Everest – Wikipedia tiếng Việt

Decade VolcanoesDenali (6.194 m)Denali
(6.194 m)( 6.194 m )Blanc (4.810 m)Blanc
(4.810 m)( 4.810 m )Elbrus (5.642 m)Elbrus
(5.642 m)

(5.642 m)

Everest (8.848 m)Everest
(8.848 m)( 8.848 m )Kilimanjaro (5.895 m)Kilimanjaro
(5.895 m)( 5.895 m )Aconcagua (6.961 m)Aconcagua
(6.961 m)( 6.961 m )Vinson (4.892 m)Vinson
(4.892 m)( 4.892 m )Kosciuszko (2.228 m)Kosciuszko
(2.228 m)( 2.228 m )Puncak Jaya (4.884 m)Puncak Jaya
(4.884 m)( 4.884 m ) Everest là một trong Bảy Đỉnh núi ( thực ra là 9, tùy theo cách định nghĩa ) . Quang cảnh khoảng trống núi Everest nhìn từ phương namĐối với những định nghĩa khác, xem Everest ( khuynh hướng )

Đỉnh Everest (tên khác: đỉnh Chomolungma) là đỉnh núi cao nhất trên Trái Đất so với mực nước biển, tính đến thời điểm hiện tại là 8848,86 mét,[3] nó đã giảm độ cao 2,4 cm sau trận động đất tại Nepal ngày 25/04/2015 và đã dịch chuyển 3 cm về phía tây nam.[4] Đường biên giới giữa Nepal và Trung Quốc (Tây Tạng) chạy qua đỉnh Everest.

Độ cao chính thức hiện tại là 8.848,86 m ( 29.032 ft ), được Trung Quốc và Nepal công nhận, được thiết lập bởi một cuộc khảo sát của Ấn Độ năm 1955 và được xác nhận bởi một cuộc khảo sát năm 1975 của Trung Quốc .Năm 1865, Everest được Thương Hội Địa lý Hoàng gia đặt tên tiếng Anh chính thức của nó, theo đề xuất của Andrew Waugh, Tổng giám sát viên Anh của Ấn Độ, người đã chọn tên của người nhiệm kỳ trước đó của mình trong bài đăng, Ngài George Everest, bất chấp sự phản đối của Everest .
Bản đồ dãy Himalaya Dãy Himalaya

Tại Nepal, nó mang tên Sagarmatha (tiếng Phạn: सगरमस्तका sagaramastakā, “trán trời”). Trong tiếng Tây Tạng, nó được gọi Chomolangma (ཇོ་མོ་ཀླུངས་མ་ jo mo klungs ma, nghĩa là “Thánh mẫu của vũ trụ”). Trong tiếng Trung Quốc, nó có tên phiên âm từ tiếng Tây Tạng là Châu Mục Lãng Mã Phong (珠穆朗瑪峰),(phiên âm:Zhūmùlǎngmǎ fēng) hoặc được dịch nghĩa là Thánh Mẫu Phong (聖母峰),(phiên âm:Shèngmǔ fēng) “đỉnh núi của Thánh mẫu”.

Ngọn núi này được đặt tên tiếng Anh bởi Andrew Scott Waugh, tổng trưởng quan trắc của Ấn Độ người Anh. Với cả Nepal và Tây Tạng đóng cửa với người quốc tế, ông viết :

…Tôi được dạy bởi quan cấp trên và là người tiền nhiệm đáng kính của tôi, Đại tá, Ngài George Everest là đặt cho mỗi đối tượng địa lý bằng tên địa phương hay là tên riêng dùng trong thổ ngữ xứ đó. Nhưng đây là một ngọn núi, có lẽ là ngọn núi cao nhất trên thế giới, không có một tên địa phương nào mà chúng tôi biết đến, mà nếu như tên nào trong tiếng địa phương được biết đến, thì cũng không biết là đến khi nào mới chắc chắn trước khi chúng tôi được cho phép đi xuyên qua Nepal… Tạm thời tôi xin mạn phép đặt tên… một cái tên mà sẽ được biết đến giữa các công dân và trở thành một từ thông dụng giữa các quốc gia văn minh.
— Andrew Scott Waugh, [5]

Do vậy Waugh đã chọn đặt tên núi theo tên của Sir George Everest, ban đầu sử dụng cách viết Mont Everest, và sau đó là Mount Everest. Tuy nhiên, cách phát âm hiện đại của Everest – IPA: [ˈɛvərɪst] hay là [ˈɛvərɨst] (EV-er-est) – khác với cách phát âm họ của Sir George là [ˈiv;rɪst] (EAVE-rest).

