Người Mường – Wikipedia tiếng Việt

Người Mường, còn có tên gọi là Mol, Moan, Mual, là dân tộc sống ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam. Người Mường được công nhận là một thành viên của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam.[1][2]

Người Mường nói tiếng Mường, ngôn từ thuộc nhóm Việt – Mường trong ngữ chi Việt thuộc ngữ tộc Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á .Người Mường tập trung chuyên sâu đông nhất ở tỉnh Hòa Bình chiếm 42 % và những tỉnh lân cận là Thanh Hóa 29 %, Phú Thọ 15 %, Sơn La 6 %, Tỉnh Ninh Bình 4 %, Thành Phố Hà Nội 0.13 %. Các vùng còn lại chiếm 3.9 % dân số Mường. Dân số tại Nước Ta theo hiệu quả Điều tra dân số năm 2019 là 1.452.095 người. [ 3 ] [ 4 ]

Người Mường có quan hệ rất gần với người Kinh, có cùng nguồn gốc với người Kinh. Các nhà dân tộc học ngôn ngữ đưa ra thuyết cho rằng người Mường và người Kinh có nguồn gốc chung là người Việt-Mường cổ. Vào thời kỳ ngàn năm bắc thuộc thì bộ phận người cư trú ở miền núi, bảo tồn bản sắc cổ Âu Lạc, và sau này trở thành người Mường. Bộ phận ở trung du và đồng bằng có sự hòa trộn với người phương bắc về văn hóa, ngôn ngữ và nhân chủng thì thành người Kinh. Quá trình chia tách Mường – Kinh, xác định theo ngôn ngữ học thì diễn ra bắt đầu từ thế kỷ 7-8 và kết thúc vào thế kỷ 12, thời Nhà Lý.[5]

Không phải ngay từ buổi đầu lịch sử dân tộc, dân tộc Mường đã có tộc danh như ngày này. Và đương nhiên trước đây, người Mường cũng không dùng danh từ này làm tên gọi cho dân tộc mình. Theo Trần Từ ( tức Nguyễn Đức Từ Chi ), Mường là từ dùng để chỉ một vùng cư trú của người Mường gồm có nhiều làng. Mỗi vùng được đặt dưới sự quản lý của một nhà Lang. Qua sự tiếp xúc giao lưu giữa người Mường và người Kinh, người Kinh đã sử dụng từ Mường để gọi dân tộc này .

Cho đến tận bây giờ, Người Mường vẫn từ gọi mình là mol, moăn như ở Hòa Bình, mon, mwanl như ở Thanh Hoá. Còn ở Phú Thọ, đặc biệt là ở Thanh Sơn, nơi người Mường tập trung đông đảo nhất, cũng như Người Mường ở huyện Yên Lập và một số xã thuộc huyện Thanh Thuỷ, người Mường tự gọi mình là Mol, Monl. Mặc dù những từ này có biến âm hơi khác ở mỗi vùng, mỗi địa phương nhưng đều quan niệm giống nhau về mặt nghĩa. Tất cả những từ mà người Mường dùng để chỉ dân tộc mình có nghĩa là người. Vì lẽ đó mà người Mường thường tự xưng mình là con Mol hoặc là con monl: con người. Còn từ Mường vốn là từ mương người Mường dùng để chỉ nơi cư trú chứ không liên quan gì đến tộc danh ngày nay của mình. Mặc dù vậy cùng sự biến động của lịch sử cũng như quá trình giao lưu kinh tế, văn hoá với các dân tộc anh em khác cho đến nay từ “Mường” đã được người Mường chấp nhận và coi đó là tộc danh của mình, và hiển nhiên, họ tự nhận mình là người Mường như ngày nay. Do đó, Mường đã trở thành tên gọi chính thức và duy nhất của tộc người này để phân biệt với các dân tộc khác. Tộc danh Mường đã được các tổ chức, thể chế, các nhà nghiên cứu và nhân dân dùng khi tìm hiểu, nghiên cứu gọi dân tộc này là người mường.

Dân số và địa phận cư trú[sửa|sửa mã nguồn]

Theo tác dụng tìm hiểu của Tổng cục Thống kê công bố năm 1989, dân tộc Mường ở Nước Ta mới chỉ có 914.396 người nhưng 10 năm sau, tức năm 1999, vẫn theo hiệu quả Tổng tìm hiểu dân số của Tổng cục Thống kê công bố, người Mường đã tăng lên 1.137.515 người, sau 10 năm tiếp, tức năm 2019, vẫn theo hiệu quả tổng tìm hiểu dân số thì số người Mường tăng lên là 1.434.628 người .Người Mường sống tập trung chuyên sâu ở những thung lũng hai bờ sông Đà ( Phú Thọ, Sơn La, Ba Vì, Hòa Bình ) và khu vực trung lưu của sông Mã, sông Bưởi ( những huyện Thạch Thành, Bá Thước, Cẩm Thủy, Ngọc Lặc của tỉnh Thanh Hóa ). Người Mường ở Thanh Hoá gồm hai bộ phận : Mường Trong ( Mường gốc ) và Mường Ngoài ( người Mường di cư từ Hòa Bình vào ). Sang đến tỉnh Nghệ An phần nhiều không có người Mường sinh sống ( năm 1999 chỉ có 523 người Mường trong toàn tinh ). Ngoài ra ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ cũng có gần 27.000 người mới di cư vào trong những năm gần đây .Theo Tổng tìm hiểu dân số năm 1999, người Mường sống tập trung chuyên sâu ở những tỉnh : Hòa Bình ( 479.197 người, chiếm 63,3 % dân số của tỉnh ), Thanh Hóa ( 328.744 người, chiếm 9,5 % dân số của tỉnh ), Phú Thọ ( 165.748 người, chiếm 13,1 % dân số của tỉnh ), Sơn La ( 71.906 người, chiếm 8,2 % dân số của tỉnh ), Tỉnh Ninh Bình ( 46.539 người ), Thành Phố Hà Nội ( khu vực Ba Vì ), Yên Bái, Đắk Lắk. Số người Mường ở những tỉnh nói trên chiếm khoảng chừng 98 % số người Mường ở Nước Ta năm 1999 .Ở Đắk Lắk số người mường chiếm khoảng chừng 1,5 % toàn tỉnh hầu hết tập trung chuyên sâu ở thành phố Buôn Ma Thuột và 1 số ít huyện lân cận người Mường ở đây di cư từ năm 1954 và có nguồn gốc từ Mường Phú Thọ và Hòa Bình. Đa số họ vẫn giữ được phong tục tập quán nguồn gốc và truyền thống văn hóa truyền thống dân tộc mình .

Người Mường[6] có cùng nguồn gốc với người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ,…

Đẻ đất đẻ nước[sửa|sửa mã nguồn]

Đẻ đất đẻ nước là bộ sử thi lớn, kể về gốc tích và công cuộc đấu tranh của người Mường ở thời đại rất thời xưa, tiềm ẩn những ý niệm người Mường cổ về việc hình thành trời đất, tạo lập quốc tế .

Chim Ây, Cái Ứa[sửa|sửa mã nguồn]

Cũng như những dân tộc khác, để lý giải về nguồn gốc của dân tộc mình, dân gian Mường ở Hòa Bình còn lưu giữ và truyền kể những lịch sử một thời về sự Open dân tộc mình dưới dạng những áng Mo ( những thần thoại cổ xưa đó được lưu truyền đa phần dưới dạng những bản mo hát với phiên bản dài ngắn khác nhau ) .Thuở xưa, khi con người còn chưa Open, trời làm hạn hán, khô khan, cây cối khô mà chết, rồi trời lại mưa. Một trận mưa to chưa từng thấy. Nước chảy thành suối thành sông. Đất lở bồi thành đồng bằng. Đá lăn chất đầy thành gò thành đống, thành đồi thành núi. Từ dưới đất mọc lên một cây si. Cây si lớn như thổi trở thành một cây cổ thụ, cành lá bịt kín cả khung trời. Cây si bị sâu đục ăn làm cho gãy cành rụng lá. Từ gốc cây si đẻ ra một đôi chim. Chim Ây là đực, Cái ứa là cái. Đôi chim rủ nhau bay lên cành cây si làm tổ. Cành si gãy. Chim bay lên cây đa làm tổ. Cây đa đổ. Chim Ây và Cái Ứa lại rủ nhau bay lên núi đá lấy cỏ làm thành tổ Hang Hao. Cái Ứa đẻ ra trăm ngàn quả trứng. Trứng chim nở ra thành muôn loài muôn vật. Còn lại một trăm cái trứng thì nở ra con người. Đó là người Mường và người Kinh .

