SKKN Một số biện pháp rèn luyện chữ viết cho học sinh lớp 2

SKKN Một số biện pháp rèn luyện chữ viết cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.53 KB, 16 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN CHỮ VIẾT CHO HỌC SINH
LỚP 2”
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài :
– Tập viết là một trong những phân môn có tầm quan trọng đặc biệt ở tiểu học đối với học
sinh lớp 2. Nó góp phần rèn luyện kỹ năng viết chữ một trong những kỹ năng hàng đầu
trong việc học tiếng Việt trong trường.
– Mặt khác chữ viết cũng là biểu hiện nét nhân cách của con người.
– Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói:“Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người. Dạy cho học
sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp cũng góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận,
lòng tự trọng đối với mình và bạn đọc bài vở của mình”
-Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học,Tiếng Việt rất cần phải tạo điều kiện
cho học sinh tự giác luyện tập và rút kinh nghiệm qua thực hành luyện viết dưới sự
hướng dẫn của giáo viên. Việc rèn luyện kỹ năng viết nhanh, đẹp cho học sinh sẽ góp
phần đáp ứng được yêu cầu này.
-Trường Tiểu học An Thạnh 1 nằm trên địa bàn dân cư có mặt bằng dân trí cao.Có đủ
điều kiện cho học sinh học tập.Nhưng còn một số phụ huynh do chưa thực sự quan tâm
nên một số học sinh chữ viết xấu,chưa đúng mẫu,chưa sạch đẹp.
Từ những vấn đề thực tế trên, tôi chọn đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết cho học
sinh lớp 2”
II. Mục đích và pương pháp nghiên cứu:
1. Mục đích :
Tìm ra một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp trong phân môn tập viết nhằm nâng
cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 2D.Rèn cho học sinh tư thế ngồi
viết đúng, chữ viết đẹp, sạch,thói quen cẩn thận tốc độ nhanh khi viết,Trau dồi ngôn ngữ
nói, viết.
2. Phương pháp :
– Phương pháp nghiên cứu tài liệu
– Phương pháp điều tra

– Phương pháp thực nghiệm.
III.Giới hạn của đề tài :
Học sinh lớp 2D nói riêng, học sinh tiểu học nói chung.
* Đánh giá thực trạng chất lượng học sinh đầu năm: Tháng 09/2011
* Khảo sát chất lượng chữ viết cho học sinh lớp thực nghiệm
+ Giữa kỳ I
+ Cuối kỳ I
+ Giữa kỳ II
* Tổng kết, viết đề tài: Tháng 04/2012
IV. Kế hoạch thực hiện :
– Chọn đềb tài.
– Lập đề cương nghiên cứu.
– Thu thập dữ liệu.
– Thâm nhập thực tế.
– Hoàn thành sáng kiến.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận của việc rèn luyện kỹ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp2:
Chữ viết là một công cụ dùng đó giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương tiện để ghi
chép và tiếp nhận những tri thức văn hóa, khoa học và đời sống …,Do vậy, ở trường tiểu
học việc dạy học sinh biết chữ và từng bước làm chủ công cụ chữ viết để phục vụ cho
học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng hàng đầu của môn Tiếng Việt.
– So với chương trình lớp 1, nội dung của phân môn tập viết lớp 2 có những yêu cầu cụ
thể.
II. Cơ sở thực tiễn của việc rèn luyện kỹ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp
-Tiếp tục rèn luyện cho học sinh kỹ năng viết các chữ thường theo cỡ nhỏ đã học ở lớp 1
nhưng mức độ yêu cầu được nâng cao: viết đúng mẫu và đều nét.
– Chính thức dạy học sinh viết chữ hoa theo cỡ vừa và nhỏ (Ở lớp 1 học sinh mới làm
quen với chữ hoa qua hình thức tập tô trong giai đoạn luyện tập tổng hợp ở học kỳ 2). Để
thực hiện nhiệm vụ này, giáo viên phải giúp học sinh có những hiểu biết nhất định về
mẫu chữ hoa do Bộ mới ban hành nhằm tạo điều kiện cho các em rèn kỹ năng viết chữ cụ

thể:
– Nhớ được hình dáng các chữ cái viết hoa theo mẫu quy định
– Nắm được kích cỡ của từng chữ cái viết hoa (thể hiện trong khung chữ, trong mối quan
hệ giữa chữ cái viết thường).
VD: Trong cùng cỡ chữ, các chữ cái viết hoa: A, ¡, ¢, B, C… có độ cao bằng các
chữ cái viết thường: b g, h, k, l, y, riêng hai chữ cái viết hoa được viết với chiều cao 4
li Y, G.
– Nắm được thao tác viết từng nét chữ để tạo nên chữ cái viết hoa (đưa nét theo đúng quy
trình viết ).
* Dạy học sinh biết nối (ghép) chữ cái viết hoa với chữ cái thường trong một chữ ghi
tiếng đảm bảo tính thẩm mỹ, phục vụ cho yêu cầu viết chính tả và trình bày bài.
III. Thực trạng :
1. Thuận lợi :
Trường Tiểu học An Thạnh 1 nằm trên địa bàn dân cư đông, có mặt bằng dân trí
cao.Có đầy đủ điều kiện về cơ sở vật chất cho các em học tập.Học sinh lớp 2D có đủ đồ
dùng học tập.
2. Khó khăn :
Trong trường tiểu học việc dạy học sinh lớp 2D viết chữ là một công việc học sức khó
khăn chiếm nhiều thời gian và công sức của người giáo viên. Muốn học sinh tiểu học viết
đúng mẫu chữ, cỡ chữ tiến tới viết nhanh viết đẹp người giáo viên phải uốn nắn từng li
từng tí, phải tỉ mỉ chỉ bảo cho các em. Chính vì vậy nhiều giáo viên rất “ngại” khi rèn
sửa cho các em.
* Về phía học sinh: Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi sự tập trung chú ý của học sinh lớp 1, 2
còn yếu thiếu bền vững. Các em mau quên lại chóng chán.
Chính vì vậy một số không ít học sinh còn có thái độ tiêu cực:lười biếng, cẩu thả … khi
viết.
– Năm học 2011-2012 tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp 2. Sau khi làm
quen với lớp, tôi nhận thấy :
– Nhiều học sinh ngồi sai tư thế khi viết, lưng không thẳng, mắt dí sát vào vở như các em
Linh Duy, NgọcThanh, Trí Trung, Huỳnh Như, Hà Ly cả em cầm bút bằng 5 ngón tay