Tên Sagarmatha trong tiếng Nepal được đưa ra trong đầu thập niên 1960 khi nhà nước Nepal nhận ra rằng Đỉnh Everest không có tên trong tiếng Nepal. Điều này xảy ra vì ngọn núi không được biết đến và được đặt tên theo tiếng của một dân tộc thiểu số ở Nepal (vùng thung lũng Kathmandu và khu vực xung quanh). Tên trong tiếng Sherpa/Tây Tạng Chomolangma không được chấp nhận vì nó chống lại ý tưởng thống nhất Nepal.

Số liệu đo đạc[sửa|sửa mã nguồn]

Radhanath Sikdar, một nhà toán học Ấn Độ và một nhà đo đạc từ Bengal, là người tiên phong xác lập Everest là đỉnh núi cao nhất quốc tế vào năm 1852, sử dụng những thống kê giám sát lượng giác dựa trên những đo đạc bằng theodolite từ khoảng cách xa 240 km ( 150 dặm ) về phía bên trong Ấn Độ. Trước khi được đo đạc và đặt tên, nó được đặt tên là Đỉnh XV bởi đoàn đo đạc .Núi Everest cao khoảng chừng 8.848 m ( 29.029 ft ), mặc dầu có một số ít chênh lệch nhỏ trong những lần đo khác nhau. Núi K2 cao thứ nhì với độ cao 8.611 m ( 28.251 feet ) .Điểm sâu nhất ở đại dương là hơn cả chiều cao của Everest : Vực thẳm Challenger, tọa lạc ở Vũng Mariana, sâu đến mức nếu Everest được đặt vào đó thì cần thêm trên 2 km ( 1,25 dặm ) nước bao trùm ở phía trên .

  • Đỉnh Everest là đỉnh cao nhất Trái Đất nếu so với mực nước biển, còn nếu so về khoảng cách tới tâm Trái Đất thì núi lửa Chimborazo thuộc dãy Andes ở Ecuador xa hơn (6.382,3 km so với 6.384,4 km); lý do là Trái Đất không phải là một khối cầu hoàn hảo. Trái Đất có hình dáng của một khối phỏng cầu (ellipsoid tròn xoay), hơi lồi ra ở phần xích đạo.
  • Nếu so về phần vượt lên so với cao độ chung quanh thì nó thua núi Denali ở Alaska. Denali chỉ cao hơn mực nước biển 6.194 m, nhưng nó vượt hơn bình địa chung quanh (có độ cao so với mực nước biển dao động 300–900 m) là 5.300 đến 5.900 m, trong khi Everest chỉ vượt so với sườn phía nam là 4.200 m đến 5.200 m về phía cao nguyên Tây Tạng.
  • Nếu tính từ chân đến đỉnh, đỉnh Mauna Kea ở Hawaii mới là kỷ lục. Tính từ đáy biển đến đỉnh của Mauna Kea là 10.200 m (đỉnh của nó chỉ nhô trên mực nước biển 4.205 m)

Lộ trình trèo núi[sửa|sửa mã nguồn]

Lộ trình trèo núi bắc nam, nhìn từ ISSĐỉnh Everest có hai đường leo lên chính, đường leo phía đông nam từ Nepal và đường leo hướng đông bắc từ Tây Tạng, ngoài những còn 13 đường leo ít thông dụng khác. Trong hai con đường chính, sườn núi phía đông nam dễ hơn về mặt kỹ thuật và do vậy là đường leo được sử dụng tiếp tục hơn. Đây là đường leo lên được sử dụng bởi Edmund Hillary và Tenzing Norgay vào năm 1953. Tuy nhiên quyết định hành động chọn con đường này là do thực trạng chính trị hơn là chủ ý bởi biên giới Tây Tạng đã bị đóng lại so với người quốc tế vào năm 1949 .