Truyền thuyết về Đức thánh Tản Viên ( thần núi Ba Vì )[sửa|sửa mã nguồn]

Người Mường Thanh Sơn còn cho rằng Đức Thánh Tản Viên Sơn ( còn gọi là Sơn tinh ) – Con rể vua Hùng thứ 18 – là người Mường Thanh Sơn. Truyền kể rằng, ở vùng mường Xuân đài, Khả Cửu thời xưa có một cô gái con nhà Lang tên là Đinh Thị Đen ( người Mường Thanh Sơn gọi là Đinh Thị Điên ). Cô là người rủi ro xấu xấu xí nhất trong mái ấm gia đình dòng họ nên bị cha mẹ, anh chị em hắt hủi. Một lần vào rừng lấy củi, cô gái tủi thân ngồi khóc trên một tảng đá và ngủ thiếp đi. Từ đó cô có thai và đã bị nhà Lang hắt hủi đuổi đi. Cô đã long dong lần đi đến vùng mường Tất Thắng. Dân ở đó thấy cô đói khát đã cho cô nhà hàng siêu thị. Từ Tất Thắng, cô lại đi tiếp đến động Lăng Xương ( thuộc xã Trung Nghĩa huyện Thanh Thuỷ thời nay ) thì đẻ ra thần Tản Viên. Dân bản ở đây thương tình đã đóng cho cô một bè nứa và đưa hai mẹ con cô vượt sông Đà sang vùng Ba Vì ( thuộc Thành Phố Hà Nội ngày này ). Mẹ con bà Đinh Thị Đen được bà Ma Thị là chúa những động mường nuôi nấng nhận làm con nuôi. Khi Tản Viên lớn lên, thần được bà Ma Thị truyền cho quyền quản lý và bảo vệ những xứ mường. Thần đã lấy con gái vua Hùng thứ 18 tên là Ngọc Hoa làm vợ .

Truyền thuyết Đẻ Giang[sửa|sửa mã nguồn]

Người Mường ở những xã Lai Đồng, Đồng Sơn, Thạch Kiệt còn lưu truyền truyền thuyết thần thoại ” Đẻ giang ” như sau : ở đất mường Tồng ( tên gọi cũ của Lai Động ) có một cái hang gọi là hang Cơng Tiếng. Ở đó có con chim ưng đẻ ra một quả trứng. Quả trứng nở ra một con vứa ( con ngài tằm ). Con Vứa bay hết Mường này sang Mường nọ rồi đậu vào cây đa, cây sấu rồi bay tiếp lên núi đá trắng. Cũng từ đó bản Mường trở nên đông vui sầm uất. Người Mường biết làm nhà để ở và đẻ con cháu, ra cha mẹ con giang. Bố mẹ con giang ra trước rồi tiếp theo đẻ ra được Buồng Nang Ráu, là cháu nàng Thăn, con của nàng Ún Mái. Nàng ún Mái lại đẻ ra dân ra bản, đẻ ra vợ chồng. Từ đó, Người Mường có quê quán, có nhà có cửa, có cơm ăn, rượu uống và vàng bạc. Họ mang giang đi hát khắp nơi. Từ đó những bản mo giang được truyền bá thoáng rộng như sang mường Pi, mường Thàng ( Hòa Bình ) để những vùng mường này tăng trưởng. Nhờ đó con giang được truyền và ăn sâu vào đời sống niềm tin của người Mường .Trên đây chỉ là một vài thần thoại cổ xưa tiêu biểu vượt trội của người Mường Thanh Sơn lý giải về nguồn gốc dân tộc của mình. Mặc dù truyền thuyết thần thoại mang tính hoang đường và nhiều lúc tản mạn nhưng lại là tư liệu quý. Người Mường ý niệm mình và người Kinh vốn cùng một cha mẹ sinh ra, cùng máu mủ dòng giống. Chính vì lẽ đó mà cho đến tận ngày này, người Mường vẫn còn lưu truyền câu ca : ” Ta với mình tuy hai mà một. Mình với ta tuy một thành hai ” .

Tiếng Mường thuộc nhóm ngôn ngữ Việt – Mường trong ngữ chi Việt của ngữ hệ Nam Á. Tiếng Mường rất gần với tiếng Việt có thể nói một cách khái quát (nhưng không tuyệt đối, khoảng 75%) như sau:

  • Những từ không dấu trong tiếng Việt thì giữ nguyên là thành tiếng mường như: Con, con chim, con voi, ăn, cho, tiêu pha= tiêu pha,… một số từ khác phụ âm đầu: tay = thay, đi= ti,đi, con dê= con tê (con dê)…
  • Những từ có dấu hỏi trong tiếng Việt cũng giữ nguyên: của cải= của cải, đểu= đểu, giả= giả…
  • Những từ có dấu ngã thì chuyển thành dấu hỏi như: đã= đả, những = nhửng
  • Những từ có dấu nặng thì chuyển thành dấu sắc: nặng= nắng (phát âm lại ~ nặng= nắăng, tận= tấn (tấân)…
  • Những từ mà có âm “ặc, ịt, ặc, ục” thì giữ nguyên không chuyển dấu: đông đặc= đông đặc.
  • Những từ có dấu huyền thì chuyển thành dấu sắc và ngược lại dấu sắc thì thành dấu huyền: nắng= đằng (ví dụ: trời nắng= trới đằng(đắng)
  • Một số từ không theo quy luật: cây tre= cân pheo(tle), xưng hô(chú=ô, cháu= xôn), nhìn (ngắm)= hẩu(ngỏ), trông thấy= hẩu kỉa, ở giữa= ở khừa…(khá giống phương ngữ Thanh – Nghệ – Tĩnh)
  • (Bổ sung một số từ không theo quy luật: Qua một số các cụm từ ngữ âm tiết đã đăng cơ bản đều đúng, riêng theo tôi thấy có một số cần bổ sung và chỉnh như sau (vùng Ngọc Lặc, Thanh Hóa xưng hô): cháu = xôn; em = ún; chị = cái; anh = tứa(phát âm không dấu, lại vừa như có dấu sắc kèm theo từ ai kéo dài); dì(em của mẹ)= íi; cô (em bố)= váaa; mẹ = mạng; bố = enhh; bác(chị, anh của bố, mẹ)= pảc; bà= muú u; ông = ôông….

Nước = đác ( phát âm Đảk, ví dụ : uống nước = óng đác ( đảc ) ; nhưng Nhà nước thì lại khác ( ví dụ : Nhà nước = Nhá nưởc = phát âm dấu sắc = dấu hỏi ( nhà = nhá ; nước = nưởc ) không hề gọi ( nhà nước = nhá đảc ) được. – Nhìn = hẩu, thấy = kỉa hoặc một số ít địa phương có cách gọi khác nhìn = ngó là bươn ( nhìn thấy = hẩu bươn, hoặc nhìn thấy = hẩu kỉa ) – Đi = ti ; đứng = từng ; dậy = dấân ; ngủ = tảy ( ví dụ : ngủ dậy = tảy dấân ) ( dấân tảy = đang ngủ mới thức giấc và dậy ; ngủ được một giấc = àn chể ) … tay = xay ; – từ chỉ con vật : con trâu = con tru ; con bò = con pò ; con lợn = con cúi ; con ngỗng = con ngan ; con ngan = con xiêm ; con gà = con kha …. ( con chó = con chò ; con mèo = con mèo )

Đặc điểm kinh tế tài chính[sửa|sửa mã nguồn]

Người Mường sống định canh định cư ở miền núi, nơi có nhiều đất sản xuất, gần đường giao thông vận tải, thuận tiện cho việc làm ăn. Người Mường làm ruộng từ truyền kiếp. Lúa nước là cây lương thực hầu hết. Trước đây, người Mường trồng lúa nếp nhiều hơn lúa tẻ và gạo nếp là lương thực ăn hàng ngày. Nguồn kinh tế tài chính phụ đáng kể của mái ấm gia đình người Mường là khai thác lâm thổ sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, quế, mật ong, gỗ, tre, nứa, mây, tuy nhiên … Nghề bằng tay thủ công tiêu biểu vượt trội của người Mường là dệt vải, đan lát, ươm tơ. Nhiều phụ nữ Mường dệt bằng tay thủ công với kỹ thuật khá tinh xảo .