như Phước Huy, Trung Nghĩa, Thanh Tuyền
– Tốc độ viết rất chậm như: Tấn Phát, Thanh Ngân, Tấn Đạt.
– Chữ viết chưa đạt yêu cầu thể hiện ở một số điểm:
+ Chưa đúng hình dáng, cấu tạo chữ cái.
+ Không viết đúng quy trình viết chữ cái (điểm đặt bút chưa đúng ).
+ Không viết đúng độ cao các con chữ.
+ Chưa có kĩ năng viết liền mạch, liên kết chữ cái tạo chữ ghi tiếng.
+ Vị trí dấu thanh sai.
* Phân loại theo VSCS :
Sĩ số Loại A Loại B Loại C
SL % SL % SL %
32 17 53,1 12 37,5 3 9,3

III. Các biện pháp giải quyết vấn đề :
Với kết quả như trên tôi đã suy nghĩ để tìm ra các biện pháp để rèn chữ viết cho học
sinh như sau:
Biện pháp1: Phân loại chữ viết của học sinh theo các mức độ
Ngay từ đầu năm học tôi đã cho kiểm tra chữ viết của các em. Tôi xem xét kỹ để phân
loại chữ viết của học sinh theo các mức độ khác nhau. Từ đó tôi lên kế hoạch để sửa
“tật”cho từng em.
VD: Những em có điểm đặt bút chưa đúng tôi chỉ bảo cho các em cách tính dòng kẻ, xác
định điểm đặt bút …Những em viết chưa thẳng tôi có kế hoạch cho luyện nét sổ thẳng,
chữ chưa tròn tập viết nét cong tròn…
– Nhờ vậy các em đã nhớ lại được quy trình viết từng con chữ, biết luyện dần từng
chữ. Dần dần kết quả đã tốt hơn rất nhiều .
Biện pháp 2: Rèn tư thế viết đúng cho học sinh.
Tôi nhận thấy khi học sinh ngồi viết đúng tư thế sẽ là điều kiện thuận lợi cho các em
viết đúng, viết đẹp. Mặt khác việc làm đó cũng góp phần để phòng học sinh mắc bệnh
cận thị khi căn bệnh này ngày một gia tăng trong nhà trường phổ thông hiện nay. Tôi đã
hướng dẫn các em như sau:

* Tư thế ngồi viết: Ngồi ngay ngắn, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách vở
từ 25cm – 30cm. Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữ
vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải để ở trên mặt bàn
– Cách cầm bút: Khi viết học sinh cầm bút và điều khiển bút bằng ba ngón tay (ngón trỏ,
ngón cái và ngón giữa của bàn tay phải). Đầu ngón trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón cái giữ
bên trái, phía bên phải của đầu bút tựa vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa.
* Vị trí đặt vở: Vở đặt nghiêng so với mép bàn một góc khoảng 30 độ nghiêng về phía
bên phải.
– Để học sinh có kĩ năng trên, tôi đã làm một số công việc sau:
– Treo tranh mẫu tư thế ngồi viết và cách cầm bút trong phòng học ở lớp, đồng thời
thu nhỏ các hình ảnh này trên một trang giấy, phát cho từng học sinh kẹp trong vở tập
viết của mình để đánh dấu trang cần viết và luôn quan sát được khi viết
– Luôn nhắc nhở và uốn nắn tư thế viết ở tất cả giờ học chú trọng đặc biệt trong giờ
tập viết.
– Trao đổi cha mẹ học sinh về việc kiểm tra nhắc nhở con em khi tập viết ở nhà ngay
trong buổi họp CMHS biết để uốn nắn ở nhà.
Ngoài việc rèn tư thế tập viết đúng tôi còn chú trọng việc phân loại các lỗi sai của
học sinh trong quá trình viết để có thể rèn cho các em.
Biện pháp 3: Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy học, phương tiện dạy học.
Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh lớp 1,2 tôi thấy việc sử dụng đồ dùng trực
quan ( chữ mẫu)trong mỗi tiết tập viết là cần thiết. Đây cũng là điều kiện đầu tiên để các
em viết đúng
Chữ mẫu có nhiều hình thức: Chữ mẫu in sẵn, chữ mẫu phóng to trên bảng, chữ mẫu
trong vở tập viết, hộp chữ mẫu, chữ mẫu của giáo viên …mỗi loại chữ mẫu có tác dụng
khác nhau. Cụ thể:
+ Chữ mẫu phóng to trên bảng sẽ giúp học sinh dễ quan sát, từ đó tạo điều kiện
cho các em phân tích hình dạng, kích thước và các nét cơ bản cấu tạo chữ cái cần viết
trong bài học.
+ Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng giúp học sinh nắm được thứ tự viết các
nét chữ của từng chữ cái, cách nối các chữ cái trong một chữ nhằm đảm bảo yêu cầu viết

