Ung Chính – Wikipedia tiếng Việt

Thanh Thế Tông (chữ Hán: 清世宗, 13 tháng 12 năm 1678 – 8 tháng 10 năm 1735), pháp hiệu Phá Trần Cư Sĩ, Viên Minh Cư Sĩ, Hãn hiệu Nạp Y Lạp Nhĩ Đồ Thác Bố hãn (chữ Hán: 納伊拉爾圖托布汗; tiếng Mãn: ᡥᡡᠸᠠᠯᡳᠶᠠᠰᡠᠨ
ᡨᠣᠪ, Möllendorff: hiowan yei, Abkai: hiuwan yei), Tây Tạng tôn vị Văn Thù Hoàng đế (文殊皇帝), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Thanh (Trung Quốc), trị vì từ năm 1722 đến 1735. Ông dùng niên hiệu Ung Chính (雍正) trong suốt thời gian 13 năm trị vì, nên các sử gia thường gọi ông là Ung Chính Đế (雍正帝).

Là một vị hoàng đế siêng năng, cần kiệm và chống tham nhũng kinh khủng, tiềm năng của Ung Chính là tạo ra một triều đình hiệu suất cao với ngân sách thấp nhất. Các chủ trương của ông đã mở đường cho sự thịnh trị gần 150 năm tiếp theo của Đại Thanh. [ 1 ] Cuối đời ông, quốc khố hãy còn dư nhiều. [ 1 ] Về đối ngoại, tiếp nối vua cha Khang Hi, Ung Chính sử dụng những giải pháp quân sự chiến lược can đảm và mạnh mẽ để giữ gìn vị thế của Đại Thanh so với những nước lân bang. Triều đại của ông được xem là chuyên chế, hiệu suất cao và can đảm và mạnh mẽ. Tuy nhiên, việc Ung Chính thống trị bằng bàn tay sắt khiến hình tượng trong dân gian của ông không được tốt, có những lời đồn gây tác động ảnh hưởng tới uy tín của nhà vua và người kế vị ông như Hoàng đế Càn Long không phải là con ông mà là người Hán. Sự phản cảm của nhân dân so với ông còn được bộc lộ qua lời đồn rằng ông bị một thích khách đâm chết và bị cắt lấy thủ cấp .

Mặc dù triều đại của Ung Chính ngắn hơn nhiều so với cha mình (Khang Hi Đế trị vì 61 năm) và con trai (Càn Long Đế trị vì 60 năm), sự ra đi đột ngột của ông lại là do khối lượng công việc nặng nề của ông mang lại. Ung Chính đã tiếp nối một thời kỳ hòa bình và thịnh vượng cho Nhà Thanh, không có ông thì không có cái gọi là Khang Càn thịnh thế. Ung Chính đã ngăn chặn tệ nạn tham nhũng và cải cách việc quản lý tài chính của đất nước. Thời ông cũng bắt đầu thành lập Quân cơ xứ, một cơ quan có ảnh hưởng lớn đến đế chế Trung Hoa trong tương lai.

Thanh Thế Tông Ung Chính tên húy là Dận Chân (chữ Mãn:ᡳᠨ ᠵᡝᠨ, chữ Hán: 胤禛, bính âm: In Jen), sinh vào giờ Dần ngày 30 tháng 10 (âm lịch) năm Khang Hi thứ 17 (1678) ở Vĩnh Hòa cung trong Tử Cấm Thành, Bắc Kinh. Ông là con trai thứ 4 trong số những người con trưởng thành của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế. Mẹ là Hiếu Cung Nhân hoàng hậu Ô Nhã thị, thuộc Tương Hoàng kỳ Mãn Châu. Bấy giờ, Hiếu Cung Hoàng hậu chỉ là cung nhân, xuất thân lại rất thấp (Bao y), theo quy chế không được tự nuôi con, vì vậy Dận Chân vừa đầy tháng đã được đưa đến cho Hiếu Ý Nhân hoàng hậu Đông Giai thị chăm sóc. Hiếu Ý Nhân Hoàng hậu vốn là con gái của Nhất đẳng công Đông Quốc Duy, chất nữ của Hiếu Khang Chương Hoàng hậu, từng sinh một Hoàng nữ nhưng không may mất sớm.

Năm Khang Hi thứ 22 (1683), Dận Chân khi đó 6 tuổi, được chỉ đến Thượng Thư phòng đọc sách. Sư phó của Dận Chân là Trương Anh cho học Tứ thư, Ngũ kinh, lại cho Từ Nguyên Mộng giảng dạy Mãn văn. Quan hệ mật thiết với Dận Chân nhất là Cố Bát Đại (顾八代), Dận Chân nhận xét ông “Phẩm hạnh đoan chính, học thuật thuần chính”. Suốt thời thiếu niên và thanh niên của Dận Chân nhận được sự quản giáo nghiêm khắc từ Phụ hoàng và Sư phó. Khang Hi Đế cho rằng việc chỉ nuôi nấng các Hoàng tử trong Hoàng cung sẽ tạo sai lầm, do đó ông đã cho các Hoàng tử, kể cả Tứ a ca Dận Chân, tiếp xúc với thế giới bên ngoài, và ban ra một hệ thống giáo dục nghiêm khắc cho các Hoàng tử. Mãi khi sau này lên ngôi, Dận Chân thường kể lại việc Khang Hi Đế nuôi dạy ông rất chu đáo. Khang Hi Đế quý mến Dận Chân vì biết giữ lễ nghĩa, giỏi chữ Hán, chữ Mãn, hiểu rộng kinh sử và thơ ca. Nhưng Hoàng đế không hài lòng với tính hấp tấp và tâm trạng không ổn định của Dận Chân. Khang Hi từng đánh giá Dận Chân lúc nhỏ là “Hỉ nộ bất định”, thường bảo Dận Chân “chớ nóng vội và nên kiên nhẫn”, nên sau này Ung Chính treo một tấm biển đề câu này trong phòng riêng để tự răn mình không được quên.[2]

Hoàng tử Dận Chân đã cùng cha mình vi hành nhiều lần ở những vùng, tỉnh xung quanh kinh thành Bắc Kinh, cũng như về phía Nam xa xôi. Khi trưởng thành, ông được cử làm Chủ soái của Chính Hồng kỳ trong suốt cuộc cuộc chiến tranh lần thứ 2 giữa Đại Thanh với Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ .Năm Khang Hi thứ 35 ( 1696 ), Dận Chân theo Khang Hi chinh phạt Cát Nhĩ Đan, chưởng quản Chính Hồng kỳ đại doanh [ 3 ]. Chiến dịch lần này Dận Chân không trực tiếp tham gia, nhưng ông rất chăm sóc đến trận chiến. Dận Chân còn làm ” Lan cư tư sơn đại duyệt ” cùng ” Công thành hồi loan cung tụng nhị thủ ” [ 4 ] để tán dương thành tựu dụng binh của Phụ hoàng. Không những vậy, Dận Chân còn tới Tuân Hóa tạm an phụng điện tế tự Hiếu Trang Văn Hoàng hậu .

Năm Khang Hi thứ 37 (1698), Tứ a ca Dận Chân được phong tước vị [Đa La Bối lặc; 多羅貝勒]. Năm thứ 39 (1699), năm 23 tuổi, Dận Chân theo Khang Hi thị sát Vĩnh Định Hà, kiểm nghiệm chất lượng công trình. Năm 25 tuổi, Dận Chân thị tòng Phụ hoàng tuần du Ngũ Đài Sơn. 1 năm sau lại thị tòng nam tuần Giang Chiết.