Tổ chức cộng đồng[sửa|sửa mã nguồn]

Xưa kia, hình thái tổ chức triển khai xã hội đặc trưng của người Mường là chính sách lang đạo, những dòng họ lang đạo ( Đinh, Quách, Bạch, Hà ) chia nhau quản lý những vùng. Đứng đầu mỗi mường có những lang cun, dưới lang cun có những lang xóm hoặc đạo xóm ( Ậu đạo ), quản lý một xóm. giúp việc cho nhà lang, hưởng lộc của lang .Sau này vào thời Nhà Nguyễn chính quyền Mường có thêm chức Lý trưởng. Chức này vẫn sau lang cun. Sau 1 số ít năm ( thường 3 năm ) thì bầu lại lý trưởng. Lý trưởng phải được sự phê chuẩn của Lang cun .Về thực chất Lang cun Mường và chế đô Lang cun có xấu tốt. Giống như quan cũng có quan xấu quan tốt. Dân Mường vẫn thích chính sách lang đạo hơn là chịu sự quản trị của người Kinh .Nhà Nguyễn sau khi xây dựng phế bỏ chính sách Lang đạo, đặt quan lại lên cại quản liền xảy ra sự chống đối, như khởi nghĩa Lê Duy Lương, khởi nghĩa ở Thạch Bị, Sơn Âm. Về sau vua Minh Mạng lại khôi phục chức chính sách Lang đạo. Đặc biệt khi bắt được người đứng đầu, nhà Nguyễn chỉ phủ dụ mà không thấy giết .
Người Mường theo đạo Tin Lành, Thiên Chúa, Phật giáo nhưng có sự độc lạ ở người theo đạo Phật là mọi nghi lễ đều phải có chủ lễ là thầy mo chủ trì .Người Mường thờ Vua Cha Ngọc Hoàng, Phật, Thánh, Quốc mẫu Hoàng Bà. Cô Đôi Thượng Ngàn trong tín ngưỡng thờ mẫu Tam Phủ là người Mường .Đối với người Mường : ” Vạn vật hữu linh ” .Thầy tâm linh Mường gồm có :Thầy đồng : là nam, người được thánh thần mượn thân để thao tác. Không vào thao tác được trong đám ma .Thầy Mỡi : giống thầy đồng nhưng là Nữ .Thầy Mo : Người lo tang ma là đa phần. thầy này mới biết mo đẻ đất đẻ tác .Trượng ( Đá Trượng ) : là thầy nhưng không có thánh thần ốp đồng. Thầy này là đi học mà thành .Thầy bùa, ếm, chài ….

Người Mường thích ăn các món đồ như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá đồ. Cơm, rau đồ chín được dỡ ra rá trải đều cho khỏi nát trước khi ăn.

Rượu Cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và mùi vị đậm đà của men được đem ra mời khách quý và uống trong những cuộc vui tập thể .Phụ nữ cũng như phái mạnh thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to. Đặc biệt, phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền nhau hút chung một điếu thuốc .

Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở chân núi, bên sườn đồi, nơi đất thoải gần sông suối… ở tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ. Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, khuôn viên của mỗi gia đình thường nổi bật lên những hàng cau, cây mít. Đại bộ phận ở nhà sàn, kiểu nhà bốn mái. Phần trên sàn người ở, dưới gầm đặt chuồng gia súc, gia cầm, để cối giã gạo, các công cụ sản xuất khác.

Tại sao lại phải đặt chuồng gia súc ở dưới gầm sàn. đó là vì xưa rất nhiều thú dữ như cọp, báo …. mà con người lại thưa ít nên phải đặt chuồng gia súc dưới gầm sàn. Khi cọp báo đến thì người nhà đánh chiêng gõ mõ để làm con vật sợ mà điLàm nhà mới, khi dựng cột nhà bếp, người Mường có tục làm lễ nhóm lửa. Gia chủ lấy bẹ chuối cắt hình ba con cá to kẹp vào thanh nứa buộc lên cột nhà bếp, ở cột cái của nhà bếp còn đặt một quả bí xanh. Trước lúc đun nấu ở nhà mới, gia chủ làm lễ nhóm lửa xin thần nhà bếp cho đặt 3 hòn đầu rau và hòn đá cái. Đêm đó gia chủ mời mọi người uống rượu cần dưới ánh sáng của ngọn lửa không tắt .Vị trí cửa Poóng của Người Mường rất quan trọng. Người già, người đức cao vọng trọng ngồi bên trên nhất khi ngồi, ăn, uống ,
Trai gái tự do yêu đương khám phá, vừa lòng nhau thì báo để mái ấm gia đình sẵn sàng chuẩn bị lễ cưới. Để dẫn đến đám cưới phải qua những bước : ướm hỏi ( kháo thếng ), lễ bỏ trầu ( ti nòm bánh ), lễ xin cưới ( nòm khảu ), lễ cưới lần thứ nhất ( ti cháu ), lễ đón dâu ( ti du ). Trong ngày cưới, ông mối đứng vị trí số 1 đoàn nhà trai khoảng chừng ba, bốn chục người gồm đủ nội, ngoại, bè bạn mang lễ vật sang nhà gái tổ chức triển khai cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp chít khăn trắng, gùi một chón ( gùi ) cơm đồ chín ( bằng khoảng chừng 10 đấu gạo ), trên miệng chón để hai con gà trống thiến luộc chín. Trong lễ đón dâu, cô dâu đội nón, mặc váy áo đẹp ngoài cùng là chiếc áo dài màu đen thắt 2 vạt ở phía trước. Cô dâu mang về nhà chồng thường là 2 chăn, hai cái đệm, 2 quả gối tựa để biếu cha mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà trai biếu cô dì, chú bác .Tục cưới xin của người Mường gần giống như người Kinh ( chạm ngõ, đám cưới, xin cưới và đón dâu ). Khi trong nhà có người sinh nở, người Mường rào cầu thang chính bằng phên nứa. Khi trẻ nhỏ lớn khoảng chừng một tuổi mới đặt tên .

Quan hệ xã hội[sửa|sửa mã nguồn]

Quan hệ trong làng xóm với nhau hầu hết là quan hệ láng giềng. Gia đình hai, ba thế hệ chiếm thông dụng. Con cái sinh ra lấy họ cha. Quyền con trai trưởng được coi trọng va con trai trong mái ấm gia đình được thừa kế gia tài. Người Mường theo từng nơi mà có nơi không theo ý niệm con chú con bác mà dù là con chú hay con bác ai sinh ra trước đều là anh là chị, phân theo tuổi tác chứ không theo thứ hay trưởng. Nhưng người vai trên thì vẫn gọi là chú hay cô mà không phân biệt tuổi tác .
Khi người vợ sắp sinh con, người chồng phải sẵn sàng chuẩn bị nhiều củi, làm một nhà bếp riêng ở gian trong và quây phên nứa thành một buồng kín cho vợ đẻ. Khi vợ chuyển dạ đẻ, người chồng đi báo tin cho mẹ vợ và chị em họ hàng nội ngoại biết để đến nhà cùng nhau chờ đón. Bà đỡ cắt rốn cho đứa trẻ bằng dao nứa lấy từ đầu chiếc dui trên mái nhà. Nếu là con trai thì dùng dao nứa mái nhà trước, nếu là con gái thì dùng dao nứa mái nhà sau. Cuống rốn của những con trong mái ấm gia đình được đựng chung trong một ống nứa, họ tin rằng làm như vậy lớn lên đồng đội sẽ thương mến nhau .Ngày sinh con, mái ấm gia đình tổ chức triển khai ăn mừng, mời thầy mo cùng trừ mọi điều xấu hại đến mẹ con. Đẻ được ba đến bảy ngày thường có nhiều đồng đội, bà con đến thăm hỏi động viên Tặng Ngay quà. Bà ngoại mừng cháu khi nào cũng có vài vuông vải tự dệt, mái ấm gia đình khá giả mừng thêm chiếc vòng bạc đeo cổ, bạn bè thân thích thì mừng gạo, mừng tiền .Người đẻ thường ăn cơm nếp cẩm với lá tắc chiềng ( loại lá thuốc chống được bệnh sài ), uống nước nấu với những loại lá cây thuốc và trong thời hạn cữ ( bảy đến mười ngày ) nhất là ba ngày đầu luôn luôn phải sưởi bên nhà bếp lửa. Trẻ sơ sinh nếu là trai thì được âu yếm gọi là lọ mạ ( thóc giống ), nếu là gái thì lại trìu mến gọi là cách tắc ( rau cỏ ). Thường thì trẻ khoảng chừng 1 tuổi mới được đặt tên gọi chính thức .
Khu mộ đá Đống Thếch ở Kim Bôi, Hòa Bình, tương truyền là nơi chôn cất những quan lang người Mường )Người chết tắt thở, con trai trưởng cầm dao nín thở chặt 3 nhát vào khung cửa sổ gian thờ, sau đó mái ấm gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo phong tục rồi để vào trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy rồng bằng vải .Tang lễ do thầy mo chủ trì. Hình thức chịu tang của con cháu trong nhà không khác so với người Kinh, tuy nhiên con dâu, cháu dâu chịu tang ông bà, cha mẹ còn có bộ phục trang riêng gọi là bộ quạt ma .Khi người con trai trong mái ấm gia đình ấy chống gậy tre thì mái ấm gia đình ấy có bố mất, nếu chống gậy gỗ thì mái ấm gia đình có mẹ mất .Tế quạt ma là một nghi lễ độc lạ trong đám ma người Mường. Khi tế quạt ma, những người là dâu trong nhà trong họ của người quá cố phải mặc bộ đồ quạt ma rất đẹp, gồm : váy đen, cạp mới, áo ngắn, áo chùng trắng, yếm đỏ, hai tay đeo vòng hạt cườm, tay phải cầm quạt cọ múa, tay trái cầm que gậy, đầu đội mũ quạt trong trí tua hạt cườm ; phía trước đặt một chiếc ghế mây .Sau khi chôn người chết. lấp đất. Lấy 4 viên đá to đẹp để dánh dấu mồ. 2 viên đặt ở đầu và cuối. 2 viên đặt 2 bên. 4 viên đá này rất quan trọng để tránh mất mồ mả. Tìm được 4 viên đá coi như tìm được mả .