liền mạch, viết nhanh.
+ Chữ viết trong hộp chữ giúp các em kết hợp mắt nhìn, tay sờ để phối hợp các
thao tác viết chữ một cách đồng bộ.
+ Chữ của cô khi chấm bài, chữa bài cũng được học sinh quan sát như một loại
chữ mẫu. Vì vậy tôi luôn cố gắng viết đẹp đúng mẫu, rõ ràng.
Tóm lại để hỗ trợ cho việc dạy tập viết đạt hiệu quả cao người giáo viên cần triệt
để sử dụng các hình thức chữ mẫu cũng như nắm vững tác dụng của mỗi hình thức chữ
mẫu đó.
Biện pháp 4: Rèn kỹ thuật viết chữ.
Tập trung rèn luyện kĩ thuật liên kết liền mạch chữ cái viết hoa với chữ cái viết
thường. Tôi đã phân loại các trường hợp viết liên kết như sau:
* Trường hợp viết nối thuận lợi: Nét móc cuối cùng của chữ cái đứng trước nối với
nét móc đầu tiên của chữ cái đứng sau
VD: Bài A – Anh em thuận hoà
– Quy trình viết nối chữ Anh
– Viết chữ cái A đã học. Từ điểm cuối của nét lượn ngang thân chữ cái A lia bút
xuống điểm cuối của nét móc ngîc phải chữ cái A để viết tiếp nét nối với nét móc trái
của chữ cái n. Tiếp tục viết nét móc thứ hai của n. Khi viết đến phần móc phải phía dưới
lượn cong bình thường có thể viết nối với phần nét khuyết của chữ cái h, sau đó
viết hoàn chỉnh chữ cái h.
* Trường hợp viết nối không thuận lợi: đó là trường hợp nét cuối của chữ cái đứng
trước với điểm bắt đầu của chữ cái đứng sau không thể viết nét nối.
VD: Bài C – Chia ngọt sẻ bùi
– Quy trình viết chữ Chia
– Viết chữ C như đã học, từ điểm dừng bút của chữ C lia bót để viết tiếp chữ h rồi
rê bút viết tiếp chữ cái i và chữ cái a.
– Kỹ thuật viết nối chữ (Các chữ cái viết thường).
Việc nối chữ chủ yếu được thực hiện ở các chữ cái viết thường khi chúng đứng
lại gần nhau. Dựa vào những nét cơ bản của chữ cái tiếng Việt, tôi phân loại thành 4
trường hợp nối chữ (từ dễ đến khó) và lưu ý học sinh như sau:

– Trường hợp 1: nét móc cuối cùng của chữ cái trước nối với nét móc hoặc nét hất
đầu tiên của chữ cái sau:
VD: a – n = an; i – m = im; t – ư = tư
Nhìn chung trường hợp này viết dễ dàng thuận lợi
Lưu ý học sinh: Khi nối 2 nét móc ở hai chữ cái, cần điều tiết về độ doãng (khoảng
cách giữa 2 chữ cái) sao cho vừa phải, hợp lý để chữ viết đều nét và có tính thẩm mĩ.
– Trường hợp 2: Nét cong cuối cùng của chữ cái sau với nét móc (hoặc nét hất) đầu
tiên của chữ cái sau
VD: e – m = em; c – ư = cư Trường hợp nối chữ này cũng tương đối dễ dàng.
– Lưu ý: Điều chỉnh khoảng cách giữa hai chữ cái sao cho không gần quá hay xa quá
(VD: em,cư ) Hoặc chuyển hướng ngòi bút ở cuối nét cong (kín) để nối sang nét móc
(hoặc nét hất) sao cho hình dạng hai chữ cái vẫn rõ ràng, khoảng cách hợp lý (VD ơn,
oi )
– Trường hợp 3: Nét móc (hoặc nét khuyết) của chữ cái trước nối với nét cong của
chữ cái sau (VD: a – c = ac, h – o = ho, y – ê = yê ) đây là trường hợp nối chữ tương
đối khó, vừa đòi hỏi kỹ thuật lia bút vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách sao cho vừa
phải, hợp lý.
– Lưu ý học sinh:
+ Xác định điểm kết thúc (dùng bút) ở chữ cái trước để lia bút viết tiếp chữ cái sau sao
cho liền mạch tạo thành một khối các chữ cái.
+ Điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ cái trước hơi doãng rộng một chút để khi
viết tiếp chữ cái sau sẽ có khoảng cách vừa phải (không gần quá)
VD: Khi hướng dẫn học sinh viết chữ ao, giao viên lưu ý nhắc HS điều chỉnh phần
cuối nét móc của chữ a để khi viết tiếp chữ cái o sẽ có khoảng cách giữa a và o không
gần quá (bằng khoảng cách giữa a và i (ai).
– Trường hợp 4: Nét cong của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau VD: o
– e = oe; o – a = oa; x- o = xo Đây là trường hợp nối chữ khó nhất vừa đòi hỏi các kỹ
thuật rê bút, lia bút, chuyển hướng bút để tạo nét nối vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng
cách hợp lý, trên cơ sở thói quen và kĩ năng viết khá thành thạo của học sinh.
Lưu ý học sinh trường hợp viết chữ oe, oa.:

+ Rê bút từ điểm cuối của chữ cái o chúc xuống để gặp điểm bắt đầu của chữ cái e
sao cho nét vòng ở đầu chữ cái không được to quá (oe). Rê bút từ điểm cuối của chữ cái o
sang ngang rồi lia bút viết tiếp chữ cái a (oa).
Ngoài ra tôi còn hướng dẫn các em cách viết liền mạch. Viết liền mạch là viết tất
cả các hình cơ bản của chữ cái trong một chữ ghi tiếng rồi sau đó mới đặt dấu (kể cả dấu
phụ của con chữ) và dấu ghi thanh.
VD Viết chữ ruộng: Viết chữ liền mạch các hình cơ bản của chữ cái thành ruong sau đó
đặt dấu mũ (dấu phụ) trên 0 và dấu nặng (dấu thanh) dưới ô để thành ruộng.
Như vậy, với việc phân tích cách liên kết, cách viết liền mạch ngay từ những
bài viếtđầu tiên, nhiều học sinh trong lớp đã nắm được quy trình viết c¸c từ ứng dụng. ở
các bài tiếp theo, không cần sự hướng dẫn tỉ mỉ của cô giáo c¸c em còng có thể viết đúng
chữ theo mẫu. Tốc độ viết chữ của cả lớp nhanh dần. Chính vì vậy chất lượng học
tập của học sinh môn Tiếng Việt được nâng lên một cách rõ rệt.
Tập viết là một phân môn thực hành. Ngoài việc nắm được kĩ thuật viết chữ học
sinh phải được luyện tập nhiều lần để hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Vì thế việc luyện chữ
viết cho học sinh là rất quan trọng.
Biện pháp 5: Tăng cường luyện tập thực hành
Trước đây, trong tiết tập viết, một số giáo viên vẫn còn giảng giải nhiều thời gian
luyện của học sinh còn ít Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu đổi mới phương pháp dạy học
giờ tập viết cần tạo điều kiện để học sinh thực hành nhiều, tự rút kinh nghiệm cho bản
thân, từ đó rèn kĩ năng viết nhanh, đẹp.
Tôi sử dụng các hình thức tập luyện sau:
+ Học sinh tập viết chữ trên bảng lớp, trên bảng con.
Cách làm này rất tốt và giáo viên có thể kiểm tra được từng học sinh, uốn nắn để học sinh
tự sửa chỗ sai của mình trên bảng trước khi viết vào vở.
– Luyện tập viết trong vở tập viết: Giáo viên cần chú ý giúp các em viết đủ, viết
đúng số dòng đầu tiên ở mỗi phần bài viết để các em viết tốt hơn ở những dòng tiếp sau:
– Luyện tập viết chữ ở các môn học khác: Cần tận dụng việc tập viết các bài học,
bài làm ở các môn học khác để học sinh tập viết .
Để luyện tập đạt tới hiệu quả viết nhanh, đẹp, tôi thấy giáo viên cần chú ý:

+ Rèn luyện kĩ năng viết chữ phải tiến hành toàn diện, ở lớp, ở nhà, ở đủ các môn
học khác.
+ Kiên trì sửa và rèn chữ viết cho học sinh
Như vậy, với việc tăng cường luyện tập thực hành, học sinh lớp tôi đã có được kĩ năng
viết nhanh, đẹp đồng thời rèn luyện được ý thức tự giác luyện tập trong các môn học như
Toán, Tiếng Việt.
Ngoài các biện pháp nêu trên tôi còn kết hợp các công việc sau:
* Khuyến khích, khen ngợi kịp thời các em viết đúng, viết đẹp.
Công việc này tưởng chừng đơn giản nhưng hiệu quả của nó cũng tương đối rõ rệt.
Vì đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 2 rất thích được khen nên với mỗi bài viết đẹp tôi
vẫn cố gắng động viên các em kịp thời. Tôi dành một góc trong lớp để trưng bày các bài
viết đẹp. Nhờ vậy đã tạo được một không khí thi đua trong lớp. Các em hào hứng luyện
viết và tiết học không còn khô khan nữa.
* Kết hợp với PHHS trong việc rèn chữ cho các em ở nhà.
Vì đối tượng học sinh của tôi phần lớn là con em lao động nghèo, bố mẹ không có
thời gian cũng như không có kĩ thuật viết đúng đẹp để kèm con em nên ngay từ buổi họp
CMHS đầu năm học tôi đã trao đổi với các vị phụ huynh một số điểm cần lưu ý khi dạy
viết. Tôi cũng sưu tầm một số tài liệu, một số bài viết đẹp của các học sinh kh¸c, photo
tới tận tay từng vị phụ huynh để các vị có cơ sở làm mẫu cho con em mình luyện viết.
Bằng sự phối hợp các biện pháp nêu trên một cách hài hoà, chữ viết của học sinh
lớp tôi tiến bộ rõ rệt; đồng thời kết quả học tập các em cũng được nâng cao qua các đợt
kiểm tra.
V. Hiệu quả :
*VSCĐ
Các đợt KT
Loại A Loại B Loại C
SL % Sl % SL %
Đầu năm 12 37,5 17 53,1 3 9,3
Giữa kì I 17 48,5 12 37,5 3 9,3
Cuối kỳ I 20 62,5 10 31,2 2 6,2

Giữa kì 2 22 68,7 10 31,2 0 0
Cuối kỳ 2 26 81,2 6 18,7 0 0

C. PHẦN KẾT LUẬN
I. Ý nghĩa :
Việc rèn chữ, giữ vở và luyện viết chữ cho học sinh lớp 2 có thể viết đúng, đẹp là một
công việc hết sức bền bỉ, kiên trì của cả thầy và trò.
II. Khả năng áp dụng :
– Giáo viên chủ nhiệm kết hợp dạy kỹ thuật viết chữ với rèn chính tả, mở rộng vốn từ,
phát triển tư duy cho học sinh lớp 2D.
– Phối hợp với Cha mẹ phụ huynh học sinh để có thông tin trao đổi kịp thời, góp phần
rèn luyện những phẩm chất như tính cẩn thận óc thẩm mỹ, ý thức tự trọng người
khác.Luôn nhắc nhở học sinh viết đúng mẫu, nhanh, đẹp ở tất cả các môn học.Tạo được
không khí vui vẻ, phấn chấn cho học sinh khi viết.