Năm Khang Hi thứ 43 ( 1704 ), sông Dương Tử và sông Hoàng Hà gây ra một trong những trận lũ lớn nhất trong lịch sử vẻ vang Trung Quốc. Kinh tế và đời sống của nhân dân xung quanh những vùng này bị rình rập đe dọa nghiêm trọng. Dận Chân được Khang Hi cử đến với tư cách là khâm sai đại thần của Hoàng đế cùng với Hoàng thập tam tử là Dận Tường để trợ giúp những nạn dân vùng phía Nam Trung Quốc. Quốc khố lúc này đang hết sạch do những khoản nợ không trả từ những quan lại và quý tộc, do đó triều đình không đủ tiền để đối phó với nạn lũ. Dận Chân đã phải triển khai chủ trương thu gom ngân quỹ từ những thương gia giàu sang ở phương Nam. Những nỗ lực này của ông bảo vệ tiền cứu tế được phân bổ và những nạn dân không bị đói .Năm Khang Hi thứ 46 ( 1708 ), Khang Hi Đế ban Viên Minh Viên cho Dận Chân. Tháng 11, Dận Chân cung thỉnh Phụ hoàng đến Viên Minh Viên dự yến tiệc. Từ 1707 đến 1722, Khang Hi Đế đến Viên Minh Viên tổng số 12 lần .

Tranh đoạt Trữ vị[sửa|sửa mã nguồn]

Dận Chân khi còn là Ung Thân vương .Năm Khang Hi thứ 47 ( 1708 ), Khang Hi Đế lần đầu phế truất Thái tử Dận Nhưng. Trong quy trình đề cử tân Thái tử, Dận Chân kiên trì đề xuất kiến nghị phục vị cho Dận Nhưng, đồng thời cùng Hoàng bát tử Dận Tự có quan hệ tốt đẹp .

Năm Khang Hi thứ 48 (1709), Khang Hi Đế phục lập Dận Nhưng trở lại làm Hoàng thái tử, cùng năm đó Hoàng tứ tử Dận Chân được chính thức phong tước hiệu Ung Thân vương (雍親王). Bắt đầu từ đây, các Hoàng tử bắt đầu kéo bè cánh, tranh đoạt lập mưu với Trữ vị bắt đầu gia tăng.

Hoàng thái tử Dận Nhưng sau khi được phục vị, quyết định hành động kéo bè phái nhằm mục đích củng cố vị trí cho mình, điều này khiến Khang Hi Đế lần nữa tuyệt vọng, mà quyết định hành động phế truất Thái tử vào năm thứ 50 ( 1711 ), và hạ lệnh bất kỳ ai khuyên phục lập Dận Nhưng đều sẽ bị trị tội .

Điều này đã dẫn đến sự phân chia trong triều đình nhằm tranh giành vị trí Thái tử bị bỏ trống, sự chia rẽ giữa những người ủng hộ Hoàng tam tử Dận Chỉ, Dận Chân, Hoàng bát tử Dận Tự và Hoàng thập tứ tử Dận Trinh (em ruột của Dận Chân). Trong số các hoàng tử trên, Dận Tự được sự ủng hộ nhiều nhất từ các quan lại. Dận Tự cùng Dận Trinh “Hư hiền hạ sĩ”, liên lạc nhân sĩ khắp nơi, rất có ý đồ. Vì điều này mà Dận Tự đã bị Khang Hi trách cứ.[5] Hoàng thập tứ tử Dận Trinh vào năm Khang Hi thứ 57 (1718) được phong “Phủ Viễn Đại tướng quân vương“, xuất chinh Tây Bắc, chỉ huy hai đạo quân Thanh ổn định thế cụ Tây Tạng, danh tiếng càng ngày càng lên cao, có khả năng tranh đoạt Trữ vị. Hoàng tam tử Thành Thân vương Dận Chỉ vâng mệnh vỡ lòng Dưỡng Trai quá, xung quanh tụ tập một đám người có học thức. Ông cũng có dã tâm tranh đoạt Trữ vị, đến nỗi sau khi Dận Nhưng bị phế truất, ông luôn tự cho mình là Trữ quân tiếp theo.[6] Khi Khang Hi mất vào tháng 11 năm 1722, việc phân chia quyền vị ngai vàng chỉ còn lại ba Hoàng tử, sau khi Dận Tự chuyển sang ủng hộ Hoàng thập tứ tử Dận Trinh, đó là: Dận Chỉ, Dận Chân và Dận Trinh.

Dận Chân giỏi về trị quốc, hiểu được giấu tài. Ông tôn sùng Phật giáo, tự xưng ” Thiên hạ đệ nhất nhàn nhân “, giữ trung khí với những huynh đệ, cạnh bên đó lại link ngặt nghèo với những người có thế lực như Long Khoa Đa và Niên Canh Nghiêu, thu phục nhân tâm. Đồng thời, ông còn chú ý quan tâm biểu lộ sự hiếu thuận so với Khang Hi Đế, dâng lên Bản đồ Tây Tạng do chính ông vẽ, giành được sự tin cậy của Khang Hi .Năm Khang Hi thứ 60 ( 1721 ), Dận Chân nhân kỉ niệm 60 năm đăng cơ của Khang Hi Đế, hướng Thịnh Kinh tế cáo tổ lăng. Hồi kinh tham gia Cống sĩ thi hội bài thi phúc tra sự vụ, Đông chí tuân mệnh đại Khang Hi Đế nam giao tế thiên. Năm sau, thanh tra kinh thành, link hai thương khố, lại vân mệnh Đông chí tế thiên. Việc này so với Dận Chân rất trọng đại, một là chính do ông nhiều lần tùy tùng tuần du, ra ngoài làm thay chính vụ, khiến cho ông có thời cơ hiểu biết những nơi kinh tế tài chính sản vật, sông núi thủy lợi, phong tục dân gian, tôn giáo tín ngưỡng, lấy được dân sự trực tiếp tư liệu, hai là quan sát Khang Hi Đế giải quyết và xử lý chính vì sự, khảo tra địa phương hành chính cùng lại trị, rèn luyện giải quyết và xử lý chính sự năng lượng. Hai phương diện này so với ngày sau Dận Chân giải quyết và xử lý quốc sự đều có ý nghĩa thực tiễn rất lớn .

Lên ngôi chính thống[sửa|sửa mã nguồn]

Năm Khang Hi thứ 61 ( 1722 ), con trai thứ tư của Dận Chân là Hoằng Lịch tròn 12 tuổi, Khang Hi Đế đến Viên Minh Viên dự tiệc dùng thiện. Sau khi Càn Long đăng cơ, ” Cao Tông Thuần Hoàng đế ” có ghi chép lại, Khang Hi Đế vì Hoằng Lịch mà đến Viên Minh Viên dự tiệc, còn khen sinh mẫu Hoằng Lịch là người có phúc. Nhưng trong ” Thánh Tổ Nhân Hoàng đế thực lục ” lại không có ghi chép gì về việc Khang Hi Đế yêu quý mẹ con Hoằng Lịch hay sách phong Thế tử, Phúc tấn gì để ban thưởng .Ngày 13 tháng 11 ( tức ngày 20 tháng 12 dương lịch ), Khang Hi Đế băng hà ở Sướng Xuân viên .

Ngày 20 tháng 11 (tức ngày 27 tháng 12 dương lịch), theo di chiếu, Hoàng tứ tử Ung Thân vương Dận Chân kế vị. Bắt đầu sang năm (1723) dùng niên hiệu là Ung Chính (雍正). Chữ [Ung Chính], xuất phát từ chữ “Ung”, nghĩa là “hòa thuận”; và chữ “Chính”, nghĩa là “ngay thẳng” hay “chính thống”.