Hầu hết các chuyến leo núi được thực hiện trong tháng 4 hay tháng 5 trước khi mùa mưa (monsoon) trong mùa hè. Một thay đổi trong dòng khí (jet stream) vào thời điểm này trong năm cũng làm giảm tốc độ gió trung bình trên đỉnh núi cao. Trong khi một số cố gắng xảy ra sau mùa monsoon vào tháng 9 và tháng 10, những tuyết dồn thêm vào sau mùa mưa làm việc trèo lên còn khó khăn hơn.

Dãy phía nam[sửa|sửa mã nguồn]

Đường leo lên qua sườn núi phía đông nam bắt đầu với một con đường mòn tại Trại Nền (Base Camp) ở độ cao 5.380 m (17.600 ft) về phía nam của Everest ở Nepal. Các đoàn thám hiểm thường bay vào Lukla (2.860 m) từ Kathmandu và đi xuyên qua Namche Bazaar. Những nhà leo núi sau đó đi bộ lên Trại Nền, thường mất sáu đến tám ngày, cho phép họ có đủ thời gian để làm quen với khí hậu độ cao và ngăn chặn chứng say độ cao. Các phương tiện leo núi và đồ tiếp tế được chuyên chở bởi yak, dzopkyos và phu khuân vác (Sherpa) lên Trại Nền trên Khumbu Glacier. Khi Hillary và Tenzing leo lên đỉnh Everest vào năm 1953, họ bắt đầu từ thung lũng Kathmandu, bởi vì không có đường nào xa hơn về phía đông vào lúc đó.

Những nhà leo núi sẽ nghỉ lại một vài tuần ở Trại Nền, làm quen với độ cao. Trong suốt thời gian đó, những người Sherpa và một số nhà leo núi trong đoàn thám hiểm sẽ thiết lập dây và thang leo trên thác băng Khumbu hiểm trở. Serac, các kẽ nứt trong băng và các khối băng trượt làm thác băng này là một trong những đoạn nguy hiểm nhất của con đường lên đỉnh. Nhiều nhà leo núi và người Sherpa đã tử nạn ở đoạn này. Để làm giảm bớt nguy hiểm, những nhà leo núi thường bắt đầu leo trước bình minh. Một khi ánh nắng mặt trời chiếu tới thác băng, sự hiểm nguy tăng lên đáng kể. Phía trên thác băng là Trại I (hay Advanced Base Camp – ABC) tại độ cao 6.065 m (19.900 ft).

Từ Trại I, những nhà leo núi liên tục leo lên dọc theo Western Cwm để đến nền của mặt Lhotse, nơi Trại II được thiết lập ở độ cao 6.500 m ( 21.300 ft ). Western Cwm là một thung lũng ngừng hoạt động tương đối phẳng phiu chỉ hơi nâng lên cao, được lưu lại bằng một kẽ nứt khổng lồ cạnh bên TT làm ngăn đường đi lên trực tiếp lên phần phía trên của Cwm. Những nhà leo núi bắt buộc phải đi băng ngang qua ở phía rìa phải gần nền của Nuptse đến một đoạn đường đèo nhỏ được biết đến như thể ” góc Nuptse “. Western Cwm cũng còn được gọi là ” Thung lũng im re ” chính do địa hình của khu vực chắn gió từ con đường leo lên. Với độ cao và một ngày lặng gió, Western Cwm hoàn toàn có thể nóng vượt sức chịu đựng của những người leo núi .

