Lạc đà – Wikipedia tiếng Việt

một đàn lạc đà

Lạc đà là tên gọi để chỉ một trong hai loài động vật guốc chẵn lớn trong chi Camelus, là Lạc đà một bướu và Lạc đà hai bướu. Cả hai loài này có nguồn gốc từ các vùng sa mạc của châu Á và Bắc Phi. Đây là loài động vật lớn nhất sống được trên sa mạc và các vùng khô cằn thiếu nước uống.

Trong một số ngôn ngữ thì lạc đà có nguồn gốc từ kamelos trong tiếng Hy Lạp, mà chính nó lại có nguồn gốc từ gamal trong tiếng Hebrew.[5][6]

Thuật ngữ lạc đà cũng được sử dụng rộng rãi hơn, để miêu tả một trong sáu loài động vật tương tự như lạc đà trong họ Camelidae: hai trong số đó là lạc đà thực sự, và bốn là các động vật giống như lạc đà ở Nam Mỹ: llama (lạc đà không bướu), alpaca, guanaco và vicuna.[7][8] Để có cái nhìn tổng quan hơn về họ lạc đà, xem Họ lạc đà. Để có thêm chi tiết về hai loài lạc đà thực sự, xem Lạc đà một bướu và Lạc đà hai bướu.

Tuổi thọ trung bình của lạc đà từ 45 đến 50 năm. [ 9 ] [ 10 ] Một con lạc đà trưởng thành cao 1,85 m đến bướu ở vai và 2,15 m ở bướu. [ 11 ] Lạc đà hoàn toàn có thể chạy 65 km / h ở vùng có cây bụi ngắn và duy trì vận tốc lên đến 65 km / h. [ 12 ] Lạc đà 2 bướu nặng 300 đến 1000 kg và lạc đà một bướu nặng 300 đến 600 kg .Lạc đà chịu được sự khắc nghiệt của sa mạc vì chúng có lớp lông bờm để bảo vệ khỏi cái nóng và cái lạnh trong lúc trời nắng hoặc vào đêm hôm trên sa mạc. Bàn chân chúng có những chiếc móng to kềnh giúp nó đi vững trên con đường không nhẵn sỏi đá hoặc trên lớp cát mềm. Quan trọng hơn là chúng biết cách giữ nước trong khung hình .

Cách giữ nước trong khung hình[sửa|sửa mã nguồn]

Lạc đà không chảy mồ hôi và cũng mất rất ít nước trong quy trình bài tiết. Ngay cả chất lỏng ở mũi cũng được giữ lại trải qua một khe xuống miệng. Lạc đà hoàn toàn có thể đi trong một thời hạn dài trên sa mạc, khi đó khối lượng của nó sẽ giảm đi khoảng chừng 40 %. [ 13 ] Nhưng đa phần nó sống được trên sa mạc lâu là nhờ cái bướu .

Lạc đà được biết đến nhiều nhất nhờ các bướu của chúng. Các bướu này không chứa nước như đa số người tin tưởng. Các bướu này là các nguồn dự trữ các mô mỡ,[14][15] trong khi nước được lưu trữ trong máu của chúng. Điều này cho phép chúng sống được nhiều ngày mà không có thức ăn và nước uống. Mỡ lạc đà sử dụng khi khan hiếm lương thực. Bướu lúc đó sẽ co lại và mềm đi. Đến khi có nước, nó có thể uống được liền một hơi 57l nước để bù lại phần chất lỏng bị mất. Không giống như các động vật có vú khác, hồng cầu của chúng là hình bầu dục chứ không phải hình tròn. Điều này tạo điều kiện cho dòng chảy của các tế bào hồng cầu trong quá trình mất nước.[16] và làm cho chúng tốt hơn trong việc chống lại dao động thẩm thấu cao thẩm thấu mà không bị vỡ khi uống một lượng lớn nước: một con lạc đà có cân nặng 600 kg (1.300 lb) có thể uống 200 L (53 gal Mỹ) nước trong 3 phút.[17][18]

Một cảnh giết mổ lạc đàLạc đà hai bướu có hai lớp lông : lớp lông tơ bên trong để giữ ấm và lớp lông thô bên ngoài dài hơn giống như tóc. Chúng sản xuất khoảng chừng 2,3 kg ( 5 pound ) sợi len hàng năm. Cấu trúc của sợi len lông lạc đà tương tự như như len casơmia. Lông tơ thường thì dài từ 2,5 – 7,5 cm ( 1-3 inch ). Lông tơ của lạc đà không tách ra thuận tiện. Lông tơ được xe thành sợi để dệt kim .Loài người đã thuần hóa lạc đà khoảng chừng 5000 năm trước đây. Lạc đà một bướu và lạc đà hai bướu vẫn được sử dụng để lấy sữa, thịt và làm động vật hoang dã chuyên chở — lạc đà một bướu ở Bắc Phi và Tây Á ; lạc đà hai bướu ở vùng đông và bắc của khu vực Trung Á .Mặc dù lúc bấy giờ còn khoảng chừng 13 triệu lạc đà một bướu còn sống, loài này đã tuyệt chủng trong điều kiện kèm theo sống hoang dã : tổng thể đã được thuần hóa ( hầu hết ở Sudan, Somalia, Ấn Độ và những vương quốc lân cận ), cũng như ở Cộng hòa Nam Phi, Namibia và Botswana. Tuy nhiên, có một quần thể sống hoang dã khoảng chừng 700.000 con ở miền trung nước Úc, chúng là hậu duệ của những thành viên đã thoát khỏi đời sống nhốt vào cuối thế kỷ 19. Quần thể này tăng trưởng khoảng chừng 11 % mỗi năm và trong thời hạn gần đây chính quyền sở tại Nam Úc đã quyết định hành động tàn phá loài động vật hoang dã này, nguyên do là chúng ngốn quá nhiều những nguồn tài nguyên vạn vật thiên nhiên hạn chế của những trang trại nuôi cừu .

Lạc đà hai bướu đã từng rất phổ biến, nhưng hiện nay quần thể của chúng đã giảm xuống chỉ còn khoảng 1,4 triệu con, chủ yếu là đã được thuần hóa. Người ta cho rằng còn khoảng 1.000 con lạc đà hai bướu sống hoang dã trong sa mạc Gobi, và một lượng nhỏ ở Iran, Afghanistan, Thổ Nhĩ Kỳ và Nga.

Một quần thể nhỏ lạc đà (một và hai bướu) nhập khẩu đã từng sống ở miền tây nam nước Mỹ cho đến đầu thế kỷ 20. Các động vật này được nhập khẩu từ Thổ Nhĩ Kỳ, là một phần trong thực nghiệm của US Camel Corps và được sử dụng như là động vật kéo xe trong các mỏ, và chúng đã trốn thoát hoặc được giải thoát sau khi dự án kết thúc.

Mi mắt của loài lạc đà rất dày để bảo vệ chúng khỏi cát bay sa mạc, mắt của nó có 3 mí .

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://mix166.vn
Category: Thiên Nhiên

Xổ số miền Bắc