Ngay lập tức sau khi lên ngôi, Ung Chính Đế đã chọn ra các quân cơ đại thần vào Quân Cơ viện, bao gồm: Hoàng bát tử Dận Tự, Hoàng thập tam tử Dận Tường, Trương Đình Ngọc, Mã Vệ và Long Khoa Đa. Dận Tự được phong làm Liêm Thân vương, còn Dận Tường được phong làm Di Thân vương, cả hai đều được giữ những vị trí cao trong triều.

Ung Chính còn đặc biệt quan trọng đưa Hoằng Quế, Hoằng Hoàn ( con trai của Dận Nhưng ) và Vĩnh Kính ( cháu nội Dận Nhưng ) vào cung nuôi dưỡng, nhận làm Dưỡng tử. Đây cũng là sau khi Càn Long Đế lên ngôi chính miệng thừa nhận .

Đồn đại tranh luận[sửa|sửa mã nguồn]

Di chiếu của Khang Hi Đế .

Vào thời điểm Khang Hi Đế qua đời, Hoàng tử thứ 14 là Dận Trinh lúc này là “Phủ Viễn Đại tướng quân” (撫遠大將軍), đang phải chinh chiến ở chiến trường Tây Bắc. Một số nhà sử học cho rằng, việc này là để huấn luyện khả năng cầm quân của Hoàng đế tương lai; một số khác lại cho rằng việc này nhằm bảo đảm chuyện lên ngôi trong hòa bình của Dận Chân. Chính Hoàng tử Dận Chân đã tiến cử Dận Trinh vào vị trí này chứ không phải Dận Tự, Vị trí này được xem như là của người kế vị Khang Hi, cho vị trí Thái tử đã bỏ trống suốt gần 7 năm.

Sử sách ghi chép lại rằng vào ngày 20 tháng 12 năm 1722, Hoàng đế Khang Hi đã gọi lại bên giường của mình 7 vị Hoàng tử và Cửu môn đề đốc Long Khoa Đa, người sẽ đọc di chiếu và công bố Ung Chính là người kế vị ngai vàng. Một số chứng cứ chứng tỏ rằng Dận Chân đã có link với Long Khoa Đa từ vài tháng trước khi di chiếu được công bố bằng sự chuẩn bị sẵn sàng lực lượng quân đội, vì trong dự tính của họ, binh biến là không hề tránh khỏi .

Các truyện dân gian cho rằng Ung Chính đã thay đổi di chiếu của vua cha bằng cách thêm dấu vào và sửa đổi k‎í tự. Nhưng nổi tiếng nhất có lẽ là việc Ung Chính đã thay đổi chữ “thập tứ” (十四) thành chữ “vu tứ” (于四, vu nghĩa là “cho”), một số khác cho rằng từ “thập tứ” thành “đệ Tứ” (第四). Khi các câu chuyện này truyền trong dân gian, cũng có một số ít chứng cứ cho quan điểm này, đặc biệt là dựa trên việc chữ “vu” (于) không được dùng rộng rãi trong suốt thời đại Nhà Thanh, vì người ta thường dùng chữ “於”. Tiếp đó, phong tục của Nhà Thanh là di chiếu sẽ được viết cả bằng tiếng Mãn Châu và tiếng Hán, mà tiếng Mãn Châu khó viết hơn, trong trường hợp này việc sửa di chiếu có lẽ khó khăn hơn. Tuy nhiên, dù có nhiều nghi ngờ dấy lên khi mà di chiếu viết bằng tiếng Mãn bị thất lạc đâu đó và di chiếu bằng tiếng Hán, đang được lưu giữ trong viện Bảo tàng sử Trung Quốc, chỉ được ban bố 2 ngày sau cái chết của Khang Hi. Một số nhà sử đưa ra giả thuyết rằng Ung Chính Đế không thay đổi di chiếu nhưng đã viết một bản khác.

Việc tiên phong khi làm vua của Ung Chính là ông đã thả Hoàng tử thứ 13, Dận Tường, người cùng ông chiến đấu bao năm khi còn là Hoàng tử. Dận Tường bị vua cha nhốt cùng lúc với Thái tử Dận Nhưng. Một số nguồn tư liệu đã ghi lại rằng, Dận Tường, vị Hoàng tử nắm giữ hầu hết quân đội, đã điều một đội quân trong Bắc Kinh từ Phong Đài đến vây hãm và trấn áp Tử Cấm Thành và một số ít vùng xung quanh, hành vi này nhằm mục đích ngăn ngừa mọi phản kháng từ phía Hoàng tử Dận Tự. Ung Chính đã cảm thấy không an tâm và rất buồn khi cha qua đời, và biết rằng sẽ là một áp lực đè nén và trách nhiệm lớn khi ông thừa kế ngai vàng của cha. Hơn nữa, sau khi di chiếu được công bố, Dận Chân đã ra lệnh cho những trọng thần ( Trương Đình Ngọc, Long Khoa Đa và Dận Chỉ ) và con trai là Hoằng Lịch dẫn những Hoàng tử còn lại làm lễ Tam bái – Cửu chào so với vị Hoàng đế mới. Vào ngày hôm sau, Ung Chính đã ra một khẩu dụ điều Dận Trinh trở lại Giang Tô, đồng thời phong tặng mẹ danh phong Thiên hoàng Thái hậu vào lúc Dận Trinh đến dự lễ tang tiên hoàng .Trong bản tóm tắt tiểu sử tổng lực nhất về Hoàng đế Ung Chính của học giả Phùng Nhĩ Khang, tác giả đã nhìn nhận việc kế ngôi của Ung Chính bằng một nhãn quan mới lạ. Phùng Nhĩ Khang viết rằng vẫn còn 1 số ít hoài nghi từ di chiếu bị thất lạc hay ngày được phát hành, tuy nhiên hầu hết những vấn đề chứng tỏ rằng Ung Chính đã thành công xuất sắc trong việc lên ngai vàng một cách hợp lẽ, dẫu cho ông cũng đã có sử dụng quân đội trong một số ít trường hợp thiết yếu. Hoàng tử thứ 8 là Dận Tự đã bỏ cả đời để chiêu nạp những quan viên, thuộc hạ bằng con đường hối lộ, và những tác động ảnh hưởng của Dận Tự đã tương quan đến chính bíến Phong Đài .Ngoài ra, Phùng Nhĩ Khang cũng cho rằng :

Mặc dù chúng ta không hoàn toàn chắc chắn điều gì đã xảy ra với sự kế vị, cũng như bên nào đúng bên nào sai, nhưng có lý do để nói rằng các thế lực chính trị chống lại Ung Chính đã làm nhiều điều mờ ám đằng sau ‎nhằm phủ lên vương triều Ung Chính một bức tranh đen tối; truyền thống hoàng gia Trung Hoa đã dẫn đến những suy nghĩ tin tưởng rằng toàn bộ công lao cai trị của Ung Chính có thể bị phủ định bởi vì sự kế vị của ông không do di mệnh của tiên hoàng, người nắm đặc quyền quyết định tối cao.