Từ Trại II, các nhà leo núi đi lên theo mặt Lhotse trên những sợi dây cố định đến một mỏm nhỏ ở độ cao 7.470 m (24.500 ft). Từ nơi đó, leo thêm 500 mét nữa là đến Trại IV trên South Col ở độ cao 7.920 m (26.000 ft). Từ Trại III đến Trại IV, các nhà leo núi phải đối mặt với thêm hai thử thách nữa: Gót Geneva và Dải Vàng (Yellow Band). Gót Geneva là một sườn đá đen có hình dạng cái đe được đặt tên bởi một đoàn thám hiểm Thụy Sĩ vào năm 1952. Các sợi dây cố định giúp các nhà leo núi trong việc trèo lên dải đá đầy tuyết phủ này. Dải Vàng là một phần của sa thạch trầm tích cũng cần đến 100 m dây để vượt qua nó.

Trên South Col, những nhà leo núi bước vào vùng chết. Những nhà leo núi thường chỉ có tối đa là hai đến ba ngày để họ hoàn toàn có thể chịu đựng được độ cao này trước khi trèo lên đỉnh. Thời tiết trong và ít gió là những yếu tố quan trọng trong việc quyết định hành động có nên nỗ lực trèo lên đỉnh hay không. Nếu thời tiết không thuận tiện trong vài ngày ngắn ngủi này, những nhà leo núi bắt buộc phải leo xuống, nhiều người quay lại đến Trạm Nền .

Từ Trại IV, những nhà leo núi sẽ bắt đầu cú leo lên đỉnh vào khoảng nửa đêm với hy vọng lên tới đỉnh (vẫn còn thêm 1.000 mét nữa phía trên) trong vòng từ 10 đến 12 giờ. Những nhà leo núi sẽ đến điểm đầu tiên là “The Balcony” ở độ cao 8.400 m (27.700 ft), một thềm nhỏ nơi họ có thể nghỉ ngơi và ngắm nhìn những đỉnh núi về phia nam và phía đông trong ánh sáng sớm của bình minh. Tiếp tục len lên sườn núi, các nhà leo núi sẽ đối diện với một dãy các bậc đá với cấu trúc thường là buộc họ về phía đông vào sâu trong tuyết đến thắt lưng, với nguy hiểm về các vụ sạt lở. Ở độ cao 8.750 m (28.700 ft), một vòm băng tuyết nhỏ cỡ bằng cái bàn đánh dấu Đỉnh phía Nam (South Summit).

Từ Đỉnh phía Nam, các nhà leo núi đi theo một cạnh như lưỡi dao ở sườn đông nam dọc theo vùng được biết đến như “đường Cornice” (Cornice traverse), nơi mà tuyết xen lẫn với đá. Đây là một đoạn trống trải lộ thiên nhất của đường leo, một bước sẩy chân về phía trái sẽ khiến người leo ngã xuống 2.400 m (8.000 ft) ở mặt đông nam, trong khi ngay phía phải là mặt Kangshung cao 3.050 m (10.000 ft). Điểm cuối của con đường này là một thành đá cao 12 m (40 ft) được gọi là “Bậc Hillary” ở độ cao 8.760 m (28.750 ft). Hillary và Tenzing là những nhà leo núi đầu tiên leo lên bậc đá này và họ đã leo lên với những phương tiện thô sơ cho việc trèo lên băng và không có những sợi dây cố định. Ngày nay, những nhà leo núi sẽ leo lên bậc này sử dụng dây cố định sẵn được thiết lập trước bởi những người Sherpa. Một khi đã ở trên bậc, việc leo lên đỉnh tương đối đơn giản với những sườn tuyết không dốc lắm – mặc dù điều kiện lộ thiên trên sườn núi rất khắc nghiệt khi đi qua một vùng tuyết phủ rộng lớn. Sau Bậc Hilary, các nhà leo núi cũng phải đi qua một đoạn đầy đá dễ sụt lở và có một đống dây lớn khá rối rắm trong thời tiết xấu. Những nhà leo núi thường dành tối đa nửa giờ trên “nóc nhà của thế giới” để có đủ thời gian leo xuống Trại IV trước khi trời tối, tránh những vấn để nghiêm trọng khó lường về thời tiết vào buổi chiều, cũng như các bình oxy đã cạn kiệt.