Người Mường Lạc Sơn Hòa bình: sau khi chôn người chết. 3 đêm đầu vẫn để hương thờ.sau 3 đêm thì làm lễ cho đồ dùng….. và đưa người chết về mồ về mả. hôm 49 ngày thì làm lễ “thay màu áo”. Tức là nhuộm áo tang chấm dứt mặc áo tang.

Xem thêm: Lịch công tác

Tết năm tiên phong đó bạn bè họ hàng mang lễ đến nhà có người chết đặt lễ cho hồn người chết đó. gọi là ” đặt cành kèo “. gồm bánh trưng chai rượu .
Lịch Cổ truyền người Mường gọi là sách đoi làm bằng 12 thẻ tre tương ứng với 12 tháng. Trên mỗi thẻ có khắc ký hiệu khác nhau để biết thống kê giám sát, xem ngày, giờ tốt xấu cho khởi sự việc làm .Người Mường ở Mường Bi có cách tính lịch khác với người Mường ở những nơi khác gọi là cách tính ngày lùi, tháng tới. Tháng giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 của lịch Mường những nơi khác và tháng 10 âm lịch .
Người Mường có nhiều ngày hội quanh năm : Sắc bùa, hội xuống đồng ( Khung mùa ), hội cầu mưa ( tháng 4 ), lễ rửa lá lúa ( tháng 7, 8 âm lịch ), lễ cơm mới …

Văn nghệ dân gian[sửa|sửa mã nguồn]

Kho tàng văn nghệ dân gian của người Mường khá nhiều mẫu mã, có những thể loại thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ. Người Mường còn có hát ru em, đồng dao, hát đập hoa, hát đố, hát trẻ con chơi … Cồng là nhạc cụ rực rỡ của người Mường, ngoài những còn nhị, sáo trống, khèn lù. Người Mường ở Vĩnh Phúc và Phú Thọ còn dùng ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà, tạo thành những âm thanh để chiêm ngưỡng và thưởng thức gọi là ” đâm đuống “. Tín ngưỡng : Người Mường thờ cúng Tổ Tiên Ông Bà .Hát Xéc bùa ( có nơi gọi Xắc bùa hay Khoá rác ) được nhiều người ưa thích. Thường ( có nơi gọi Ràng thường hoặc Xường ) là loại dân ca ca tụng lao động, và những nét đẹp phong tục dân tộc. Bọ mẹng là hình thức hát giao du tâm sự tình yêu. Ví đúm cũng là loại dân ca phổ cập .Bên cạnh đó, người Mường còn có những thể loại hát khác như hát ru, hát đồng dao … Đặc biệt, ở người Mường phải kể đến lễ ca. Đó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang .Ngoài sáo, nhị, trống, kèn … thì cồng chiêng là nhạc cụ rực rỡ .
Trò chơi của người Mường thân mật với mọi đối tượng người dùng. Có những game show được tổ chức triển khai chu đáo, công phu như : thi bắn nỏ, đánh đu, ném còn, v.v… Các game show của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng được tổ chức triển khai linh động ở mọi nơi, mọi lúc với những điều kiện kèm theo chơi đàn giản, thuận tiện như trò đánh cá cắt, trò cò le, trò đánh chó hoặc buôn chó, trò đánh mảng, trò cần mẫn, chằm chăn .

Phương tiện luân chuyển[sửa|sửa mã nguồn]

Phụ nữ thông dụng dùng loại gùi đan bằng giang hoặc tre, 4 góc nẹp thành thẳng đứng, có dây mang qua trán hoặc qua vai để chuyên chở. Đôi dậu, đòn gánh có mấu 2 đầu, đòn xóc cũng thường được sử dụng .Nước sạch được chứa trong ống nứa to, dài hơn 1 mét vác vai từ bến nước về dựng bên vách để dùng dần .
Người Mường sống trong những ngôi nhà sàn truyền thống lịch sử, địa phận cư trú tập trung chuyên sâu đa phần ở những dải đồng bằng thung lũng hẹp, doi đất ven sông, ngòi, dưới chân những dãy núi hay trên những đồi gò thấp. Làng bản mường sống tập trung chuyên sâu thành từng chòm, từng xóm, ẩn khá kín dưới màu xanh của cây cối trồng quanh nhà. Các bản mường thường có khoảng chừng từ 20 đến 30 nóc nhà, và nếu bản to thì hoàn toàn có thể nhiều hơn nữa. Bản làng thường dựng nơi gần nguồn nước, gần đồng ruộng, thuận tiện cho lao động sản xuất. Tuy vậy, bản làng của người Mường ít khi lộ rõ để người ngoài dễ phát hiện vì được bảo phủ bởi luỹ tre và cây ăn quả. Đường vào bản thường là những con đường mòn nhỏ quanh co tạo cảm xúc dễ nhầm, dễ lạc. Và so với người Mường, họ không coi trọng việc dựng nhà lập bản sao cho thuận tiện giao thông vận tải đi lại. Vì lẽ đó mà muốn vào bản làng hay nhà của người Mường thường phải băng qua con đường nhỏ nối làng với đường chính hoặc lội qua những con suối, ngòi .Với người Mường nói chung, nhà là nơi diễn ra và tận mắt chứng kiến những sự kiện như sinh, hôn, tử của một vòng đời. Từ đó, ngôi nhà không chỉ có ý nghĩa so với mái ấm gia đình mà còn mang ý nghĩa cộng đồng xã hội, không riêng gì là nhu yếu về vật chất là để trú ngụ nắng mưa, ngủ nghỉ, mà còn cung ứng nhu yếu tâm linh .Người Mường rất trọng hướng nhà, vì thế, hướng nhà phải do một thầy địa lý có tiếng chọn riêng theo tuổi của gia chủ. Họ ý niệm làm nhà đúng hướng sẽ đem lại tài lộc và như mong muốn đến cho mái ấm gia đìnhTheo ý niệm của người Mường, làm nhà không được ngược hướng với đồi núi, chính vì thế, hình thức bề ngoài, nhà của người Mường có vẻ như không theo một quy luật nào. Nhà dựng ở đồi gò thì sống lưng dựa vào đồi gò, cửa hướng ra khoảng chừng không thung lũng, cánh đồng trước mặt. Nhà dựng ở ven sông thì mặt hoàn toàn có thể hướng ra dòng sông hay hướng vào trong … Tất cả những cái tưởng chừng là ” lộn xộn ” đó lại tạo cho bản làng của người Mường Thanh Sơn cảm xúc vừa vững vàng vừa cởi mở với những nét độc lạ riêng .

Nhà sàn của người Mường là kiểu kiến trúc cổ truyền. Việc dựng nhà sàn của người Mường là kết quả của một quá trình dài đúc rút kinh nghiệm cư trú. Điều đó thể hiện ở bản mo nổi tiếng họ là “Te tấc te đác” (đẻ đất đẻ nước). Trong bản mo đồ sộ này có đoạn nói về sự ra đời của nhà sàn người Mường. Mo rằng: Khi người Mường sinh ra nhà chưa có nên phải sống trong các hang núi, hốc cây, họ phải đối mặt với nhiều thiên tai hiểm hoạ. Một hôm, ông Đá Cần (còn gọi là lang Cun Cần) bắt được một con rùa đen trong rừng đang định đem ra làm thịt. Rùa van xin Đá Cần tha chết và hứa nếu được thả thì rùa sẽ dạy cho ông cách làm nhà để ở, làm kho để lúa để thịt:

Bốn chân tôi làm nên cột cái
Nhìn sườn dài, sườn cụt mà xếp làm rui
Nhìn qua đuôi làm trái
Nhìn lại mặt mà làm cửa thang cửa sổ
Nhìn vào xương sống làm đòn nóc dài dài
Muốn làm mái thì trông vào mai
Vào rừng mà lấy tranh, lấy nứa làm vách
Lấy chạc vớt mà buộc kèo

Lần dựng thứ nhất, nhà đổ. Ông Đá Cần doạ làm thịt rùa. Rùa lại phải dặn lấy gỗ tốt mà làm cột làm kèo… Từ đó, người Mường biết làm nhà để ở.