Ngoài ra, học giả Phùng Nhĩ Khang cho rằng Khang Hi đã phạm một sai lầm đáng tiếc to lớn khi để những con của mình lao vào game show chính trị quá nhiều, và đặc biệt quan trọng là trong thực trạng chiếc ghế Thái tử bị bỏ trống, do đó một cuộc quyết chiến giành ngôi vua, gồm có cả việc chiếm đoạt nếu hoàn toàn có thể, là một hiệu quả không hề tránh khỏi trong lịch sử dân tộc phong kiến Nước Trung Hoa. Vì thế, thậm chí còn sẽ là một sai lầm đáng tiếc to lớn hơn nữa khi nhìn nhận một nhà quản lý đơn thuần trải qua cách mà ông ta đạt đến quyền lực tối cao. Có một điều chắc như đinh là sau này Hoàng đế Ung Chính đã bảo vệ rằng quy trình chuyển giao quyền lực tối cao cho người kế vị mình diễn ra thuận tiện, không như trường hợp của chính ông .

Củng cố quyền lực tối cao[sửa|sửa mã nguồn]

Ung Chính Đế đang đọc một quyển sách .

Tiêu diệt những Hoàng tử khác[sửa|sửa mã nguồn]

Do sự lên ngôi của ông có nhiều điều nghi vấn, Ung Chính đã nhận thấy sự đố kỵ và tranh chấp từ những Hoàng tử còn lại .Dận Thì, Hoàng trưởng tử liên tục bị nhốt tại gia. Dận Nhưng, Phế Thái tử mất 2 năm sau khi Ung Chính Đế lên ngôi, dù việc họ bị giam giữ không phải do Ung Chính mà do Khang Hi Đế. Việc khó khăn vất vả nhất chính là phải chia rẽ nhóm của Hoàng tử Dận Tự ( gồm có Dận Tự ; Hoàng tử thứ 9 Dận Đường, Hoàng tử thứ 10 Dận Ngã ; và những thuộc hạ ), và chia cắt Dận Trinh nhằm mục đích cắt đứt liên minh này. Dận Tự, người nắm giữ chức Thượng thư Bộ Công, và tước Liêm Thân vương, được theo dõi rất kỹ bởi Ung Chính. Dận Đường được cử tới Thanh Hải để tương hỗ quân đội, nhưng thực ra là chịu sự quản lý thuộc hạ của Ung Chính là Tướng quân Niên Canh Nghiêu. Dận Ngã bị tước bỏ mọi quyền vị vào tháng 5 năm 1724, và bị đày đi phương bắc tới vùng Nội Mông. Hoàng tử thứ 14 là Dận Trinh, em ruột của Ung Chính, thì bị đày đến canh giữ tẩm lăng của những Tiên hoàng .Trong những năm tiên phong dưới sự quản lý của Ung Chính, sự ủng hộ ông đã tăng lên rõ ràng. Dận Tự muốn dùng vị thế và chức vị của mình nhiều lần ép buộc nhà vua nhằm mục đích làm cho Ung Chính phải đưa ra những chủ trương, quyết định hành động sai lầm đáng tiếc dù hình thức bề ngoài Dận Tự vẫn tỏ ra ủng hộ nhà vua. Dận Tự và Dận Đường, những người từng ủng hộ Dận Trinh lên vị trí ngôi báu, đã bị tước hết mọi quyền vị và bị giam giữ trong ngục cho đến chết vào năm 1727 .

Vụ án Niên Canh Nghiêu và Long Khoa Đa[sửa|sửa mã nguồn]

Niên Canh Nghiêu là tâm phúc của Ung Chính một thời hạn dài trước khi ông bước lên ngai vàng. Vào năm 1723, khi Ung Chính gọi em của mình, Dận Trinh, quay trở về từ Tây Bắc, ông đã chỉ định Niên đến thay thế sửa chữa vị trí này. Tình hình biên giới Tân Cương lúc này vẫn rất rối ren, do đó ở đây rất cần một viên tướng giỏi. Tuy nhiên, sau một vài cuộc chinh phục thành công xuất sắc, Niên đã khởi đầu tha hóa khi nhận hối lộ để thăng quan tiến chức. Niên nổi tiếng với lối sống vương giả ngang bằng với nhà vua. Nhìn thấy trước viễn cảnh không tốt từ Niên, Ung Chính đã ra một chỉ dụ giáng chức Niên xuống làm tướng quân của Hàng Châu phủ. Tuy nhiên, vẫn liên tục những hành vi ngông cuồng, Niên đã nhận được tối hậu thư từ Ung Chính, và sau đó đã phải tự sát bằng thuốc độc vào năm 1726 .

Long Khoa Đa (âm Mãn: Longkodo) là thống soái toàn bộ quân đội thành Bắc Kinh vào thời điểm Ung Chính lên ngôi. Sau đó, Long Khoa Đa bắt đầu bị ghét bỏ từ năm 1728 và chết khi bị giam cầm tại gia.

Thành lập Niêm Can Xứ[sửa|sửa mã nguồn]

Niêm Can Xứ là đội trinh sát thân cận của Hoàng đế nhà Thanh, những thành viên của Niêm Can Xứ được tuyển chọn từ những thị vệ xuất sắc nhất trong Tử Cấm Thành, đặc biệt quan trọng là lựa chọn từ con cháu của những công thần. Vũ khí của Niêm Can Xứ là ” trích huyết tử ” một loại vũ khí đáng sợ nhất, ngoài những đội trinh sát này có võ thuật cao ráo. Các trinh sát của Niêm Can Xứ chỉ nghe theo lệnh của Hoàng đế, người đứng đầu Niêm Can Xứ chức vụ là Tá lĩnh. Ban đầu Niêm Can Xứ được Ung Chính lập ra để Giao hàng mục tiêu của mình khi còn là Ung Thân vương
Khác với vua cha, Ung Chính tiến công can đảm và mạnh mẽ vào đạo Thiên Chúa. [ 1 ]. Ông cấm đạo cả nước, chỉ trừ Bắc Kinh. Thế là, 300 nhà thời thánh bị phá. [ 1 ] Việc này là do Ung Chính thấy bất mãn khi người Mãn Châu dần cải theo đạo Thiên Chúa, trong khi nhà vua muốn người Mãn Châu phải thờ trời đất tổ tông vì theo ông cho rằng từng dân tộc bản địa có những tín ngưỡng khác nhau .

Những cải cách[sửa|sửa mã nguồn]

Vụ án mưu phản[sửa|sửa mã nguồn]

Sau khi trở thành Hoàng đế Đại Thanh, Ung Chính đã cho giám sát ngặt nghèo hoạt động giải trí của những quan lại cấp dưới và đồng thời cho tịch thu những truyền đơn mà ông cho là gây ảnh hưởng tác động xấu cho chính sách của mình, đặc biệt quan trọng là những người phản Thanh phục Minh. Nổi bật trong số đó là trường hợp của Tằng Tĩnh, một nho sinh thi hỏng mang ảnh hưởng tác động nặng nề tư tưởng của học giả Lữ Lưu Lương ở thế kỷ XVII. Vào tháng 10 năm 1728, Tằng đã kích động Nhạc Chung Kỳ, tướng quân của 2 tỉnh Thiểm Tây – Cam Túc và là cháu đời thứ 21 của Nhạc Phi, làm phản với nguyên do Mãn Thanh là con cháu nhà Kim, có lý đâu con cháu Nhạc Phi lại thờ con cháu nhà Kim. Ông ta còn đưa ra một bản list dài vạch tội của Ung Chính, gồm có cả việc giết Hoàng đế Khang Hi và hạ sát những bạn bè để giành ngôi. Nhạc Chung Kỳ sợ hãi liền đem thư của Tằng Tĩnh nộp cho Ung Chính .