Dãy phía bắc[sửa|sửa mã nguồn]

Đường lên theo sườn núi phía đông bắc khởi đầu từ phía bắc của Everest ở Tây Tạng. Các đoàn thám hiểm leo lên đến Tảng băng Rongbukr, thiết lập Trại Nền ở độ cao 5.180 m ( 17.000 ft ) trên một mặt phẳng đá sỏi ngay bên dưới tảng băng. Để đạt đến Trạm II, những nhà leo núi leo lên dọc theo một đường đất chính giữa phía đông của tảng băng Rongbuk đến nền của Changtse ở độ cao khoảng chừng 6.100 m ( 20.000 ft ). Trại III ( ABC ) tọa lạc bên dưới North Col ở độ cao 6.500 m ( 21.300 ft ). Để đạt đến Trại IV trên cột phía bắc, những nhà leo núi leo lên theo tảng băng đến chân cột nơi những sợi dây cố định và thắt chặt được sử dụng để đạt tới North Col ở độ cao 7.010 m ( 23.000 ft ). Từ North Col, những nhà leo núi leo lên sườn núi đá phía bắc để thiết lập Trại V ở độ cao vào lúc 7.775 m ( 25.500 ft ). Con đường đi lên mặt phía bắc trải qua một dãy những dốc và cạnh sắc như lưỡi dao vào vùng phẳng phiu hơi dốc xuống trước khi đạt đến khu vực của Trại VI ở độ cao 8.230 m ( 27.000 ft ). Từ Trại VI, những nhà leo núi sẽ leo lên đoạn sau cuối. Các nhà leo núi phải vượt qua ba dãy đá gọi là Bậc thứ 1, Bậc thứ 2 và Bậc thứ 3. Một khi đã vượt qua những bậc này, là những dốc ở đầu cuối ( khoảng chừng 50 đến 60 độ ) để lên tận đỉnh núi .

Hành trình lên đỉnh Everest[sửa|sửa mã nguồn]

VÌ Everest là ngọn núi cao nhất quốc tế, nó đã lôi cuốn rất nhiều sự chú ý quan tâm của những nhà leo núi. Không rõ đã có ai đã khởi đầu leo từ thời cổ đại hay không. Đỉnh Everest hoàn toàn có thể đã bị chinh phục từ năm 1924, tuy nhiên thông tin này chưa khi nào được xác nhận, vì không có ai thời gian đó quay trở về .
Lần tiên phong đỉnh Everest bị chinh phục được ghi nhận vào năm 1953, sau đó đã lôi cuốn nhiều nhà leo núi khác. Dù đã có nhiều cố gắng nỗ lực, chỉ khoảng chừng 200 nhà leo núi lên tới đỉnh cho tới năm 1987. Đỉnh Everest vẫn là một thử thách leo núi khó khăn vất vả, ngay cả với những nhà leo núi dày dạn kinh nghiệm tay nghề cũng như những tổ chức triển khai leo núi nổi tiếng. Cho tới năm những năm 1990, chỉ họ mới được leo núi cho tới khi nó được chính thức thương mại kinh doanh hóa .

Cho tới tháng 3.2012, đã có 5656 cuộc chinh phục với 223 người chết. Although lower mountains have longer or steeper climbs, Everest is so high the jet stream can hit it. Trong điều kiện thời tiết xấu, các nhà leo núi có thể đối mặt với gió với vận tốc trên 320 km/h. Vào những thời điểm nhất định trong năm, các luồng gió thổi về hướng bắc, giúp cho ngọn núi yên tĩnh hơn. Ngoài ra, bão tuyết hay lỡ tuyết cũng có thể xảy ra.

Tới năm 2013, The Himalayan Database đã ghi nhận hơn 6871 lần chinh phục đỉnh bởi 4042 nhà leo núi .

