyền thống Hán, sư tử là con vật thuần túy có tính biểu trưng, hình tướng cách điệu cao, thậm chí còn khó tìm thấy chi tiết cụ thể nào giống như sư tử thật. Nó có công suất bảo lãnh, chống lại những thế lực độc ác, tà mị và đồng thời cũng mang lại điều tốt đẹp, thịnh vượng. Sư tử được coi là một loại thú lành, hoàn toàn có thể giải trừ được nhiều mô hình sát trước nhà, đồng thời còn có tính năng tăng thêm uy phong của cơ quan, sư tử đá biểu trưng cho sự uy nghiêm, hóa giải sát khí và lôi cuốn tài lộc, trấn phong thủy [ 11 ] .Trong khi đó, múa sư tử, một hình thức trình diễn đã trở thành truyền thống cuội nguồn trong dịp lễ Nguyên tiêu ( rằm tháng Giêng ) hàng năm vốn gốc từ vùng Tây Á gia nhập vào Trung Quốc vào đời nhà Đường. Bấy giờ vũ công múa sư tử đeo mặt nạ sư tử làm bằng gỗ với mắt màu vàng kim, răng bạc trắng và đuôi tết bằng những sợi dây. Đến đời nhà Tống, sư tử được coi là chúa của muôn thú, giống như ý niệm của phương Tây và rồi trong những tiểu thuyết chương hồi thế kỷ XVII, sư tử được miêu tả như một linh thú, sư tử thành vật cưỡi đầy quyền lực của những nhân vật trong truyện Phong thần .

Vùng Ấn hóa[sửa|sửa mã nguồn]

Sư tử châu Á

Ở các quốc gia Ấn hóa, tình hình có phần đa tạp. Sách Gita cho hay Krishna là sư tử giữa các loài thú, Đức Phật là sư tử của dòng tộc Sakya, huy hiệu của Aśoka mang hình ba con sư tử tựa lưng trên một cái bệ hình bánh xe, với tiêu ngữ: Chân lý sẽ thắng. Do lòng sùng đạo của Aśoka, ba con sư tử có thể biểu trưng cho Tripitaka (Tạm tạng chân kinh của Phật giáo) và cũng có thể biểu trưng cho Tam bảo Phật-Pháp-Tăng. Những điển tích đó giải thích việc khắc chạm một cặp sư tử trên tọa cụ của Phật Thích Ca xuất hiện ngay thời Vô tượng kỳ khoảng 500 năm sau khi Phật Thích Ca nhập Niết-bàn.

Đây là nguồn cội của việc bộc lộ vô số sư tử, cả điêu khắc lẫn hội họa trong mỹ thuật những vương quốc Viễn Đông. Sư tử thường được coi là vật bảo lãnh cho đền chùa hay những ảnh tượng ( có khắc vẽ sư tử trên đó ). Với những nội dung biểu trưng nêu trên, sư tử từ Ấn Độ đã xâm nhập vào văn hóa truyền thống của những hội đồng, vương quốc Khu vực Đông Nam Á. Một cách tổng quát, ở khu vực này, khá giống với Ấn Độ, đều sống sót đồng thời hai loại sư tử một là, sư tử tự nhiên ( simha ) với sức mạnh thù thắng của chính nó, và hai là, loại sư tử thiêng, tích hợp sư tử với 1 số ít bộ phận của những con vật khác để tạo thành những loại linh vật giống sư tử có đặc thù siêu nhiên .Ở Ấn Độ, sư tử siêu nhiên phổ cập ở những đền thờ Ấn giáo là Yali ( còn được gọi là Vyala, hay Sarabham, hoặc Vidala ). Đây là mô típ mỹ thuật Ấn Độ, đặc biệt quan trọng phổ cập ở Nam Ấn. Yali có tích hợp sư tử và những con vật khác nên được coi là có sức mạnh hơn sư tử / cọp hoặc voi. Yali có thân uyển chuyển giống mèo, nhưng đầu sư tử, có thêm ngà voi ( gaja ) và đuôi rắn. Loại sư tử tích hợp với voi được biết thông dụng và được định danh là gaja-simha ( Sanskirt ) hoặc gajasiha ( Pali ). Mặt khác, có loại Yali thân sư tử cách điệu và đầu là những con vật khác : thông dụng nhất là voi ( gaja-vyala ), kế đó là đầu sư tử ( simha-vyala ), ngựa ( ashva-vyala ), đầu người ( nir-vyala ) và đầu chó ( shvana-vyala ). Sự hiện hữu của loại hình tượng sư tử thuần túy ( simha ) và những loại sư tử phối hợp với những con vật khác .
Chinthe