Trong thời Nhà Thanh, việc “phản Thanh phục Minh” được chính quyền xem là rất nghiêm trọng và hình phạt rất tàn khốc. Lữ Lưu Lương cùng con trai cả là Lữ Bảo Trung và môn sinh là Nghiêm Hồng Quỳ đều bị mở quan tài ra băm xác, con thứ Lữ Nghị Trung bị chém đầu tịch biên, người nhà bị đày ra Ninh Cổ tháp làm nô lệ đời đời. Giải quyết vụ án này, cuối cùng Ung Chính Đế đã cho bắt Tằng Tĩnh về thành Bắc Kinh để xét xử. Tuy nhiên nhà vua không giết Tằng Tĩnh, mà cho người đối xử tử tế, còn cho Tằng Tĩnh vào xem mình phê duyệt tấu chương, sau đó Tằng Tĩnh vì cảm ân đức của Ung Chính đã tự mắng chính mình, còn đi khắp nơi rêu rao, viết những bài ca ngợi công đức của nhà vua. Ung Chính xem đây là một trong những việc đắc ý nhất trong đời vì đã “cải tạo được kẻ không mang lòng thần phục”, đây được xem là một đoạn thiên cổ kỳ văn, khi Hoàng đế lại cố lấy lòng phản tặc.

Tuy nhiên, Tằng Tĩnh đã bị Càn Long Đế, con trai Ung Chính, chém đầu với nguyên do Hoàng đế không thương lượng với phản tặc .

Chống tham nhũng[sửa|sửa mã nguồn]

Ung Chính Đế trong phục trang thường dân .Ung Chính Đế được xem là một trong số ít Hoàng đế thật sự siêng năng trong lịch sử dân tộc Trung Quốc. Ông thường dành cả ngày đọc và xử lý những tấu chương cho tới đêm [ 2 ]. Ông chán ghét tham nhũng và trừng phạt nghiêm khắc những quan viên khi họ vi phạm những quy tắc trên .

Sau khi Khang Hi Đế qua đời, Ung Chính Đế tiếp quản một đế quốc với những di chứng nghiêm trọng: lại trị hủ bại, thuế thu không đủ, kho tàng trống rỗng. Lúc Ung Chính tiếp nhận, quốc khố chỉ có tám trăm vạn lượng bạc, trong khi thâm nợ lên tới mấy trăm vạn lượng. Lý do cho việc này là vì quan lại thâm ô, bóp nặn, ăn chặn quốc khố, một phần do chính Hoàng đế Khang Hi và các quan lại khác “mượn” để chi trả cho các cuộc nam tuần tốn kém, vì theo họ “bạc để không không mượn cũng phí”, tuy nhiên số bạc đó đã không được hoàn lại. Việc cấp bách nhất của Hoàng đế mới Ung Chính là phải thanh lý thâm nợ.

Ung Chính Đế cho thành lập các ban khâm sai gồm các đại thần từ trung ương hoặc các quan viên địa phương có năng lực đi kiểm tra các tỉnh, huyện. Tra ra quan viên nào có dính líu tham ô thì lập tức cách chức, thay thế bằng một thành viên trong ban khâm sai. Các quan viên bị cách chức thi nhau khai ra những người tiền nhiệm đã làm thâm hụt ngân khố, việc này đã làm hàng trăm quan viên bị cách chức. Thậm chí, những quan viên tuy đã từ nhiệm nhưng bị phát hiện có tham ô trong lúc tại vị cũng bị trừng phạt. Thời đó, tham quan khi bị phát hiện có tham ô thường hay tự sát để bảo toàn cho người nhà vẫn được hưởng phúc lợi, vì theo họ thì “họa không đến người nhà”. Nhưng Ung Chính thì quyết tâm chống tham nhũng đến cùng, quan viên tham ô đã tự sát thì nhà vua chẳng những tịch thu tài sản của chúng, mà ông còn bắt người nhà chúng phải làm việc lao dịch cả đời để trả nợ của ông cha, theo nhà vua làm như vậy là để cảnh tỉnh tham quan rằng nếu bị ông tra ra thì “con cháu đời sau cũng không ngóc lên được”. Để ngăn chặn tham nhũng, Ung Chính cho bỏ đi những loại “phí trà nước” mà các quan viên thường dùng để bòn rút công quỹ.

Bên cạnh những biện pháp nghiêm ngặt, Ung Chính còn đặt ra “Dưỡng liêm ngân”, một số tiền lớn lấy từ số dư hàng năm trong quốc khố để thưởng cho các quan. Tiền dưỡng liêm của huyện lệnh thất phẩm là từ 400 đến 2,000 lượng bạc, còn của một viên Tổng đốc là vào khoảng 10,800 lượng bạc, gấp 100 lần bổng lộc hằng năm. Những việc làm này của Ung Chính Đế đã cải thiện tình hình tài chính của đế quốc, thu nhập gia tăng, đến lúc ông mất ngân khố đã có tới 5,000 vạn lượng.

Cải cách chính sách[sửa|sửa mã nguồn]

Vì là Hoàng đế độc tài nên Ung Chính muốn bản thân phải là người trấn áp tối cao của đế quốc, để được như thế Ung Chính đã cho hoàn thành xong chính sách ” mật chiết “. Mật chiết là việc trao đổi thông tin giữa Hoàng đế và thần tử trải qua một chiếc hộp được khóa kín có 2 chìa khóa, một chiếc do quan viên cần trình tấu giữ, một chiếc do Hoàng đế giữ, không có người thứ 3 biết được. Các thần tử mật tấu cho nhà vua gồm có nhiều nội dung như những yếu tố tương quan đến đại sự quốc gia đến việc tố cáo những quan viên khác, việc này chỉ có bản thân và Hoàng đế biết, có nói sai cũng không sao vì đây là công văn không chính thức không được lưu lại, nên những quan viên rất tích cực mật tấu. Thời Nhà Thanh, thần tử dâng tấu phải viết bằng hai bản, một tiếng Hán và một tiếng Mãn, lại phải trải qua nhiều kênh sàng lọc. Thông qua mật chiết, thần tử hoàn toàn có thể viết ngắn gọn tấu lên trực nhà vua mà không làm lỡ thời hạn. Tuy nhiên chỉ có 1 số ít quan viên được nhà vua chỉ định mới có quyền mật tấu, để tránh việc hàm oan cho người khác. Tuy nhiên để tránh việc bị tiểu nhân lừa gạt, Ung Chính đã có một số ít pháp luật khi sử dụng mật chiết : nhà vua nỗ lực lắng nghe từ khắp nơi chứ không phải một phía, lấy quan điểm của nhiều người để có phán đoán đúng mực ; nếu có người bị tố cáo, Ung Chính được cho phép họ tự biện giải nhưng không bật mý tên người tố cáo họ để bảo vệ không hàm oan người tốt. Việc vận dụng mật chiết giúp mạng lưới hệ thống tai mắt của Ung Chính trong khắp đế quốc được tăng nhanh, việc gì nhà vua cũng được biết một cách nhanh gọn, Hoàng đế ngồi trong Tử Cấm Thành mà nắm được việc thiên hạ, chính thức trở thành đầu não của quốc gia .

