Đặc điểm tâm lý học sinh tiểu học ở giai đoạn các lớp 1, 2, 3
Khoá luận tốt nghiệp
hình thành đợc hệ thống thao tác trí tuệ, đạt đợc trình độ tâm lý, tạo cơ sở nền
tảng cho giai đoạn tiếp theo. Đó là giai đoạn phát triển của học sinh Trung học
cơ sở, Trung học phổ thông.
Trình độ tâm lý của học sinh có sự quyết định đến thành công của việc
dạy học cho học sinh. Vì vậy để dạy học đạt hiệu quả cao ngời giáo viên phải
nắm vững đặc điểm tâm lý của từng lứa tuổi. Với mỗi mạch kiến thức thì giáo
viên cần phải quan tâm đến đặc điểm tâm lý riêng, nó là cơ sở cho việc xác
định nội dung kiến thức vừa sức trong việc dạy học. ở đây tôi xin trình bày
một số đặc điểm tâm lý của học sinh các lớp 1, 2, 3.
1.1. Tri giác
Tri giác là hình thức nhận thức cao hơn cảm giác, phản ánh trực tiếp và
trọn vẹn sự vật, hiện tợng bên ngoài với đầy đủ các đặc tính của nó. (trích
trang 1033 Từ điển Tiếng Việt 2004 NXB Đà Nẵng).
Tri giác là quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính
bề ngoài của sự vật hiện tợng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của
chúng ta. (trích tâm lý học đại cơng 1997 NXB Giáo dục).
Học sinh tiểu học tri giác mang tính chất chung chung, tính chất đại
thể, ít đi vào chi tiết và mang tính chủ định. Nét đặc trng của tri giác là tính ít
phân hoá của nó, các em phân biệt đối tợng giống nhau còn sai lầm và cha
chính xác, cha phân biệt đợc khái niệm, chẳng hạn: cái thớc với độ dài của cái
thớc; diện tích với mặt bàn
Khi tri giác sự phân tích có tính định hớng, có tổ chức và sâu sắc của
học sinh còn yếu. Cụ thể trong những năm đầu bậc tiệu học tri giác của học
sinh gắn chặt với hành động, với hoạt động thực tiễn của trẻ. Có nghĩa là chi
giác sự vật là làm một cái gì đó mà các em gặp trực tiếp trong cuộc sống và
hoạt động của các em, những cái gì mà giáo viên đặc biệt chỉ dẫn, nhấn mạnh
cho các em.
Nhớ hoạt học tập tri giác của học sinh tiểu học đợc tổ chức và phát
triển ngày cang cao dần. Giáo viên tổ chức việc tri giác của học sinh tiểu học,
giao nhiệm vụ điều chỉnh quá trình tri giác và kiểm soát kết quả của nó.
Học sinh tiểu học có thể tri giác đúng độ lớn của một vật thông thờng,
còn đối với nhiều vật quá to hoặc quá nhỏ thì các em cha tri giác đợc. Tri giác
về thời gian phát triển chậm hơn so với tri giác không gian.
Sinh viên: Lê
Thị Sen – Lớp K30B Khoa GDTH
5
Khoá luận tốt nghiệp
1.2. T duy
T duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất và
phát hiện ra tính quy luật của sự vật bằng những hình thức nh biểu tợng, khái
niệm, phán đoán và suy lý. (trích trang 1070 Từ điển Tiếng Việt NXB
Đà Nẵng).
T duy là quá trình tâm lý, phản ánh các dấu hiện, các mối liên hệ và
các quan hệ bản chất của các sự vật và hiện tợng khách quan. (trích tâm lý đại
cơng 1997 NXB Giáo dục).
Từ hai định nghĩa về t duy ở trên ta thấy t duy của học sinh ở Tiểu học
chuyển dần từ tính t duy cụ thể sang t duy trừu tợng. Trong quá trình học tập,
t duy của học sinh Tiểu học thay đổi rất nhiều. Nếu tri giác phát triển khá
mạnh ở lứa tuổi mẫu giáo thì ở lứa tuổi tiểu học t duy phát triển mạnh mẽ hơn.
ở đây vai trò thúc đẩy các nội dung và phơng pháp dạy học, vai trò của giáo
viên với t cách là ngời tổ chức hoạt động có tính quyết định phát triển t duy. T
duy trừu tợng bắt đầu phát triển nhng còn non yếu. Vì vậy học sinh sẽ tiếp thu
kiến thức nhanh nếu giáo viên tổ chức dạy học có kết hợp các đồ dùng trực
quan hiệu quả.
1.3. Tởng tợng
Tởng tợng là tạo ra trong trí hình ảnh những cái không có ở trớc mắt
hoặc cha hề có. (trích trang 1082 Từ điển Tiếng Việt 2004 NXB Đà
Nẵng).
