SM Entertainment – Wikipedia tiếng Việt

SM Entertainment Co., Ltd.

Tên bản ngữ

에스엠 엔터테인먼트

SM 엔터테인먼트

Tên cũ

[external_link_head]

SM Studio (1989–1995)

Loại hình

Đại chúng
Mã niêm yếtKRX: 041510
Ngành nghề
  • Giải trí
  • sản xuất
  • bán lẻ
  • du lịch
Thể loại
  • Electropop
  • K-pop
Thành lập1989 (SM Studio)

14 tháng 2 năm 1995; 26 năm trước (SM Entertainment)
Người sáng lậpLee Soo-man
Trụ sở chínhSeoul, Hàn Quốc

Nhân viên chủ chốt

Lee Sung Soo (CEO)

Tak Young Jun (CMO)[1]
Sản phẩmÂm nhạc & Giải trí
Dịch vụ
  • Phân phối bản ghi
  • Cấp phép
  • Xuất bản
Doanh thuUS$-61,788,0969756783)[2]

US$86,400,0969756783)[2]

US$99,437,0969756783)[3]

US$212,401,0969756783) [4]

Lợi nhuận kinh doanh

SM Entertainment – Wikipedia tiếng Việt US$51 triệu (2012) [5]

Lãi thực

SM Entertainment – Wikipedia tiếng Việt US$63 triệu (2012)
Chủ sở hữu
  • Lee Soo-man – 20.00%
  • National Pension Service – 4.80%
  • Bae Yong-joon – 4.05%
  • others – 71.15%
Số nhân viên486 (tính đến năm 2019)
Chi nhánh
  • SM Entertainment Japan Inc. (2001)
  • SM Entertainment USA Inc. (2008)
  • SM Brand Marketing (2008)
  • SM F&B Development (2008)
  • SM Amusement (2008)
  • SM True Co., Ltd (2011)
  • Dream Maker Entertainment (2012)
  • SM Entertainment Beijing Co., Ltd (2012)
  • SM Mobile Communications (2015)
  • galaxiaSM (kể từ 2015)
  • ESteem (kể từ 2015)
  • Mystic Story (kể từ 2017)
  • SM Planner (2017)
  • everysing (2017)
  • KEYEAST (kể từ 2018)
  • Million Market (kể từ 2018)
  • SM Entertainment Indonesia (kể từ 2019)
Công ty con
  • SM Culture & Contents (kể từ 2012)
  • Baljunso (kể từ 2014)
  • Label SJ (2015)
  • ScreaM Records (2016)
  • SM Life Design Group (kể từ 2018)[6]
Websitewww.smtown.com

www.smentertainment.com

SM Entertainment (Hangul: SM엔터테인먼트) là một công ty giải trí của Hàn Quốc,[7] được thành lập vào năm 1995 bởi Lee Soo-man. Công ty đã phát triển nhiều ngôi sao nổi tiếng K-pop với lượng người hâm mộ toàn cầu to lớn.[8][9] SM được biết đến là người đã dẫn dắt hiện tượng K-pop toàn cầu và khía cạnh âm nhạc của “Hallyu”,[10] còn được gọi là “Làn sóng Hàn Quốc”. Đại diện của ngành công nghiệp giải trí ở châu Á, công ty điều hành kinh doanh giải trí toàn diện của riêng mình bao gồm phát triển nghệ sĩ, hãng thu âm, đào tạo năng khiếu nghệ thuật, sản xuất âm nhạc, xuất bản âm nhạc, quản lý sự kiện và tổ chức các buổi hòa nhạc.