III. Bài học kinh nghiệm :
Những kinh nghiệm mà bản thân tôi rút ra được trong quá trình áp dụng các biện
pháp đã nêu là :
– Bản thân giáo viên cũng phải luyện chữ, bởi chữ mẫu của cô cũng là một trực
quan để học sinh noi theo.
– Có kế hoạch rèn chữ, giữ vở, coi rèn chữ là yếu tố quan trọng để rèn nết người .
Trên đây là một số biện pháp và kết quả bước đầu khá khả quan của tôi trong việc
giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và việc dạy rèn viết nói riêng cho học sinh lớp 2
năm học 2011-2012.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Vở tập viết lớp 2 ( tập 1,2 ) – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
2. Quyết định 31 về mẫu chữ viết để dạy học ở trường tiểu học .
(Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo )
3.Phương pháp dạy học tập viết.

– Phương pháp thực nghiệm. III.Giới hạn của đề tài : Học sinh lớp 2D nói riêng, học sinh tiểu học nói chung. * Đánh giá tình hình chất lượng học sinh đầu năm : Tháng 09/2011 * Khảo sát chất lượng chữ viết cho học sinh lớp thực nghiệm + Giữa kỳ I + Cuối kỳ I + Giữa kỳ II * Tổng kết, viết đề tài : Tháng 04/2012 IV. Kế hoạch triển khai : – Chọn đềb tài. – Lập đề cương điều tra và nghiên cứu. – Thu thập dữ liệu. – Thâm nhập thực tiễn. – Hoàn thành ý tưởng sáng tạo. B. PHẦN NỘI DUNGI. Cơ sở lý luận của việc rèn luyện kiến thức và kỹ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp2 : Chữ viết là một công cụ dùng đó tiếp xúc và trao đổi thông tin, là phương tiện đi lại để ghichép và tiếp đón những tri thức văn hóa truyền thống, khoa học và đời sống …, Do vậy, ở trường tiểuhọc việc dạy học sinh biết chữ và từng bước làm chủ công cụ chữ viết để ship hàng chohọc tập và tiếp xúc là nhu yếu quan trọng số 1 của môn Tiếng Việt. – So với chương trình lớp 1, nội dung của phân môn tập viết lớp 2 có những nhu yếu cụthể. II. Cơ sở thực tiễn của việc rèn luyện kỹ năng và kiến thức viết đúng, đẹp cho học sinh lớp-Tiếp tục rèn luyện cho học sinh kiến thức và kỹ năng viết những chữ thường theo cỡ nhỏ đã học ở lớp 1 nhưng mức độ nhu yếu được nâng cao : viết đúng mẫu và đều nét. – Chính thức dạy học sinh viết chữ hoa theo cỡ vừa và nhỏ ( Ở lớp 1 học sinh mới làmquen với chữ hoa qua hình thức tập tô trong quy trình tiến độ rèn luyện tổng hợp ở học kỳ 2 ). Đểthực hiện trách nhiệm này, giáo viên phải giúp học sinh có những hiểu biết nhất định vềmẫu chữ hoa do Bộ mới phát hành nhằm mục đích tạo điều kiện kèm theo cho những em rèn kiến thức và kỹ năng viết chữ cụthể : – Nhớ được hình dáng những vần âm viết hoa theo mẫu pháp luật – Nắm được kích cỡ của từng vần âm viết hoa ( bộc lộ trong khung chữ, trong mối quanhệ giữa vần âm viết thường ). VD : Trong cùng cỡ chữ, những vần âm viết hoa : A, ¡, ¢, B, C … có độ cao bằng cácchữ cái viết thường : b g, h, k, l, y, riêng hai vần âm viết hoa được viết với chiều cao 4 li Y, G. – Nắm được thao tác viết từng nét chữ để tạo nên vần âm viết hoa ( đưa nét theo đúng quytrình viết ). * Dạy học sinh biết nối ( ghép ) vần âm viết hoa với vần âm thường trong một chữ ghitiếng bảo vệ tính thẩm mỹ và nghệ thuật, ship hàng cho nhu yếu viết chính tả và trình diễn bài. III. Thực trạng : 1. Thuận lợi : Trường Tiểu học An Thạnh 1 nằm trên địa phận dân cư đông, có mặt bằng dân trícao. Có không thiếu điều kiện kèm theo về cơ sở vật chất cho những em học tập. Học sinh lớp 2D có đủ đồdùng học tập. 2. Khó khăn : Trong trường tiểu học việc dạy học sinh lớp 2D viết chữ là một việc làm học sức khókhăn chiếm nhiều thời hạn và sức lực lao động của người giáo viên. Muốn học sinh tiểu học viếtđúng mẫu chữ, cỡ chữ tiến tới viết nhanh viết đẹp người giáo viên phải uốn nắn từng litừng tí, phải tỉ mỉ chỉ bảo cho những em. Chính thế cho nên nhiều giáo viên rất “ ngại ” khi rènsửa cho những em. * Về phía học sinh : Do đặc thù tâm ý lứa tuổi sự tập trung chuyên sâu chú ý quan tâm của học sinh lớp 1, 2 còn yếu thiếu vững chắc. Các em mau quên lại chóng chán. Chính vì thế 1 số ít không ít học sinh còn có thái độ xấu đi : lười biếng, cẩu thả … khiviết. – Năm học 2011 – 2012 tôi được nhà trường phân công đảm nhiệm lớp 2. Sau khi làmquen với lớp, tôi nhận thấy : – Nhiều học sinh ngồi sai tư thế khi viết, sống lưng không thẳng, mắt dí sát vào vở như những emLinh Duy, NgọcThanh, Trí Trung, Huỳnh Như, Hà Ly cả em cầm bút bằng 5 ngón taynhư Phước Huy, Trung Nghĩa, Thanh Tuyền – Tốc độ viết rất chậm như : Tấn Phát, Thanh