giáo trình cơ sở văn hóa việt nam

  1. PHÙNG HOÀI NGỌC

    ĐỀ

    CƯƠNG BÀI GIẢNG

    CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

  2. Lưu hành nội

    bộ
    ĐẠI HỌC AN GIANG 2002

    PHẦN MỘT

    VĂN HÓA HỌC ĐẠI CƯƠNG
    Văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn
    thiếu khi người ta đã học tất cả .
    Edouard Herriot
    Chương I : VĂN HOÁ VÀ VĂN HÓA HỌC
    1. Văn hóa là gì ?
    Theo cách hiểu thông thường, văn hóa là học thức, trình độ học vấn và lối sống
    lành mạnh. Theo nghĩa rộng,VH bao gồm toàn bộ đời sống con người Trên thế giới có
    nhiều định nghĩa về VH. Chúng ta chọn định nghĩa đã được UNESCO công nhận:

    “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và
    tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn và trong sự tương tác giữa con người với môi
    trường tự nhiên và xã hội”
    2. Tính chất và chức năng của văn hóa
    2.1. Tính hệ thống và chức năng tổ chức xã hội
    VH gồm nhiều bộ phận có liên quan mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau.
    Những con người có chung một nền VH sẽ sống chung thành một cộng đồng ổn định
    2.2. Tính giá trị và chức năng thúc đẩy xã hội vận động đi lên
    Có nhiều cách phân loại giá trị văn hóa:
    Giá trị vật chất, giá trị tinh thần, giá trị hỗn hợp vật chất – tinh thần
    Giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mỹ
    Giá trị vĩnh cửu, giá trị nhất thời, giá trị lịch sử và giá trị đang hình thành
    Tính giá trị còn có vai trò điều chỉnh xã hội, bằng cách tạo ra những mẫu mực để mọi
    người noi theo.

  3. 2.3. Tính lịch

    sử và truyền thống có chức năng giáo dục, duy trì cộng đồng
    2.4. Tính dân tộc tạo nên cá tính, bản sắc riêng, phân biệt với dân tộc khác
    3. Phân biệt văn hóa, văn hiến, văn vật và văn minh.
    Văn hoá

    Văn hiến

    Hài hoà giữa vật Thiên về
    chất và tinh thần giá trị tinh thần

    Văn vật

    Thiên về
    giá trị vật chất

    Văn minh

    Thiên về giá trị vật
    chất, kỹ thuật

    Có bề dài lịch sử Có bề dài lịch sử Có bề dài lịch sử Có trình độ phát triển
    Có tính dân tộc

    Có tính dân tộc

    Có tính dân tộc

    Có tính quốc tế

    Thiên về nông
    Thiên về nông
    Thiên về nông
    Thiên về thành thị,
    thôn,nông nghiệp, thôn, nông nghiệp, thôn, nông nghiệp, thương mại, và công
    phương Đông
    phương Đông
    phương Đông
    nghiệp, phương Tây

    4. Cấu trúc của một nền văn hóa
    Có thể chia ra 4 thành tố, gồm:
    1 Bộ phận văn hóa nhận thức
    2 Bộ phận văn hóa tổ chức cộng đồng xã hội và đời sống cá nhân.
    3 Bộ phận văn hóa ứng xử trong môi trường tự nhiên.
    4 Bộ phận văn hóa ứng xử trong môi trường quốc tế.
    5. Các bộ môn nghiên cứu văn hóa
    Gồm những chuyên ngành :
    Văn hóa học đại cương, còn gọi là Lí thuyết văn hóa, nghiên cứu các khái niệm,
    quy luật hình thành và phát triển văn hóa…
    Địa lí văn hóa : tìm hiểu vh. của các vùng (theo chiều ngang).
    Lịch sử văn hóa: khảo sát quá trình diễn biến của một nền văn hóa dân tộc(theo
    chiều dọc)
    Cơ sở văn hóa nhằm nghiên cứu một nền văn hóa dân tộc, bao hàm cả địa-văn
    hóa và sử -văn hóa, nhằm hướng vào thời hiện đại, với mục đích bảo tồn và phát
    triển nền văn hóa ấy .
    6. Hai loại hình văn hoá cơ bản trên thế giới
    Người ta thường phân chia thế giới ra hai khu vực văn hóa: phương Đông và
    phương Tây.
    Cách chia như thế chỉ là tạm thời, vì nó thiếu cơ sở khoa học và không chính
    xác.Tiêu chí phân loại phải căn cứ vào lối sống chủ yếu (cách sản xuất), mà sản xuất phụ
    thuộc vào địa hình, khí hậu .
    Thuở xưa, con người trên trái đất có hai nghề sản xuất chủ yếu: trồng lúa nước và
    chăn nuôi du mục.

  4. Bảng đối chiếu

    hai loại hình văn hoá.
    Tiêu chí

    Văn hoá nông nghiệp
    (Chủ yếu ở phương Đông)

    Văn hoá du mục
    (Chủ yếu ở phương Tây)

    Địa hình, khí hậu

    đồng bằng, nóng, ẩm, thấp

    thảo nguyên, lạnh, khô, cao

    Nghề nghiệp chính

    trồng lúa nước

    chăn nuôi du mục

    Cách sống (nơi ở)

    định cư, nhà ở ổn định

    du cư, cắm trại, lều tạm bợ

    Quan hệ với tự nhiên

    gắn bó, hoà hợp

    chiếm đoạt, khai thác

    Ăn uống

    đồ ăn thực vật

    đồ ăn động vật

    Quan hệ xã hội

    trọng tình, trọng đức, trọng trọng lý (nguyên tắc), trọng tài,
    văn, trọng nữ, dân chủ, trọng võ, trọng nam giới, trọng
    trọng tập thể
    cá nhân (thủ lĩnh)

    Giao lưu đối ngoại

    hiếu hoà, dung hợp, mềm hiếu chiến, độc tôn, cứng rắn
    dẻo khi đối phó
    bằng bạo lực

    Đặc điểm tư duy

    chủ quan, cảm tính, kinh
    khách quan, lý tính, thực
    nghiệm, tổng hợp và biện
    nghiệm, phân tích và siêu hình
    chứng

    Văn học nghệ thuật

    thiên về thơ, nhạc trữ tình

    Xu hướng khoa học

    thiên văn, triết học tâm linh,
    khoa học tự nhiên, kỹ thuật
    tôn giáo

    Khuynh hướng chung

    thiên về văn hoá nông thôn

    thiên về truyện, kịch, múa sôi
    động

    thiên về văn minh thành thị

    Trên đây trình bày những dấu hiệu khác biệt cơ bản nhất giữa hai loại hình văn
    hóa chủ yếu của loài người. Trên cơ sở đó, sinh viên tiếp tục tìm hiểu những nét khác
    nhau trong các lĩnh vực khác.

  5. PHẦN HAI

    CƠ SỞ

    VĂN HÓA VIỆT NAM
    Chương 2 XÁC ĐỊNH TỌA ĐỘ NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM
    Ba yếu tố cơ bản tạo nên một nền văn hóa :
    Chủ thể văn hóa
    Không gian văn hóa
    Thời gian văn hóa

    1. Chủ thể văn hóa là các dân tộc Việt Nam
    Cách đây trên 30 vạn năm, loài người sống ở hai khu vực chính : phía Tây và phía
    Đông. Khu vực phía Tây gồm 2 đại chủng là chủng Âu (Europeoid), và chủng Phi
    (Negroid) Còn ở phía Đông, có đại chủng Á (Mongoloid) sống ở phía Bắc, đại chủng Úc
    (Australoid ) sống ở phía Nam gồm khu vực Đông Nam Á và nam đảo Thái bình dương.
    Cách đây khoảng 10 ngàn năm (thời đồ đá giữa), chủng tộc Melanesien (thuộc đại
    chủng Australoid) đang sinh sống trên khu vực Đông nam Aù, tính từ phía nam sông
    Dương Tử trở xuống. Một dòng người du mục thuộc đại chủng Á từ phương Bắc thiên di
    xuống, vượt qua sông Dương Tử (còn gọi Trường giang), dừng lại và hợp chủng với dân
    Melanesien nông nghiệp bản địa, tạo ra một chủng mới gọi là Indonesien (Mã lai cổ),
    nước da ngăm đen, tóc hơi quăn, tầm vóc thấp.
    Cách đây khoảng 5000 năm (thời đồ đá mới, đầu thời đại đồ đồng), tiếp tục diễn ra
    sự tiếp nhận và hợp chủng dòng người Mongoloid phía Bắc đi xuống với dân cư
    Indonesien bản địa, tạo ra chủng mới, Austroasiatic -gọi là chủng Nam Á.
    Dần dần, chủng Nam Á chia tách ra nhiều dân tộc gọi chung là nhóm Bách Việt,
    như Dương Việt, Đông Việt, Điền Việt, Lạc Việt, Mân Việt, Nam Việt… sinh sống từ phía

  6. nam sông Dương

    Tử cho tới bắc Trung bộ. Nhóm này hình thành theo 4 nhóm ngôn ngữ
    là Việt -Mường, Môn-Khmer, Tày-Thái, Mèo-Dao.Trong đó, dân tộc Việt (kinh) chiếm đa
    số, tới 90 %.
    Trong khi đó, một bộ phận dân Indonesien không muốn ở lại hợp chủng với các
    dòng du mục phương Bắc nên đã di chuyển dọc theo dãy Trường Sơn vào phía Nam,
    định cư lại ở vùng Tây nguyên và Trung bộ, đó là các dân tộc Bana, Eđê, Gia rai, Churu,
    Vân kiều… và dân tộc Chăm ngày nay.
    Như vậy, người Việt ngày nay đều có chung một nguồn gốc là chủng Indonesien
    nhưng lại đa dạng và sống rải rác khắp từ Bắc đến Nam.

    2. Không gian văn hóa (còn gọi : lãnh thổ văn hóa)
    2.1. Hai tam giác không gian văn hóa Việt Nam
    Hãy xác định vị trí sông Dương Tử trên bản đồ và đường biên giới Việt -Trung
    ngày nay.
    Tam giác thứ nhất : cạnh đáy là bờ nam sông Dương Tử, còn đỉnh là bắc Trung bộ
    (khoảng Đèo Ngang). Đây là giai đoạn các dân tộc phương Nam còn sống chung với các
    dân phương Bắc xuống.
    Cách đây khoảng 4000 năm, các dân tộc Việt lùi xuống, hình thành quốc gia đầu
    tiên gọi là Văn Lang, đồng thời mở mang bờ cõi về phương Nam.
    Tam giác thứ hai hình thành, cạnh đáy là đường biên giới Việt -Trung ngày nay
    còn đỉnh là chót Mũi Cà Mau (chính xác hơn, đó là các đảo cực Nam của Tổ quốc)
    2.2. Sáu vùng văn hóa Việt Nam
    Đất nước Việt Nam có địa hình, khí hậu đa dạng nên đã hình thành nhiều vùng
    văn hóa khác nhau.
    2.2.1. Vùng văn hóa Tây Bắc
    Hệ thống núi non trùng điệp bên hữu ngạn sông Hồng,thuộc lưu vực sông Đà., kéo
    dài tới phía bắc tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An.Có trên 20 dân tộc sinh sống, tiêu biểu là hai
    dân tộc Thái và Mường.
    Thành tựu văn hóa nổi bật :
    Hệ thống mương phai dẫn nước từ suối vào ruộng trồng lúa.
    Trang phục hoa văn sặc sỡ : khăn váy áo.
    Ca múa xòe, khèn, sáo…
    Gồm các tỉnh Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình và một số vùng của tỉnh Thanh Hóa,
    Nghệ An giáp giới nước Lào.
    2.2.2. Vùng văn hóa Việt Bắc (còn gọi : vùng Đông bắc)
    Núi non hiểm trở bên tả ngạn sông Hồng. Cư dân chủ yếu người Tày và Nùng.
    Gồm sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang.
    Trang phục giản dị, quần áo chàm
    Có hệ thống văn tự sớm, văn học phát triển.
    2.2.3. Vùng văn hóa Bắc Bộ (vùng Thăng long, vùng sông Hồng )

  7. Gồm các tỉnh

    đồng bằng Bắc Bộ: Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Hải Phòng, Quảng
    Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định, Ninh Bình, Thái
    Bình,Thanh Hóa, Nghệ An.
    Cư dân chủ yếu là người Việt Kinh, sống thành làng xã.Vùng này đất đai trù phú,
    phát triển toàn diện, sẽ là nguồn cội của văn hóa Trung bộ và Nam bộ sau này và trở
    thành trung tâm văn hóa cả nước.
    2.2.4. Vùng văn hóa Trung Bộ
    Dải đất hẹp và dài dọc theo biển Đông, từ tỉnh Quảng bình tới tỉnh Phan Thiết.
    Khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn. Dân Việt từ ngoài vào, sinh sống chủ yếu bằng nghề
    biển. Con người chịu đựng gian khổ, cần cù, hiếu học.
    Chủ nhân đầu tiên là người Chăm (gốc Indonesien), trước đây dựng nên vương
    quốc Chămpa, sau sáp nhập vào nước Đại Việt (thời Lê). Bộ phận văn hóa Chăm chịu
    ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ với nhiều thành tựu đặc sắc về kiến trúc và điêu khắc…tiêu
    biểu là những Tháp Chàm.
    Trung tâm của vùng văn hóa Trung bộ là tỉnh Thừa Thiên – Huế.