Nhãn hiệu này là công ty của nhiều nghệ sĩ K-pop nổi tiếng như Kangta, S.E.S., BoA, TVXQ!, CSJH The Grace, Shinhwa, Super Junior, Girls’ Generation, J-Min, Shinee, f(x), Zhou Mi, EXO, Red Velvet, SuperM, NCT, WayV, Aespa, và cũng đã từng sản xuất các nghệ sĩ nổi tiếng như H.O.T., Fly to the Sky, Shinhwa, TraxX, và Henry Lau. SM cũng quản lý một số diễn viên, bao gồm Kim Min-jong và Lee Yeon-hee. Tại Nhật Bản, SM Entertainment với Avex Trax cùng đồng quản lý cho các nghệ sĩ bao gồm Ayumi Hamasaki, Namie Amuro, và Koda Kumi, cũng như các nghệ sĩ của Johnny’s Entertainment bao gồm Arashi và KAT-TUN.[11]

Trong năm 2015, SM Entertainment đã báo cáo doanh thu là 325 tỷ KRW (khoảng 287 triệu USD) và thu nhập ròng là 21,7 tỷ KRW (19 triệu USD).[12]

[external_link offset=1]

Hiện nay, SM Entertainment đã có mặt tại thị trường Việt Nam và cũng đã có trụ sở tại đây (tầng 4, Crescent Mall, 101 Tôn Dật Tiên, quận 7, Tp.HCM)[13], dự kiến từ nay cho đến quý IV cửa hàng SM&Cafe và SM&Store sẽ chính thức khai trương trong đó có góp mặt của người sáng lập Lee Soo-man, và một số nghệ sĩ của SMTOWN. SM&Store tại quận 7, TpHCM là cửa hàng thứ hai và đầu tiên của SM tại nước ngoài ngoài cửa hàng tại Gangnam, Seoul, Hàn Quốc [14]. Dù chưa chính thức công bố nhưng đã có một số hình ảnh của SMTOWN tại dự án Seoul Made Street (khu đô thị Times City) Hà Nội, có thể thấy ông lớn SM đang rất hứng thú với thị trường Việt Nam.[15]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

1989–2002: Thành lập và thế hệ nghệ sĩ thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi tốt nghiệp trường Đại học California, Mỹ, Lee Soo-man trở về Hàn Quốc và sáng lập công ty SM Studio tại Apgujeong-dong, Gangnam, Seoul vào năm 1989. Công ty đổi tên thành SM Entertainment và bổ nhiệm Jung Hae-ik giữ chức vụ CEO vào tháng 2 năm 1995[16][17] S.M. phát triển một hệ thống đào tạo nội bộ và cho ra mắt một loạt các nghệ sĩ thành công bao gồm nhóm nhạc nam H.O.T. (1996), nhóm nhạc nữ S.E.S. (1997), nhóm nhạc nam Shinhwa (1998), bộ đôi Fly to the Sky (1999), và nữ ca sỹ BoA (2000). Kim Kyung-wook trở thành CEO của công ty vào năm 1998.

Đầu những năm 2000, H.O.T. và S.E.S. lần lượt tan rã, còn Shinhwa cũng chấm dứt hợp đồng với S.M. và chuyển sang công ty quản lý khác. Các nhóm nhạc mới như Isak N Jiyeon và Black Beat không đạt được thành công như các nghệ sĩ đi trước. Năm 2001, công ty thành lập chi nhánh SM Entertainment Japan tại Nhật Bản và bắt đầu liên kết với hãng đĩa Nhật Bản Avex Trax. Cuối năm 2002, S.M. nhận được giải thưởng Grand Prix trong lĩnh vực xuất khẩu âm nhạc của Bộ Văn hóa và Du lịch Hàn Quốc.

2003–2011: Thế hệ nghệ sĩ thứ 2 và phát triển ra thị trường quốc tế[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2003, S.M. liên kết với Starlight Corporation và C-Cube Entertainment Corporation, đồng thời cho ra mắt nhóm nhạc nam năm thành viên TVXQ. Sau đó công ty tiếp tục thành lập ban nhạc TRAX (2004), nhóm nhạc nữ The Grace (2005) và nhóm nhạc nam Super Junior (2005).