Loại sư tử thuần túy ở Thái Lan gọi là Singh (hay Rachasi) có công năng canh giữ cổng đầu tháp xuất hiện từ thời Lanna. Về hình tướng Singh tương đồng với Chinthe (Miến Điện) và Rêachsei (Khmer): Bờm có 3 lớp, cánh mọc ở vai, đứng xổm trên bệ, miệng há rộng. Đến thế kỷ XIX-XX, Singh Thái tích hợp những đặc trưng tạo hình của sư tử Trung Quốc tạo những biến tấu ngoạn mục. Loại sư tử kết hợp với voi (gajasimha) của Thái gọi là Kho-ta-chi (Kochasri). Loại này có thân và đầu sư tử, thêm vòi và ngà voi, đôi khi có cánh và có bờm.

Lại có loại Pancharup : thân sư tử, đầu voi, chân và móng ngựa, cánh đại bàng và đuôi cá. Đặc biệt loại hình tượng phối hợp sư tử và đầu người là loại Nora singh ( Thái ) / Munussiha ( Miến Điện ), thường là những mẫu sản phẩm ba chiều đặt ở góc chùa, tháp : hai thân sư tử thẳng góc nhau và đầu-ngực người nối tại cổ của hai đoạn thân sư tử. Đây được coi là những thần ( Deva ), cả nam lẫn nữ, bảo lãnh cho những khu công trình kiến trúc .Trong mỹ thuật Khmer thông dụng có hai loại sư tử. Một là, sư tử tự nhiên, được gọi là ” Tao “, có công suất canh gác cổng, bậc cấp những đền, tháp, chính điện thờ Phật và hai là loại ” Rêachsei “, được tạo hình cách điệu như Singh ( Thái ) và Chinthe ( Miến Điện ). Loại thứ hai này, cũng thấy đặt ở cổng, bậc cấp chùa tháp, tuy nhiên đặc biệt quan trọng phổ cập là làm bệ đỡ cho chiếc ghế dành cho sư sãi thuyết pháp và Rêachseiđược coi là chúa của những loài thú ở rừng thiêng Hêmapiên ( Himalaya ). Sự khu biệt giữa Tao và Rêachsei này, có phần tương đương với sự phân biệt giữa sư tử và nghê của người Việt. Ở Nước Ta thì nghê là loại sư tử có trong list thiêng vật của Trung Quốc, nghê là sư tử được thiêng hóa, dưới cái nhìn tôn kính của nhà Phật [ 4 ] .

Các loài khác[sửa|sửa mã nguồn]

Chim đại bàng biểu tượng cho sức mạnh, lòng can đảm, tầm nhìn xa và sự bất tử. Nếu như sư tử là chúa sơn lâm, cá mập là sát thủ của biển khơi thì loài đại bàng vàng từ lâu cũng được mệnh danh là chúa tể bầu trời với sức mạnh của mình[12]. Đại bàng còn được coi là vua của không trung và sứ giả của vị thần tối cao và xứng danh chúa tể bầu trời, thủ lĩnh của các loài có cánh. Theo thần thoại Hy Lạp, người Hy Lạp coi đại bàng là biểu trưng của thần Zeus, những người La Mã coi đại bàng là biểu trưng của Jupiter, bởi các bộ lạc Đức thì coi nó là Odin và người theo Kitô giáo thì là biểu tượng của Thiên Chúa. Đại bàng được đánh giá là kẻ rất mạnh mẽ và hùng dũng. Vì thế, nó đã trở thành biểu tượng quân sự của nhiều nước tư bản và quân chủ, đặc biệt nó là biểu tượng cho sức mạnh của Không lực.