Tởng tợng là quá trình nhận thức cao cấp phản ánh những cái cha có
trong kinh nghiệm cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở
hình ảnh (biểu tợng) đã có. Nội dung của tởng tợng cũng giống nh t duy: Là
có thể tạo ra những cái mới cha từng có trong kinh nghiệm của con ngời. Mặt
khác tởng tợng và t duy chỉ nảy sinh khi con ngời đứng trớc một hoàn cảnh có
vấn đề nghĩa là đứng trớc những đòi hỏi mới cha từng gặp, thực tiễn mới
cha từng gặp và động cơ thúc đẩy quá trình tởng tợng của học sinh cũng là
nhu cầu.
Sự phát triển tởng tợng của học sinh tiểu học diễn ra theo 2 giai đoạn
chủ yếu.
Lúc đầu, những hình ảnh đợc tái tạo chỉ đặc trng gần đúng cho đối tợng thực, những hoạt động của các đối tợng và những mối liên hệ giữa chúng.
Sinh viên: Lê
Thị Sen – Lớp K30B Khoa GDTH
6
Khoá luận tốt nghiệp
Việc xây dựng những hình ảnh đó đòi hỏi sự mô tả bằng lời hoặc bằng tranh
vẽ.
Đến giai đoạn sau (lớp 2 đến lớp 3), lúc này số lợng những dấu hiện và
những thuộc tính trong những hình ảnh tăng lên đáng kể chúng khá đầy đủ và
cụ thể. Và điều này diễn ra chủ yếu là nhờ việc tái tạo lại những hình ảnh đó,
những yếu tố hành động và mối liên hệ quan lại của bản thân các đối tợng.
Sự hình thành tởng tợng không gian có thể bắt nguồn rất sớm ở trẻ em,
bắt nguồn từ nhận thức những biểu tợng trong không gian, theo các quan hệ
thứ tự, sắp đặt các đối tợng trong không gian đến những biểu tợng không gian
hai chiều, ba chiều, rồi những biểu tợng về đo đạc, dựng hình, tính toán. Tởng
tợng có thể phát triển ở những mức độ khác nhau, ở những lứa tuổi khác nhau,
sự tích luỹ theo độ tuổi, những kiến thức, những kỹ năng, kinh nghiệm, hoạt
động thực tiễn (vẽ, gấp, cắt, gấp hình, biểu diễn hình) làm cho vốn biểu tợng
phong phú, năng động hơn nhờ đó có khả năng hoạt động trí óc theo biểu tợng.
1.4. Sự chú ý và ghi nhớ
Sự chú ý là gì? Tâm lý học đại cơng đa ra định nghĩa: Chú ý là sức tập
trung của ý thức vào một hay một nhóm của sự vật hiện tợng để định hớng
hoạt động bảo đảm điều kiện, thần kinh tâm lý cần thiết cho hoạt động tiến
hành có hiệu quả. Chú ý đợc xem nh là một trạng thái tâm lý đi kèm với các
hoạt động tâm lý khác, giúp cho các hoạt động tâm lý đó có kết quả (ví dụ:
chăm chú nhìn, lắng tai nghe, tập trung suy nghĩ)
Ghi nhớ là giai đoạn đầu tiên của hoạt động nhớ. Đó là quá trình tạo
nên dấu vết của đối tợng trên cơ sở của vỏ não, đồng thời cũng là quá trình
gắn đối tợng đó với những kiến thức đã có. Quá trình ghi nhớ rất cần thiết để
tiếp thu tri thức, tích luỹ kinh nghiệm.
Vậy trí nhớ là một quá trình tâm lý phản ánh những kinh nghiệm đã có
của cá nhân dới hình thức biểu tợng. Bao gồm sự ghi nhớ gìn giữ và tái hiện
lại sau đó ở trong óc, cái mà con ngời đã cảm giác, tri giác, xúc giác, hành
động hay suy nghĩ trớc đấy. Sản phẩm của trí nhớ là biểu tợng, đó là những
hình ảnh của sự vật, hiện tợng nảy sinh trong óc chúng ta khi có sự tác động
trực tiếp của chúng ta vào giác quan.
Sự chú ý không có chủ định là đặc điểm cơ bản, khả năng điều chỉnh
chú ý một cách có ý chí hạn chế ở học sinh tiểu học. Sự chú ý có chủ định của
Sinh viên: Lê
Thị Sen – Lớp K30B Khoa GDTH
7
Khoá luận tốt nghiệp
học sinh tiểu học đòi hỏi có một động cơ ngắn. Sự chú ý thiếu bền vững ở học
sinh tiểu học là do quá trình ức chế phát triển còn yếu. Sự chú ý có chủ định,
nỗ lực ý chí để tập trung cần đợc rèn luyện và đó cũng là đòi hỏi của quá trình
học tập ở Tiểu học, đặc biệt là ở các lớp 1, 2, 3.