    2.2.5. Vùng văn hóa Tây Nguyên
    Phía đông dãy Trường Sơn, bốn tỉnh Gia Lai, Kontum, Đak Lak, Lâm Đồng.
    Trên 20 dân tộc, đây là vùng có nhiều thành tựu văn hóa cổ đặc sắc, như các lễ hội, nhạc
    cụ cồng chiêng, dân ca, lễ hội, trường ca cổ (Đam San, Xing Nhã…).
    2.2.6. Vùng văn hóa Nam bộ
    Hai lưu vực sông Đồng Nai và sông Cửu Long gọi là miền Đông Nam bộ và Tây
    Nam bộ, trung tâm là thành phố Sài Gòn – Gia Định.
    Đồng bằng rộng rãi, kinh rạch chằng chịt, khí hậu 2 mùa mưa và khô rõ rệt, điều
    hòa.
    Những cư dân bản địa như Khmer (miền Tây) và Mạ, Stieng, Chơ ro, Mnông sinh
    sống (miền Đông) cùng với những cư dân đến sau như Việt, Hoa, Chăm xây dựng cuộc
    sống.
    Nhà ở dọc theo kênh rạch và đường lộ trong những làng xã mở
    Sản xuất chủ yếu làm ruộng lúa nước và nghề đánh bắt cá sông biển.
    Đồ ăn thiên về thủy sản.
    Tín ngưỡng, tôn giáo rất phong phú và đa dạng.
    Tính cách con người phóng khoáng.
    Vùng đất này tiếp xúc sớm với phương Tây.
    Nhưng trong lòng người dân vẫn in đậm hai câu thơ :
    “Từ thuở mang gươm đi mở cõi
    ngàn năm thương nhớ đất Thăng long“.
    Nhìn chung, các dân tộc Việt liên hệ gắn bó mật thiết với các dân tộc Đông Nam Á
    từ trong nguồn gốc : giống người, ngôn ngữ, lối sống. Đây là cơ sở tạo ra sự khác biệt cơ
    bản giữa văn hóa Việt Nam và Trung Hoa.
    2.3. Mối quan hệ không gian văn hóa Việt Nam – Trung Quốc

  8. Khởi đầu, người

    Hán một dân tộc du mục, sống ở thượng nguồn sông Hoàng
    Hà..Về sau, họ làm thêm nghề nông nghiệp trồng kê mạch (nông nghiệp khô). Dần dần,
    họ di chuyển từ Tây sang Đông, dọc theo sông Hoàng hà xuống hạ lưu.Đến đây, định cư
    và hình thành nền văn hóa sông Hoàng Hà.Thời kỳ này để lại từ “đông tiến“ như một
    phương hướng sinh tồn và quan trọng nhất trong đời sống (đông cung, đông sàng…)
    Kế tiếp, người Hán tiếp tục qua sông Hoàng, qua Trung nguyên, vượt sông Dương
    Tử (Trường giang) đi xuống phương Nam nơi có khí hậu dễ chịu với đất đai màu mỡ hơn.
    Đó là cuộc Nam tiến với khái niệm “kim chỉ nam“ (nhiều dòng người đã hợp chủng với các
    dân tộc phương Nam – xem lại phần Chủ thể văn hóa Việt ; nguồn gốc các dân tộc Việt
    nam).
    Trong giai đoạn này, chắc chắn người Hán đã thu nhận không ít thành tựu văn hóa
    phương Nam để góp vào nền văn hóa Hán – sông Hoàng Hà.
    Như vậy, ngay từ những buổi đầu hình thành văn hóa, dân tộc Việt và Hán đã có
    ảnh hưởng lẫn nhau, qua lại một cách tự nhiên trong thời kì sống chung ở phía Nam sông
    Dương Tử.
    Văn hóa Trung Hoa = Văn hóa du mục Tây Bắc + Văn hoá nông nghiệp khô Trung
    nguyên + Văn hóa lúa nước phương Nam. (hoặc: Văn hóa du mục Tây Bắc + Văn hóa
    nông nghiệp khô Trung nguyên = Văn hóa Hoàng Hà)
    Văn hóa Việt Nam = Văn hóa nam sông Dương tử + Văn hóa sông Hồng, sông Mã
    + Văn hóa miền Trung và sông Mekong.

    3. Thời gian văn hoá Việt Nam
    (còn gọi: Llịch sử văn hóa / Tiến trình văn hóa / Diễn trình văn hóa)
    Có thể chia thành 6 giai đoạn / ba lớp.
    3.1. Lớp văn hóa bản địa
    Giai đoạn 1: giai đoạn tiền sử
    Kể từ thượng cổ đến khi hình thành nước Văn Lang.
    Thành tựu lớn nhất là tạo ra nghề trồng lúa nước (khác hẳn với trồng lúa khô /
    nương rẫy)
    huần dưỡng một số gia súc (bò trâu, gà vịt, heo)
    Trồng dâu nuôi tằm, dệt vải
    Làm nhà sàn. Dùng cây thuốc nam chữa bệnh
    Uống trà.
    Giai đoạn 2: giai đoạn Văn Lang – Âu lạc
    Quốc gia đầu tiên ra đời gọi tên là Văn Lang, có lẽ để hạn chế dòng người du mục
    phương bắc đi xuống. Sau khi An dương vương đổi tên là Âu Lạc, thời đại Hùng vương
    kết thúc với triều đại Triệu Đà kế tiếp.
    Thành tựu văn hóa chính:
    · Nghề luyện kim đồng, đúc đồng và điêu khắc đồng (thạp đồng, trống đồng…).
    · Văn học dân gian, truyền thuyết, thần thoại…
    · Có thể đã tạo ra hệ thống văn tự, chữ viết, nhưng về sau bị xóa bỏ.
    3.2. Lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và Ấn Độ

  9. Giai đoạn 3:

    giai đoạn văn hóa chống Bắc thuộc
    Kể từ Triệu Đà (238.tr.CN) đến khi Ngô Quyền giành lại độc lập dân tộc (938)
    Ý thức đối kháng kiên trì, bất khuất trước nguy cơ xâm lăng của phong kiến phương Bắc.
    Tên nước “Nam Việt“ ra đời từ thời Triệu Đà đã tỏ rõ ý thức phân biệt chủ quyền đất nước
    ; Từ đó về sau, trải nhiều lần đổi tên, chữ “nam” vẫn được duy trì
    Những cuộc kháng chiến liên tiếp qua các thế kỉ như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lí
    Bí,Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Cha con họ Khúc, Dương Diên Nghệ
    và đỉnh cao là cuộc đại thắng của Ngô Quyền năm 938.
    Mặc dù lúc này nền văn hóa Văn Lang – Âu Lạc đã lạc hậu, suy thoái cần được sự
    tiếp nhận thêm văn hóa khu vực phát triển hơn, nhưng để giữ gìn chủ quyền dân tộc,
    nhân dân ta kiên trì tìm mọi cách chối từ văn hóa Hán đang tràn vào theo gót ngựa quân
    xâm lược Tuy nhiên, trong khi chối từ, dân tộc ta vẫn chấp nhận tiếp thu một phần văn
    hóa Hán.
    Giai đoạn này không có những thành tựu văn hóa đáng kể. Nếu có, chúng ta cần
    nói đến hai nguồn văn hóa Ấn Độ truyền vào nước ta theo con đường hòa bình, đó là văn
    hóa Phật giáo thâm nhập vào miền Bắc và văn hóa Hồi giáo, Bà la môn đi vào miền Trung
    bộ tạo dựng nên vương quốc Chămpa.
    Bọn phong kiến phương Bắc ra sức phá huỷ, tiêu diệt thành tựu văn hóa dân tộc ta
    như: thu gom sách vở, bắt thay thế trang phục Hán.v.v… nhưng không đạt được mục đích
    Có thể hệ thống văn tự Việt đã bị xóa bỏ trong suốt ngàn năm đô hộ này.
    Giai đoạn 4: Văn hóa Đại Việt thời tự chủ
    Sau chiến thắng của Ngô Quyền, nước ta lại xây dựng nền độc lập.Trải qua các
    triều đại ngắn Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, phải đến thời nhà Lý nền văn hóa Đại Việt mới phát
    triển mạnh với tinh thần phục hưng mãnh liệt.
    Tiếp theo là nhà Trần, nền văn hóa Đại Việt đạt được bước phát triển rực rỡ, gọi
    chung là thời đại văn hóa Lý – Trần.
    Đạt tới đỉnh cao rực rỡ là thời nhà Lê, nước ta đã có một nền văn hóa phong kiến
    ngang tầm khu vực, đủ sức tự cường và giữ vững độc lập dân tộc.
    Dân tộc ta phát triển về phương Nam vừa nhằm mục đích bảo vệ lãnh thổ, vừa
    phát triển đất nước. Xóa bỏ vương quốc Chăm pa ở miền Trung thường quấy phá sau
    lưng theo sự xúi giục của bọn xâm lược phương Bắc.
    Dân tộc ta khẩn trương tiếp thu văn hóa phong kiến Trung Hoa, chủ yếu là hệ
    thống giáo dục Nho Giáo, Phật giáo Trung hoa, kể cả Đạo giáo, theo xu hướng”Tam giáo
    đồng quy“. Với phương châm “Việt nam hóa“ những thứ văn hóa ngoại lai, nghĩa là tiếp
    nhận văn hóa và vận dụng cho phù hợp hoàn cảnh và bản lĩnh, tính cách dân tộc Việt,
    nhân dân ta đã tạo nên một nền Nho giáo Việt Nam, Phật giáo Việt nam…
    Nhân dân ta tiếp nhận chữ Hán, nhưng tạo ra cách đọc bằng âm Hán Việt. Rồi lại
    sáng tạo ra chữ Nôm để ghi âm tiếng Việt.
    Những lớp trí thức Hán học đã đóng vai trò nòng cột trong bộ máy quan lại phong
    kiến Việt nam các triều đại Lý, Trần, Lê và Nguyễn.
    Thủ đô bền vững từ đây đặt tại Thăng Long, với Quốc Tử Giám được coi là trường
    đại học đầu tiên, cùng với Văn Miếu, khẳng định một giai đoạn phát triển cao của dân tộc
    3.3. Lớp văn hóa giao lưu với phương Tây và thế giới
    Giai đoạn 5: Văn hóa Đại Nam

  10. Đại Nam là

    quốc hiệu do Nhà Nguyễn Minh Mạng đặt sau tên Việt Nam do Gia
    Long đặt. Giai đoạn này tính từ thời các chúa Nguyễn cho đến khi thực dân Pháp chiếm
    được nước ta làm thuộc địa.
    Sau thời kì hỗn độn Lê – Mạc,Trịnh Nguyễn phân tranh, đến nhà Nguyễn, Nho giáo
    lại được phục hồi làm quốc giáo, nhưng nó đã đến hồi suy tàn, không còn đủ khả năng
    đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa tiến kịp phương Tây.
    Thiên chúa giáo bắt đầu thâm nhập vào Việt Nam do các giáo sỹ phương Tây đến
    các vùng duyên hải nước ta truyền đạo. Nhà Nguyễn ban đầu cho họ vào, về sau lại ngăn
    cản.Thực dân Pháp kiếm cớ bảo vệ đạo đã kéo quân vào, nổ súng cướp nước ta từ 1858.
    Giai đoạn 6: Văn hóa hiện đại
    Kể từ khi thực dân Pháp đặt được nền cai trị trên cõi Đông dương và Việt Nam,
    đầu thế kỉ 20, văn hóa phương Tây tự do tràn ngập vào nước ta :
    Khoa học xã hội-nhân văn nước ta vốn có một bề dày nhưng cần tiếp thu những
    phương pháp mới
    Khoa học tự nhiên kĩ thuật hầu như hoàn toàn mới đã được tiếp thu nhanh.
    . Cơ sở hạ tầng kĩ thuật như đường quốc lộ, nhà máy điện, khai mỏ, nhà Bưu
    điện,nhà máy điện.v.v…bắt đầu xây dựng.
    · Một số trường trung học, sau đó cao đẳng, được thành lập.
    · Tiếng Pháp đưa vào dạy ở nhà trường.
    · Hệ thống chữ quốc ngữ được sáng tạo, giúp cho phong trào học tập, truyền bá
    văn hóa mới được nhanh chóng.
    · Hệ tư tưởng dân chủ tự do tư sản truyền bá vào nước ta.
    · Lối sống phương Tây ảnh hưởng chủ yếu ở thành thị.
    · Văn học, nghệ thuật phương Tây gây ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống văn
    nghệ nước ta (giai đoạn 1930 -1945).
    · Đặc biệt, tư tưởng cách mạng vô sản Mác – Lê nin đã được tiếp thu sáng tạo vào
    VN qua những trí thức trẻ giàu lòng yêu nước như Nguyễn Ái Quốc.
    Nhìn chung, dân ta vừa chấp nhận Âu hoá, vừa chống Âu hóa trong chừng mực
    nhất định, bảo đảm vừa tiến kịp trình độ thế giới, vừa giữ gìn bản sắc dân tộc.
    Những giá trị văn hóa mới đang định hình cần có thời gian thử thách và lựa chọn.
    Tóm tắt quá trình hình thành văn hóa Việt Nam:
    Lớp văn hoá bản địa

    Lớp văn hoá giao lưu
    Trung Quốc, Ấn Độ

    Lớp giao tiếp phương Tây và
    thế giới

    1. Giai đoạn văn hoá tiền
    3. Giai đoạn chống Bắc thuộc 5.Giai đoạn văn hoá Đại Nam
    sử
    2. Giai đoạn văn hoá Văn
    4.Giai đoạn văn hoá Đại Việt 6. Giai đoạn văn hoá hiện đại
    Lang – Âu Lạc

    Chương III: NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA VĂN HOÁ VIỆT NAM
    1. Văn hoá nhận thức (Nhận thức về vũ trụ và con người)
    Trải qua lịch sử, con người đạt được những hiểu biết về vũ trụ và về chính bản
    thân mình, từng bước từ đơn giản đến phức tạp.