Năm 2005, Kim Young-min được bổ nhiệm trở thành CEO thứ ba của S.M..[18] Từ đó công ty cho ra mắt nhiều nghệ sĩ với mục tiêu quảng bá ở các thị trường nước ngoài, bao gồm: nữ ca sĩ Zhang Liyin (2006), nữ ca sĩ J-Min (2007), nhóm nhạc nữ Girls’ Generation (2007), nhóm nhạc nam SHINee (2008) và nhóm nhạc nữ f(x) (2009). Tháng 4 năm 2008, một nhóm nhỏ của Super Junior với tên gọi Super Junior-M được thành lập và bắt đầu hoạt động ở Trung Quốc. Tháng 5 năm 2008, S.M. thành lập SM Art Company nhằm sản xuất các vở kịch và nhạc kịch.[19]

Tháng 2 năm 2010, sau hai thập kỉ giữ cương vị tổng giám đốc, Lee Soo-man rút khỏi vị trí này nhằm “tập trung cho hoạt động kinh doanh tại nước ngoài và phát triển nghệ sĩ”.[20] Tháng 3 năm 2010, S.M. hợp tác với YG Entertainment, JYP Entertainment, Star Empire, Medialine, CAN Entertainment và Music Factory để thành lập nhà phân phối âm nhạc KMP Holdings.[21] Tháng 5 năm 2010, S.M. đạt mức lợi nhuật quý cao nhất trong lịch sử: 10,4 tỷ won (tăng 471% so với cùng kỳ năm 2009).[22]

Tháng 4 năm 2011, SM Entertainment. cùng YG Entertainment, JYP Entertainment, KeyEast, AMENT, và Star J Entertainment thành lập United Asia Management. Tháng 8 năm 2011, S.M. hợp tác với công ty truyền thông Thái Lan TrueVisions để thành lập SM True.[23]

2012–2015: Thế hệ nghệ sĩ thứ 3 và mở rộng lĩnh vực kinh doanh[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2012, S.M. cho ra mắt nhóm nhạc nam EXO với hai nhóm nhỏ hoạt động lần lượt tại Hàn Quốc và Trung Quốc.[24] Tháng 2 năm 2012, S.M. mua lại công ty du lịch Happy Hawaii và thành lập SM Town Travel hoạt động ở lĩnh vực du lịch.[25][26] Tháng 3 năm 2012, 47 nghệ sĩ S.M., bao gồm Kangta, BoA, Zhang Liyin, Go Ara, Isak, Lee Yeon-hee và các thành viên của TVXQ, Super Junior, Girls’ Generation, SHINee và f(x) trở thành cổ đông của công ty.[27] Tháng 8 năm 2012, S.M. tổ chức triển lãm S.M.Art Exhibition tại Trung tâm Hội nghị và Triển lãm COEX.[28] SM Culture & Contents (SM C&C), bộ phận hoạt động ở lĩnh vực truyền hình của S.M., ký hợp đồng độc quyền với Kang Ho-dong và Shin Dong-yup.[29][30] Tháng 9 năm 2012, SM C&C hợp nhất với AM Entertainment, công ty quản lý của các diễn viên như Jang Dong-gun, Kim Ha-neul và Han Ji-min,[31] đồng thời Lee Su-geun và Kim Byung-man cũng được thông báo là đã ký hợp đồng với S.M..[32]

Năm 2013, SM C&C mua lại Hoon Media, công ty sản xuất các chương trình truyền hình, và Woollim Entertainment, công ty quản lý của nhóm nhạc nam Infinite.[33] Tháng 8 năm 2014, S.M. cho ra mắt Red Velvet.