Từ những thế kỉ trước công nguyên, đế quốc La Mã và đế quốc Babylon đã chọn loài đại bàng vàng làm biểu tượng cho quân đội của nước mình. Vào thời kì Trung Cổ và Phục Hưng, đa số các quốc gia châu Âu đã chọn đại bàng làm biểu tượng cho quân đội. Các hình vẽ đại bàng trên khiên của binh lính đã được tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ thời Phục Hưng, Trung Cổ, La Mã và trên những hình vẽ trong truyện cổ tích châu Âu được mô phỏng lại. Trong văn học cổ điển ở châu Âu, truyện phân chia ra các vương quốc do các loài vật đứng đầu là truyện thường thấy. Sư tử thì thường có vai trò làm vua của các vương quốc. Tuy nhiên, việc đại bàng làm vua của các nước được tưởng tượng này thì cũng không hiếm gặp. Ví dụ như trong truyện Con dơi hèn nhát thì đại bàng là kẻ thủ lĩnh của lũ chim. Hay trong truyện ngụ ngôn Châu Âu, những con đại bàng thường làm vua nhiều như sư tử. Ngoài vai trò làm hoàng đế trong các truyện cổ thì đại bàng đôi khi còn “thủ vai” của một kẻ được coi là lưu manh, độc ác.

Gấu, hình tượng cho sức khỏe thể chất, đại lực sĩ

Trong số những người Đức và Scandinavi ở các tín ngưỡng dân gian Bắc Âu, những con gấu được cho là tượng trưng cho sức mạnh, lòng can đảm và bách chiến bách thắng của mình, được coi là vua của loài vật do những thuộc tính mạnh mẽ. Những chiến binh mạnh mẽ nhất thường khoác lên mình bộ áo da gấu trong đó đầu con gấu được trùm lên đầu của chiến binh được gọi là Berserk. Hình tượng gấu trong văn hóa thế giới được nhìn nhận dưới nhiều gốc độ khác nhau, tùy theo từng nền văn hóa. Như đối với người Celte, gấu là biểu trưng của giai cấp chiến binh[13]; đối với người Ainu ở Nhật Bản, gấu là tổ tiên, đối với văn hóa Trung Hoa, gấu hay còn gọi là hùng mang thể khí dương, thể hiện sức mạnh quyền lực (hùng bá, hùng cứ, xưng hùng xưng bá)… Gấu là một loài động vật to lớn, hung dữ và nguy hiểm, không được kiểm soát, như một sức mạnh nguyên thủy, theo truyền thống gấu là một biểu trưng của tính hung ác, dã man, tàn nhẫn. Gấu còn là biểu tượng cho sức lực, với hình ảnh của một đại lực sĩ to lớn.

Trong quan niệm địa phương của một số bộ lạc châu Phi thì số loài báo hoa mai ở châu Phi được ngưỡng mộ hơn là sư tử dành cho ngai vị vua của các loài vật. Ở vương quốc Dahomey, vị quyền chủ được đặt tên là Con báo (“Leopard“) tức báo hoa mai và đeo da beo, mặc trang phục da báo. Trong một số bộ tộc Bantu và đặc biệt là ở Congo-Kinshasa, những con báo hoa mai đã được xem như là một con vật khôn ngoan, mạnh mẽ và bền bỉ và đó là lý do tại sao Tổng thống Mobutu Sese Seko đã được mặc lên những chiếc mũ làm bằng da báo, đồng thời, Mobutu Sese Seko được mệnh danh là Con báo xứ Kinshasa (“The Leopard Kinshasa“). Có một số cá thể loài báo săn được gọi là Báo đốm vua (King Cheetah) được sinh ra khi cả cha và mẹ mình đều có huyết thống “hoàng tộc“, có bộ lông thể hiện mẫu đốm đột biến rất hiếm, báo đốm vua được cho là loài báo săn vĩ đại là bởi trong suốt quá trình tiến hóa, một dịch bệnh thảm khốc đã càn quét và chỉ còn vài con săn đốm sống sót.