  11. Trong lớp văn

    hóa bản địa, người xưa đã biết:
    Triết lí âm dương
    Cấu trúc ngũ hành
    Trong lớp văn hóa giao lưu với Trung Hoa và Ấn Độ, ta tiếp nhận được:
    Tam giáo: Nho, Phật và Đạo
    Trong lớp văn hóa giao lưu với phương Tây và thế giới:
    Tri thức khoa học hiện đại và nhiều thành tựu khoa học chung của nhân loại.
    Bài này chủ yếu trình bày về những nhận thức dân tộc ta đạt được ngay từ lớp bản địa những buổi đầu, theo lối tư duy tổng hợp và biện chứng của người nông nghiệp phương
    Đông. Đó là những tư tưởng triết lí của Đạo học phương Đông, khác hẳn với các hệ thống
    triết học phương Tây.
    1.1. Triết lý âm dương
    a/ Khái niệm
    Đứng trước thế giới bao la, lộn xộn, con người khao khát và cần phải hiểu được
    chúng để tồn tại. Sự hiểu biết đầu tiên là phân loại, nhận diện mọi thứ gần, xa có liên quan
    đến cuộc sống con người.
    Trước hết, người ta nhận thấy có hai thứ: Trời và Đất. Mẹ và Cha, và nhiều cặp
    đôi khác, gọi chung là cặp Âm – Dương. Vậy là, thế giới không lộn xộn, lung tung mà có
    một trật tự, đó là: từng cặp đôi tồn tại với nhau.
    TRỜI

    ĐẤT

    MẸ / NỮ

    CHA / NAM

    cao

    thấp

    yếu

    khoẻ

    nóng

    lạnh

    chậm

    nhanh

    bắc

    nam

    dịu dàng

    nóng nảy

    mùa đông

    mùa hạ

    tình cảm

    lý trí

    ngày

    đêm

    yên tĩnh

    vận động

    sáng

    tối

    tròn

    vuông

    động

    tĩnh

    số lẻ

    số chẵn

    Trong thế giới còn vô số cặp khác, được suy ra từ những cặp đã biết.
    Lưu ý: từ cặp này suy ra cặp khác:
    Ví dụ: Từ cặp Tĩnh – Động, suy ra cặp Vuông-Tròn, vì hình vuông yên tĩnh, hình tròn năng
    động.
    Từ cặp Nóng – Lạnh, suy ra cặp Sáng – Tối.
    Suy rộng ra (khái quát):
    Nền văn hóa nông nghiệp yên tĩnh = Âm, Nền văn hóa du mục di động = Dương.
    b/ Hai qui luật của triết lý âm dương (quan hệ giữa âm và dương)
    Qui luật 1
    Trong âm có dương, trong dương có âm (nghĩa là không có cái gì thuần chất.)
    Ví dụ: Trong nắng chứa đựng cái mưa.
    Nữ có khi dữ tợn, nam có lúc hiền lành.
    Trới nắng thiên về dương nhưng Trời mưa thiên về âm
    Đất hạn hán: dương nhưng Đất lũ lụt: âm
    Lưu ý 1

  12. Muốn xác định

    một vật là dương hay âm, phải chọn đối tượng so sánh
    Ví dụ: năm màu sắc (của lá cây)
    Đen (đất đen) → lá trắng → lá xanh → lá vàng → lá đỏ
    Màu xanh là âm (so với màu đỏ)
    Màu xanh là dương (so với màu trắng)
    Một con người trải qua nhiều giai đoạn, lúc là dương lúc là âm so với một người
    khác:
    Ví dụ: người mẹ trẻ khỏe – đứa con trai / gái mới sinh (dương ) (âm )
    Mẹ cha già (âm) – con trưởng thành (dương)
    Lưu ý 2
    Khi đã có đối tượng so sánh, cần phải xác định cơ sở so sánh (tiêu chí so sánh cụ thể )
    Ví dụ: khi đã có một cặp so sánh sau đây:
    Nam (20 tuổi ) – Nữ (20tuổi )
    Xét về cường độ sức khỏe:
    Nam (dương ) – Nữ (âm)
    Xét về độ dai bền:
    Nam (âm) – Nữ (dương ).v.v…
    Qui luật 2
    Âm và dương luôn gắn bó mật thiết với nhau, và có thể chuyển hóa, đổi chỗ cho nhau
    theo xu hướng: âm cực sinh dương, dương cực sinh âm.
    Ví dụ: Nắng lắm, mưa nhiều
    Trèo cao, ngã đau
    Xứ nóng (dương ) phù hợp trồng trọt (âm)
    Xứ lạnh (âm) phù hợp chăn nuôi (dương)
    Nhỏ yếu, lớn khỏe
    Lớn khỏe → già yếu…
    Triết lý âm dương và tính cách người Việt:
    Người Việt ưa thích sự quân bình âm dương, tránh sự thái quá (âm cực, dương cực )
    Tổ quốc là: Đất -Nước
    (phương Tây du mục, tổ quốc chỉ là land – đất )
    Ông Đồng bà Cốt
    Cặp bài trùng
    Công cha nghĩa mẹ (núi và suối )
    Ngói âm ngói dương:
    Mẹ tròn con vuông (ý nói hòa hợp nhau khi sinh là tốt nhất)
    Xin âm dương khi bói (tung hai đồng tiền, một sấp một ngửa là tốt nhất )
    Trăm năm tính cuộc vuông tròn (hòa hợp là tiêu chuẩn cao nhất, khác với giàu
    sang thiên về dương )
    Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời.
    Tuy vậy, người Việt vẫn ước mơ “ba vuông sánh với bảy tròn, đời cha vinh hiển,
    đời con sang giàu”. Nghĩa là: yêú tố dương lớn hơn âm sẽ có sự phát triển mạnh về sau.
    Tóm lại, trong lối sống, người Việt ưa sự quân bình âm dương. Điều đó dẫn đến
    cuộc sống yên tĩnh, ổn định nhưng cuộc sống kém phát triển.
    Thấm nhuần triết lý âm dương chuyển hóa, người Việt sống trong gian khó vẫn
    nghĩ đến một tương lai tốt đẹp ắt sẽ đến. Sống lạc quan chịu đựng, không cần bi quan
    nản chí. (Nhưng nếu thiếu sự nỗ lực năng động…thì tương lai sẽ phát triển ra sao ?! )
    c/ Hai hướng phát triển của triết lý âm dương
    * Hướng lên phía Bắc

  13. (Từ phương Nam

    đi ngược qua sông Dương Tử đi lên tới sông Hoàng Hà)
    âm dương phát triển kiểu số chẵn
    Thái Cực → Lưỡng nghi → Tứ tượng → Bát quái → vô cùng
    Đó là nội dung cơ bản của Kinh Dịch – hệ thống triết học cổ của Trung Hoa.
    Lưỡng nghi

    Âm

    Dương

    Tứ tượng

    Thái âm, thiếu dương

    Thái dương, thiếu âm

    Bát quái

    Khôn, Cấn, Khảm, Tốn

    Càn, Đoài, Ly, Chấn

    Nhiều quẻ âm

    Nhiều quẻ dương

    Bội số

    Mỗi quái có 3 hào âm hoặc / và dương.
    Đem quẻ này chồng lên quẻ kia sẽ cho một quẻ mới
    Ví dụ: quẻ Tốn chồng lên quẻ Ly cho quẻ Gia nhân.
    quẻ Càn chồng lên quẻ Càn,cho quẻ Càn 1 (Kiền 1)
    Đó là nội dung của thuật Tử Vi theo Kinh Dịch. Ngoài ra tư duy số chẵn còn vận dụng
    trong đời sống rộng rãi:
    Tứ mã, tứ trụ, tứ bình, tứ tuyệt, tứ cố vô thân…
    Bát bửu, bát âm, bát cú, bát vương gia…
    (vẽ hình bát quái xen giữa là âm dương)
    * Hướng xuống phương Nam
    Tam tài và Ngũ hành
    Âm dương sinh Tam tài
    Tam tài sinh Ngũ hành.
    Số 5 phát triển cao đến số 9 ( 9 nút) và vô cùng.
    1.2. Tam tài
    3 cặp âm dương kết hợp với nhau tạo ra tam tài:

    Đó là bộ ba lớn nhất, khái quát nhất.
    Còn rất nhiều bộ ba khác:
    không gian – thời gian – con người
    cõi trời – cõi thế – cõi âm
    ba cha con, ba mẹ con
    cha, mẹ và con
    vợ, chồng, chồng cũ
    ba anh em,
    ba người bạn…
    Ngã ba đường,
    kiềng ba chân,
    Trầu – cau – vôi
    Sơn Tinh -Thủy Tinh – Mỵ Nương
    Tam tài (số 3 ) thiên về tính dương, phát triển, năng động:
    Trong vũ trụ tồn tại rất nhiều bộ ba có quan hệ tam tài như vậy.
    Một cách khái quát là: Dương – Âm – Trung hòa (trung dung ):
    (+) (-) (- +)

  14. 1.3. Ngũ hành
    2

    bộ tam tài hợp nhau mà thành 1 ngũ hành.
    Tam tài 1: Thổ – Thủy – Hỏa (thổ dương)
    Tam tài 2: Thổ – Mộc – Kim (thổ âm)

    1.3.1 Hà Đồ – cơ sở của Ngũ hành
    Truyền thuyết người Hán kể rằng : vua Phục Hy đi chơi ở sông Hà, thấy con Long Mã
    (đầu rồng mình ngựa) nổi lên, trên lưng có bức vẽ (đồ). Vua chép lấy gọi là bức Hà Đồ.
    Bức vẽ gồm các đoạn dây thắt nút đen, trắng theo cách đếm của người tiền sử:
    Ví dụ: số 1 -o- (dương)
    số 2 -●-●- (âm) , v.v. . .
    Chuyển bức vẽ Hà Đồ thành con số Ả Rập, ta có:

    Có 5 cặp số trong bức vẽ (số lẻ: dương, số chẵn: âm ), đó là 5 yếu tố của ngũ hành.
    Các phương hướng: Bắc, Nam, Đông,Tây (ngược chiều với bản đồ phương Tây hiện đại )
    Thêm hướng: trung tâm ( ở giữa)
    1.3.2. Phân tích cấu trúc ngũ hành
    Mỗi cặp số có một số lẻ (dương ) và một số chẵn (âm) ,
    mỗi cặp gọi là một yếu tố / một hành.
    Số nhỏ nằm trong (số sinh ), số lớn nằm ngoài (số thành )
    Trật tự số ứng với phương hướng:
    1.
    2.

    Bắc
    Nam

  15. 3.
    4.
    5.

    Đông
    Tây
    Trung tâm
    – Số

    5 có tỉ lệ tạo nên bởi 2/ 3, đây là tỉ lệ bền vững và phát triển nhất
    (dương lớn hơn âm một chút, không quá chênh lệch)

  16. 1.3.3. Nội dung

    cấu trúc ngũ hành
    STT

    Lãnh vực

    Thuỷ

    Hoả

    Mộc

    Kim

    Thổ

    nước

    lửa

    cây

    kim

    đất

    1

    2

    3

    4

    5

    1

    vật chất

    2

    số Hà Đồ

    3

    tương sinh

    mộc

    thổ

    hoả

    thuỷ

    kim

    4

    tương khắc

    hoả

    kim

    thổ

    mộc

    thuỷ

    5

    phương hướng

    bắc

    nam

    đông

    tây

    trung ương/
    trung tâm

    6

    thời tiết (mùa)

    đông

    hạ

    xuân

    thu

    khoảng giữa
    các mùa

    7

    mùi vị

    mặn

    đắng

    chua

    cay

    ngọt

    8

    thế đất

    ngoằn ngoèo

    nhọn

    dài

    tròn

    vuông

    9

    màu biểu

    đen

    đỏ

    xanh

    trắng

    vàng

    10

    vật biểu

    rùa

    chim

    rồng

    hổ

    người

    Ngũ hành có tham vọng khái quát toàn bộ vũ trụ và con người.
    Trên đây chỉ trình bày một số nội dung tiêu biểu của ngũ hành
    Lưu ý: hai quan hệ rất quan trọng là tương sinh và tương khắc, đây là nguyên nhân của
    sự vận động của vũ trụ.
    Phân tích: 5 con vật biểu có nhiều ứng dụng trong văn học – nghệ thuật Việt Nam và
    phương Đông (so sánh với phương Tây, thứ bậc ưu tiên khác nhau ). Vùng sông nước:
    Chim, Rồng, Rùa.
    Con Rùa: số 1, phương Bắc, thuộc hành Thủy
    Đáng chú ý là 3 con vật biểu của phương Nam: hiền lành, chậm chạp, tuổi thọ cao nhất
    trong giới động vật.Trí tuệ cao siêu. Được suy tôn là thần Kim Quy (rùa vàng ) trong nhiều
    thần thoại truyện cổ. Thể hiện ước mơ sống lâu, bền vững và có trí tuệ.Thể hiện tính cách
    chậm rãi, giữ thế thủ (xem truyền thuyết An Dương Vương, sự tích Hồ Gươm,..). Rùa gắn
    với Nho Giáo ( tấm bia tiến sĩ đặt trên lưng rùa đá ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám, và ở các
    đình thần, nơi thờ cúng thánh nhân )
    Con Chim: số 2, phương Nam, thuộc hành Hỏa. Người Việt tự nhận mình thuộc dòng họ
    Hồng Bàng (tên môt loài sếu, hạc lớn, cổ dài, chân dài, còn gọi là chim Lạc (hoặc Lạc
    Hồng). Đó là loài chim sống ở phương Nam sông nước. Trong thần thoại cổ xưa, loài
    chim này mang hình dáng người phụ nữ (hoặc ngược lại) gọi là Tiên – vị tiên nữ đầu tiên
    là Âu Cơ.
    Loài chim Lạc hình dáng đẹp, hiền lành, tự do trở thành biểu tượng người mẹ giống nòi
    dân tộc. (Trên mặt trống đồng Đông Sơn có khắc một đàn chim Lạc)
    Con Rồng: số 3, phương Đông, thuộc hành Mộc: Một con vật tưởng tượng ghép từ
    nguyên mẫu con cá sấu và con rắn – 2 con vật độc ác.
    Thể hiện ước mơ dân tộc: biến dữ hóa lành, con Rồng cao quý, năng động, có ích chỉ
    phun nước làm mưa cho người trồng lúa. Rồng không cánh mà bay khắp trời, nơi trú ngụ
    là biển và sông.
    Con Hổ: số 4, phương Tây, thuộc hành Kim. Nó là biểu tượng của sức mạnh du mục.
    Người Việt phương Nam không ưa thích, chỉ dùng trừ tà ma yêu quái. (Vẽ bùa ngũ hổ, về
    sau tiếp thu văn hóa Trung Hoa có thêm bùa Bát quái ).

  17. Con người ở

    vị trí số 5, trung tâm, thuộc hành Thổ, cai quản muôn loài và bốn phương.
    Tóm lại, hai con vật biểu cao quí nhất được đặt ở hai phương đẹp nhất là Đông và Nam.
    Truyền thuyết Âu Cơ – Lạc Long Quân tin rằng dân tộc ta thuộc dòng dõi Rồng Tiên.
    1.3.4 Lạc thư (sách trên sông Lạc)
    Truyền thuyết người Hán lại kể rằng : vua Vũ đi trị thuỷ sông Lạc, thấy con Rùa nổi lên
    trên lưng có chữ viết (thư) sai chép lấy, rồi dựa theo đó mà đặt ra phép cai trị thiên hạ.
    Ngũ Hành lạc thư là giai đoạn phát triển cao hơn của Ngũ Hành hà đồ : từ số 5 tới số 9, từ
    trung tâm tới hướng Nam.