Tháng 8 năm 2015, S.M. hợp tác với IB Worldwide để thành lập Galaxia SM, công ty quản lý của các động viên như tay golf Park In-bee, vận động viên thể dục nhịp điệu Son Yeon-jae và cầu thủ bóng chày Choo Shin-soo. Ngày 6 tháng 11, 10 năm kể từ ngày ra mắt công chúng của Super Junior, S.M. công bố việc thành lập hãng đĩa con Label SJ dành riêng cho các thành viên và nhóm nhỏ của nhóm.[34] Công ty cũng đưa vào hoạt động chuỗi cửa hàng SUM Market và nhà hàng SMT tại Seoul.[35]

2016-nay: Mở rộng tầm ảnh hưởng và quan hệ đối tác kinh doanh ra toàn cầu[sửa | sửa mã nguồn]

[external_link offset=2]

Tháng 1 năm 2016, Lee Soo-man tổ chức một cuộc hội thảo tại SM Coex Artium để giới thiệu về kế hoạch cho ra mắt nhóm nhạc nam mới NCT với số lượng thành viên “không giới hạn”.[36][37] Các nhóm nhỏ đầu tiên của NCT–NCT U, NCT 127 và NCT Dream–lần lượt ra mắt công chúng trong suốt năm 2016.[38] Tháng 5 năm 2016, S.M. thành lập hãng đĩa con ScreaM Records tập trung vào thể loại nhạc dance điện tử.[39][40] Công ty cũng triển khai dự án âm nhạc Station với nội dung phát hành một bài hát vào thứ Sáu hàng tuần trong 52 tuần, và cho ra mắt một số ứng dụng dành cho các thiết bị di động.[41] Tháng 3 năm 2017, SM Entertainment thông báo đã mua 28% số cổ phiếu của MYSTIC Entertainment. Đây là công ty thành lập năm 2001 bởi Yoo JongShin. Công ty con của SM Entertainment là SM C&C sẽ bắt đầu quản lí việc sản xuất các video ca nhạc cho Mystic Ent.

Các công ty SM Entertainment đã đầu tư trước đây bao gồm AM Entertainment (năm 2012), Hoon Media (năm 2013), Baljunsoo (năm 2013).

Tháng 3 năm 2018, SM mua lại 31% số cổ phần của FNC Add Culture, trở thành cổ đông lớn nhất của công ty này, cũng như 25,12% số cổ phần của Key East Entertainment.

Tháng 8 năm 2019, SM and Capitol Music Group – tập đoàn đã ký hợp đồng với NCT 127 vào tháng 4 năm 2019[42] – công bố thành lập SuperM, một siêu nhóm nhạc bao gồm Taemin của SHINee, Baekhyun và Kai của EXO, và Taeyong, Ten, Lucas và Mark của NCT.[43] Nhóm ra mắt công chúng vào tháng 10 năm 2019.[43] Đĩa mở rộng đầu tay của nhóm lọt vào bảng xếp hạng Billboard 200 ở vị trí thứ nhất, lần đầu tiên album đầu tay của một nghệ sĩ châu Á làm được điều này.[44]

Tháng 3 năm 2020, SM bổ nhiệm giám đốc sản xuất Lee Sung Soo làm CEO và Tak Young Joon làm giám đốc marketing (CMO) mới của công ty.[45] Tháng 6 năm 2020, SM Town COEX Artium đóng cửa.[46] Nó sẽ được thay thế bởi một “khu phức hợp văn hóa” mới ở Changwon dự kiến sẽ hoàn tất xây dựng vào năm 2020.[47] Ngoài khu phức hợp mới này, SM còn hợp tác với Jongro Haneul Education để cho ra mắt Học viện SM, một cơ sở đào tạo có chức năng huấn luyện các học viên trong nước lẫn quốc tế trở thành nghệ sĩ tiềm năng. Học viện dự kiến sẽ mở cửa vào tháng 3 năm 2021.[48] Tháng 11 năm 2020, SM ra mắt nhóm nhạc nữ mới Aespa sau 6 năm kể từ Red Velvet.[49]

Danh sách nghệ sĩ[sửa | sửa mã nguồn]

Tất cả các nghệ sĩ hoạt động dưới sự quản lý của S.M. Entertainment được biết đến với tên gọi chung là SM Town.[50]

Âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm nhạc
Ca sĩ
Label SJ

Diễn viên[sửa | sửa mã nguồn]

Nhân vật truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

  • Kang Ho-dong
  • Shin Dong-yup
  • Lee Su-geun
  • Kim Byung-man
  • Jun Hyun-moo

Người mẫu[sửa | sửa mã nguồn]

Phòng thu[sửa | sửa mã nguồn]

Thực tập sinh[sửa | sửa mã nguồn]

Một nhóm các thực tập sinh của S.M. Entertainment đã và đang xuất hiện trong nhiều hoạt động quảng bá với tên gọi chung là “S.M. Rookies”.[51] Một số thực tập sinh trong nhóm này đã “tốt nghiệp” và ra mắt công chúng với tư cách thành viên các nhóm nhạc Red Velvet, NCT và Aespa.

Cựu nghệ sĩ[sửa | sửa mã nguồn]

Cựu thực tập sinh nổi bật[sửa | sửa mã nguồn]

  • Các cựu thành viên SM Rookies
  • Cho Hyun-young (Rainbow)
  • Choi Jun-hyuk (HOTSHOT)
  • Lee Hyori (ca sĩ solo, Fin.K.L)
  • G-Dragon (Big Bang)[52]
  • Go Woo-ri (Rainbow)
  • Gong Seung-yeon (diễn viên)[53]
  • Han Ji-hyo(Weeekly)
  • Han Mu-bo (X-Fire, Idol Producer)
  • Heo Chan-mi (Coed School, 5Dolls, Produce 101)
  • Heo Young-saeng (SS501, ca sĩ solo)[54]
  • Hou Minghao (Cựu thành viên Fresh Teenager Geek, diễn viên, ca sĩ solo)
  • Hwang Bo-ra (diễn viên)
  • Hwang In-ho (IN2IT)
  • Jeong Da-hyun (Rocket Punch)
  • Ji Han-sol (UNB, New Kidd)
  • Jo Jin-ho (SM The Ballad, Pentagon)
  • Kahi (ca sĩ solo, After School)
  • Kim Mun-gyu/Kim Timoteo (HOTSHOT)
  • Kim Woo-jin (Cựu thành viên Stray Kids)
  • Kwon Na-yeon (Woo!ah!)
  • Kwon Soon-Il (Urban Zakapa)
  • Lia (Itzy)
  • Lee Hwan-hee (ca sĩ solo)
  • Lee Jong-suk (diễn viên)
  • Lý Hoành Nghị (diễn viên)
  • Macrus (ca sĩ solo)
  • Park Do-ha (Cựu thành viên BOYS24)
  • Park Gyu-ri (Kara)[55]
  • Park Ji-hoon (Cựu thành viên Wanna One)
  • Park Jung-min (SS501, ca sĩ solo)
  • Park So-yeon (T-ara)
  • Raina (After School, Orange Caramel)
  • Park Jin-kyung (Woo!ah!)
  • Park Jungyeon (diễn viên)
  • Seo Herin (Idol School)
  • Sol Bi (ca sĩ solo)
  • Song Da-hye (Bestie)
  • Từ Nghệ Dương (Legal High, Sáng Tạo Doanh 2020, ca sĩ solo)
  • Hình Chiêu Lâm (diễn viên)
  • Yu Yeon-jung (Produce 101, I.O.I, Cosmic Girls)[56]
  • Châu Ngạn Thần (Idol Producer)
  • Đinh Trạch Nhân (Idol Producer, NEXT)

Phim[sửa | sửa mã nguồn]

  • Attack on the Pin-Up Boys (2007)
  • Heading to the Ground (2009)
  • Paradise Ranch (2011)
  • I AM. (2012)
  • To the Beautiful You (2012)
  • Prime Minister and I (2013)
  • Miss Korea (2013–2014)
  • Mimi (2014)
  • SMTown The Stage (2015)
  • Missing Nine (2017) EXO Next Door (2014)