Việc dựng nhà của người Mường yên cầu nhiều quy trình, nhiều sức lực lao động nên họ có tục giúp sức nhau. Người giúp gỗ, người giúp lạt, người giúp công, giúp sức. Trước kia, để nhận được sự giúp sức của dân làng, mái ấm gia đình làm nhà phải chuẩn bị sẵn sàng một lễ nhỏ mang đến nhà Lang để nhờ Lang báo cho mọi người trong bản làng biết. Mỗi mái ấm gia đình sẽ cử một người đến giúp. Người ta phân công những việc làm đơn cử cho mỗi thành viên đảm nhiệm như xẻ gỗ, đan nứa, pha tre, đan gianh cọ, lợp mái … Gia chủ làm nhà tuỳ vào điều kiện kèm theo kinh tế tài chính mà nhận sự trợ giúp khác nhau. Nhà khá giả thì mọi người giúp ít và ngược lại. Theo tục này, ở xã Xuân Đài có lệ khi một người làm nhà thì tuỳ vào năng lực mà giúp gỗ, lạt, nứa, lá, và mỗi nhà góp ba đến năm cân gạo nếp, hai chai rượu, một con gà … Lệ này ở mỗi xóm làng lại có những lao lý khác nhau. Ở xã Tân Phú thì có lệ mỗi mái ấm gia đình đưa cho gia chủ bốn trăm ” phá ” ( tức là hai trăm cây nứa gập đôi ). Nói chung, tục giúp nhau trong việc làm nhà của người Mường Thanh Sơn như góp phần nguyên vật liệu, lương thực, thực phẩm và ngày công bộc lộ sự chăm sóc chung của cả bản làng, niềm tin tương thân tương ái, đoàn kết cộng đồng thâm thúy .Trong quy trình dựng nhà của người Mường, thầy mo có vai trò tương đối quan trọng. Mở đầu việc dựng nhà, ông mo làm lễ cắm cọc vào nơi làm cầu thang. Sau đó, chủ nhà cày ba luống làm lệ trên nền làm nhà. Ông mo đi sau vảy nước vào những luống cày đó và khấn vía lúa. Người làm nhà sẵn sàng chuẩn bị vài cụm lúa đã tuốt hết hạt chỉ còn cọng rơm ném ra xa rồi cầm đòn xóc đâm vào cụm lúa nâng lên. Mỗi lần nâng đòn xóc lên rồi lại để xuống và hát giang ý nói rằng ” lúa đẹp, lúa nặng, lúa bay về nhà để cho no cho đủ … “. Ông mo nâng những cụm lúa lên trên tay rước đi vài vòng rồi giang mo ” đẻ đất đẻ nước ” đoạn nói về rùa dạy dân làm nhà. Tiếp theo ông mo vảy một thứ nước mà người Mường cho đó là nước phép vào những hố chôn cột để xin thần linh cho gia chủ làm nhà mới .Người Mường kiêng không để mấu của đòn tay quay xuống mặt sàn. Khi bắc đòn tay thì ngọn phải quay về gian cuối, gốc ở gian đầu nơi có cầu thang lên xuống. Gian này được gọi là gian gốc. Sào nhà gác lên thượng lương. Gốc sào cũng phải quay về gian gốc. Tre nứa dùng làm nhà phải không được cụt ngọn, không bị sâu hay bị đốt cháy dở. Gỗ làm nhà phải là loại gỗ chắc bảo vệ không mối mọt và thường là gỗ lim xanh, mài lái … Người Mường đặc biệt quan trọng chăm sóc đến những cây gỗ mọc ở núi đá như giống gỗ heo vì giống gỗ này chặt đốn thì mềm nhưng khi chôn xuống đất hàng trăm năm cũng không mục mại. Có nơi người Mường còn kéo gỗ ra ngâm bùn tại ngòi, suối khoảng chừng một hai năm mới vớt lên làm .Những cây gỗ được chọn làm cột, sau khi lắp mộng, dựng khung, được chôn thẳng xuống những hố đã đào sẵn sâu khoảng chừng 20 – 30 cm. Tục chôn cột nhà, ngoài dụng ý cho vững chãi khung nhà khi lợp mái, làm sàn, làm vách, còn có ý nghĩa tâm linh, biểu lộ cho sự hoà hợp âm khí và dương khí, một biến thể của tín ngưỡng phồn thực. Cho đến nay, hầu hết người Mường đã đổi khác tục chôn cột nhà bằng cách nâng cột lên mặt đất và kê lên những phiến đá chống mối mọt. Tuy nhiên cột nhà của người Mường Thanh Sơn không được gia công bào gọt nhiều như cột nhà của người Thái và người Mường ở Hòa Bình. Nếu cột nhà của người Thái Sơn La được xẻ, bào, đẽo cho vuông thành, thì cột nhà của người Mường Thanh Sơn chỉ bào lớp vỏ ngoài và để tròn .

Người Mường dùng con xỏ bằng tre, con then bằng gỗ, đinh kèo bằng gỗ… để đóng thay cho đinh sắt. Họ dùng lạt mây, giang hoặc tre bánh tẻ để buộc níu các ngoàm đẽo hoặc cột kèo. Khung nhà sàn của người Mường được dựng hoàn toàn bằng cách ghép mộng, đục đẽo mà thành. Đòn tay (tôn thảy) được đặt dọc mái nhà. Đòn tay cái có miếng tre kẹp chặt đòn tay vào đầu cột cái gọi là cái khoá kèo. Mái nhà lợp bằng lá cọ hoặc bằng cỏ gianh. Những cây nứa ngộ (loại nứa to và dày) vàng óng được lựa chọn kỹ để pha nan kẹp lá (như cái gắp dùng để kẹp cá nướng). Cứ như thế, những kẹp lá cọ được đưa lên mái buộc thẳng vào dui mè. Đây là cách lợp mái nhà theo tục truyền thống còn tồn tại phổ biến cho đến ngày nay. Tuy vậy ở một số nơi, người Mường đã thay cách lợp nhà. Lá cọ được đưa lên lợp vào dui mè mà không cần kẹp nữa. Mái nhà sàn khum khum hình mai rùa.

Nếu như nhà sàn của người Mường ở Hòa Bình phổ cập là bốn mái ( hai mái đầu hồi và hai mái dài ). Sàn nhà thấp giống sàn nhà của người Thái thì nhà sàn của người Mường ở Thanh Sơn cũng như nhà sàn Yên Lập hầu hết là loại nhà sàn hai mái mà không có mái đầu hồi. Mái nhà dốc vảy gần sát sàn. Nhà của người Mường không có sàn thềm bên ngoài như của người Thái. Sàn nhà được làm bằng những cây bương già thẳng pha thành mảnh dát xuống lược bỏ mắt và cạnh sắc ghép liền với nhau, dùng lạt mây buộc chặt kết thành từng mảnh buộc chặt vào khung sàn. Những sàn nhà của nhà Lang trước kia thì thường dùng gỗ tốt như lim, gụ làm sàn nên qua thời hạn sử dụng, những tấm ván lên nước bóng láng. Từ mặt đất lên sàn nhà thường cao khoảng chừng 2 đến 2,5 m tuỳ từng nơi ẩm thấp hay cao ráo .Công việc làm nhà triển khai trong 4 – 5 ngày thì kết thúc. Ngày lợp mái, gia chủ tổ cúng tổ tiên, ông thổ ông địa quản lý nơi mình ở. Lễ cúng gồm xôi nếp và thủ lợn bày ở khoảng chừng đất trống chọn làm sàn. Nhà làm xong, mái ấm gia đình lại tổ chức triển khai cúng tổ tiên, ông thổ ông địa, ma rừng, ma cây, ma bến nước, ma đồi gò … thông tin rằng mái ấm gia đình đã có một ngôi nhà mới, mời tổ tiên về chung vui với con cháu phù hộ mái ấm gia đình như mong muốn .Nhà của người Mường thường ba đến năm gian. Những mái ấm gia đình đông con thì nhà lên đến bảy – mười hai gian. Những ngôi nhà như vậy ngày này còn rất ít. Nhà dù ít hay nhiều gian đều có một sàn bên trái để bắc cầu thang và máng nước hoạt động và sinh hoạt. Gian tiên phong từ cầu thang lên gọi là gian gốc. Đây là gian quy tụ mọi tính rất thiêng của ngôi nhà, là nơi xuất phát những tục lệ đối xử hành vi của con người với ngôi nhà .