    1.4. Triết lí về cấu trúc thời gian – lịch âm dương
    (The Cosmic Time Structure, Calendar of Zin – Zang )
    Triết lí âm dương và ngũ hành giải thích cấu trúc và bản chất của toàn bộ vũ trụ và
    con người.
    Vũ = không gian (vật chất )
    Trụ = thời gian (phi vật chất )
    Con người = một bộ phận quan trọng của vũ trụ.
    Bài này chuyên nghiên cứu về triết lí thời gian và ứng dụng vào phép làm Lịch
    1.4.1. Lịch
    Do nhu cầu cần hiểu rõ thời tiết – thời gian nên ở vùng nông nghiệp đã sáng tạo ra lịch
    1.4.1.1. Lịch dương
    Phát sinh từ vùng văn hóa nông nghiệp Ai Cập (lưu vực sông Nil) khoảng 3000
    năm trước công nguyên dựa trên chu kỳ “chuyển động biểu kiến “của mặt ttrời: một năm =
    1 chu kỳ = 365 ngày ¼
    Lịch âm phát sinh ở vùng nông nghiệp Lưỡng Hà dựa trên chu kỳ Mặt trăng dài
    29.5 ngày ( một tháng ), một năm có 354 ngày (ít hơn dương lịch 11 ngày).
    Người La Mã du mục đã tiếp thu lịch âm và sử dụng từ thế kỉ 7 tr.công nguyên đến
    năm 47 trước công nguyên thì hoàng đế Julius Caesar thay thế bằng lịch dương. Ông đã
    dày công nghiên cứu, khảo sát và điều chỉnh, đặt lại năm số 1 để ghi năm sinh của chúa
    Jesus, gọi là công lịch. Lịch đó ngày nay được dùng rộng rãi trên thế giới (ông đặt tên
    tháng 7 bằng tên mình là Julius (July, về sau hoàng đế Auguste điều chỉnh thêm và đặt
    tháng 8 là Auguste/August)

    1.4.1.2. Lịch âm dương
    Vùng nông nghiệp Á Đông dùng một thứ lịch tổng hợp cả lịch âm và lịch dương.
    Cứ 3 năm dùng lịch âm, năm thứ 4 lại điều chỉnh theo lịch dương – gọi là năm nhuận (có
    13 tháng). Do lịch âm giữ vai trò chủ đạo nên nhân dân ta quen gọi là âm lịch (chính xác

  18. gọi là lịch

    âm- dương).Muốn xác định năm nhuận, lấy năm dương lịch (/ công lịch/ tây lịch)
    chia cho 19, nếu số dư là 0, 3, 6, 9,11, 14,17, thì năm ấy là năm nhuận.
    Lưu ý: năm nhuận có thời tiết thất thường do ảnh hưởng của mặt trời và mặt trăng
    đối với trái đất.
    Âm lịch (chính xác là lịch âm dương) đã bao quát được cả quy luật của mặt trăng
    và mặt trời, do đó rất cần thiết cho nông nghiệp (và lâm,ngư nghiệp). Chỉ tính riêng mặt
    trăng đã có tác động rõ rệt đến:
    thủy triều ( nước lớn, nước ròng, nước rong )
    chu kỳ sinh nở của con người và côn trùng, sinh vật khác (khoảng cách từ trái
    đất đến mặt trăng chỉ bằng 1/20 khoảng cách từ trái đất đến mặt trời nên tác động
    mạnh hơn ).
    Ngoài mặt trăng, mặt trời, âm lịch còn khảo sát cả hệ thống sao (hành tinh, định
    tinh ) để đo đếm thời gian.
    Năm ngôi sao quan trọng: thủy, hỏa, mộc, kim, thổ, nằm ở phía đuôi sao Bắc Đẩu.
    (Sao Bắc Đẩu là một chùm sao 7 ngôi tạo hình cái gáo). 5 sao ngũ hành tinh kết hợp với
    Nhật, Nguyệt tạo ra thất tinh ( thất hành tinh ).
    Từ chòm sao Bắc Đẩu kéo dọc xuống (vuông góc với mặt đất) nhìn thấy hệ thống
    28 ngôi sao cố định (định tinh) hàng ngày xoay quanh chòm Bắc Đẩu, gọi tên là nhị thập
    bát tú, gồm 4 chòm, mỗi chòm 7 ngôi. Mỗi mùa nhìn rõ nhất 1 chòm, ở một phương trời.
    Chòm Huyền Vũ (rùa đen) – phương Bắc, mùa Đông
    Chòm Chu Tước (chim sẻ đỏ) – phương Nam, mùa Hạ
    Chòm Thanh Long (rồng xanh) – phương Đông, mùa Xuân
    Chòm Bạch Hổ (hổ trắng) – phương Tây, mùa Thu
    Mỗi chòm sao còn ứng với một tuần lễ, mỗi ngôi sao ứng với một ngày. (Những ngôi sao
    đi vào truyền thuyết văn học: sao Khuê, sao Ngưu, sao Chức, sao Tâm, sao Đẩu,…).
    Đó là cơ sở của bộ môn thiên văn học.
    1.4.2. Hệ đếm Can – Chi
    Để gọi tên các đơn vị như năm, tháng, ngày, giờ, người xưa chọn một hệ đếm gọi
    là hệ Can – Chi, gồm:
    Hệ Can – Hệ Chi – Hệ Can Chi
    1.4.2.1. Hệ Can
    Gồm 10 yếu tố đặt tên: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỉ, Canh, Tân, Nhâm, Quý, xuất phát từ
    5 hành phối hợp 2 âm dương ( 5 x 2 = 10 )
    Do số 5 là gốc nên hệ này mang tính dương, gọi là thiên Can.( Ngày xưa khi lịch
    âm cổ nước ta chỉ có 10 tháng / năm nên đặt tên theo hệ Can. Về sau khi dùng 12 tháng
    thì sau tháng 10 nối thêm tháng Một và tháng Chạp ).
    1.4.2.2. Hệ Chi
    Gồm 12 yếu tố: Tí, Sửu, Dần, Mão (Mẹo), Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất,
    Hợi (tên của 12 con vật theo tiếng cổ).
    Xuất phát từ 6 cặp âm dương (ngũ hành đặc biệt có 2 hành Thổ: thổ âm và thổ
    dương ), thiên về tính âm (gọi là địa chi). Hệ Chi được dùng nhiều hơn hệ Can.
    Dùng để đếm giờ trong một ngày: (giờ Tý: 23h – 01 h…giờ Ngọ:11 – 13 h….)
    Dùng để đếm tháng trong năm.
    Dùng để đếm ngày trong hai tháng
    Nói chung, hệ Chi thường được ghép với hệ Can để đếm, dân gian thường chỉ gọi
    tên rút gọn theo Chi.
    1.4.2.3. Hệ Can -Chi
    Ghép 2 hệ nhỏ, tạo ra hệ đếm 60

  19. Sửu

    +

    CAN/CHI

    Dần
    Mão
    +

    Thìn

    Tỵ

    Ngọ

    +

    +

    Mùi

    Thân
    Dậu
    +

    Tuất

    +

    Hợi

    Giáp +
    Ất Bính

    +
    Đinh Mậu +
    Kĩ Canh +
    Tân Nhâm +
    Quý Nguyên tắc kết hợp:
    Can với Chi đồng tính tạo ra một yếu tố mới, ghi bằng con số (mã số ) dùng để đặt tên
    năm, ta có một chu kỳ = 60 năm, gọi là một Hội. Hội đầu tiên bắt đầu áp dụng vào năm
    thứ 4 dương lịch, tức là chậm hơn dương lịch 3 năm (4 – 1 = 3). Hội hiện nay là hội thứ 33
    kể từ năm 1984.
    Lưu ý
    Cách đổi năm dương lịch sang âm lịch:
    C = d của (D – 3): 60.
    C: năm Can chi ( âm lịch )
    D: năm dương lịch
    d: số dư.
    (Đặc biệt, khi d = o, thì C = 60, năm Hợi)
    Cách đổi năm âm lịch thành dương lịch:
    D = C + 3 + ( h. 60 )
    trước hết phải tìm h (số chu kỳ).
    Cần nhớ năm D gần với một sự kiện đặc biệt (cột mốc đáng nhớ năm nào), từ đó
    tìm ra h. Nếu không ta sẽ có kết qua 33 năm dương lịch trùng với năm âm đã cho.
    Giải thích vì sao phương Đông cho rằng thời gian tuần hoàn với chu kỳ là 01
    hội ? (trong khi phương Tây xác định rằng: thời gian không bao giờ lặp lại: không
    ai tắm 2 lần trên một dòng sông ).
    Gợi ý nghiên cứu: theo quan niệm thời phong kiến, vận nước tùy thuộc vào ông
    vua. Đời một ông vua khoảng 60 năm. Khái quát hơn, đời người cũng vận động trong chu
    kì 60 năm thăng trầm. Quan niệm phương Đông có tính tương đối. Quan niệm phương
    Tây có tính tuyệt đối.

  20. 1.5. Triết lý

    – nhận thức về con người
    (Cognition of man )
    Con người là một bộ phận đặc biệt của vũ trụ, gọi là một “tiểu vũ trụ”.
    Vũ trụ có cấu trúc âm dương, ngũ hành thì con người cũng có cấu trúc tương tự như vậy.
    1.5.1. Nhận thức về con người tự nhiên
    Mỗi người có quan hệ với một ngôi sao trong vũ trụ
    Tín ngưỡng cúng sao, ứng với mỗi năm tuổi.
    Cơ thể người có 2 phần âm dương.
    + Từ ngực trở lên là phần dương.Từ bụng trở xuống là phần âm.
    + Phần trên gồm: mặt sau (gáy, lưng) là dương, mặt là âm.
    + Phần dưới gồm: trước bụng là dương, sau lưng là âm.
    + Mu bàn tay, bàn chân là dương.
    + Lòng bàn tay, gan bàn chân là âm.
    + Ống quyển là dương. Bụng chân là âm.
    Đó là xét bề ngoài.
    Phần nội tạng có cấu trúc ngũ hành: ngũ tạng và ngũ phủ, đây là những bộ phận quan
    trọng nhất của cơ thể.
    Ngũ tạng: thận, tâm, can, phế, tỳ
    Ngũ phủ: bàng quang, tiểu tràng, đởm, đại tràng, vị.
    Các bộ phận cơ thể có quan hệ tương sinh và tương khắc giống như quan hệ ngũ hành.
    Trong đó, “thận” và “tâm “ là bộ phận quan trọng nhất (phương Đông trọng thận,
    phương Tây trọng tâm).
    Đông Y học Việt Nam căn cứ vào luật âm dương và ngũ hành để chẩn trị cho con
    người.
    Bệnh là do mất quân bình âm dương hoặc / và nảy sinh quan hệ tương khắc trong
    ngũ hành. Khi đã xác định được nguyên nhân thì tìm cách điều trị ( chẩn / trị ).
    Thuốc thang toàn là cây, cỏ, hoa, trái vốn lấy từ thiên nhiên -môi trường sống của
    con người.
    Châm cứu là kĩ thuật tác động phần này nhằm kích thích phần khác (nơi bị trục
    trặc).
    Khuôn mặt người gồm: trán (hỏa), mũi (thổ), miệng (thủy), tai trái (kim), tai phải
    (mộc).
    Bàn tay gồm ngón cái (mộc), ngón trỏ (hỏa), ngón giữa (thổ), ngón áp út (kim),
    ngón út (thủy).
    1.5.2. Nhận thức về con người xã hội
    Mỗi người có một vị trí và quan hệ trong xã hội cũng như một hành có quan hệ với
    các hành khác. Tuy vậy, không nên hiểu rằng thế giới có 5 hành thì cũng chỉ có 5 loại
    người, bởi vì ngũ hành phát sinh ra bội số. Mỗi người được xác định bằng thời gian được
    sinh ra đời: giờ, ngày, tháng, năm tính theo hệ Can chi. Như thế nghĩa là: mỗi người có
    quan hệ tương sinh và tương khắc đối với người khác. Mỗi người có một “lá số“ (dựa theo
    giờ, ngày sinh) nằm trong hệ thống 110 sao (tức là 110 kiểu tính cách, số phận) thuộc về
    một trong 12 cung (hệ chi). Đó là thuật Tử Vi xem đoán tướng số. người chia ra 2 nhóm:
    Nhóm cá nhân: bản thân, tiền kiếp, bệnh tật,
    Có 12 vấn đề lớn chi phối cuộc sống con nhà cửa, của cải, sự nghiệp, đi lại (7)
    Nhóm xã hội: cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bè bạn.

  21. Việc giải đoán

    Tử vi có kết quả đúng hay không tùy thuộc vào 2 điều kiện:
    Có đủ dữ kiện lập ra lá số chính xác hay không.
    Thầy tướng số có khả năng giải đoán hay không.
    Tóm lại, thuật Tử vi dựa trên 2 cơ sở triết học Ngũ Hành và Bát Quái nhằm dự
    đoán tương lai của cá nhân hoặc cả một cộng đồng. Ngày nay có ngành “Dự đoán học“
    rất cần thiết cho xã hội.
    Từ thời cổ đại, Khổng Tử đã dạy học trò (sách Luận Ngữ):”không những việc 10
    đời sau mà 100 đời sau cũng suy đoán được“.
    Nhiều truyền thuyết phương Đông kể về những danh nhân có tài suy đoán được
    phát ngôn bằng lời sấm ký, đồng dao trẻ em như Nguyễn Bỉnh Khiêm (Trạng Trình),
    Nguyễn Thiếp (La sơn phu tử), Khổng Minh và các vị đạo sĩ … được gọi là các nhà tiên tri.

    2. Văn hoá ứng xử trong môi trường tự nhiên
    Gồm một số hoạt động chủ yếu sau:
    Ăn uống (tận dụng thiên nhiên)
    Mặc (đối phó với thiên nhiên)
    Ở và đi lại (đối phó với thiên nhiên).
    Tình trạng địa lí, địa hình, khí hậu, sinh thái và lối sản xuất nước ta đã quyết định chi phối
    cả 3 vấn đề sinh tồn nói trên của người dân Việt từ xưa đến nay.
    2.1. Ăn uống
    Quan niệm về ăn uống :
    “Có thực mới vực được đạo“
    “Dĩ thực vi tiên“
    Rất nhiều hành động được gọi là “ăn”: ăn ở, ăn mặc, ăn chơi, ăn nói, ăn học, ăn
    tiêu (xài), ăn nằm, ăn trộm, ăn thua. Thế mới biết người Việt coi trọng việc ăn uống hàng
    đầu. Nhưng ăn uống còn là một hiện tượng văn hóa
    “Ăn tùy nơi, chơi tùy chốn “
    “Miếng ăn là miếng nhục“
    “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng “ .v.v…
    Biết bao câu tục ngữ, thành ngữ của tổ tiên lưu ý con cháu việc ăn uống sao cho tốt đẹp.
    Cơ cấu của bữa ăn người Việt là : Cơm – rau – cá (hoặc nước mắm )
    Nhìn chung, đồ ăn chủ yếu là thực vật. Sau cơm – rau – cá là hoa quả, mùa nào
    thứ ấy. “Đói ăn rau, đau uống thuốc“. Lại có vô số gia vị đủ các mùi vị, màu sắc vừa là
    thức ăn vừa là thuốc uống.
    Thịt động vật là thức ăn ít khi dùng đến, nhưng được chế biến tinh xảo, đa dạng
    chứng tỏ khẩu vị rất tinh tế, sành sỏi. Đặc biệt món thịt chó độc đáo.
    Đồ uống hút có trầu cau, rượu gạo, nước chè, nước vối và nhiều thứ lá, hoa, hạt,
    rễ cây khác. Đặc biệt thuốc lào được ưa thích hơn thuốc lá. Hút thuốc lào bằng điếu cày là
    phối hợp âm dương (lửa và nước: khói phải chui qua nước) còn thuốc lá điếu chỉ có lửa.
    Tính tổng hợp trong lối ăn Việt:
    Phối hợp nhiều món ăn trong một bữa.
    Một món ăn gồm nhiều thứ kết hợp với nhau. Nấu nướng như vậy để kết hợp
    hài hòa các món (hài hòa âm dương, tam tài, ngũ hành / ngũ vị ). Hài hòa các màu
    sắc đồ ăn. Như vậy giúp cơ thể dễ hòa hợp với thiên nhiên.