Đối tác[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến tháng 6 năm 2014:

  • Fandango Korea
  • Avex Entertainment
  • EMI Records (trước là Nayutawave Records) (Girls’ Generation, J-Min, Shinee)
  • J Storm
  • TrueVisions Group
  • Kraze Burger (chỉ Nhật Bản)
  • YinYueTai
  • Kakao Inc.[57]
  • 9tunEs Entertainment

Phân phối nhãn hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Sau khi H.O.T. tan rã vào năm 2001, các thành viên Jang Woo-hyuk, Tony An và Lee Jae-won rời khỏi S.M. Entertainment và thành lập nhóm nhạc ba thành viên jtL. Moon Hee-jun và Kangta ở lại công ty và trở thành các ca sĩ solo. Moon Hee-jun rời khỏi công ty vào năm 2005.
  2. ^ Khi hợp đồng giữa Shinhwa và S.M. Entertainment chấm dứt vào năm 2003, công ty chỉ đề nghị tiếp tục ký hợp đồng với Eric Mun, Shin Hye-sung, Andy Lee, Jun Jin và Lee Min-woo. Tuy nhiên các thành viên đã từ chối nhằm giữ nguyên đội hình và chuyển sang hoạt động dưới sự quản lý của Good Entertainment. S.M. Entertainment cũng đã gây tranh cãi khi không cho phép nhóm tiếp tục sử dụng tên gọi “Shinhwa”, tuy nhiên nhóm đã khởi kiện và được tòa cho phép sử dụng tên gọi này.
  3. ^ M.I.L.K được thành lập bởi công ty con BM Entertainment của S.M. Entertainment và tan rã khi thành viên Bae Yu-mi rời nhóm vào năm 2003.
  4. ^ Sau khi Isak ‘N’ Jiyeon tan rã vào năm 2004, Jiyeon đổi nghệ danh thành Lina và gia nhập nhóm nhạc nữ The Grace vào năm 2005. Isak trở thành VJ và DJ phát thanh cho Arirang và rời khỏi S.M. Entertainment vào năm 2012.
  5. ^ a b c Kim Jae-joong, Park Yoo-chun và Kim Junsu ra mắt công chúng với tư cách thành viên của TVXQ vào năm 2003. Ba người cùng nhau khởi kiện S.M. Entertainment nhằm chấm dứt hợp đồng và ngừng hoạt động cùng nhóm vào năm 2009, sau đó thành lập nhóm nhạc JYJ vào năm 2010.
  6. ^ a b No Min-woo (nghệ danh Rose) và Kang Jung-woo (nghệ danh Attack) ra mắt công chúng với tư cách thành viên của TRAX vào năm 2004.
  7. ^ ra mắt công chúng với tư cách thành viên của Super Junior vào năm 2005. Anh khởi kiện S.M. Entertainment nhằm chấm dứt hợp đồng và rời khỏi công ty vào năm 2009.
  8. ^ Jessica ra mắt công chúng với tư cách thành viên của Girls’ Generation vào năm 2007. Cô ngừng hoạt động cùng nhóm vào tháng 9 năm 2014 và rời khỏi S.M. Entertainment vào tháng 8 năm 2015.
  9. ^ Kibum ra mắt công chúng với tư cách thành viên của Super Junior vào năm 2005. Anh ngừng hoạt động cùng nhóm vào năm 2009 và rời khỏi S.M. Entertainment vào tháng 8 năm 2015.
  10. ^ Stephanie ra mắt công chúng với tư cách thành viên của The Grace vào năm 2005. Cô rời khỏi S.M. Entertainment vào tháng 5 năm 2016.
  11. ^ Kris ra mắt công chúng với tư cách thành viên của EXO vào năm 2012. Anh khởi kiện S.M. Entertainment nhằm chấm dứt hợp đồng và ngừng hoạt động cùng nhóm vào tháng 5 năm 2014, sau đó rời khỏi công ty vào tháng 7 năm 2016.
  12. ^ Luhan ra mắt công chúng với tư cách thành viên của EXO vào năm 2012. Anh khởi kiện S.M. Entertainment nhằm chấm dứt hợp đồng và ngừng hoạt động cùng nhóm vào tháng 10 năm 2014, sau đó rời khỏi công ty vào tháng 7 năm 2016.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “SM엔터, 김영민·남소영 공동대표 선임…그룹사도 대표 인사 [공식]”. entertain.naver.com (bằng tiếng Hàn). ngày 31 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2019.