Ở Nam Mỹ và Trung Mỹ thì Báo đốm chính là con dã thú mạnh nhất trong rừng rậm châu Mỹ và được gọi là Vị thần báo đốm hay Bóng ma của rừng rậm, cư dân vùng Mesoamerica (vùng Trung Mỹ cổ đại), bao gồm Mexico và Trung Mỹ (hiện nay), đều tôn thờ loài báo đốm như một vị thần tối cao. nó được người dân địa phương gọi nó là Jaguru có nghĩa là con thú có thể giết chết con mồi với chỉ một bước nhảy đồng thời gắn với những tín ngưỡng của người dân da đỏ. Jaguar cũng là tước hiệu của hoàng tử hay công chúa hay của vua đang cai trị của người Maya chẳng hạn như của bộ tộc Lenca. Những chiến binh da đỏ có đẳng cấp cao và mạnh nhất trong số các chiến binh là những Chiến binh báo đốm và được khoác lên mình bộ da của con báo đốm này. Trong các khu rừng nhiệt đới ở Nam và Trung Mỹ, một con báo đốm là một loài động vật được nhiều dân tộc cổ kính tôn kính. Họ tôn thờ báo đốm, tôn thờ nó, coi đó là tổ tiên của gia đình và da của báo đốm từ thời cổ đại được coi là một dấu hiệu không chỉ có địa vị cao, và khả năng ảnh hưởng đến số phận của người dân và bộ lạc.

Cá voi sinh vật khổng lồ ở đại dương đôi khi cũng được coi là Chúa tể của biển cả, tượng trưng cho Long vương tượng trưng cho đại dương. Một số người dân Việt Nam còn có tục thờ cá voi và người ta gọi cá voi là cá Ông. Tục thờ thần Sóng biển (thần Po Riyak, vị thần trong coi Đại dương) của người Chăm được cho là nguồn gốc của tục thờ cá Ông (cá Voi) của cư dân người Việt sống dọc ven biển miền Trung, các làng chài miền Trung hầu như đều có lăng thờ thần Nam Hải và có tục cúng nghinh Ông. Thần Nam Hải hiện thân cá Voi để cứu giúp ngư dân trên biển khi có sóng to gió lớn, Ngài rất hiển linh, khi nào gặp cá ông “lụy” dân làng tổ chức đưa Ông lên bờ, làm lễ an táng trang trọng như đối với người, sau đó bộ xương được đưa vào lăng thờ. Thần Nam Hải còn có nhiều tước hiệu, tên gọi khác nhau nhưng cũng chỉ nhằm nói đến một vị thần của biển cả[14].

Tín ngưỡng thờ Nam Hải Đại Thần là một trong những nét văn hóa, Miếu Đức Ngư Ông là chốn tâm linh giúp người dân kiên trì bám biển, còn là nơi xác tín tâm linh-tin vào vị thần bảo hộ, che chở cuộc sống bình yên. Cá Ông có vị thế đặc biệt trong đời sống ngư dân, vừa có khả năng cứu nguy vừa báo hiệu cho họ những nơi nhiều tôm cá. Dân gian xứ Nhượng Bạn vẫn truyền tai nhau truyền thuyết về loài cá linh thiêng này. Tục thờ cá Ông (còn gọi là cá Voi) từ khi có tên đất, tên làng, tục thờ cúng cá Ông đã hình thành ở làng cổ Nhượng Bạn. Cá voi được các ngư dân gọi bằng cái tên trân quý là Đức Cậu (loại cá Ông đực), và được đưa từ mẹ biển cả lên khu vực Miếu Đức Ngư Ông. Ngày Rằm, mồng Một, ngư dân đều đến miếu Đức Ngư Ông để thắp hương tưởng nhớ đến các vị cứu tinh của ngư dân.