  22. Mọi người ăn

    chung một mâm, không chia phần, tùy ý nhường nhịn nhau.
    Trước khi ăn, cất tiếng mời chào lễ độ. Riêng với khách được ưu tiên hơn người
    nhà
    Ăn bằng đũa thể hiện tính linh hoạt, khéo léo của người Việt.
    Có nhiều món ăn chế biến đặc sắc: dưa, cà, nước mắm, nem, gỏi…Nhất là một
    số món ăn “non“đang giữa quá trình chuyển hóa – giàu chất dinh dưỡng như hột vịt
    lộn, măng, giá, cốm, dồi trường, heo sữa, nhộng (tằm)…
    Văn hóa ẩm thực Việt Nam còn nhiều món đặc sắc ở từng vùng đất.
    2.2. Mặc ( trang phục, trang điểm )
    Sau ăn uống tới mặc trang phục. Nhưng mặc là để đối phó, trước hết với khí hậu
    thời tiết, sau nhằm thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ và phù hợp với công việc.
    Mỗi dân tộc có cách ăn mặc riêng, do đó trở thành thói quen được chấp nhận trong từng
    cộng đồng dân tộc, và xa hơn, trở thành biểu tượng văn hóa dân tộc.
    Trong những cuộc chinh phục, đồng hóa dân tộc khác, bọn xâm lược cố ý cưỡng
    ép dân chúng đổi cách ăn mặc, nhưng người Việt Nam chưa bao giờ khuất phục.(Người
    Hán đã có thời bị dân Mãn Châu ép thay đổi trang phục, đầu tóc tới vài thế kỉ ).
    Trang phục Việt Nam, trước hết, thích hợp với khí hậu, thời tiết và nghề nông
    nghiệp. Sau nữa, theo quan điểm thẩm mỹ, người Việt ưa ăn mặc bình dị, kín đáo (không
    thích sắc màu sặc sỡ và hở hang)…
    2.2.1. Chất liệu may mặc
    Sử dụng chất liệu thực vật nhẹ thoáng. Tơ tằm là loại đặc biệt nửa thực vật nửa
    động vật (con sâu tằm chế biến lá dâu thành sợi tơ). Sau trồng lúa, việc trồng dâu nuôi
    tằm được coi trọng (nông và tang). Tơ tằm dệt nên rất nhiều loại vải từ đơn giản đến quí
    giá: tơ, lụa, lượt, là, the, nhiễu, đoạn,sồi, đũi, lĩnh, thao(nón quai thao) nái, địa,…đến gấm
    vóc.
    Ngoài nuôi tằm, còn dùng các loại cây thông thường khác như sợi gai, sợi đay, sợi
    bông và tơ chuối (Đặc biệt tơ chuối mịn màng, nhẹ, mặc mùa nóng rất mát mặc dù dễ
    rách)
    [ So sánh với phương Tây du mục: chất liệu mặc là lông thú, da thú chắc bề, ấm
    phù hợp xứ lạnh…]
    2.2.2. Kiểu trang phục
    Phụ nữ: váy, áo, và yếm.
    Nam giới: đóng khố, quần đùi (xà lỏn)
    Đặc biệt chiếc khăn và thắt lưng của phụ nữ rất tiện lợi, linh hoạt khi sử dụng.
    Chiếc áo lâu bền nhất đến nay còn lại là áo cánh (cách gọi miền Bắc) hoặc áo bà
    ba ở Nam bộ.
    Áo lễ hội của phụ nữ là chiếc áo dài có hai loại tứ thân và năm thân, cài khuy bên
    trái. Riêng nam giới về sau cài khuy bên phải (áo cánh lệch tà) theo ảnh hưởng phần nào
    của Trung Quốc. Sang thế kỉ 20, chiếc áo dài phụ nữ được cải tiến một bước nữa (có lẽ
    ảnh hưởng Âu Mỹ) và trở thành kiểu áo đặc sắc vừa truyền thống vừa hiện đại mà vẫn
    được coi là biểu tượng văn hóa Việt Nam.
    Nam giới cũng mặc áo dài khi trang trọng (cúng lễ, hội hè và những công việc
    nghiêm trang như ở công sở nơi dạy học,…). Ngày nay Âu phục đã hầu như thay thế hẳn
    loại áo dài nam giới.

  23. Nhìn chung, trang

    phục nữ giới giữ theo truyền thống lâu bền hơn nam giới.
    Màu sắc: chọn màu âm tính, dịu nhẹ, mát.
    Một số đồ trang sức khác: Như vòng cổ, vòng tay, nhẫn, bông tai,….nói chung
    đơn giản, giản dị.
    2.3. Nhà ở
    Căn nhà trước hết phục vụ yêu cầu đối phó với thiên nhiên, khí hậu và thuận tiện
    với nghề nông nghiệp. Cuộc sống nhà nông yên tĩnh. Do đó ngôi nhà được xây dựng ổn
    định thành cái tổ ấm.“An cư lạc nghiệp“
    Ngôi nhà Việt Nam thích hợp với sông nước và khí hậu nóng ẩm gió mùa. Đặc biệt
    kiểu nhà sàn, và nhà bè, nhà thuyền. Kiến trúc mái cong (hình thuyền) có tính thẩm mỹ.
    Nói chung, nhà cao cửa rộng phù hợp thời tiết. Nhà cần phải bền chắc để chống gió
    bão.Do đó, bộ khung (sườn) nhà phải có khả năng chịu lực đủ các hướng. Nhà không cần
    móng. Cây tre là vật liệu thông dụng nhất, sau đó tới các loại gỗ đa dạng.Vấn đề chọn
    hướng nhà rất quan trọng, tránh phía Tây và Bắc, ưa thích Đông Nam.
    Cấu trúc ngôi nhà
    Gian nhà trung tâm trang trọng nhất dành làm bàn thờ tổ tiên, kiêm luôn nơi tiếp
    khách (trọng tổ tiên và hiếu khách).
    Do lối sống cộng đồng, căn nhà không chia các phòng biệt lập, chỉ có căn
    buồng (1,2 căn) ngăn hờ, vẫn liên thông với gian chính. (Ở phương Tây ngăn biệt
    lập từng phòng cho mỗi cá nhân).
    Do lối coi trọng bên trái, nên căn buồng bên tay trái (phía Đông) dành cho sự ưu
    tiên (mẹ chồng buồng trái, con dâu buồng phải).Trên bàn thờ chung nội ngoại thì
    bên nội ở bên trái, bên ngoại ở bên phải của bàn thờ).
    Do coi trọng số lẻ, đặc biệt ngũ hành nên số gian nhà là 1, 3, và 5 (tối đa) Bậc
    thềm 3 bậc (tam cấp). Cổng nhà có 1 hoặc 3 cái (tam quan).
    Mái nhà lợp bằng các loại lá cỏ cho mát, nếu mái ngói thì dùng ngói âm dương
    vừa mát vừa bền.
    Vị trí ngôi nhà chọn đặt nơi trung bình, không cao không thấp. Ghép các bộ
    phận theo lối ghép mộng (âm dương) tránh dùng đinh kim loại (kim khắc mộc) rỉ
    sét làm hư hỏng nhà.
    Nói chung, việc làm nhà dựa theo nguyên lý hài hòa âm dương, hướng tới một cuộc sống
    ổn định.
    2.4. Sự đi lại
    Ứng phó với khoảng cách là việc tổ chức giao thông vận tải.
    Hoạt động đi lại của người dân nông nghiệp Việt Nam trong một phạm vi ngắn, từ
    nhà ra ruộng đồng, gò bãi. Do đó, chủ yếu chỉ dùng sức người mà vận chuyển trong sản
    xuất và sinh hoạt. Số lượng từ ngữ (động từ) chỉ hoạt động rất phong phú. Từ khái quát
    nhất là ”mang“ (tương ứng với to carry, to take trong tiếng Anh, porter tiếng Pháp). Bên
    cạnh đó tiếng Việt còn nhiều động từ: cầm, xách, kéo, đội, khiêng, bê, bưng, ôm, bế, ẳm,
    bồng, cõng, gánh, địu, gùi,…
    Giao thông đường bộ Việt Nam rất kém phát triển. Trên những con đường nhỏ, chỉ
    có sức đôi chân (đi bộ, lội bộ) hiếm khi có xe trâu bò, ngựa, voi. Quan lại, nhà giàu đi bằng
    kiệu, cáng. Về sau có xe tay, rồi đến xe đạp, xích lô. Giao thông đường thủy phát triển
    mạnh hơn nhưng cũng chỉ có phương tiện thô sơ trên sông ngòi chằng chịt, ít có tàu chạy
    biển

  24. Sách Gia Định

    Thành Công Chí của Trịnh Hoài Đức viết “ở Gia Định, chỗ nào cũng
    có ghe thuỳên, hoặc dùng thuyền làm nhà ở, hoặc để đi thăm người thân thích, họăc chở
    gạo của đi buôn bán rất tiện lợi. Ghe thuyền chật sông, ngày đêm đi không ngớt.
    Sách Trung Hoa viết Nam đi chu, Bắc đi mã “ (chu: thuyền, mã: ngựa)
    Ghe thuyền Việt Nam rất nhiều chủng loại. Thuyền được vẽ thêm đôi mắt như con người.
    Theo sách Tần Thư, thế kỉ 3 nước Việt đã có những con thuyền đi biển chở được
    600-700 người. Nhà Lê có con thuyền nặng tới 50 tấn, 50 mái chèo. Người Hà Lan ghi
    chép rằng thuyền chiến của chúa Trịnh và chúa Nguyễn có thể đánh bại thuyền chiến lớn
    của Hà Lan quen đi biển như chủ nhân của Ấn Độ Dương..)
    Các loại cầu qua sông rạch cũng khá nhiều: cầu tre, cầu cây (tươi sống), cầu ván,
    cầu phao (ghép nhiều thuyền lại ).
    Hình ảnh con thuyền và sông nước in đậm dấu ấn trong đời sống tinh thần người
    Việt Nam, vừa gần gũi thân thiết vừa lãng mạn bay bổng. Hàng trăm câu tục ngữ, ca dao,
    dân ca truyện cổ gắn liền với sông nước, đôi bờ, đầu sông, cuối sông, đò ngang, đò
    dọc…. Những sáng tác văn học – nghệ thuật dân tộc ưa thích đề tài, bối cảnh sông nước…
    Đặc biệt người Nam bộ gọi cả việc đi bộ là “lội bộ“ (….). Khi người chết, cũng theo tín
    ngưỡng dân gian, còn đi chuyến đò cuối cùng qua “chín suối“. Khi hát cầu kinh trong đám
    tang, các bà vãi hát bài “chèo đò“ đưa tiễn linh hồn.

    3. Văn hoá tổ chức đời sống cộng đồng và cá nhân
    Bài này gồm 2 phần
    1. Nghiên cứu tổ chức cộng đồng lớn, có tính bắt buộc, gọi là thiết chế xã hội như
    làng xã, quốc gia, đô thị.
    2. Nghiên cứu những tổ chức do cá nhân tự nguyện tự giác tạo ra, như lễ hội, sinh
    hoạt văn nghệ, phong tục tập quán…
    2.1. Tổ chức cộng đồng
    2.1.1.Tổ chức nông thôn: làng xã
    Các loại làng xã
    Nông thôn có làng xã, huỵên, tỉnh. Nhưng tồn tại lâu bền có tính văn hóa ổn định
    là làng xã. Do đó chúng ta chỉ nghiên cứu đặc điểm của làng xã Việt Nam. Còn huyện,
    quận, tỉnh thuộc phạm vi vùng văn hóa (xem lại bài Không gian văn hóa. chương 1 ).
    Người Việt (kinh) sống theo làng xã từ lâu đời, có 3 loại làng xã như sau:
    a/ Làng xã theo huyết thống
    Toàn bộ dân làng sinh ra từ một dòng họ (một gia đình) trải qua nhiều đời nối tiếp.
    Ngày nay, tuy không còn loại làng xã ấy do sự thay đổi dân cư nhưnh còn mang tên cũ:
    Đỗ Xá, Nguyễn Xá, Lê Xá, Đặng Xá. Những tên làng ghi nhớ dòng họ đầu tiên có công lập
    làng.
    Quan hệ của loại làng này là: đoàn kết đùm bọc nhau, có tôn ti trật tự theo thứ bậc
    trong dòng họ. Trưởng họ mặc nhiên làm công việc trưởng làng.