  2. ^ a b allkpop.com (ngày 14 tháng 4 năm 2011). “SM, YG, & JYP Entertainment earned a combined revenue of $150 million USD in 2010”. Naver. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2011.
  3. ^ (tiếng Hàn) The Star (ngày 31 tháng 5 năm 2012). “The Sales Revenue From SM, YG and JYP Entertainment Revealed”. The Star. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2012.
  4. ^ (tiếng Hàn) Star News (ngày 4 tháng 3 năm 2013). “SM·YG, 2012년 ‘사상최대’ 총매출 2682억·순이익 543억”. Star News. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2013.
  5. ^ “How much profit did SM Entertainment and YG Entertainment earn in 2012? allkpop.com”. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
  6. ^ “FNC, SM과 전략적 제휴…’SM라이프디자인그룹’으로 사명 변경(공식)”.
  7. ^ “`배용준 사단` 품은 SM, 1조 엔터공룡 됐다” (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2018.
  8. ^ “: The big 3 of Korean pop music and entertainment:The DONG-A ILBO”. english.donga.com. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2016.
  9. ^ Forbes Staff (ngày 31 tháng 7 năm 2013). “Korea’s S.M. Entertainment: The Company That Created K-Pop”. Forbes.
  10. ^ “[단독] SM 스타 및 직원 350여명,하와이로 대규모 단합 대회 떠난다…각종 화제, 진풍경 잇따라” (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2018.
  11. ^ “SMTOWN J-POP ZONE”. S.M. Entertainment.
  12. ^ “041510.KQ Income Statement | S.M. Stock – Yahoo! UK & Ireland Finance”. uk.finance.yahoo.com. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2016.
  13. ^ “SM TOWN ở Việt Nam có những gì?”.
  14. ^ “Đột nhập ‘Tổng hành dinh’ SM Entertainment tại Việt Nam: Fan có thể gặp được thần tượng theo cách này…”.
  15. ^ “Khởi công Dự án Seoul Made Street tại Hà Nội”.
  16. ^ Friedrichsen, Mike; Mühl-Benninghaus, Wolfgang (2013). Handbook of Social Media Management: Value Chain and Business Models in Changing Media Markets. Berlin: Springer Science & Business Media. tr. 553. ISBN 0969756783.
  17. ^ “소년공화국 “이름 때문에 북한 아이돌 아니냐더라” ”. Daum 연예. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  18. ^ “After 20 years, S.M. Entertainment to expand overseas base”. koreatimes. 7 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  19. ^ Koh Young-aah “Super Junior members set to make move into musicals” Korea Herald. ngày 30 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2012.
  20. ^ Kun-ouc, Park (ngày 25 tháng 2 năm 2010). “Lee Soo-man steps down from SM board of directors”. 10 Asia. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2012.
  21. ^ “Korean Music Power: KMP Holdings Co. Ltd. Launched!” Maeil Kyungje. ngày 18 tháng 3 năm 2010. Truy cập 0969756783 (tiếng Hàn)
  22. ^ Kim, Lynn (ngày 13 tháng 5 năm 2010). “SM Entertainment records biggest Q1 profit”. 10 Asia. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2012.
  23. ^ “SM 엔터, 태국서 첫 해외 합작법인 ‘SM True’ 설립” [SM Entertainment establishes joint venture company with Thailand’s True Visions Group, ‘SM True’]. Naver News (bằng tiếng Triều Tiên). ngày 17 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2012.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  24. ^ “SM 새 그룹 EXO, 30일 프롤로그 싱글 공개”. 네이트뉴스 (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2016.
  25. ^ Mun, Wan-Sik (ngày 27 tháng 2 năm 2012). “SM Entertainment takes over travel agency”. Star News. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2012.