Ở gian gốc có một cây cột to hơn các cây cột khác trong nhà gọi là cột gốc (còn gọi là cây cột chồ) ở đầu góc nhà gần cầu thang. Cây cột gốc được người Mường trân trọng đặt khám (bàn thờ) thờ tổ tiên. Mọi người kể cả chủ hay khách đến nhà chơi đều không được bôi nhọ, dựa lưng, gác chân, buộc đồ vật hay treo quần áo vào cột này. Phần cột dưới sàn cũng không được buộc trâu bò hay dựng, treo công cụ lao động. Người Mường quan niệm nếu phạm phải những điều cấm trên thì bị coi là xúc phạm đến gia đình, tổ tiên và thần linh.

Gian nhà gốc chỉ dành riêng cho phái mạnh. Phụ nữ trong nhà không được ngồi nghỉ hoặc thao tác ở đây. Trong những ngày trọng đại như hôn lễ, ma chay thì chỉ phái mạnh có vai vế trong dòng họ được ngồi nhà hàng siêu thị .Tại gian nhà rất thiêng này có một hành lang cửa số làm sát đến sàn nhà gọi là hành lang cửa số ” voóng ” rất linh, không ai được đưa vật gì hay chui qua. Cửa sổ voóng chỉ dành để đưa quan tài ra ngoài khi gia chủ có tang ma. Đối diện với cột chỗ ở gian gốc có một cột nhà tương đối quan trọng. Ở chân cột này, người Mường để vào cum lúa đã tuốt hết hạt. Đầu cột đội một cái giỏ thủng bộc lộ cho âm tính ( người Mường gọi là nường ). Bên cạnh đó, người Mường treo một đoạn tre tước xơ một đầu cho bông lên biểu lộ cho dương thế ( gọi là nõ ). Điều này bộc lộ đời sống tâm linh, nói lên sự hỗn hợp, cân đối âm khí và dương khí, sự không thay đổi và thuận hoà của cả mái ấm gia đình .Gian thứ hai của ngôi nhà ( gian kế theo gian gốc ) dành cho phái mạnh ngủ nghỉ. Gian giữa thường là gian để thóc và làm bếp. Lúa gặt ở ruộng nương về phơi khô khi chuyển lên nhà được để ở đây. Họ xếp lúa vào một cái quây như cái bồ thủng đáy đan bằng nứa hoặc giang để gần nhà bếp. Bếp của người Mường là rất công phu. Khuôn nhà bếp được làm bằng loại gỗ đặc biệt quan trọng cứng, có đường viền xung quanh, đáy lót bằng bẹ chuối rồi rải bùn lên trên. Khi chuyển nhà bếp mới, người Mường tìm một số ít loại cỏ thơm như cỏ mật phơi khô để vào nhà bếp đốt lấy tro rồi mới bắc kiềng nấu nướng. Bếp thường đặt trên trục nhà nơi nóc dọi xuống. Có phòng bếp đặt gần hành lang cửa số để thông gió, tránh khói và hoả hoạn. Tuy vậy, việc đặt nhà bếp ở hành lang cửa số ít được ưu thích hơn vì người Mường ý niệm nếu đặt nhà bếp gần hành lang cửa số thì hơi ẩm từ nhà bếp toả ra ngôi nhà không đều. Nhà người Mường thường có hai nhà bếp chuyên được dùng. Một nhà bếp để nấu nướng thức ăn, và phụ nữ, trẻ nhỏ trong mái ấm gia đình ngồi sưởi. Một nhà bếp nhỏ hơn đặt ở gian gốc dùng để cho đàn ông trong mái ấm gia đình ngồi sưởi vào mùa đông và đun nước uống hàng ngày hoặc tiếp khách. Bếp này người phụ nữ trong mái ấm gia đình ít khi được ngồi hoặc sử dụng, trừ phụ nữ cao tuổi như bà, cụ hay con gái út được yêu quý nhất .Gian sau cuối là nơi dành cho phụ nữ hoạt động và sinh hoạt có chạn bát, để vật dụng mái ấm gia đình, nơi sửa soạn cơm nước. Gian này được ngăn với những gian khác trong nhà bởi một tấm liếp. Đây cũng là nơi người phụ nữ thay quần áo và ngủ nghỉ. Đầu hồi nhà, người Mường để một cái cối đuống và một cối tròn. Cối đuống không chỉ dùng để giã thóc gạo mà còn là phương tiện đi lại để mái ấm gia đình báo nhà có việc lớn như đám cưới mà tang ma. Bên cạnh đó, cối đuống còn là một nhạc cụ sử dụng để gõ những bản nhạc vui trong ngày lễ tết, hội hè với những bản đuống rộn ràng âm vang, người Mường gọi là ” đâm đuống ” hay ” châm đuống “. Dưới sàn nhà, người Mường nuôi gà, trâu hoặc để cất những công cụ sản xuất như cày, cuốc, liềm, nong, nia … Nhà của người Mường thường chỉ có một cầu thang. Song những ngôi nhà dài từ 7 – 12 gian thì phải làm hai cầu thang ở hai đầu nhà. Những nhà có hai cầu thang như vậy khá hiếm vì người Mường ý niệm đó là sự rủi ro xấu, kiêng cự, của nả sẽ không giữ được trong nhà ” vào đầu này ra đầu kia ” .
Người Mường có đặc trưng riêng về tạo hình và phong thái thẩm mỹ và nghệ thuật trên phục trang .Thầy mo khi hành lễ mặc y phục riêng. Đó là chiếc áo dài 5 thân cài khuy bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây sống lưng trắng, đội mũ vải nhọn đầu. Thầy mỡi khi cúng chữa bệnh thường đội mũ chầu .

Trang phục nam[sửa|sửa mã nguồn]

Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi dưới hoặc thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông. Đầu cắt tóc ngắn hoặc quấn khăn trắng. Quần lá tọa ống rộng dùng khăn thắt giữa bụng còn gọi là khăn quần. Xưa có tục để tóc dài búi tóc. Trong lễ hội dùng áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím than, ngoài khoác đôi áo chúng đen dài tới gối, cái cúc nách và sườn phải.

Trang phục nữ[sửa|sửa mã nguồn]

Bộ y phục nữ phong phú hơn phái mạnh và còn giữ được nét độc lạ. Khăn đội đầu là một mảnh vải trắng hình chữ nhật không thêu thùa, yếm, áo cánh ( thông dụng là màu trắng ) thân rất ngắn thường xẻ ở ngực và váy dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và cạp váy, phụ nữ người Mường hoàn toàn có thể búi tóc sau gáy nếu không đội khăn. Cạp váy nổi tiếng bởi những hoa văn được dệt kỳ công. Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 giây bạc có treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc .Áo mặc thường ngày có tên là áo pắn ( áo ngắn ). Đây là loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, thân ngắn hơn so với áo cánh người Kinh, ống tay dài, áo màu nâu hoặc trắng ( về sau có thêm những màu khác không phải loại vải truyền thống ). Bên trong là loại áo báng, cùng với đầu váy nổi lên giữa hai vạt áo ngắn. Đầu thường đội khăn trắng, xanh với phong thái không cầu kỳ như 1 số ít tộc người khác. Váy là loại váy kín màu đen. Toàn bộ phận được trang trí là đầu váy và cạp váy, khi mặc mảng hoa văn nổi lên giữa TT khung hình. Đây là một phong thái trang trí và biểu lộ ít gặp ở những tộc khác trong nhóm ngôn từ và khu vực láng giềng ( trừ nhóm Thái Mai Châu, Hòa Bình do ảnh hưởng tác động văn hóa truyền thống Mường mà mặc thường ngày tựa như như họ ). Nhóm Mường Thanh Hóa có loại áo ngắn chui đầu, gấu lượn, khi mặc cho vào trong cạp váy và cao lên đến ngực. Phần trang trí hoa văn trên cạp váy gồm những bộ phận : rang trên, rang dưới, và cao. Trong những dịp lễ, Tết, họ mang chiếc áo dài xẻ ngực thường không cài khoác ngoài bộ phục trang thường nhật vừa mang tính sang trọng và quý phái vừa phô được hoa văn cạp váy kín kẽ bên trong. Nhóm mặc áo cánh ngắn xẻ ngực thường mang theo chiếc yếm bên trong. Về cơ bản giống yếm của phụ nữ Kinh nhưng ngắn hơn .