  25. b/ Làng xã

    theo địa bàn cư trú
    Những người sống trên một khu vực mặc dù thuộc các dòng họ khác nhau cũng
    hợp lại thành một làng. Dân làng sống bình đẳng với nhau, tôn trọng người lớn tuổi. Đặc
    biệt có quan hệ láng giềng gắn bó. (Bán anh em xa, mua láng giềng gần).
    Dân làng còn có sự hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất mùa vụ, làm đổi công cho nhau.
    Dân làng có tính dân chủ.Tuy vậy, vẫn có khuyết điểm là dựa dẫm, ỷ lại, chờ đợi,
    chẳng ai bảo được ai, “cháy rừng cùng sưởi “.
    c/ Tổ chức làng nghề, phường và hội
    Những người cùng làm một nghề (không kể trồng lúa), như nghề đánh cá (làng
    chài),nghề thủ công (làng gốm, làng rèn, làng nón, về sau gọi là phường. Những phường
    này sẽ là mầm mống của thành thị. Hà Nội ngày xưa có 36 phố phường/phường-phố),
    mỗi phố phường nguyên là một làng nghề. Ngày nay còn giữ tên gọi cũ: phố Hàng Bún,
    Hàng Bông, Hàng Đào, Hàng Cá…
    d/ Tổ chức trong làng
    + Hội đồng chức sắc
    Gồm những người có bằng cấp thi cử do vua ban, từ tú tài trở lên, và những người
    có công lao được vua chúa phong tước. Đây là hội đồng cố vấn của làng xã.
    + Hội đồng chức dịch
    Gồm lí trưởng, phó lý, chưởng bạ, trương tuần… do dân làng bầu ra, cấp trên phê
    chuẩn. Những người này điều hành công việc hành chính của làng.
    * Tổ chức dân làng
    Gồm 3 loại:
    Ti ấu: trẻ em
    Đinh: nam giới đến tuổi trưởng thành, có nghĩa vụ xã hội bắt buộc (thuế thân,
    dân công, quân sự,…)
    Bô lão: từ 50 hoặc 60 được lên lão, miễn các nghĩa vụ xã hội. Hội đồng bô lão
    tham gia bên cạnh hội đồng chức sắc và hội đồng chức dịch để bàn bạc, quyết
    định việc làng. (60 tuổi ngồi ngang hàng tú tài, 70 tuổi ngồi với cử nhân, 80 tuổi
    ngồi với tiến sĩ, phó bảng,…) được gọi chung là “quan viên “.
    Truyền thống trọng tuổi già mang tính văn hóa cao (văn hóa đo bằng thời gian, từng trải,
    bền vững). Tuy thế dân gian cũng châm biếm nhũng người già thiếu khả năng nhưng hám
    danh (sống lâu lên lão làng )
    Ghi chú: có nơi vài ba xã liên kết với nhau lập ra “tổng“ để hỗ trợ cho nhau.
    e/ Đặc điểm của làng xã
    Tính cộng đồng và tính tự trị – là hai đặc trưng cơ bản của làng xã Việt Nam.
    + Tính cộng đồng
    Biểu tượng là : Sân đình – Bến nước – Cây đa.

  26. Ngôi đình làng

    trước hết là nơi thờ cúng vị thành hoàng – người có công lập làng. Do dân
    đề nghị, nhà vua ký sắc phong thành hoàng – một vị thánh của địa phương (ở Nam Bộ gọi
    là đình thần). Ngôi đình có nhiều chức năng:
    Nơi thờ cúng tôn nghiêm, biểu hiện đạo đức nhớ ơn người lập làng. Bên cạnh
    đó còn thờ cúng Trời, Đất
    Nơi trụ sở của hội đồng làng xã, thường trực có các vị hội đồng chức dịch ngồi
    điều hành việc làng.
    Trung tâm văn hóa khi làng mở lễ, hội, văn nghệ, thi đấu, trò chơi. Chỉ có dịp
    này, phụ nữ, trẻ con mới có dịp tới đây.
    Trong việc điều hành, quản lí việc làng, bên cạnh luật lệ của nhà nứơc phong kiến,
    dân làng còn có” lệ làng” do các hội đồng họp và quyết nghị. Có thưởng, có phạt. Khuynh
    hướng xử lí mâu thuẫn xung đột kiện cáo trong dân làng là hòa giải (thành ngữ: hòa cả
    làng)
    Bến nước / Giếng nước: Nơi sinh hoạt, gặp gỡ của phụ nữ hàng ngày.
    Gốc cây đa đầu làng, có thêm quán nước trà, nơi dừng nghỉ chân cho khách qua đường
    và người làng đi làm – nơi gặp gỡ, trao đổi thông tin
    + Tính tự trị
    Biểu tượng : Lũy tre
    Lũy tre bao bọc làng quê, như hàng rào của ngôi nhà, có cổng làng nhưng lại có 2
    cổng ). Cuộc sống khép kín, mỗi làng đều có chợ riêng, có đủ mọi nghề thủ công dịch vụ
    nhằm tự cấp tự túc. Do vậy kinh tế hàng hóa kém phát triển, thiếu cạnh tranh.( Lũy có
    nghĩa là thành lũy để bảo vệ)
    Làng tự quản, đặt ra nhiều “lệ làng“.
    Căn cứ vào 2 đặc tính trên, có thể nhận xét: làng xã Việt Nam truyền thống thiên
    về âm tính: ổn định nhưng kém phát triển. Đó là loại làng xã khép kín, cục bộ địa phương.
    Hai đặc tính trên mang tính nước đôi, vừa đối lập vừa thống nhất (cộng đồng và tự trị,
    hướng ngoại và hướng nội), đó là sự quân bình âm dương trong văn hóa làng xã.
    TÍNH CỘNG ĐỒNG

    TÍNH TỰ TRỊ

    CHỨC NĂNG

    Liên kết các thành viên

    Giữ sự độc lập của làng

    BẢN CHẤT

    Dương tính, hướng ngoại

    Âm tính, hướng nội

    BIỂU TƯỢNG

    Sân đình, bến nước, cây đa

    Luỹ tre

    HỆ QUẢ TỐT

    Tinh thần đoàn kết,
    tương đồng
    Tính hoà đồng tập thể
    Nếp sống dân chủ, bình
    đẳng

    HẬU QUẢ XẤU

    Vai trò cá nhân bị thủ
    tiêu
    Thói dựa dẫm, ỷ lại
    Thói cào bằng đố kị

    Tinh thần tự lập
    Tính cần cù
    Nếp sống tự cấp, tự túc
    Thói tư hữu ích kỉ
    Thói bè phái địa phương
    cục bộ
    Lối gia trưởng tôn ti

    Lưu ý Làng xã Nam Bộ có một số đặc điểm khác:
    Không có kiểu làng xã huyết thống, chỉ có kiểu làng xã theo địa bàn cư trú (dân
    tứ xứ)
    Tính dân chủ cao.
    Do địa hình kênh rạch thuận tiện qua lại, làng xã có điều kiện mở rộng giao lưu,
    kinh tế hàng hóa phát triển (làng xã mở)

  27. Lệ làng không

    gò bó, tính cách người dân phóng khoáng tự do, cởi mở hơn.
    Nhìn chung, những truyền thống tốt đẹp xa xưa của làng xã Việt Nam vẫn thấm
    sâu trong tiềm thức người dân làng Nam Bộ như tính cần cù, tự lực, giúp đỡ nhau, thích
    lễ hội để có dịp giao lưu với nhau.
    2.1.2. Tổ chức quốc gia
    TỪ LÀNG ĐẾN NƯỚC
    Làng có trước, nước có sau.
    “Sống ở làng, sang ở nước “
    Tỉnh, quận, huyện không có vai trò đáng kể trong lịch sử văn hóa dân tộc. Tên gọi
    và địa giới của nó thừơng xuyên thay đổi. Cấp tỉnh đẵ trải qua nhiều lần đổi tên: Bộ, quận,
    châu, lộ, đạo, thừa tuyên, trấn, dinh, doanh,…tỉnh. Huyện ngày xưa là phủ, quận.
    Làng và Nước là hai tổ chức quan trọng nhất ở Việt Nam về cả hai mặt hành chính
    và văn hóa. Các đơn vị trung gian ở phương Tây du mục là cấp tỉnh thì giữ vai trò quan
    trọng: ngày xưa là lãnh địa của một lãnh chúa, sau này là mỗi bang có luật pháp riêng.
    Cấp làng xã của họ rất mờ nhạt, tạm bợ. Nếu làng xã Việt Nam là một” lũy tre “ thì làng xã
    phương Tây như một “bao tải khoai tây “(rời rạc – theo nhận xét của Marx).
    Ý thức quốc gia của người Việt rất cao. Ranh giới lãnh thổ là quan trọng, thiêng
    liêng. Còn với người phương Tây, ranh giới có thể thay đổi. Khu vực Trung Hoa du mục
    (miền Bắc) cũng vậy. Người dân bỏ quê quán đi lập nghiệp ở nơi khác khá dễ dàng. Trái
    lại người Việt không chú ý tới quốc tế (ngày nay các tổ chức quốc tế đều do phương Tây
    thành lập .
    Bảng so sánh
    Cá nhân

    Làng xã

    Vùng
    bang)

    +

    Phương Tây +

    Việt Nam

    (tỉnh,

    Quốc gia

    Quốc tế

    +

    +

    +

    Dấu – : tính âm, yếu
    Dấu + : tính dương, mạnh
    Những cuộc chiến tranh xâm lược đều xuất phát từ phương Tây hướng sang
    phương Đông, từ vùng du mục hướng tới vùng nông nghiệp. Kết quả: những cuộc kháng
    chiến của vùng nông nghiệp cuối cùng đều thắng lợi.
    Từ trong lớp văn hóa bản địa, nhu cầu thành lập quốc gia để giữ gìn lãnh thổ có
    hiệu quả đã tạo ra nước Văn Lang của các vua Hùng. Xây dựng nước theo kiểu
    làng xã. Từ đồng hương phát triển thành đồng bào.
    Dẫu sao, quản lí một quốc gia không giống như quản lí một làng xã.
    Về sau, dân tộc ta tất yếu phải lựa chọn một mô hình chặt chẽ như
    kiểu chế độ phong kiến Trung Hoa
    Việt Nam xây dựng chế độ phong kiến theo kiểu Trung Quốc từ sau khi nước
    Đại Việt thành lập nhưng đã vận dụng phù hợp hoàn cảnh và bản sắc văn hóa dân
    tộc ta. Sự độc tài của nhà vua bị hạn chế. Phát huy tính dân chủ. Điều chỉnh pháp
    luật Trung Hoa cho phù hợp tính cách Việt Nam. (Ví dụ: sửa đổi bổ sung luật hôn
    nhân gia đình ). Một truyền thống lãnh đạo tập thể được hình thành.
    Pháp luật, pháp chế cần phải tăng cường.
    Trong một quốc gia không thể trông cậy vào tính dân chủ, tính cộng đồng theo kiểu làng
    xã. Cần phải có một hệ thống tổ chức chặt chẽ cùng với pháp luật nghiêm chỉnh.

  28. Luật pháp của

    nhà nước có thêm luật lệ (luật vua, lệ làng – không mâu thuẫn với nhau).
    Luật Việt Nam có khuynh hướng giảm tội vì tình, ưu tiên phụ nữ (áp dụng điều luật Trung
    Quốc phụ nữ phảm một trong “Thất xuất” sẽ bị bỏ: phụ nữ không con, dâm dật, cãi cha mẹ
    chồng, trộm cắp, lắm điều, ghen tuông, có ác tật thì bị đuổi. Việt Nam thêm điều luật “tam
    bất khả xuất” gồm: đã để tang cha / mẹ chồng, làm giàu cho nhà chồng và không còn nơi
    nương tựa. Việt Nam ra thêm “luật bỏ chồng” khi người chồng : phá sản, có ác tật, bỏ rơi
    vợ 5 tháng. Luật còn cấm người chồng không được bán vợ, bắt vợ đi làm thuê, hạ vợ
    chính thành vợ nhỏ.
    Bộ máy quan lại Việt Nam
    Truyền thống chọn quan lại qua thi cử. Trường lớp mở tự do ở mọi nơi. Nhà nước chỉ mở
    khoa thi: Tam trường: thi Hương, thi Hội, thi Đình.(thi Hương: tú tài, cử nhân. Thi Hội: tiến
    sĩ. Thi Đình: tiến sĩ được xếp hạng 3 cấp, hoặc tam khôi: Trạng Nguyên, Bảng Nhãn,
    Thám Hoa (3 người cao điểm nhất trong bậc tiến sĩ). Trải qua các triều đại có những thay
    đổi trong thi cử. Khoa thi cuối cùng năm 1918.
    Bậc thang xã hội Việt Nam thời phong kiến: Sĩ – Nông – Công – Thương
    Việt Nam: sĩ là nho sĩ, văn sĩ.
    rung Hoa: sĩ là văn sĩ và hiệp sĩ.
    Nhật: sĩ chỉ là võ sĩ.
    Phương Tây: trung cổ có hiệp sĩ và thời hiện đại thì thương nhân là hạng nhất trong xã
    hội.
    2.1.3 Tổ chức đô thị
    Trong quá khứ, đô thị Việt Nam rất kém phát triển. Đó là một đặc điểm của nền
    văn hóa nông nghiệp, mặt khác cũng là đặc điểm riêng của lịch sử Việt Nam. Chúng ta
    hãy lập bảng so sánh đô thị Việt Nam nông nghiệp với đô thị Phương Tây du mục:
    Đô thị Việt Nam

    Đô thị phương Tây

    Chính quyền sinh ra đô thị

    Thương nhân tạo ra đô thị

    Thiên về hành chính, quản trị

    Thiên về kinh tế giao thương

    Theo kiểu làng xã, phủ, tổng

    Doanh nhân bầu chọn thị trưởng

    Phường, nghề, dịch vụ liên kết với nhau
    Thương nhân liên kết với khách hàng và
    (mượn hàng, giữ giá). Khách hàng có thể đọ
    cạnh tranh, chèn ép lẫn nhau
    giá để mua
    Kém phát triển vì thiếu kinh phí

    Rất phát triển do sự đầu tư của thương
    nhân để tăng qui mô sản xuất và buôn bán

    Khu tập thể (kiểu làng)

    Biệt thự cá nhân

    Nông thôn bao vây ngăn cản đô thị, cảnh
    Đô thị chỉ huy nông thôn
    giác với sự “mở cửa” của đô thị
    * Nhận xét chung về tổ chức xã hội Việt Nam:
    Tính âm lấn át tính dương.
    Ổn định bền vững nhưng kém phát triển.
    Bảo thủ. Khép kín
    Tiết kiệm hơn là đầu tư

  29. Phương hướng ngày

    nay là đô thị hóa nông thôn, lưu ý bảo vệ môi trường, gia
    tăng ngoại thương, công nghiệp hóa – hiện đại hóa, tham gia vào quá trình toàn
    cầu hóa.
    2.2. Văn hoá tổ chức đời sống cá nhân
    Cá nhân tự nguyện tạo ra tổ chức xã hội linh động, uyển chuyển, đa dạng
    2.2.1. Tín ngưỡng
    Khái niệm:
    a/ Tín ngưỡng phồn thực
    Tín ngưỡng thờ bộ phận sinh thực khí và các hành vi giao hoan của hai giống đực cái.
    Dấu tích để lại là các hình vẽ trên trống đồng, trên thạp đồng trong một số trò chơi cổ xưa.
    b/ Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên:
    Tín ngưỡng đa thần (trời, đất, sông, núi,….cây cổ thụ tảng đá lớn, mây mưa
    sấm sét, mười hai Bà Mụ, lo việc sinh đẻ trong mười hai tháng…)
    Tín ngưỡng sùng bái loài vật:
    + Tiên, Rồng
    + Rắn, Cá sấu
    + Cá
    + Cây lúa, cây cau, cây đa, quả bầu……
    c/ Tín ngưỡng sùng bái con ngườ:
    Quan niệm rằng con người có 3 hồn 7 vía. Ba hồn là: tinh, khí, thần. Khi người
    chết chỉ có tinh và khí bị hủy hoại, còn thần bay đi ( linh hồn )
    Từ tín ngưỡng đó, người ta cúng giỗ linh hồn, cầu hồn phù hộ người sống. Phong
    tục tang ma rất đa dạng, mỗi dân tộc khác nhau.
    d/ Tín ngưỡng thờ thổ công hoặc thần tài
    Vị thần của mỗi gia đình giữ cho gia đình yên ổn và giàu có Thờ Thành Hoàng:
    Mang ý nghĩa đạo đức hơn là một tín ngưỡng.
    e/ Thờ Tứ bất tử:
    Tản Viên (Sơn Tinh), Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Bà chúa Liễu Hạnh (theo
    truyền thuyết bà giáng trần ở Nam Định, nguyên là công chúa con trời xuống trần để sống
    như người bình dân được tự do)
    2.2.2. Phong tục
    Xuất phát từ tín ngưỡng, nhân dân đặt ra các nghi thức sinh hoạt, đó là phong tục.
    Gồm 3 nhóm chính: sinh nhật, hôn nhân, tang ma.
    a/ Sinh nhật, thượng thọ
    Đầy tháng: cúng bà Mụ
    Thôi nôi: sinh nhật đầu tiên
    Thượng thọ: 50, 60, 70, 80, 90 tuổi…( loại sinh nhật đặc biệt )
    b/ Hôn nhân
    Quan niệm: hôn nhân không phải việc riêng của hai người mà là việc chung của 2
    họ. Hơn nữa hôn nhân còn là quyền lợi của làng xã (lấy chồng làng được ưu tiên, lấy
    chồng làng khác bị phạt). Tục ngữ: Ruộng giữa đồng, chồng giữa làng. Ta về ta tắm ao
    ta…..
    Tục lệ nộp “cheo “ là một thứ thuế hôn nhân, nộp cho địa phương chồng hoặc vợ.