Vào năm 1885, Clinton Thomas Dent, chủ tịch hội Alpine Club, đã đề xuất rằng có thể leo núi Everest trong cuốn sách của ông, Above the Snow Line

Những nỗ lực tiên phong[sửa|sửa mã nguồn]

Đường leo phía Bắc được phát hiện lần đầu bởi George Mallory và Guy Bullock trong cuộc thám hiểm British Reconnaissance lần tiên phong vào năm 1921. Cuộc thám hiểm này không trang bị những công cụ thiết yếu cho việc thực sự leo núi. Mallory là người dẫn đoàn đã leo đến North Col ở độ cao 7005 m, từ đây ông cố gắng nỗ lực tìm đường lên đỉnh nhưng nhóm đã phải leo xuống do họ không được chuẩn bị sẵn sàng kỹ càng cho thử thách này .Sau đó 1 năm vào hành trình dài năm 1922, George Finn đã leo núi mà không dùng bình oxy. Tốc độ leo núi của ông nhanh 1 cách đáng kinh ngạc, 290 m / h và đạt độ cao 8320 m. Ông được xác nhận là người tiên phong leo cao hơn 8000 m, trong khi đó Mallory và Felix Norton thất bại trong việc chinh phục đỉnh lần thứ 2 .Chuyến leo núi sau đó được tổ chức triển khai vào năm 1924, hành trình dài tiên phong của Mallory và Geoffrey Bruce đã bị hủy do điều kiện kèm theo thời tiết khiến họ không hề leo lên Trại IV. Sau đó Norton và Somervell cố gắng nỗ lực leo lên đỉnh mà không dùng bình oxy và với thời tiết rất thuận tiện. Norton đã đạt đến độ cao 8550 m, dù vậy ông chỉ lên được khoảng chừng 30 m trong giờ sau cuối trước khi phải leo xuống. Còn Mallory đã trang bị bình oxy trong lần nỗ lực thứ 3, sát cánh cùng là Andrew Irvine .Vào 8 tháng 6 năm 1924, George Mallory và Andrew Irvine, hai người Anh, nỗ lực trèo lên đỉnh núi nhưng họ đã không khi nào quay trở lại. Ngày 1.5.1999, Đoàn Nghiên cứu Thám hiểm Mallory và Irvine đã tìm ra xác của Mallory trên một sườn băng dưới mặt Bắc, phía tây của Trại IV. Nhiều tranh luận đã diễn ra nóng bức trong hội đồng những nhà leo núi liệu là hai người đó đã leo đến đỉnh của quốc tế, 29 năm trước khi chuyến leo lên đỉnh Everest thành công xuất sắc ( và đương nhiên, xuống núi bảo đảm an toàn ) bởi Sir Edmund Hillary và Tenzing Norgay vào năm 1953. Ý kiến chung giữa những nhà leo núi là họ ( Mallory và Irvine ) đã chưa leo đến đỉnh, trong khi những phát hiện mới gần đây chứng tỏ điều ngược lại. Mặc dù không có dẫn chứng là một trong hai người nói trên đã lên quá Bậc thứ 2, nếu Mallory đã leo lên cao đến mức đó thì rất hoàn toàn có thể là ông đã leo đến đỉnh, bởi không có khó khăn vất vả nào trong việc leo thêm cao một chút ít nữa. Lý thuyết được nhiều người gật đầu là Mallory chỉ nỗ lực trèo lên mặt của Bậc thứ 2 bằng cách đứng lên vai của Irvine. Được trang bị với bình oxy dự trữ của Irvine ông đã hoàn toàn có thể leo đến đỉnh muộn hơn trong ngày hôm đó. Đi xuống trong bóng tối ông hoàn toàn có thể quyết định hành động đi theo hẻm núi Norton hơn là nỗ lực trèo xuống từ Bậc thứ 2 mà không nhìn thấy gì cả. Tất cả mọi người đều đồng ý chấp thuận là Mallory đã tử nạn khi ngã trong lúc leo xuống trải qua hẻm núi, nơi xác ông ta được tìm thấy. Irvine hoàn toàn có thể sống sót lâu hơn một chút ít khi chờ người bạn sát cánh quay lại, dưới chân của Bậc thứ 2, nhưng chết sau đó vì ở lâu ngoài trời băng tuyết. Xác của Irvine có lẽ rằng được tìm thấy bởi một nhà leo núi Trung Quốc khác vào năm 1960 ( ở nơi không gần xác của Mallory, chứng tỏ là hai người đã tách ra ) nhưng đã không được phát hiện lần nào nữa, mặc cho một số ít cuộc tìm kiếm vào năm 2004 .Mallory đã đi khắp Hoa Kỳ và diễn thuyết một năm trước vào năm 1923 ; chính vào lúc đó đã vấn đáp ( lúc phát cáu ) một câu nổi tiếng, ” Bởi vì nó ở đó, ” khi một phóng viên báo chí ở Thành Phố New York hỏi ” Tại sao ông muốn leo lên đỉnh Everest ? ” cho đến lần thứ 1000 .tin tức khá đầy đủ ở đây Mallory và Irvine : Chương ở đầu cuối gồm có cả những quan điểm phê phán trái ngược .Vào năm 1995, George Mallory II từ Cộng hoà Nam Phi ( cháu nội ) đã leo đến đỉnh Everest .