Hoạt động kinh tế tài chính truyền thống lịch sử[sửa|sửa mã nguồn]

Nông nghiệp ruộng nước chiếm vị trí số 1, cây lúa là cây lương thực chính. Công cụ làm đất phổ cập là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn, nhỏ có răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng, lấy từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã. Trong canh tác ruộng nước, người Mường có nhiều kinh nghiệm tay nghề làm thuỷ lợi nhỏ .Ngoài ruộng nước, người Mường còn làm nương rẫy, chăn nuôi gia súc, săn bắn, đánh cá, hái lượm và sản xuất thủ công nghiệp ( dệt vải, đan lát … ) .Cụ thể như sau :

Nghề nông trồng lúa nước[sửa|sửa mã nguồn]

Nghề nông trồng lúa nước được thực thi ở những nơi có địa phận phẳng phiu gần sông, ngòi. Đó là những mảng đồng bằng thung lũng hay những doi đất nhỏ hẹp dưới chân những dãy núi, ven những đồi gò thấp. Người Mường Thanh Sơn rất coi trọng cây lúa nếp, vì trong đời sống, bữa ăn truyền thống lịch sử thì cơm nếp là nguồn lương thực chủ yếu. Bên cạnh đó, người Mường còn trồng cả lúa tẻ và ngày càng phổ cập giống lúa này cho hiệu suất cao. Ngoài những thửa ruộng nước ở đồng bằng, người Mường đa số làm ruộng bậc thang tận dụng đất ở sườn, chân đồi gò. Loại ruộng này thường hẹp về chiều rộng nhưng lại dài như những cánh cung vòng quanh những đồi gò. Do ruộng bậc thanh làm ở trên cao, nguồn nước tưới tiêu khó khăn vất vả nên người Mường Thanh Sơn biết đào mương bắc máng, làm guồng xe nước tận dụng dòng chảy của những con sông, suối, ngòi để đưa nước lên cao, phân phối cho những thửa ruộng dài ngoằn nghèo. Ruộng bậc thang hầu hết chỉ trồng được một vụ trong năm là vụ mùa. Các vụ khác người Mường dùng để trồng ngô, khoai, rau … Những loại hoa màu này thích hợp với mùa khô ít nước. Một loại ruộng mà người Mường Thanh Sơn biết tận dụng tìm hiểu và khám phá để trồng lúa gọi là ruộng chằm, ruộng rộc. Đây là những thửa ruộng ở nơi đầm lầy dưới là bùn loãng, nước còn ở mặt trên cùng cỏ dại mọc thành tầng, thành lớp. Ruộng chằm – rộc thường rất sâu, đến thắt lưng thậm chí còn còn đến ngực. Do đó, ruộng loại này thường rất khó khăn vất vả trong canh tác vì không hề cày bừa thuận tiện như ruộng bậc thanh hay ruộng nước ở đồng bằng. Để thuận tiện làm ruộng cũng như thu hoạch, người Mường thường phải chặt chuối, tre làm thành bè để bám hoặc gối lên làm cỏ, cấy hay gặt. Tuy vậy, do điều kiện kèm theo không có nhiều diện tích quy hoạnh thuận tiện cho canh tác nông nghiệp thì những loại ruộng chằm ruộng rộc cũng chiếm một vị trí khá quan trọng trong đời sống của người Mường .
Bên cạnh những thửa ruộng nước, người Mường Thanh Sơn còn đốt nương làm rẫy với hình thức lao động lỗi thời kiểu chọc lỗ tra hạt. Người Mường có kinh nghiệm tay nghề quý trong việc chọn đất làm nương rẫy. Họ chọn những mảng rừng có giang, nứa mọc dày, trồng mùn phì nhiêu hay những vạt đất đen ven đồi núi. Khi chọn đất, người Mường thường chặt một cây nứa hoặc cây gỗ vát nhọn đâm xuống đất. Nếu đâm được sâu thì điều đó chứng tỏ tầng mùn dày. Một kinh nghiệm tay nghề nữa là xem đất màu gì, nếu đất dính vo trên tay thấy mềm dẻo, bóng như pha mỡ là đất tốt. Chọn được mảng rừng đồi vừa lòng, người Mường Thanh Sơn triển khai chặt khoanh vùng để phân giới không cho người khác lấy mất. Người Mường đốt mảng rừng này để lấy mùn và thuận tiện cho việc dọn nương. Công việc gieo trồng triển khai vào khoảng chừng tháng 3 – tháng 4 khi khởi đầu Open những cơn mưa tiên phong. Người Mường Thanh Sơn trồng lúa nương không bằng cày cuốc mà bằng cách lấy một đoạn cây to bằng cổ tay vót nhọn một đầu dùng để đâm hố tra hạt. Gieo giống xong, họ chặt ngọn nứa, cành cây nhỏ để quét lớp mùn mặt phẳng lấp những hố lại. Việc gieo trồng lúa nương tương đối đơn thuần nhưng lại yên cầu nhiều sức lực lao động, đặc biệt quan trọng là làm cỏ cũng như trông nom không để chim thú phá hoại. Trong làm nương rẫy, người Mường Thanh Sơn đặc biệt quan trọng có ý thức hạn chế hoả hoạn cháy rừng tràn ngập. Điều này bắt nguồn từ ý niệm truyền thống cuội nguồn ” vạn vật hữu linh “. Theo người Mường, rừng núi, cây cối, dòng sông, suối … cũng có linh hồn, do thần linh hoặc ma quỷ quản lý. Cho nên, họ tránh làm nương rẫy ở những vạt rừng, cây cổ thụ coi là rất linh – nơi ngự trị của thần rừng, thần cây mặc cho đất đai ở đó có phì nhiêu tơi xốp đến đâu. Từ ý niệm đó mà trong lao động sản xuất của người Mường nói chung, người Mường Thanh Sơn nói riêng có nhiều tục lệ lễ nghi nông nghiệp như tục rước vía lúa, lễ cầu mùa, lễ mừng cơm mới cho đến tục đóng cửa rừng và Open rừng … kèm theo lệ cấm kiêng cự mang đặc thù siêu nhiên rất linh .

Một số nghề phụ khác[sửa|sửa mã nguồn]