Ngân, Tấn Đạt. – Chữ viết chưa đạt nhu yếu biểu lộ ở 1 số ít điểm : + Chưa đúng hình dáng, cấu trúc vần âm. + Không viết đúng quá trình viết vần âm ( điểm đặt bút chưa đúng ). + Không viết đúng độ cao những con chữ. + Chưa có kĩ năng viết liền lạc, link vần âm tạo chữ ghi tiếng. + Vị trí dấu thanh sai. * Phân loại theo VSCS : Sĩ số Loại A Loại B Loại CSL % SL % SL % 32 17 53,1 12 37,5 3 9,3 III. Các giải pháp xử lý yếu tố : Với tác dụng như trên tôi đã tâm lý để tìm ra những giải pháp để rèn chữ viết cho họcsinh như sau : Biện pháp1 : Phân loại chữ viết của học sinh theo những mức độNgay từ đầu năm học tôi đã cho kiểm tra chữ viết của những em. Tôi xem xét kỹ để phânloại chữ viết của học sinh theo những mức độ khác nhau. Từ đó tôi lên kế hoạch để sửa “ tật ” cho từng em. VD : Những em có điểm đặt bút chưa đúng tôi chỉ bảo cho những em cách tính dòng kẻ, xácđịnh điểm đặt bút … Những em viết chưa thẳng tôi có kế hoạch cho luyện nét sổ thẳng, chữ chưa tròn tập viết nét cong tròn … – Nhờ vậy những em đã nhớ lại được quá trình viết từng con chữ, biết luyện dần từngchữ. Dần dần tác dụng đã tốt hơn rất nhiều. Biện pháp 2 : Rèn tư thế viết đúng cho học sinh. Tôi nhận thấy khi học sinh ngồi viết đúng tư thế sẽ là điều kiện kèm theo thuận tiện cho những emviết đúng, viết đẹp. Mặt khác việc làm đó cũng góp thêm phần để phòng học sinh mắc bệnhcận thị khi căn bệnh này ngày một ngày càng tăng trong nhà trường đại trà phổ thông lúc bấy giờ. Tôi đãhướng dẫn những em như sau : * Tư thế ngồi viết : Ngồi ngay ngắn, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách vởtừ 25 cm – 30 cm. Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữvở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải để ở trên mặt bàn – Cách cầm bút : Khi viết học sinh cầm bút và tinh chỉnh và điều khiển bút bằng ba ngón tay ( ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa của bàn tay phải ). Đầu ngón trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón cái giữbên trái, phía bên phải của đầu bút tựa vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa. * Vị trí đặt vở : Vở đặt nghiêng so với mép bàn một góc khoảng chừng 30 độ nghiêng về phíabên phải. – Để học sinh có kĩ năng trên, tôi đã làm 1 số ít việc làm sau : – Treo tranh mẫu tư thế ngồi viết và cách cầm bút trong phòng học ở lớp, đồng thờithu nhỏ những hình ảnh này trên một trang giấy, phát cho từng học sinh kẹp trong vở tậpviết của mình để lưu lại trang cần viết và luôn quan sát được khi viết – Luôn nhắc nhở và uốn nắn tư thế viết ở toàn bộ giờ học chú trọng đặc biệt quan trọng trong giờtập viết. – Trao đổi cha mẹ học sinh về việc kiểm tra nhắc nhở con trẻ khi tập viết ở nhà ngaytrong buổi họp CMHS biết để uốn nắn ở nhà. Ngoài việc rèn tư thế tập viết đúng tôi còn chú trọng việc phân loại những lỗi sai củahọc sinh trong quy trình viết để hoàn toàn có thể rèn cho những em. Biện pháp 3 : Sử dụng hiệu suất cao vật dụng dạy học, phương tiện đi lại dạy học. Do đặc thù tâm ý lứa tuổi học sinh lớp 1,2 tôi thấy việc sử dụng vật dụng trựcquan ( chữ mẫu ) trong mỗi tiết tập viết là thiết yếu. Đây cũng là điều kiện kèm theo tiên phong để cácem viết đúngChữ mẫu có nhiều hình thức : Chữ mẫu in sẵn, chữ mẫu phóng to trên bảng, chữ mẫutrong vở tập viết, hộp chữ mẫu, chữ mẫu của giáo viên … mỗi loại chữ mẫu có tác dụngkhác nhau. Cụ thể : + Chữ mẫu phóng to trên bảng sẽ giúp học sinh dễ quan sát, từ đó tạo điều kiệncho những em nghiên cứu và phân tích hình dạng, size và những nét cơ bản cấu trúc vần âm cần viếttrong bài học kinh nghiệm. + Chữ mẫu của giáo viên viết trên bảng giúp học sinh nắm được thứ tự viết cácnét chữ của từng vần âm, cách nối những vần âm trong một chữ nhằm mục đích bảo vệ nhu yếu viếtliền mạch, viết nhanh. + Chữ viết trong hộp chữ giúp những em phối hợp mắt nhìn, tay sờ để phối hợp cácthao tác viết chữ một cách đồng điệu. + Chữ của cô khi chấm bài, chữa bài cũng được học sinh quan sát như một loạichữ mẫu. Vì vậy tôi luôn nỗ lực viết đẹp đúng mẫu, rõ ràng. Tóm lại để tương hỗ cho việc dạy tập viết đạt hiệu suất cao cao người giáo viên cần triệtđể sử dụng những hình thức chữ mẫu cũng như nắm vững công dụng của mỗi hình thức chữmẫu đó. Biện pháp 4 : Rèn kỹ thuật viết chữ. Tập trung rèn luyện kĩ thuật link liền mạch vần âm viết hoa với vần âm viếtthường. Tôi đã phân loại những trường hợp viết link như sau : * Trường hợp viết nối thuận tiện : Nét móc sau cuối