Vào năm 1933, Lady Houston, một triệu phú và một cựu vũ nữ, đã tài trợ cho chuyến bay Houston Everest năm 1933, một phi đội dẫn đầu bởi Douglas Douglas-Hamilton, Công tước Hamilton (lúc đó chỉ là Hầu tước Clydesdale), bay qua đỉnh núi trong cố gắng đặt một lá cờ Anh (the Union Jack) lên đỉnh núi.

Sau khi tham gia một chuyến bay trinh thám năm 1935, nhà leo núi thám hiểm Bill Tilman được chỉ định là trưởng một đoàn thám hiểm Everest vào năm 1938 với nỗ lực leo lên phía sườn tây-bắc. Họ đạt được độ cao trên 27.000 ft ( 8.200 m ) mà không cần thêm oxy tiếp tế trước khi buộc phải xuống núi vì thời tiết xấu và bệnh tật .Các đoàn thám hiểm trước đó đã leo lên núi từ phía Tây Tạng, theo mạn phía bắc. Tuy nhiên, cửa lên này đã bị đóng lại so với những nhà thám hiểm phương Tây vào năm 1950, sau khi Trung Quốc xâm lược Tây Tạng. Tuy nhiên, vào năm 1950, Bill Tilman và một đoàn nhỏ gồm có Charles Houston, Oscar Houston và Betsy Cowles thực thi một cuộc thám hiểm nhỏ lên Everest trải qua Nepal theo một con đường mà giờ đây đã trở thành một cách tiếp cận đỉnh Everest quy chuẩn từ phía nam .

Tenzing và Hillary[sửa|sửa mã nguồn]

Trong năm 1951, một đoàn thám hiểm người Anh đứng vị trí số 1 bởi Eric Shipton và gồm cả Edmund Hillary, đi đến Nepal để thăm dò một con đường leo mới qua mặt phía nam .Theo sau người Anh, vào năm 1952 một đoàn thám hiểm Thụy Sĩ cố gắng nỗ lực leo lên theo mặt phía nam, nhưng đội mở đường của Raymond Lambert và người Sherpa Tenzing Norgay đã quay lại ở độ cao chỉ khoảng chừng 200 mét nữa là tới đỉnh núi. Những người Thụy Sĩ đã nỗ lực thám hiểm một lần nữa và mùa thu năm 1952 ; lần này thì một đội gồm cả Lambert và Tenzing quay trở lại ở một tiến trình sớm hơn của cuộc leo .Vào năm 1953, một đoàn thám hiểm Anh lần thứ chín, đứng vị trí số 1 bởi John Hunt, quay trở lại Nepal. Hunt chọn ra hai cặp leo với nỗ lực đạt lên tới đỉnh. Cặp thứ nhất quay lại sau khi kiệt sức cao trên núi. Ngày hôm sau, đoàn thám hiểm triển khai lần leo thứ hai và cũng là lần cuối lên đỉnh với cặp leo kinh nghiệm tay nghề và quyết tâm nhất. Đỉnh núi ở đầu cuối đã đạt được vào 11 : 30 am giờ địa phương vào ngày 29 tháng 5 năm 1953 bởi người New Zealand tên là Edmund Hillary và người Sherpa tên là Tenzing Norgay từ phía Nepal leo lên theo con đường phía nam South Col. Vào thời hạn đó, cả hai thừa nhận rằng đó là một nỗ lực tập thể bởi cả đoàn thám hiểm, nhưng sau nhiều tra hỏi không dứt, Tenzing một vài năm sau đó bật mý rằng Hillary đã đặt chân lên đỉnh thứ nhất. Họ dừng lại trên đỉnh núi để chụp ảnh và chôn lại một vài viên kẹo và một thánh giá nhỏ vào tuyết trước khi xuống núi. Tin tức về sự thành công xuất sắc của đoàn thám hiểm đã lan về đến London vào buổi sáng Nữ hoàng Elizabeth II lên ngôi. Quay lại Kathmandu một vài ngày sau đó, Hillary và Hunt tò mò ra rằng họ vừa được tấn phong thương hiệu Hiệp sĩ cho sự cố gắng của họ .