Dùng người theo việc[sửa|sửa mã nguồn]

Ung Chính từng nói : ” Trị thiên hạ, dùng người là việc cơ bản, việc khác chỉ là vụn vặt “. Theo ý niệm xưa, nhân tài phải gồm có hai mặt ” đức ” và ” tài “, trong đó ” đức ” được xem trọng hơn tài. Người có đức độ mà kém cỏi trong việc làm vẫn được ngồi cao hơn người có tài mà nhân cách có tì vết, việc này dẫn đến quan viên vô dụng, người có tài thì không được cất nhắc. Ung Chính không bám theo khuôn mẫu đó, nhà vua rất thích câu nói của Ngạc Nhĩ Thái : ” Việc có nhanh chậm, dễ khó ; người có mềm cứng, ngắn dài “, nên nhà vua chủ trương ngoài tài và đức thì dùng người trước hết phải nhìn việc. Chu Thức, học vấn tốt, làm người hiền hòa lại thanh liêm chính trực, Ung Chính cho làm thầy của Càn Long. Lý Vệ, tính lưu manh thô lỗ nhưng mạnh dạn nhanh gọn, Ung Chính cho đi bắt cướp. Tri huyện Ngô Kiều là Thường Tam Lạc, tuy liêm khiết nhưng nhu nhược không nhiệt huyết, Ung Chính cho đổi làm học quan, không lo việc dân sự. Ung Chính dùng người, lấy sở trường bỏ sở đoản, khiến người ta dốc sức, phát huy kĩ năng, một vị quân chủ tầm thường không khi nào làm được như vậy .
Tranh vẽ Ung Chính Đế mặc phục trang Đạo giáo .Trong tâm thức người Hán, tuy người Mãn đã chiếm được giang sơn của họ, nhưng vẫn phải quay về học tập văn hóa truyền thống của người Hán, điều này làm giới tri thức người Hán xem thường giai cấp thống trị Mãn Châu là tàn khốc vô văn hóa truyền thống. Cả Khang Hi và Ung Chính đều hiểu muốn quản lý được quốc gia này phải học tập văn hóa truyền thống Hán và cùng bàn văn hóa truyền thống với họ .Để làm điều này, Ung Chính cho tôn Khổng tử lên một vị thế chưa từng có. Ung Chính cho tôn tổ tiên năm đời của Khổng tử lên làm Vương, còn quỳ bái trước tượng Khổng tử. Trước nay Đế vương chỉ phải quỳ trước trời đất tổ tông, Ung Chính làm vậy đã tôn Khổng tử lên ngang với trời đất và tổ tiên cha mẹ mình, không gì tôn quý bằng. Ung Chính còn cho sửa lại cách xưng hô, khi đến gặp những Nho sĩ ở trường Thái học dùng là ” bái phỏng thỉnh giáo ” chứ không phải là ” quang lâm chỉ huy “, biểu lộ sự tôn trọng so với thành phần tri thức. Ung Chính có lần cho hỏi sĩ tử thế nào là ” lễ nghĩa liêm sỉ “, nhà vua cho rằng : biết nghi văn lễ tiết, biết thoái lui nhường nhịn chỉ là ” tiểu lễ ” ; biết thận trọng thủ tín, cẩn trọng trong việc làm và lời nói chỉ là ” tiểu nghĩa ” ; thi hành giáo hóa dân chúng, thuần hóa phong tục, dạy người trong thiên hạ là thần phải tận trung, là con phải tận hiếu, mới là ” đại lễ ” ; luôn thành thực lo việc công, thẳng thắn chính trực, khiến người đời không đảng không tư, chung sức chung lòng vượt khó, mới là ” đại nghĩa “. Lời này đã khiến sĩ tử khắp thiên hạ phải thán phục. Thông qua những việc này, Ung Chính đã lấy lòng được người đọc sách khắp thiên hạ, củng cố vững chãi giang sơn của Đại Thanh .

Bên cạnh việc sử dụng Nho giáo cho việc trị nước, Ung Chính cũng tôn trọng Đạo giáo và đặc biệt là Phật giáo. Ông thường đàm đạo với các tăng sĩ, nhờ vậy có được kiến thức khá rộng về Thiền tông. Ông còn lấy đạo hiệu là Cư sĩ Viên Minh hay Cư sĩ Hòa Phá Trần, tự mình lập pháp đàn trong đại nội, chiêu tập tăng sĩ trong cả nước về dự. Ông còn đăng đàn thuyết pháp và đặt pháp danh cho con mình là Hoằng Lịch cùng các đại thần Trương Đình Ngọc và Ngạc Nhĩ Thái. Có lần, khi rỗi việc nước, Ung Chính đã sai họa sĩ vẽ tranh ông mặc tăng phục của các lạt-ma Mật tông Tây Tạng.

Cuối đời Ung Chính, đặc biệt quan trọng là sau khi Di Thân vương Dận Tường mất ( 1730 ), nhà vua càng thêm mộ đạo, cho mở nhiều tiệc chay trong cung hơn trước. [ 2 ]

Mở rộng về phía Tây Bắc[sửa|sửa mã nguồn]

Giống như vua cha Khang Hi, Ung Chính sử dụng những giải pháp quân sự chiến lược can đảm và mạnh mẽ để giữ gìn vị thế của Đại Thanh ở Ngoại Mông Cổ. Khi Tây Tạng bị xâu xé bởi nội chiến vào khoàng 1727 – 28, Ung Chính đã có can thiệp quân sự chiến lược. Để sẵn sàng chuẩn bị cho chiến dịch Tây Tạng, Ung Chính giao cho Niên Canh Nghiêu 23 vạn đại quân chống lại người Chuẩn Cát Nhĩ ( tức Hãn quốc Zunghar ), quân chỉ có 8 vạn. Lúc đầu, mặc dầu quân Thanh đông hơn nhưng vẫn không hề vượt mặt quân địch nhanh gọn hơn. Tuy nhiên quân Thanh đã sau đó đã tiến công đồn lương thực của quân Chuẩn Cát Nhĩ và vượt mặt họ. Chiến dịch này tiêu tốn hết 8 trăm vạn lượng bạc. Cuối đời Ung Chính, ông lại sai tướng đem 1 vạn quân chinh phạt Chuẩn Cát Nhĩ. Quân Thanh bại trận ở hồ Khoton năm 1731, khiến Đại Thanh phải đương đầu với rủi ro tiềm ẩn mất trấn áp hàng loạt Mông Cổ. May cho người Thanh là năm 1732, bộ tộc Khách Nhĩ Khách liên minh của họ đã vượt mặt Chuẩn Cát Nhĩ .Sau cải cách năm 1729, ngân khố tăng lên tới 6 ngàn vạn lượng vào năm 1730, vượt qua kỷ lục được lập vào thời Khang Hi, tuy nhiên đại chiến ở Thanh Hải và những xung đột biên giới vẫn là gánh nặng cho ngân khố. Chỉ để bảo vệ biên giới, triều đình phải tốn 10 vạn lượng mỗi năm. Tổng kinh phí đầu tư cho những chiến dịch mỗi năm là 1 ngàn vạn lượng. Vào năm 1735, ngân sách cho những chiến dịch đã chiếm phân nửa ngân khố, điều này làm Ung Chính nghĩ đến việc giảng hòa và định biên giới với Chuẩn Cát Nhĩ .

Các thành tựu khác[sửa|sửa mã nguồn]

Năm 1729, ông ra một khẩu dụ nghiêm cấm việc hút madak, một thứ thuốc phiện do người phương Tây mang vào Trung Quốc.[cần dẫn nguồn] Thanh triều đã trở thành một vương triều vững mạnh và thanh bình, ngoài ra ông cũng cho xây dựng lại Cung điện Mùa hè Càn Thành. Ông ban hành một di chiếu giả cho người kế vị nhằm tránh lặp lại bi kịch của cha ông.