của vần âm đứng trước nối vớinét móc tiên phong của vần âm đứng sauVD : Bài A – Anh em thuận hoà – Quy trình viết nối chữ Anh – Viết vần âm A đã học. Từ điểm cuối của nét lượn ngang thân vần âm A lia bútxuống điểm cuối của nét móc ngîc phải vần âm A để viết tiếp nét nối với nét móc tráicủa vần âm n. Tiếp tục viết nét móc thứ hai của n. Khi viết đến phần móc phải phía dướilượn cong thông thường hoàn toàn có thể viết nối với phần nét khuyết của vần âm h, sau đóviết hoàn hảo vần âm h. * Trường hợp viết nối không thuận tiện : đó là trường hợp nét cuối của vần âm đứngtrước với điểm mở màn của vần âm đứng sau không hề viết nét nối. VD : Bài C – Chia ngọt sẻ bùi – Quy trình viết chữ Chia – Viết chữ C như đã học, từ điểm dừng bút của chữ C lia bót để viết tiếp chữ h rồirê bút viết tiếp vần âm i và vần âm a. – Kỹ thuật viết nối chữ ( Các vần âm viết thường ). Việc nối chữ đa phần được triển khai ở những vần âm viết thường khi chúng đứnglại gần nhau. Dựa vào những nét cơ bản của vần âm tiếng Việt, tôi phân loại thành 4 trường hợp nối chữ ( từ dễ đến khó ) và quan tâm học sinh như sau : – Trường hợp 1 : nét móc sau cuối của vần âm trước nối với nét móc hoặc nét hấtđầu tiên của vần âm sau : VD : a – n = an ; i – m = im ; t – ư = tưNhìn chung trường hợp này viết thuận tiện thuận lợiLưu ý học sinh : Khi nối 2 nét móc ở hai vần âm, cần điều tiết về độ doãng ( khoảngcách giữa 2 vần âm ) sao cho vừa phải, hài hòa và hợp lý để chữ viết đều nét và có tính thẩm mĩ. – Trường hợp 2 : Nét cong ở đầu cuối của vần âm sau với nét móc ( hoặc nét hất ) đầutiên của vần âm sauVD : e – m = em ; c – ư = cư Trường hợp nối chữ này cũng tương đối thuận tiện. – Lưu ý : Điều chỉnh khoảng cách giữa hai vần âm sao cho không gần quá hay xa quá ( VD : em, cư ) Hoặc chuyển hướng ngòi bút ở cuối nét cong ( kín ) để nối sang nét móc ( hoặc nét hất ) sao cho hình dạng hai vần âm vẫn rõ ràng, khoảng cách hài hòa và hợp lý ( VD ơn, oi ) – Trường hợp 3 : Nét móc ( hoặc nét khuyết ) của vần âm trước nối với nét cong củachữ cái sau ( VD : a – c = ac, h – o = ho, y – ê = yê ) đây là trường hợp nối chữ tươngđối khó, vừa yên cầu kỹ thuật lia bút vừa nhu yếu việc ước đạt khoảng cách sao cho vừaphải, hài hòa và hợp lý. – Lưu ý học sinh : + Xác định điểm kết thúc ( dùng bút ) ở vần âm trước để lia bút viết tiếp vần âm sau saocho liền lạc tạo thành một khối những vần âm. + Điều chỉnh phần cuối nét móc của vần âm trước hơi doãng rộng một chút ít để khiviết tiếp vần âm sau sẽ có khoảng cách vừa phải ( không gần quá ) VD : Khi hướng dẫn học sinh viết chữ ao, giao viên chú ý quan tâm nhắc HS kiểm soát và điều chỉnh phầncuối nét móc của chữ a để khi viết tiếp vần âm o sẽ có khoảng cách giữa a và o khônggần quá ( bằng khoảng cách giữa a và i ( ai ). – Trường hợp 4 : Nét cong của vần âm trước nối với nét cong của vần âm sau VD : o – e = oe ; o – a = oa ; x – o = xo Đây là trường hợp nối chữ khó nhất vừa yên cầu những kỹthuật rê bút, lia bút, chuyển hướng bút để tạo nét nối vừa nhu yếu việc ước đạt khoảngcách hài hòa và hợp lý, trên cơ sở thói quen và kĩ năng viết khá thành thạo của học sinh. Lưu ý học sinh trường hợp viết chữ oe, oa. : + Rê bút từ điểm cuối của vần âm o chúc xuống để gặp điểm mở màn của vần âm esao cho nét vòng ở đầu vần âm không được to quá ( oe ). Rê bút từ điểm cuối của vần âm osang ngang rồi lia bút viết tiếp vần âm a ( oa ). Ngoài ra tôi còn hướng dẫn những em cách viết liền mạch. Viết liền mạch là viết tấtcả những hình cơ bản của vần âm trong một chữ ghi tiếng rồi sau đó mới đặt dấu ( kể cả dấuphụ của con chữ ) và dấu ghi thanh. VD Viết chữ ruộng : Viết chữ liền mạch những hình cơ bản của vần âm thành ruong sau đóđặt dấu mũ ( dấu phụ ) trên 0 và dấu nặng ( dấu thanh ) dưới ô để thành ruộng. Như vậy, với việc nghiên cứu và phân tích cách link, cách viết liền mạch ngay từ nhữngbài viếtđầu tiên, nhiều học sinh trong lớp đã nắm được quy trình tiến độ viết c ¸ c từ ứng dụng. ởcác bài tiếp theo, không cần sự hướng dẫn tỉ mỉ của cô giáo c ¸ c em còng hoàn toàn có thể viết đúngchữ theo mẫu. Tốc độ viết chữ của cả lớp nhanh dần. Chính vì thế chất lượng họctập của học sinh môn Tiếng Việt được nâng lên một cách rõ ràng. Tập viết là một phân môn thực hành thực tế. Ngoài việc nắm được kĩ thuật viết chữ họcsinh phải được rèn luyện nhiều lần để hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Vì thế việc luyện chữviết cho học sinh là rất