1996 – thảm hoạ Everest[sửa|sửa mã nguồn]

Trong mùa leo núi năm 1996 mười chín người đã chết vì nỗ lực trèo lên đến đỉnh và cho năm đó là một năm chết người nhất trong lịch sử dân tộc leo núi Everest. Ngày 10 tháng 5 năm đó là ngày chết chóc nhất trong lịch sử dân tộc leo Everest, khi một cơn bão đập vào nhiều nhà leo núi ở gần đỉnh ( trên bậc Hillary ), giết đi tám người. Trong số những người tử nạn là những nhà leo núi kinh nghiệm tay nghề Rob Hall và Scott Fischer, cả hai đều là những nhà thám hiểm được trả lương cao nhất để lên đến đỉnh. Thảm họa đã được biết đến thoáng đãng trong công chúng và đặt ra những câu hỏi về việc thương mại hóa đỉnh Everest .
Vào ngày 16 tháng 5 năm 1975, Junko Tabei trở thành người phụ nữ tiên phong đạt đến đỉnh núi Everest. Vào 25 tháng 5 năm 2001, Erik Weihenmayer trở thành người leo núi mù tiên phong lên đỉnh .Cho đến cuối mùa leo năm 2003, 1.919 người đã đạt đến đỉnh núi ( 829 người từ 1998 ) và 179 người tử nạn khi nỗ lực trèo lên đỉnh. Điều kiện trên núi khắc nghiệt đến nỗi những xác người phải để lại nơi mà họ đã rơi xuống ; một số ít xác hoàn toàn có thể thấy được từ những đường leo quy chuẩn .Hầu hết những đoàn thám hiểm sử dụng mặt nạ và bình đựng oxy ( [ 1 ] ) ở độ cao trên 26.000 ft ( 8.000 m ) ; vùng này được biết đến như là vùng chết. Everest hoàn toàn có thể được leo lên mà không cần thêm sự oxy tương hỗ, nhưng điều này cần những giảng dạy thể lực đặc biệt quan trọng và làm tăng rủi ro đáng tiếc cho người leo. Con người không tâm lý minh mẫn với lượng oxy thấp, và tổng hợp những điều kiện kèm theo thời tiết khắc nghiệt, nhiệt độ thấp, những dốc thẳng đứng yên cầu những quyết định hành động nhanh gọn đúng mực .Các nhà leo núi là một nguồn thu lợi từ du lịch khá lớn cho Nepal ; họ đủ những thành phần từ những nhà leo núi kinh nghiệm tay nghề đến những người leo núi nghiệp dư dựa vào những người hướng dẫn thuê để dẫn họ lên đỉnh. Chính quyền Nepal cũng nhu yếu một giấy phép từ tổng thể những nhà leo núi ; giấy này kèm theo một khoảng chừng lệ phí không nhỏ .Khu vực đỉnh Everest, và dãy Himalaya nói chung, được cho là đang chịu đựng sự tan băng do ấm lên toàn thế giới. Mùa mưa kinh hoàng vào mùa hè năm 2005 là đồng nhất với sự liên tục nóng lên và việc nâng lồi lên của đồng bằng Tây Tạng về phía bắc .

Các cột mốc thời hạn[sửa|sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Tiếng Anh

Source: https://mix166.vn
Category: Hỏi Đáp

Xổ số miền Bắc