Ung Chính Đế rất tin tưởng vào người Hán[1] và sử dụng nhiều quan viên người Hán trong chính quyền của mình. Cả Lý Vệ và Đường Văn Kính đều giúp triều đình cai quản các vùng phía nam Trung Quốc. An Thái cũng phục vụ cho Ung Chính trong việc cai quản các vùng miền nam. Ông cũng nổi tiếng vì đã thu hết quyền lực của các vị hoàng tử của 5 kỳ còn lại và thống nhất toàn bộ bát kỳ dưới sự lãnh đạo duy nhất của ông, thông qua việc lập ra “Bát vương nghị chính” (八王依正).

Giống như Khang Hi Đế, Ung Chính Đế cũng dùng sức mạnh quân đội để bảo vệ vị thế thiên triều trước những thế lực bên ngoài như Mông Cổ, [ 7 ] và khi Tây Tạng bị chia cắt bởi cuộc nội chiến từ năm 1717 – 1728, ông đã rút hàng loạt quân đội, chỉ để lại một viên quan Nhà Thanh và những đơn vị chức năng đồn trú để bảo vệ biên giới thiên triều. Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng Ung Chính đã cải cách lại chính sách thuế má vào thời gian đó nên không có chủ trương khuyễn mãi thêm cho giai cấp thượng lưu và vận dụng chính sách thuế đất mới cho những chủ đất .
Năm Ung Chính thứ 13 ( 1735 ), tháng 5, người Miêu ở Quý Châu phản loạn, Hoàng đế sai Hạ Nguyên Sinh làm Dương Uy Tướng quân, lĩnh 4 tỉnh quan binh đi chinh phạt. Cùng lúc đó, Hoàng đế sai Quả Thân vương Dận Lễ, Hoàng tứ tử Hoằng Lịch, Hoàng ngũ tử Hoằng Trú, Đại học sĩ Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đình Ngọc giải quyết và xử lý Miêu Cương sự vụ [ 8 ] .Ung Chính Đế không ưa xa hoa, nhưng hay đến những vườn tược trú ngụ, đặc biệt quan trọng là Viên Minh Viên do ông đích thân thiết kế xây dựng, để tránh nực nội mà thường ở tại Cửu Châu Thanh Yến ( 九洲清宴 ), Tứ Nghi thư phòng ( 四宜书屋 ) và Vạn Phương An Hòa ( 万方安和 ). Theo Thực lục ghi lại, Ung Chính Đế vào năm thứ 13 ( 1735 ), ngày 21 tháng 8 có nhiễm bệnh, nhưng vẫn cứ thao tác .

Đến ngày 23 tháng 8 (âm lịch), Hoàng đế bệnh tình chuyển biến. Bảo Thân vương Hoằng Lịch cùng Hòa Thân vương Hoằng Trú đêm ngày hầu bệnh bên giường. Buổi tối 8 giờ, Đại học sĩ Ngạc Nhĩ Thái, Đại học sĩ Trương Đình Ngọc đến Ung Chính Đế phòng ngủ, cung phủng thượng ngự bút thân thư rằng:“Mệnh Hoàng tứ tử Bảo Thân vương Hoằng Lịch làm Hoàng thái tử, tức Hoàng đế vị.”.

Để tránh sự kiện Cửu vương đoạt Trữ thời Khang Hi Đế, bản thân Ung Chính Đế đã quyết định chỉ công bố người kế vị vào phút chót. Ung Chính Đế cho viết tên người kế vị vào hai tờ giấy, một tờ giấu trong một cái hộp, cái hộp sau đó được để sau tấm biển Chính Đại Quang Minh (chữ Hán: 正大光明) trong Càn Thanh cung. Một tờ Hoàng đế giữ bên mình. Khi Ung Chính Đế băng hà, các đại thần sẽ lấy hai tờ giấy so sánh với nhau, nếu tên người kế vị trong hai tờ giấy giống nhau thì người ấy chính là Hoàng đế tiếp theo của Đại Thanh. Từ đó, sáng lập lên “Bí mật kiến Trữ” chế độ nổi tiếng của Nhà Thanh.

Nửa đêm giờ Tý, Hoàng đế băng hà, hưởng niên 58 tuổi. Và người được chọn là Hoàng tứ tử Hoằng Lịch, lên ngôi tức Thanh Cao Tông Càn Long Đế .

Càn Long Đế tôn miếu hiệu cho cha là Thế Tông, thụy hiệu là Kính Thiên Xương Vận Kiến Trung Biểu Chính Văn Vũ Anh Minh Khoan Nhân Tín Nghị Duệ Thánh Đại Hiếu Chí Thành Hiến Hoàng đế (敬天昌運建中表正文武英明寬仁信毅睿聖大孝至誠憲皇帝), thường xưng Thế Tông Hiến Hoàng đế (chữ Mãn:ᡧᡳᡯ᠊ᡠ᠊ᠩ
ᡨᡝᠮᡤᡝᡨᡠᠯᡝᡥᡝ
ᡥᡡᠸᠠᠩᡩᡳ, phiên âm: šidzung temgetulehe hūwangdi).

Ngày 2 tháng 3 năm Càn Long thứ 2 ( 1737 ), đưa linh cữu Ung Chính Đế vào khu Tây Thanh Mộ, 120 km về phía tây nam thành Bắc Kinh, táng ở Thái Lăng ( 泰陵 ; tên dưới thời Nhà Thanh là Elhe Munggan ) .

Nhận xét chung[sửa|sửa mã nguồn]

Nhiều sử gia thời nay đánh giá cao Ung Chính. Họ cho rằng sự lâu dài của Nhà Thanh là một chế độ ngoại lai (sự lâu dài của các triều đại khác thường chỉ kéo dài được một trăm năm) hoàn toàn nhờ vào các cải cách của Ung Chính. Tuy nhiên vẫn có sự chỉ trích vào sự tàn nhẫn của ông. Thí dụ điển hình là trường hợp Ung Chính thanh trừ Niên Canh Nghiêu và Long Khoa Đa, những người mà thiếu họ thì Ung Chính đã chẳng thể lên ngôi và ngồi vững ngai vàng những ngày đầu.[cần dẫn nguồn]

Vai trò lịch sử dân tộc[sửa|sửa mã nguồn]

Được nhìn nhận là một vị Hoàng đế nghiêm khắc và tận tụy, Ung Chính đã kiến thiết xây dựng một vương triều vững mạnh dựa trên việc tiêu tốn một cách thấp nhất. Cũng giống như vua cha Khang Hi, Hoàng đế Ung Chính dùng sức mạnh quân đội để bảo vệ vị thế của thiên triều. [ 7 ] Bị những nhà nghiên cứu lịch sử dân tộc cho rằng đã cướp ngôi, sự quản lý của ông bị coi là chuyên quyền, nhưng hiệu suất cao và can đảm và mạnh mẽ, mặc dầu triều đại ông ngắn và mờ nhạt hơn Khang Hi và Càn Long sau này, cái chết bất ngờ đột ngột của ông có lẽ rằng một phần là do những việc làm quá sức mà ông phải thực thi. Ung Chính Đế liên tục thời đại của sự thanh thản và thịnh vượng của Đại Thanh, vì ông đã hạn chế nạn tham nhũng, tiêu tốn lãng phí và cải cách hành chính kinh tế tài chính một cách triệt để. [ 1 ] [ 7 ] Mặc dù nổi tiếng một người tiết kiệm chi phí, Ung Chính đã góp phần một phần vào việc kiến thiết xây dựng Cung điện Mùa hè, tức Viên Minh Viên, một siêu phẩm trong lịch sử dân tộc triều đại Nhà Thanh .Đài truyền hình Trung Quốc CCTV-1 đã trình chiếu một phim truyền hình về lịch sử dân tộc Trung Quốc năm 1997, trong đó có đề cập đến Hoàng đế Ung Chính, đa phần tập trung chuyên sâu vào mặt tích cực của ông, và lập trường cứng rắn của ông về việc chống tham nhũng, một yếu tố không mới trong xã hội .
Hoàng đế Ung Chính quản lý Trung Quốc chỉ trong 13 năm. Ông bất thần qua đời vào năm 1735 khi mới 58 tuổi. Bản thân sử sách đương thời cũng không ghi rõ nguyên do cái chết, vì thế cái chết của ông đã trở thành đề tài bàn tán trong nhiều năm .Các truyện dân gian kể rằng ông đã bị ám sát bởi Lã Tứ Nương ( 吕四娘 ), con gái của Lã Lưu Lương ( 吕留良 ), người mà cả gia đình đã bị xử tử trong vụ án văn chương nổi tiếng chống lại Nhà Thanh. Một giả thuyết khác có vẻ như trong thực tiễn hơn, đó là Ung Chính đã chết vì dùng thuốc quá liều vào thời gian đó, vì ông cho rằng những loại dược liệu quý này sẽ giúp ông lê dài tuổi thọ .
Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu Ô Lạt Na Lạp thị Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị

  • Thân phụ: Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế
  • Thân mẫu: Hiếu Cung Nhân hoàng hậu, tôn hiệu [Nhân Thọ Hoàng thái hậu; 仁壽皇太后]
Tên Sinh Mất Cha Ghi chú
Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu
Ô Lạt Na Lạp thị
13 tháng 5 năm 1679 29 tháng 9 năm 1731
(52 tuổi)
Nội đại thần Phí Dương Cổ (費揚古) Năm 1691, nhập tiềm để làm Chính thất của Ung Chính Đế;
Năm 1722, sách lập làm Hoàng hậu, là Hoàng hậu được sách lập duy nhất của Ung Chính Đế .
Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu
Nữu Hỗ Lộc thị
01 tháng 1 năm 1692 02 tháng 3 năm 1777
(85 tuổi)
Tứ phẩm Điển nghi Lăng Trụ (凌柱) Nguyên là Cách cách của Ung Chính Đế ở tiềm để;

Ung Chính Đế kế vị, được đặc cách sách phong làm Hi phi (熹妃); thân mẫu của Tứ A ca Hoằng Lịch, tức Càn Long Đế.

Càn Long Đế lên ngôi, tấn tôn bà làm Sùng Khánh Hoàng thái hậu (崇慶皇太后)

Bà chưa từng làm Hoàng hậu khi còn sống, qua đời mới được truy phong là Hoàng hậu .

Hoàng quý phi[sửa|sửa mã nguồn]

Tên Sinh Mất Cha Ghi chú
Phi tần
Tề phi Lý thị không rõ tháng 4 năm 1737 Tri phủ Lý Văn Huy (李文輝) Là Cách cách của Ung Chính Đế ở tiềm để, sau thăng Trắc Phúc tấn;

Sách phong Tề phi (齊妃) sau khi Ung Chính Đế lên ngôi.

Khiêm phi Lưu thị 1714 1768 Quản lĩnh Lưu Mãn (劉滿) Không rõ khi nào hầu hạ, lần đầu đề cập đã là Quý nhân;

Năm 1733, sinh hạ Hoằng Chiêm nên được phong Khiêm tần (謙嬪); sau Càn Long Đế tấn tôn làm Hoàng khảo Khiêm phi (皇考 謙妃);

Ninh phi Vũ thị không rõ 1734 Tri châu Vũ Trụ Quốc (武柱國) Không rõ vào hầu Ung Chính Đế khi nào. Năm Ung Chính thứ 12 (1734), qua đời khi đang là Ninh phi (寧妃).
Mậu tần Tống thị không rõ 1729 Chủ sự Kim Trụ (金柱) Nguyên là Cách cách của Ung Chính Đế ở tiềm để;

Hạ sinh cho Ung Chính Đế 2 hoàng nữ nhưng đều chết yểu; Ung Chính Đế lên ngôi sách phong làm Mậu tần (懋嬪).

Các thị thiếp khác
Huy Quý nhân (你貴人) không rõ 1784 Tri phủ Phan Tấn Dĩnh (藩鉚藩) Năm 1722, phong Thường tại

Năm 1728 tấn phong Quý nhân

Quách Quý nhân (郭貴人) không rõ 1786 không rõ Năm 1723, phong Thường tại

Năm 1729 tấn phong Quý nhân

Lý Quý nhân (李貴人) không rõ 1760 không rõ Được phong Quý nhân năm 1729
Hải Quý nhân (海貴人) không rõ 1761 không rõ Năm 1725, phong Thường tại

Năm 1735 tấn phong Quý nhân

Trương Quý nhân (張貴人) không rõ 1735 không rõ Nhập cung làm Thường tại

Năm 1735 tấn phong Quý nhân

An Quý nhân (安貴人) không rõ 1749 hoặc 1750 không rõ Nhập cung năm 1729
Lý Thường tại (李常在) không rõ 1785 không rõ Trở thành Đáp ứng năm 1730;

Thăng Thường tại năm 1732

Mã Thường tại (馬常在) không rõ 1768 không rõ Trở thành Đáp ứng rồi thăng Thường tại năm 1730
Xuân Thường tại (春常在) không rõ 1761 không rõ Trở thành Thường tại năm 1735
Cao Thường tại (高常在) không rõ 1732 hoặc 1734 không rõ Trở thành một Đáp ứng năm 1729;

Thăng Thường tại năm 1730

Thường Thường tại (常常在) không rõ 1732 không rõ Trở thành Thường tại năm 1729
Cố Thường tại (顧常在) không rõ 1729 không rõ Trở thành Thường tại năm 1729, chết 5 tháng sau đó
Cát Thường tại (吉常在) không rõ không rõ không rõ Nhập cung phong Đáp ứng năm 1727

Năm 1736, tấn phong Thường tại

Tô Đáp ứng (蘇答應) không rõ 1729 không rõ Trở thành Đáp ứng năm 1726
Anh Đáp ứng (英答應) không rõ không rõ không rõ
Uông Đáp ứng (汪答應) không rõ không rõ không rõ
Đức Đáp ứng (德答應) không rõ không rõ không rõ
Thường Đáp ứng (常答應) không rõ không rõ không rõ
Y Cách cách (伊格格) không rõ không rõ không rõ mất trước khi Ung Chính Đế lên ngôi
Trương Cách cách (張格格) không rõ không rõ không rõ mất trước khi Ung Chính Đế lên ngôi
Thị thiếp Vân Huệ (雲惠) không rõ không rõ không rõ

Hoàng đế Ung Chính có 10 Hoàng tử và 4 vị Hoàng nữ, trong đó chỉ có 6 vị Hoàng tử sống được đến thời Ung Chính tại vị. Trong 13 năm trên ngai vàng, Ung Chính Đế chỉ có thêm Hoằng Chiêm.

Trong văn hóa truyền thống đại chúng[sửa|sửa mã nguồn]

    • Khang Hi (Thánh Tổ 1662 – 1723)
    • Ung Chính (Thế Tông 1723 – 1736).
    • Càn Long (Cao Tông 1736 – 1796).
  • Feng, Erkang. “Yongzheng Biography”, China Publishing Group, People’s Publishing House. Beijing: 2004. ISBN 7-01-004192-X
  • Schirokauer, Conrad (2006). A Brief History of Chinese Civilization. Belmont, California: Thomson Higher Education. ISBN 0-534-64305-1.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://mix166.vn
Category: Gia Đình

Xổ số miền Bắc