quan trọng. Biện pháp 5 : Tăng cường rèn luyện thực hànhTrước đây, trong tiết tập viết, một số ít giáo viên vẫn còn giảng giải nhiều thời gianluyện của học sinh còn ít Hiện nay, để cung ứng nhu yếu thay đổi chiêu thức dạy họcgiờ tập viết cần tạo điều kiện kèm theo để học sinh thực hành thực tế nhiều, tự rút kinh nghiệm tay nghề cho bảnthân, từ đó rèn kĩ năng viết nhanh, đẹp. Tôi sử dụng những hình thức tập luyện sau : + Học sinh tập viết chữ trên bảng lớp, trên bảng con. Cách làm này rất tốt và giáo viên hoàn toàn có thể kiểm tra được từng học sinh, uốn nắn để học sinhtự sửa chỗ sai của mình trên bảng trước khi viết vào vở. – Luyện tập viết trong vở tập viết : Giáo viên cần quan tâm giúp những em viết đủ, viếtđúng số dòng tiên phong ở mỗi phần bài viết để những em viết tốt hơn ở những dòng tiếp sau : – Luyện tập viết chữ ở những môn học khác : Cần tận dụng việc tập viết những bài học kinh nghiệm, bài làm ở những môn học khác để học sinh tập viết. Để rèn luyện đạt tới hiệu suất cao viết nhanh, đẹp, tôi thấy giáo viên cần chú ý quan tâm : + Rèn luyện kĩ năng viết chữ phải triển khai tổng lực, ở lớp, ở nhà, ở đủ những mônhọc khác. + Kiên trì sửa và rèn chữ viết cho học sinhNhư vậy, với việc tăng cường rèn luyện thực hành thực tế, học sinh lớp tôi đã có được kĩ năngviết nhanh, đẹp đồng thời rèn luyện được ý thức tự giác rèn luyện trong những môn học nhưToán, Tiếng Việt. Ngoài những giải pháp nêu trên tôi còn tích hợp những việc làm sau : * Khuyến khích, khen ngợi kịp thời những em viết đúng, viết đẹp. Công việc này tưởng chừng đơn thuần nhưng hiệu suất cao của nó cũng tương đối rõ ràng. Vì đặc thù tâm ý của học sinh lớp 2 rất thích được khen nên với mỗi bài viết đẹp tôivẫn nỗ lực động viên những em kịp thời. Tôi dành một góc trong lớp để tọa lạc những bàiviết đẹp. Nhờ vậy đã tạo được một không khí thi đua trong lớp. Các em hào hứng luyệnviết và tiết học không còn khô khan nữa. * Kết hợp với PHHS trong việc rèn chữ cho những em ở nhà. Vì đối tượng người dùng học sinh của tôi phần đông là con trẻ lao động nghèo, cha mẹ không cóthời gian cũng như không có kĩ thuật viết đúng đẹp để kèm con trẻ nên ngay từ buổi họpCMHS đầu năm học tôi đã trao đổi với những vị cha mẹ 1 số ít điểm cần quan tâm khi dạyviết. Tôi cũng sưu tầm 1 số ít tài liệu, 1 số ít bài viết đẹp của những học sinh kh ¸ c, phototới tận nơi từng vị cha mẹ để những vị có cơ sở làm mẫu cho con em của mình mình luyện viết. Bằng sự phối hợp những giải pháp nêu trên một cách hài hoà, chữ viết của học sinhlớp tôi văn minh rõ ràng ; đồng thời hiệu quả học tập những em cũng được nâng cao qua những đợtkiểm tra. V. Hiệu quả : * VSCĐCác đợt KTLoại A Loại B Loại CSL % Sl % SL % Đầu năm 12 37,5 17 53,1 3 9,3 Giữa kì I 17 48,5 12 37,5 3 9,3 Cuối kỳ I 20 62,5 10 31,2 2 6,2 Giữa kì 2 22 68,7 10 31,2 0 0C uối kỳ 2 26 81,2 6 18,7 0 0C. PHẦN KẾT LUẬNI. Ý nghĩa : Việc rèn chữ, giữ vở và luyện viết chữ cho học sinh lớp 2 hoàn toàn có thể viết đúng, đẹp là mộtcông việc rất là bền chắc, kiên trì của cả thầy và trò. II. Khả năng vận dụng : – Giáo viên chủ nhiệm phối hợp dạy kỹ thuật viết chữ với rèn chính tả, lan rộng ra vốn từ, tăng trưởng tư duy cho học sinh lớp 2D. – Phối hợp với Cha mẹ cha mẹ học sinh để có thông tin trao đổi kịp thời, góp phầnrèn luyện những phẩm chất như tính cẩn trọng óc thẩm mỹ và nghệ thuật, ý thức tự trọng ngườikhác. Luôn nhắc nhở học sinh viết đúng mẫu, nhanh, đẹp ở tổng thể những môn học. Tạo đượckhông khí vui tươi, hoan hỉ cho học sinh khi viết. III. Bài học kinh nghiệm tay nghề : Những kinh nghiệm tay nghề mà bản thân tôi rút ra được trong quy trình vận dụng những biệnpháp đã nêu là : – Bản thân giáo viên cũng phải luyện chữ, bởi chữ mẫu của cô cũng là một trựcquan để học sinh noi theo. – Có kế hoạch rèn chữ, giữ vở, coi rèn chữ là yếu tố quan trọng để rèn nết người. Trên đây là 1 số ít giải pháp và hiệu quả trong bước đầu khá khả quan của tôi trong việcgiảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và việc dạy rèn viết nói riêng cho học sinh lớp 2 năm học 2011 – 2012. TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Vở tập viết lớp 2 ( tập 1,2 ) – Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam2. Quyết định 31 về mẫu chữ viết để dạy học ở trường tiểu học. ( Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo ) 3. Phương pháp dạy học tập viết .

Source: https://mix166.vn
Category: Thuật Ngữ

Xổ số miền Bắc