  30. Nhìn chung quyền

    lợi của 2 người/ 2 cá nhân không được coi trọng đúng mức.
    c/ Tang ma
    Tín ngưỡng của người dân bị mâu thuẫn khi có người thân qua đời. Nỗi buồn hay
    niềm vui ? Sự chuẩn bị rất chu đáo cho một đám tang. Là cuộc tiễn đua người chết đến
    cõi cực lạc sao lai đau buồn ?!
    Người Việt tự chuẩn bị cho cuộc ra đi từ khi còn sống (đóng sẵn hòm, xây sẵn
    mả,..). Tục lệ tang ma ở Việt Nam cũng khá đa dạng, mỗi vùng mỗi khác.
    Ngoài ra còn nhiều dịp khác được coi trọng: thi đỗ, đi xa, làm nhà, v.v…
    2.2.3. Lễ hội (Lễ tết và lễ kỉ niệm )
    a/ Lễ Tết –
    Cúng vào những dịp thời tiết quan trọng đối với nghề nông nghiệp và đời sống để
    tạ ơn Trời Đất.
    Quan trọng nhất là Tết Nguyên Đán, mở đầu mùa xuân thuận lợi cho trồng trọt,
    mùa màng.
    Còn nhiều Tết khác:
    Tết thượng nguyên, Tết trung nguyên, Tết hạ nguyên (đầu, giữa, cuối năm).
    Tết Trung Thu rằm tháng Tám âm lịch)
    Tết ông Táo ( 23/ tháng Chạp )
    Tết ăn nguội / Tết Hàn thực (3/ 3) kỉ niệm Giới Tử Thôi.
    Tết ăn chua / Tết Đoan Ngọ (5 / 5) diệt sâu bọ, đồng thời kỉ niệm Khuất Nguyên
    (nhà thơ Trung Quốc thời Chiến quốc)
    Ngoài ra còn có các ngày lễ tết nhỏ khác như cúng đầu mùa (cơm mới), đầu mùa mưa
    (Tết mưa ngâu )…
    a/Lễ kỉ niệm
    Đó là những lễ hội mang tính xã hội – nhân văn.
    Lễ hội hướng về những anh hùng dân tộc, damh nhân văn hóa, nhân dân ta tỏ
    lòng biết ơn những người có công dựng nước, giữ nước và xây dựng tổ quốc, quê
    hương.
    Lễ giỗ thành hoàng (cúng đình) gọi là hội làng.
    Giỗ tổ Hùng vương và Hội đền Hùng (ngày 10 / 3 âm lịch, thuộc tỉnh Phú thọ .
    Nhiều ngành nghề tổ chức giỗ tổ nghề để tưởng nhớ công ơn người đã
    mang lại công ăn việc làm cho họ.
    Lễ hội tôn giáo:
    Ngày lễ Phật đản (phật sinh), Hội Chùa Hương (kéo dài cả tháng, vào giữa
    mùa xuân), Hội chùa Thầy… Lễ Noen
    b/ Cấu trúc của Lễ hội
    Gồm hai phần: nghi lễ trang trọng và vui chơi thoải mái (lễ và hội)
    Phần nghi lễ mở đầu, tổ chức tại đình chùa miếu, có thể rước tượng thần
    tượng,đọc bài chúc văn ca tụng công lao của vị thần, dàn nhạc dân tộc hòa tấu
    nhạc cung đình, dâng hương, rượu, bánh…
    Phần hội hè vui chơi rất đa dạng, phong phú gồm các trò thi đấu cổ truyền tranh
    tài khéo léo, bền chí, thông minh và các loại hình văn nghệ. Nhìn chung các trò
    chơi và văn nghệ có ít nhiều liên quan đến thân thế và sự nghiệp của thần tượng
    lúc sinh thời.
    Thành ngữ dân gian nói “vui như hội“, đi “trảy“ hội. Đây là những dịp tốt để dân
    chúng đủ mọi lứa tuổi, nhiều địa phương, giao lưu gặp gỡ. nghỉ ngơi, thư giãn, tăng
    cường mối quan hệ cộng đồng và giáo dục lớp con cháu.

  31. 2.2.4. Văn hoá

    giao tiếp và tiếng Việt
    a/ Đặc điểm giao tiếp của người Việt Nam
    Người Việt ưa thích giao tiếp trong cộng đồng (thích gặp gỡ, thăm viếng lẫn nhau
    và tiếp khách). Thăm viếng không chỉ vì công việc, mà còn để bồi đắp giữ gìn quan hệ tình
    cảm.Đặc biệt, khi tiếp khách, người Việt rất ân cần chu đáo, xởi lởi sao cho khách hài
    lòng. Nhìn chung, khách được ưu tiên.Nhưng khi tiếp xúc với người lạ (ngoài cộng đồng
    làng xã) thì người Việt lại rụt rè, e ngại (Dân ta ít coi trọng qui tắc xã giao khách quan, mà
    ứng xử tùy thuộc tình cảm, “yêu nên tốt ghét nên xấu“, đó cũng là một nhược điểm cần
    khắc phục.
    Không những chỉ quan tâm tới khách, người Việt còn quan tâm rộng tới gia đình
    của khách nên thường thích hỏi thăm tới cả người nhà. Có thể còn vì lí do biết cách ứng
    xử cho phù hợp hoàn cảnh của khách cho khỏi sơ suất. (Người Âu – Mỹ đã nghĩ lầm rằng
    người Việt có tính tò mò ! ).
    Người Việt còn có tính hàm ơn sâu sắc. Chịu ơn ai thì tỏ lòng cảm ơn chân thành
    và nghĩ đến việc đền đáp hậu hơn sự chịu ơn. Những lời cảm ơn phong phú không theo
    một qui tắc xã giao cứng nhắc, sơ lược.
    Người Việt cũng có tính phục thiện chân thành. Khi lỡ mắc lỗi với ai, người ta
    thường bày tỏ sự xin lỗi với những cách khác nhau, cảm thấy lỗi nặng hơn thực tế và ân
    hận băn khoăn mãi.
    Trọng danh dự và sợ tiếng đồn đại: vừa là ưu điểm cũng vừa là nhược điểm của
    con người quen nếp sống cộng đồng. Điều tốt là con người quí danh tiếng, “tốt danh hơn
    lành áo“, mặt trái là rơi vào thói sĩ diện, hoặc nhiều khi thiếu tự tin ở bản lĩnh cá nhân.
    Nhường nhịn người trên, kẻ dưới, dĩ hòa vi quí. Cố tránh mọi sự mâu thuẫn bất
    hòa trong cộng đồng. “Một sự nhịn, chín sự lành“, “Chín bỏ làm mười “.
    b/ Ngôn ngữ tiếng Việt trong giao tiếp
    Ngôn ngữ của một dân tộc nảy sinh trước hết do nhu cầu giao tiếp trong cộng
    đồng
    Tiếng Việt thể hiện rõ rệt thái độ, tính cách giao tiếp của dân tộc.
    Về đại từ nhân xưng: lời nói xưng hô rất phong phú,nhất là từ ngữ gọi khách (ngôi
    thứ 2). Những từ ngữ ấy lại chính là tiếng gọi người thân thuộc họ hàng như “ông bà cô
    chú anh chị, em cháu. Người Việt muốn tỏ lòng quí mến mọi người như họ hàng bà con
    vậy. Còn đại từ nhân xưng ngôi 1 cũng tương ứng với ngôi 2 theo hướng nhún mình tự hạ
    thấp hơn người khách. Hiếm khi xưng tôi, nhiều khi lại biểu lộ thái độ lạnh nhạt hoặc bực
    bội với người.
    Để tỏ sự kính trọng, người Việt gọi khách bằng thứ (anh Hai, chị Ba….) hoặc gọi
    tên con thay thế – tránh gọi tên của người khách.
    Xưng hô khiêm tốn, nhún mình, mặc dù ngang hàng nhau, thậm chí còn có vai vế
    cao hơn khách (ví dụ: một ông già có thể gọi một thanh niên là “anh, chị, bác, chú “…)
    (Lưu ý trường hợp tự tôn thái quá của vua chúa ngày xưa: dân chúng phải tránh
    né các tên họ vua chúa, ai nhắc tới tên vua, nhất là trong bài thi của thí sinh và các loại
    văn bản sẽ bị trừng phạt !)
    Ngữ điệu, ngữ âm, kiểu câu trong tiếng Việt giao tiếp
    “Chim khôn nghe tiếng rảnh rang
    Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe “
    “Lời nói chẳng mất tiền mua
    Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau“
    Tiếng Việt giàu âm điệu, có tới 6 thanh (6 dấu giọng), điều đó chẳng phải ngẫu
    nhiên. Ngữ âm tiếng Việt sinh ra từ nhu cầu biểu cảm trong lời nói.

  32. Câu tiếng Việt

    cũng được lưu ý cấu tạo sao cho cân đối, nhịp nhàng, dễ nghe.
    Người Việt ưa nói “vòng vo tam quốc“, tránh nói thẳng vào vấn đề để khỏi làm phật
    lòng khách.
    Tính từ: rất phong phú, tỉ mỉ, nhằm ngoài việc miêu tả chính xác sự vật, còn bộc
    lộ thái độ đánh giá và tình cảm (thí dụ: lão râu xồm: ví với con dê, con chó…)
    Động từ:Thường dùng câu chủ động, ít dùng câu bị động. Nghĩa là quan tâm
    đến “người nói”, chủ ngữ hơn là tân ngữ.
    “Cô ấy bị thầy giáo phạt “
    “Tôi bị mất cái xe đạp “
    Thử so sánh với 2 câu tiếng Anh tương đương để so sánh quan niệm của hai dân tộc.
    Tiếng Việt năng động, uyển chuyển, đôi khi mơ hồ, thiếu chính xác khi ngữ pháp
    câu không ngôi, không thời, không thể.
    Tiếng Việt thiên về bộc lộ tình cảm, thái độ hơn là truyền đạt một thông tin chuẩn
    xác. Do vậy nghệ thuật ngôn ngữ Việt Nam thiên về thơ ca trữ tình.
    2.2.5. Sinh hoạt nghệ thuật
    (Văn chương, nghệ thuật thanh sắc và nghệ thuật tạo hình)
    a/ Văn chương
    Văn chương tiếng Việt thiên về thơ ca và đạt nhiều thành tựu hơn hẳn văn xuôi.
    (Thử so sánh: theo 2 cuốn từ điển văn học:
    Tây Âu và Nga: 21,7% thơ và văn xuôi 78,3%
    Việt Nam: 72,6% thơ và 27,4% văn xuôi )
    Trong số văn xuôi còn cáo, hịch, chèo, tuồng chứa đầy những câu thơ. Ngay cả
    văn xuôi tiếng Việt cũng chứa đầy âm điệu, nhịp điệu.)
    Xuất phát từ tính chất duy cảm, dẫn đến một ngôn ngữ biểu cảm và nâng cao lên
    thành nghệ thuật thơ. Thơ tiếng Việt là sinh hoạt tâm hồn phổ biến, ưa thích của người
    Việt thành tựu thi phú dân tộc đạt nhiều đỉnh cao, từ Nguyễn Trãi đến Nguyễn Du, Hồ
    Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu, Tố Hưu, Nguyễn Bính – nhưng trước hết là thơ
    ca dân gian (ca dao, tục ngữ) và truyện thơ, ngâm khúc, câu đối.
    Ngay cả văn xuôi (truyện, tiểu thuyết, tùy bút, văn chính luận…) cũng giàu chất
    biểu cảm, chất thơ (Cáo Bình Ngô, Hịch tướng sĩ, Bút ký Tản Đà, Chiếu dời đô của Lí
    Thái Tổ, Đường chúng ta đi (Nguyễn Trung Thành), Dòng kinh quê hương (Nguyễn Thi).
    Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh Châu).v. v…
    b/ Nghệ thuật thanh sắc
    Âm nhạc cổ truyền
    Dân ca Việt Nam rất phong phú ở khắp các dân tộc, các vùng miền đất nước.
    Dân ca Việt Nam chủ yếu bộc lộ tâm tư tình cảm của người dân lao động, nhất là nông
    dân.
    Âm nhạc không lời với nhiều nhạc cụ đa dạng, độc đáo như cây đàn bầu với 1 sợi dây.
    Số nhạc cụ ít ỏi trong 1 dàn nhạc đủ khả năng diễn tấu năng động, biến hóa. Không có
    nhạc xướng nhưng sự hòa tấu cũng điệu nghệ, các nhạc công tự chọn “nhạc trưởng “
    ấy là một người nhạc công giỏi nhất vừa diễn vừa lôi kéo người khác diễn theo.
    Khi diễn kịch (chèo, tuồng, cải lương) diễn viên vẫn lấy giọng hát, bài ca làm chính.
    Việc diễn xuất, hành động chỉ là ước lệ biểu trưng, việc hóa trang nhân vật và phông
    cảnh tượng trưng, nói sơ qua, cốt yếu nhất là tiếng hát. Dân chúng gọi là “đi xem hát “.