Mỗi ngư dân thường khẩn cầu Đức Ngư Ông phù hộ, độ trì cho mưa thuận, gió hòa, tàu thuyền ra khơi, vào lộng bình an, đánh bắt được nhiều tôm cá. Mỗi khi ra khơi, ngư dân đến đây “xin dấu” (được kết bằng vải đỏ và cây hương) rồi gắn trên tàu. Ngư dân coi đó như vật bảo hộ cho tàu thuyền, là “lệnh đi đường” biến nguy thành an. người dân dần dân thiêng hóa nó trở thành vị phúc thần che chở, bảo vệ người đi biển. Sự tích về loại cá đặc biệt này và sự thiêng hóa của nó còn được ghi chép trong các thư tịch cổ. Sách Đại Nam nhất thống chí có đoạn: “Cá Voi được gọi là Đức Ngư, tánh từ thiện hay cứu giúp người đi qua biển do mắc nạn. Đầu niên hiệu Minh Mạng, vua đặt tên cho là Nhân ngư, đầu niên hiệu Tự Đức gọi là Đức Ngư. Loài cá này có ở Nam Hải thì linh, còn ở biển khác thì không linh”[15]. Đại Nam nhất thống chí chép: “Cá Voi có tục danh là cá Ông Voi, đầu tròn, nơi trán có lỗ phun nước ra, sắc đen trơn láng, không có vảy, đuôi có 2 chĩa như đuôi tôm, có tánh từ thiện, hay giải cứu cho người khi qua biển mắc nạn. Đầu niên hiệu Minh Mạng, vua đặt tên là Nhân Ngư, đầu niên hiệu Tự Đức đổi lại Đức Ngư”[16].

Trong một số nền văn hóa châu Phi, những con voi đôi khi được coi là vua của loài thú, thay vì sư tử như nó dường như tượng trưng cho một vị cha già, bậc thượng hoàng, quốc phụ hơn là một vị vua chuyên chế. Rất hiếm hoi loài tê giác được coi là vua của dã thú. Một câu chuyện từ thành phố Mapungubwe thế kỷ XIII có kể về cảnh trong cảnh hỗn loạn và hùng vĩ vườn quốc gia Matopos ở miền nam Zimbabwe, vua sư tử đã từ bỏ ngai vàng của mình cho con tê giác trắng, chúa tể thực sự của nơi này.

  • Michel Pastoureau, L’Ours. Histoire d’un roi déchu, Paris, Seuil, 2007, 430 p. (ISBN 978-2-02-021542-8)
  • Michaël Tangl, Die Briefe des heiligen Bonifatius und Lullus, Berlin, 1916, p. 130
  • Robert Favreau, « Le thème iconographique du lion dans les inscriptions médiévales », Comptes-rendus des séances de l’Académie des inscriptions et belles-lettres, vol. 135, no 3, 1991, p. 613-636
  • Marcel Brion, Les animaux, un grand thème de l’Art, Paris, Horizons de France, 27 octobre 1955
  • Hilda Roderick Ellis Davidson, Myths and symbols in pagan Europe: early Scandinavian and Celtic religions, Manchester, Manchester University Press ND, 1988, 268 p. (ISBN 9780719025792), p. 79-80
  • Christine et Michel Denis-Huot, Les princes de la savane: Léopards & Guépards, White Star, septembre 2006, « L’ère des pards », p. 14-27.

Source: https://mix166.vn
Category: Hỏi Đáp

Xổ số miền Bắc