ở học sinh tiểu học, ghi nhớ có chủ định và không chủ định đều đang
phát triển. Trong đó, ghi nhớ không chủ định phát triển mạnh hơn chiếm u thế
hơn so với ghi nhớ có chủ định. Đặc biệt ở các lớp 1, 2, 3 thì ghi nhớ không
chủ định là chủ yếu học sinh thờng ghi nhớ, thuộc lòng một cách máy móc.
2. Vai trò, vị trí nội dung các yếu tố hình hình học cho môn toán ở tiểu học
2.1. Vai trò
Các tuyến kiến thức đợc đa vào dạy trong ở trờng tiểu học đợc chia
làm 5 tuyến chính là:
Số học
Các yếu tố về đại số
Các yếu tố về đại lợng
Các yếu tố về hình học
Giải toán
Các tuyến kiến thức này liên quan mật thiết với nhau hỗ trợ và bổ sung
cho nhau, góp phần phát triển toàn diện năng lực toán học cho học sinh tiểu
học.
Cùng với 5 tuyến kiến thức chủ yếu của bộ môn toán thì nội dung các
yếu tố hình học đóng vai trò không thể thiếu. Nếu nh số học cung cấp cho học
sinh những kiến thức sơ giản ban đầu về số tự nhiên, số thập phân, phân số nh
phép tính cộng, trừ, nhân, chia, các dấu hiệu chia hết cho các số 2, 3, 5, 9;
Các yếu tố về đại số cung cấp cho học sinh kiến thức ban đầu về biểu thức
toán học, giải phơng trình, bất phơng trình ẩn dới dạng điền số thích hợp vào ô
trống, điền dấu thích hợp vào ô trống, tìm giá trị cha biết, so sánh, sắp xếp
theo thứ tự giảm dần hoặc tăng dần; Các yếu tố về đại lợng cung cấp cho
học sinh hệ thống các đơn vị đo lờng, từ đo độ dài đến đo khối lợng, đơn vị đo
thể tích, đơn vị đo diện tích, đơn vị đo thời gian; Thì nội dung các yếu tố
hình học cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giải ban đầu về biểu tợng
của các hình hình học, kỹ năng ban đầu về vẽ hình, các biểu tợng về kích thớc,
hình dạng trong không gian của các hình. Đây chính là nền tảng, cơ sở ban
Sinh viên: Lê
Thị Sen – Lớp K30B Khoa GDTH
8
Khoá luận tốt nghiệp
đầu để học sinh có đợc những biểu tợng của các hình trong không gian hai
chiều, ba chiều.
Thông qua nội dung Các yếu tố hình hình học giúp cho học sinh học
tốt hơn các bộ môn khác, đặc biệt là trong môn thủ công, cắt ghép hình, hội
hoạ.
Ví dụ 1:
Để cắt đợc một hình vuông, học sinh phải có biểu tợng về hình vuông
ở trong đầu thì học sinh mới có thể cắt đợc hình vuông. Hình vuông là hình có
bốn cạnh bằng nhau, có 4 góc vuông (đối với học sinh lớp 3); hoặc hình vuông
là hình giống với hình chiếc khăn mùi xoa, giống với hình tấm bìa mà giáo
viên cho quan sát (đối với học sinh lớp 1).
Ví dụ 2:
Để ghép đợc hình ngôi nhà từ bộ đồ dùng học toán thì học sinh phải có
biểu tợng về các hình tam giác, hình chữ nhật, hình vuông sau đó chọn và
ghép lại theo hớng dẫn của giáo viên.
Nhờ đợc học phần nội dung các yếu tố hình hình học mà trí tởng tợng
của học sinh tiểu học ngày dần dần đợc phát triển hơn. ở lớp 1, học sinh chỉ
nhân biết các hình (hình tròn, hình vuông, hình tam giác, hình chữ nhật, hình
tứ giác) dới dạng tổng thể (chủ yếu học sinh quan sát toàn thểdới dạng của
hình rồi nêu tên hình, cha yêu cầu xét đến các yếu tố của hình hoặc xét đên
mối liên quan giữa hình dạng các hình). Nh vậy, ở lớp 1 học sinh chi thấy hình
vuông,hình tam giác, hình chữ nhật,hình trònlà hình có hình dạng giống với
hình mà giáo viên cho quan sát,học sinh phải đối chiếu một cách toàn thể với
vật mẫu. Nhng đến lớp 3, khi nhận dạng hình vuông, chữ nhật, ngoài xét
tổng thể học sinh đã biết dựa vào các đặc điểm về yếu tố cạnh, góc, đỉnh
của hình để nhận dạng, nêu tên hình. Chẳng hạn đến lớp 3, học sinh có thể
tởng tợng trong óc mình hình vuông là hình có 4 cạnh bằng nhau và có 4 góc
vuông, hình chữ nhật là hình có 4 góc vuông có 2 cạnh dài bằng nhau và 2
Sinh viên: Lê
Thị Sen – Lớp K30B Khoa GDTH
9
Xem thêm: Khối THCS | Trường THPT chuyên Hà Nội
Xem thêm: Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Source: https://mix166.vn
Category: Thuật Ngữ