  33. Nghệ thuật Chèo

    là sân khấu dân gian cổ nhất, gọi là hát Chèo. Không nhằm miêu tả
    xung đột như kịch nói phương Tây, chèo cổ thiên về chế giễu, cảm hứng trào phúng
    (một kiểu trữ tình). Chèo có sự kết hợp các dân ca Bắc bộ rất nhuần nhuyễn.
    Nghệ thuật Tuồng nảy sinh ở miền Trung, kết hợp giữa dân ca Trung bộ với kịch Tàu và
    tích truyện Tàu. Cảm hứng bi kịch, anh hùng ca và lịch sử thấm đẫm sân khấu Tuồng.
    Nghệ thuật sân khấu Cải lương là sự kết hợp nhiều nguồn, từ nghệ thuật Chèo, Tuồng,
    âm nhạc cung đình Huế, kịch Tàu, dân ca Nam bộ đến kịch nói phương Tây. Đặc biệt là
    điệu hát vọng cổ – (gốc là bài Dạ cổ hoài lang của Cao Văn Lầu ) – linh hồn của bài bản
    cải lương. Vọng cổ chậm rãi, rõ ràng, cảm động, khi mãnh liệt khi dìu dặt, lên bổng
    xuống trầm, nhằm bày tỏ tình cảm, tranh cãi, thuyết phục, năn nỉ,… được ưa thích ở
    khắp mọi miền đất nước Điều đó cho thấy nghệ thuật Cải lương dù có tiếp thu nghệ
    thuật nước ngoài vẫn giữ vững truyền thống duy cảm của dân tộc – thế mạnh nghệ thuật
    của dân tộc.
    Nghệ thuật Múa rối nước là một sản phẩm đặc sắc của dân tộc, gồm 3 yếu tố: đẽo con
    rối, lồng tiếng hát và tài điều khiển con rối trên một sân khấu nước.
    Nhìn chung đối với nghệ thuật thanh sắc, người Việt vẫn luôn ưu tiên cho thanh “hơn
    “sắc ” – coi thanh là biểu hiện của tâm hồn (truyện tình bi đát Trương Chi-Mị Nương)
    Nghệ thuật múa còn kém phát triển ở nước ta (múa là sở trường của phương Tây, nói
    chung vùng văn hóa du mục). Tuy nhiên Nghệ thuật múa minh họa, diễn xuất trong
    nghệ thuật thanh sắcViệt Nam có nét riêng, thiên về sự tinh tế của đôi tay, ánh mắt, đạo
    cụ…Có thể nghệ thuật múa nước ta chịu ảnh hưởng của múa Ấn Độ, Trung Hoa nhưng
    vẫn có nét đẹp riêng Việt Nam. Sang thế kỉ 20, nghệ thuật múa Âu – Mỹ lan tỏa sang
    Việt Nam, nhân dân ta tiếp thu có chừng mực và biết kết hợp với tính cách dân tộc Việt
    Nam.
    c/ Nghệ thuật tạo hình
    Hội họa dân tộc
    có 2 dòng tranh dân gian truyền thống.
    Một là: trường phái tranh làng Đông Hồ (gọi tắt là Tranh làng Hồ) thiên về miêu tả cảnh
    sống nông thôn và ước mơ bình dị của nông dân, đôi khi có tranh châm biếm, trào phúng.
    Hai là: tranh Hàng Trống (Hà Nội) vẽ các nhân vật lịch sử, anh hùng, danh nhân Trung
    Quốc và Việt Nam. Công chúng của dòng tranh này thường là trí thức và dân thành thị
    Trong giai đoạn văn hóa Đại Việt, nghệ sĩ Việt Nam tiếp thu tranh quốc họa Trung
    Hoa,…tiêu biểu là tranh bộ tứ bình ( tứ quí / 4 mùa, 4 kĩ nữ, 4 nghề… tứ linh)
    Hội họa phương Tây thiên về tả thực, phô diễn vẻ đẹp hình thể, thậm chí vẽ tranh
    (và tượng) khỏa thân – đó là nghệ thuật kết hợp sức sống, vẻ đẹp hình thể với tâm hồn, ý
    chí, khát vọng chân chính của con người (loại trừ các loại tranh ảnh sexy gợi tính dục,
    không có ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Loại này có tác hại làm sa đọa thế hệ trẻ, cần phải
    bài trừ)
    *Nghệ thuật điêu khắc dân tộc
    (tượng và phù điêu)
    Nghệ thuật chạm khắc có từ lâu đời còn để lại bằng chứng rõ ràng trên các trống
    đồng nổi tiếng và thạp đồng, thậm chí còn cả những quyển sách bằng đồng khắc chữ.
    Bên cạnh những ý tưởng, hình vẽ tiếp thu từ nghệ thuật điêu khắc Phật giáo, Bà La môn
    giáo của Ấn Độ, nghệ thuật đền đài Trung Hoa, nhân dân ta còn sáng tạo nghệ thuật riêng

  34. biệt Việt Nam.

    Kiến trúc hình thuyền (mái cong), hình ảnh con người Việt Nam và ý tưởng
    Việt Nam, cảnh sắc Việt Nam.
    Người Việt trân trọng pho tượng hơn các thể loại khác, chỉ tạc tượng những nhân
    vật linh thiêng tôn kính (phương Tây có thể tạc tượng bất kì đối tượng nào trong cuộc
    sống).
    Nghệ thuật điêu khắc VN truyền thống đã để lại những bức tượng ở đền, chùa và
    một số công trình văn hóa khác, ngày nay đang được bảo tồn, là niềm tự hào của nền văn
    hóa dân tộc.
    Cấu trúc âm dương hòa hợp là một thủ pháp xuyên suốt nghệ thuật tạo hình Việt
    Nam. (Đực – cái, văn – võ, thiện – ác).
    Dân gian có nghệ thuật trang trí (nhà cửa, bàn thờ) thấm đẫm triết lí âm dương và
    ngũ hành ( cân đối, đối xứng hai bên như mâm ngũ quả, ngũ hành. . . ) tranh Phúc – Lộc Thọ (tam tài)
    Nhận xét chung về nghệ thuật VN truyền thống:
    Nghệ thuật trữ tình, biểu cảm.
    Thủ pháp tượng trưng, ước lệ (khác với tả thực)
    Tổng hợp và linh hoạt.
    Nghệ thuật VN là bộ phận mang dấu ấn khá rõ nét của tâm hồn VN, văn hóa VN.

    4. Văn hoá ứng xử trong môi trường quốc tế
    Đất nước Việt Nam ở vào ngã tư đường quốc tế, tức là ở giao điểm của 2 con
    đường Bắc -Nam, Tây- Đông. Du mục phương Bắc đi xuống phương Nam phải qua Việt
    Nam, du mục phương Tây tìm đường sang Đông cũng ghé Việt Nam trước. Chúng ta hiểu
    vì sao dân tộc ta từ xưa đến nay thường xuyên phải đối phó với nạn bành trướng, xâm
    lược của kẻ ngoại bang. Tuy vậy ngày nay điều đó lại trở nên thuận lợi khi thế giới mở
    cửa, tăng cường giao lưu hợp tác, Đất nước Việt Nam như ngôi nhà”ø mặt tiền “ rất thuận
    lợi giao thương và đi lại…)
    Vị trí địa lý đó đã chi phối, ảnh hưởng rất sâu đậm đến tính cách người Việt và nền
    văn hóa dân tộc ta.
    Sự giao lưu (tiếp xúc, ảnh hưởng qua lại) bao gồm nhiều dạng như:
    Tiếp nhận văn hóa dân tộc khác.
    Chối từ (theo các mức độ từ tẩy chay, hạn chế đến kháng chiến đánh đuổi bằng
    vũ lực)
    Phát huy văn hóa dân tộc Việt sang nước khác.
    Các dạng hỗn hợp, ví dụ: vừa chống Hán hóa vừa chịu Hán hóa (giai đoạn 3), vừa
    Âu hóa vừa chống Âu hóa (giai đoạn 6)…(xem lại bài “ Thời gian văn hóa / lịch sử văn hóa
    Việt Nam – chương 2)
    Đặc điểm chung của sự giao lưu văn hóa Việt Nam là tính dung hợp – tổng hợp tích hợp, xuất phát từ một dân tộc Việt có tính hiếu hòa, bao dung. Ngay cả khi cần chống
    lại xâm lược và nạn bành trướng, văn hóa dân tộc cũng vẫn phát huy đặc tính đó. “Dĩ bất
    biến, ứng vạn biến“ là cách ứng xử của một dân tộc có bản lĩnh cao.
    Chương này nghiên cứu những vấn đề sau :
    1. Giao lưu với Ấn Độ: văn hóa Phật giáo và văn hóa Chăm.
    2. Giao lưu với Trung Quốc: Nho giáo và Đạo giáo
    3. Văn hóa đối phó với bọn xâm lược, bành trướng. Việc giao lưu với văn hóa
    phương Tây – – Âu – Mỹ và thế giới thuộc giai đoạn 6 – giai đoạn văn hóa hiện đại
    (còn đang tiếp diễn, chưa hoàn thành – gọi là giai đoạn mở)

  35. 4.1. Giao lưu

    với Ấn Độ
    4.1.1. Văn hóa Chăm và nguồn gốc Bà la môn, Hồi giáo
    Những người truyền giáo và nhà buôn Ấn Độ đầu tiên đặt chân ở nước ta từ đầu
    công nguyên. Dấu vết cổ còn tìm thấy ở Óc Eo (An Giang, ở ven biển miền Trung, ở Luy
    Lâu (Bắc Ninh). Khi người Chăm lập ra Vương quốc Champa, thoát ra khỏi ách đô hộ của
    phong kiến Trung Quốc.Họ tiếp nhận người Ấn Độ đến truyền giáo, theo đó tiếp thu nhiều
    giá trị văn hóa khác. Văn hóa Ấn Độ thấm sâu vào văn hóa Chăm từ thế kỉ 7 đn hết thế kỉ
    15 khi Champa chấm dứt sự tồn tại độc lập.
    Bà la môn giáo (Bramanism) thờ đấng tối cao tên là Brahma ( có nghĩa là đại hồn )
    được miêu tả trong bộ kinh Veda ( chuyển thể thành Vệ Đà của kinh Phật). Brahma gồm
    có 3 ngôi: Brahma (sáng tạo), Visnu (bảo vệ) và Siva (hủy diệt). Khi đạo Phật phát sinh ở
    Ấn Độ, Bà la môn giáo tự cải cách thành Ấn Độ giáo (Hinduism).
    Thực ra văn hóa Chăm còn chịu ảnh hưởng của khu vực kế cận và văn hóa gốc
    miền Trung (văn hóa Sa Huỳnh).
    Địa hình, khí hậu, lối sống khắc nghiệt ở miền Trung tạo ra tính cách Chăm dương
    tính (cứng rắn, thượng võ, hiếu chiến).
    Thành tựu văn hóa Chăm còn lại ngày nay gồm 1 số lãnh vực: kiến trúc, điêu khắc
    và tôn giáo, trong đó tôn giáo là linh hồn của nền văn hóa ấy.
    Ngày nay những tháp Chàm còn đó sừng sững trở thành những điểm du lịch hấp
    dẫn du khách bốn phương.
    háp Chàm (Chăm) nổi tiếng về kĩ thuật xây dựng độc đáo giũa đất núi và đá. Nội
    dung của tháp là: trong lòng làm lăng mộ vua, trên nóc thờ thần linh tối cao Bà la môn. Vị
    thần linh được thờ nhiều nhất là thần Si Va, do nhu cầu đồng hóa với sinh thực khí nam
    (dương tính trong tín ngưỡng phồn thực)
    Cùng với Bà la môn, đi vào văn hóa Chăm còn có đạo Hồi (Islam). Hồi giáo có giáo
    lực khắt khe nhưng đã được người Chăm cải biên nhiều. Hồi giáo gốc coi trọng nam giới,
    thì Hồi giáo Chăm Việt nam vẫn coi trọng phụ nữ.
    Còn phải kể đến âm nhạc Chăm tuy còn sâu đậm ấn tượng Ấn Độ (buồn bã, sâu
    thẳm) nhưng cũng pha trộn giai điệu trữ tình phóng khoáng phương Nam.
    4.1.2. Văn hoá Phật giáo (Buddism)
    4.1.2.1. Sự hình thành đạo Phật
    Đạo Phật hình thành ở Ấn Độ vào thế kỉ 5 tr.CN khi đạo Bà la môn đang được
    sùng bái khắp xứ Ấn Độ. Người khơi nguồn đạo này là thái tử Sidharta, sinh năm 563
    tr.CN. Bất mãn với chế độ cai trị của giáo hội Bà la môn chủ trương phân chia đẳng cấp
    XH, thaíù tử rất đồng cảm với nổi khổ của dân chúng và quyết tâm tìm 1 con đường giải
    thoát cho họ bằng một tôn giáo khác.
    Sidharta rời khỏi nhà năm 29 tuổi, mang danh là Sakia Muni (Thích Ca Mầu Ni người hiền họ Thích Ca . Sakia tiếp tục đi học hỏi ở những người tu hành già nhưng
    không thỏa mãn, rủ 5 người bạn đến một vùng núi tu khổ hạnh 6 năm ròng ( núi Tuyết
    Sơn ), vô ích Ngài trở lại đời sống bình thường ( ăn uống mọi thứ như người không tu ) rồi
    đến một gốc cây Pipal cổ thụ, ngồi tập trung suy ngẫm về giáo lí. Sau 49 ngày đêm, tư
    tưởng của ngài sáng tỏ mọi điều – đó là qui luật của cuộc đời, nổi khổ của chúng sinh và
    con đường giải thoát. Đó là lúc ngài đã giác ngộ. Ngài đi tìm 5 người bạn cũ, giác ngộ cho
    họ, rồi cùng với họ trong 40 năm còn lại đi khắp vùng lưu vực sông Hằng hà (Ganga) để
    truyền bá tư tưởng. Dân chúng gọi ngài là Buddha (Bậc giác ngộ), tiếng Việt gọi 2 cách:

Xổ số miền Bắc