Cùng với nghề nông trồng lúa ( lúa nương và lúa nước ) làm chính, người Mường Thanh Sơn còn tăng gia sản xuất với những hoạt động giải trí kinh tế tài chính phụ gia đình, từ chăn nuôi, làm vườn, dệt vải, đan lát .. đến săn bắn và hái lượm. Cần phải nói rằng mặc dầu những hoạt động giải trí này không phải là lao động sản xuất chính nhằm mục đích bảo vệ đời sống của người Mường Thanh Sơn nhưng những nghề phụ này lại đóng vai trò tương đối quan trọng trong việc cung ứng nhu yếu phẩm trong đời sống hàng ngày của họ .
Những đàn gia súc, gia cầm thường được người Mường nuôi thành bầy đàn thả dông trong rừng. Người Mường Thanh Sơn nuôi gia súc đa phần là trâu, bò ngoài phân phối thực phẩm trong những ngày hội trọng đại còn dùng làm sức kéo trong lao động sản xuất. Đối với người Mường, trâu bò có vị trí đặc biệt quan trọng trong đời sống thường ngày vì so với họ chúng là cả gia tài, cơ nghiệp, phản ánh tiềm lực kinh tế tài chính từng nhà trong bản và bản này với bản khác. Trâu bò chăn thành bầy đàn trong rừng lâu ngày đôi lúc đem đến những điều quá bất ngờ mê hoặc về số lượng tăng giảm do sự sinh nở của chúng. Bên cạnh đó, người Mường Thanh Sơn còn nuôi lợn, gà để lấy thịt trứng. Chúng cũng được người Mường nuôi thả thành bầy. Người Mường Thanh Sơn không có thói quen làm chuồng trại riêng cho gia súc, gia cầm. Họ thắt buộc những con trâu bò dùng để cày bừa dưới gầm sàn và làm chuồng trại cho gia cầm. Riêng so với lợn, họ không mấy khi nhốt dưới sàn nhà mà được làm chuồng ở xa nhà, xa nguồn nước. Người Mường Thanh Sơn còn biết tận dụng ao hồ, sông ngòi để nuôi thả cá. Tuy vậy do địa phận cư trú bán trung du và miền núi nên ao hồ ở nơi người Mường ở Open ít. Họ đa phần dựa vào đánh bắt cá cá, tôm tự nhiên ở sông, suối và những chi lưu của nó. công cụ dùng để đánh bắt cá hầu hết là lưới, đó, đăng, chũm. Song có lẽ rằng kiểu đánh bắt cá cá truyền thống lịch sử của người Mường Thanh Sơn là dùng một thứ lá có độc gọi là lá cơi giã nhuyễn dải xuống một khúc suối ngòi đề làm cho cá tép say nổi lên mặt nước rồi bắt đem về .
Người Mường nói chung và người Mường Thanh Sơn nói riêng không quan tâm lắm đến hiệu suất cao kinh tế tài chính vườn đem lại. Vườn của người Mường Thanh Sơn trồng đủ những loại cây như cau, mít, bưởi, chuối, khế, chanh, trầu, tre, bương, chuối … Có thể nói, ngoài những hình thức lao động kiếm sống phụ khác, mảnh vườn trở nên gắn bó thân thiện với người Mường như một phần của đời sống. Với người Mường Thanh Sơn, hầu hết nhà nào cũng có mảnh vườn nhỏ đủ để trồng cây quanh nhà, mỗi thứ một chút ít để ship hàng cho mái ấm gia đình theo kiểu mùa nào thức ấy. Phụ nữ trong mái ấm gia đình rất chăm sóc đến những loại cây cối trong vườn. Đôi khi những người đàn ông cũng rất thú vị với mảnh vườn quanh nhà của mình. Họ quyết định hành động những giống cây xanh và chăm sóc đến chúng. Tuy vậy, vườn của người Mường Thanh Sơn đa phần vẫn là loại vườn tạp. Song ngày này, những cây cối trong vườn dần được người Mường quan tâm đến giá trị kinh tế tài chính. Họ trồng những giống cây cho năng xuất và hiệu suất cao kinh tế tài chính cao như nhãn, vải hoặc tranh, quýt để bán ra thị trường. Chính vì lẽ đó, người Mường Thanh Sơn ngày càng chú ý quan tâm tái tạo mảnh vườn nhỏ bé của mình. Ngoài vườn nhà, người Mường Thanh Sơn còn tận dụng cả những vạt đất nhỏ ven bờ suối, ngòi để dễ tưới nước chăm bón. Họ trồng những loại rau, củ, quả như khoai, cà, bí, cải để cải tổ bữa cơm vốn đơn thuần của mình. Người Mường Thanh Sơn đã biết trồng cây xen canh luân vụ, ngoài việc cải tổ bữa ăn hàng ngày thì người Mường Thanh Sơn còn làm vườn với mục tiêu tăng trưởng kinh tế tài chính hộ mái ấm gia đình, tăng thu nhập hàng năm .

Nghề bằng tay thủ công mái ấm gia đình[sửa|sửa mã nguồn]

Một số vật gia dụng và đồ tế lễ tọa lạc trong Lễ hội Văn hóa Mường tại Hòa BìnhNgười Mường Thanh Sơn đặc biệt quan trọng khéo tay trong việc đan lát những đồ vật dùng trong mái ấm gia đình từ nguyên vật liệu là tre, nứa và giang, mây như đan vỏ dao dùng để đi rừng, rổ, rá, thúng, nia, mâm, ớp, giỏ … Trong những nghề bằng tay thủ công truyền thống lịch sử của người Mường tiên phong phải kể đến là nghề dệt vải. Trong mỗi mái ấm gia đình Mường Thanh Sơn đều có những khung cửi dùng để dệt vải bông, vải lanh để Giao hàng may mặc cho những thành viên. Công việc trồng bông và dệt vải đa phần do phái đẹp đảm nhiệm. Tuy nhiên, nghề dệt vải ở người Mường chưa mang nhiều yếu tố hàng hoá. Họ đa phần sản xuất lúc nông nhàn mà chưa dành thời hạn đáng kể cho nó. Trong vùng Mường Thanh Sơn, những xã nổi tiếng về dệt vải đẹp phải kể đến những xã như Minh Đài, Xuân Đài, Lai Đồng, Tất Thắng, Cự Đồng … Nguyên liệu dùng để dệt vải ngoài bông, lanh còn có tơ tằm. Nghề trồng dâu, sắn nuôi tằm tương đối phổ cập trong mỗi mái ấm gia đình. Bên cạnh đó, nghề mộc cũng tương đối tăng trưởng. Hầu như ở bản làng nào của người Mường đều có đội mộc riêng của mình để ship hàng trong kiến thiết xây dựng nhà cửa, đình miếu hoặc làm hậu sự cho lễ tang … Đàn ông Mường rất khéo tay trong nghề này. Họ làm ra những mẫu sản phẩm tương đối độc lạ như bao dao, làm cung, nỏ, đồ thổi xôi từ gỗ và những đồ vật khác Giao hàng cho đời sống .

Khai thác nguồn lợi từ thiên nhiên

[sửa|sửa mã nguồn]

Săn bắn và hái lượm là hoạt động giải trí kinh tế tài chính phụ gắn bó với đời sống thường ngày của người Mường Thanh Sơn. Nguồn rau rừng như rau tàu bay, rau rớn, rau vi, đắng cảy, măng giang, măng nứa … được khai thác một cách hài hòa và hợp lý để hoàn toàn có thể phân phối lâu dài hơn. Các cây củ cho bột như củ nâu, củ mài, củ vớn … chỉ được người Mường Thanh Sơn khai thác và những năm đói kém, mất mùa. Việc thu hái rau rừng thường được triển khai cùng với những việc làm khác như lấy củi, đi nương rẫy hoặc lấy rau lợn … Họ tranh thủ thao tác này sau khi đã hoàn tất những việc làm khác mà theo họ là quan trọng hơn. Hoạt động săn bắn chim thú, bổ trợ cho bữa ăn là việc làm tiếp tục và là độc quyền của người đàn ông Mường. Ngoài ra, săn bắn còn xuất phát từ nhu yếu của việc bảo vệ nương rẫy khỏi sự phá hoại của chim thú cũng như việc mất mát những con vật nuôi. Trong mái ấm gia đình người Mường, người đàn ông thường có những chiếc nỏ súng cho riêng mình. Họ rất tự hào và chăm nom chu đáo cho dụng cụ mà họ cho rằng bộc lộ nam tính mạnh mẽ cũng như vai trò của mình trong mái ấm gia đình. Con trai Mường ngay từ nhỏ đã được ông, cha cho theo trong mỗi lần đi săn, làm bẫy thú nên khi lớn lên rất thạo việc săn bắn. Người Mường biết làm nhiều loại bẫy thú với những mẫu mã khác nhau để bẫy những con thú lớn, thú nhỏ và chim. Trong những loại bẫy của người Mường Thanh Sơn, thông dụng nhất là bẫy đâm, bẫy lao và bẫy sập. Loại bẫy này dùng để bẫy những con thú lớn như hươu, nai, gấu hoặc lợn rừng. Còn những loại bẫy nhỏ như ” ngọ đánh “, ” ngọ cắp “, ” ngọ rô ” dùng để bắt những con thú nhỏ như gà rừng, chim, sóc … được đặt quanh nương rẫy để bảo vệ hoa màu. Đặc biệt, những loại sản phẩm người Mường Thanh Sơn thu từ rừng không riêng gì đủ dùng trong mái ấm gia đình mà còn được dùng để trao đổi với những lái buôn từ miền xuôi như măng, mộc nhĩ, nấm, trầm hương, sa nhân, cánh kiến, những loại gỗ quý như đinh, lim, táu, lát, xửa, kháo trắng, kháo vàng, treo, chò … và những loại dược liệu quý như đẳng sâm, khúc khắc, hoài sơn … Người Mường đổi những loại sản phẩm từ khai thác rừng để lấy những đồ vật dùng trong mái ấm gia đình như muối, dầu thắp, kim chỉ, kiềng, bát địa, xoong nồi, dao, cuốc, gương lược. Bên cạnh đó, hàng năm, người Mường còn bán cho những lái thương một số lượng lớn trâu bò. Hoạt động kinh doanh ngày càng len lỏi vào tận những bản mường xa, từng bước tạo nên mối quan hệ giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người Mường, người Kinh và những dân tộc khác, góp thêm phần vào giao lưu văn hoá – kinh tế tài chính giữa những tộc người thân thiện nhau .

Các dòng họ chính của người Mường[sửa|sửa mã nguồn]

  • Họ Đinh
  • Họ Quách
  • Họ Bạch
  • Họ Bùi
  • Họ Tôn
  • Họ Cao
  • Họ Dương
  • Họ Hà
  • Họ Hoàng
  • Họ Lê
  • Họ Phạm
  • Họ Tăng
  • Họ Trương
  • Họ Phùng
  • Họ Xa

Những người Mường có nổi tiếng[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Xổ số miền Bắc