  26. ^ “S.M.Global Package On Sale!”. www.smtowntravel.com. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2016.
  27. ^ Kim, JiYeon “SM Artists Take on SM Stock” Mnet News. ngày 27 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2012.
  28. ^ Kim, Hyung-eun (ngày 10 tháng 8 năm 2012). “Fantasies come true at the high-tech S.M.ART exhibit”. Joongang Daily. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2012.
  29. ^ Lee, JinHo (ngày 17 tháng 8 năm 2012). “Kang Ho Dong Announces Return by Signing with SM C&C”. enewsWorld. CJ E&M. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2012.[liên kết hỏng ]
  30. ^ Choi, Eunhwa (ngày 18 tháng 8 năm 2012). “Three Reasons Why Kang Ho Dong Signed with SM”. enewsWorld. CJ E&M. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2012.[liên kết hỏng ]
  31. ^ Ho, Stewart (ngày 19 tháng 9 năm 2012). “SM C&C Takes Over AM Entertainment – Home to Jang Dong Gun, Kim Ha Neul and Others”. enewsWorld. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2012.
  32. ^ Ho, Stewart (ngày 19 tháng 9 năm 2012). “Lee Su Geun, Kim Byung Man Join Kang Ho Dong at SM C&C?”. enewsWorld. CJ E&M. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2012.[liên kết hỏng ]
  33. ^ Aysohmay (ngày 9 tháng 8 năm 2013). “SM Entertainment Acquires Woollim Entertainment, Creates New Sublabel”. Jpopasia. Jpopasia. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2016.
  34. ^ “KPOP NEWS – Exclusive Super Junior Label ′Lable SJ′ Established for 10th Anniversary”. Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  35. ^ “SM Entertainment opens up-scale restaurant SMT Seoul – Pulse by Maeil Business News Korea”. pulsenews.co.kr. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  36. ^ “SM Entertainment’s next boy band to have ‘unlimited’ members”. kpopherald.koreaherald.com. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  37. ^ “S. Korea firm unveils K-pop band with limitless members”. www.yahoo.com. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  38. ^ “SM’s new K-pop band NCT U to debut this week”. koreatimes. 4 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  39. ^ “SM’s EDM label to drop first track”. The Korea Herald. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  40. ^ “SM, EDM레이블 ‘ScreaM Records’ 설립..5월6일 첫곡 발표”. Naver. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  41. ^ Yi, Lily. “Introducing NCT: How SM Entertainment is taking advantage of digital platforms to take over the global entertainment market”. www.koreadailyus.com. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2016.
  42. ^ Cirisano, Tatiana (ngày 4 tháng 4 năm 2019). “Capitol Music Group & Caroline Sign K-Pop Stars NCT 127 to Distribution Deal”. billboard. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2019.
  43. ^ a b Benjamin, Jeff (ngày 7 tháng 8 năm 2019). “Super M, ‘The Avengers Of K-Pop,’ Unveiled By SM Entertainment And Capitol Music Group”. Forbes. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2019.
  44. ^ “Meet SuperM, the K-Pop Supergroup That Skyrocketed to the Top of the Billboard Charts”. Time. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2020.
  45. ^ “SM엔터테인먼트, 이성수·탁영준 공동 대표 이사 선임 [공식입장]” [SM Entertainment appoints Lee Sung Soo and Tak Young Joon as co-CEOs]. Naver (bằng tiếng Hàn). ngày 10 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2020.
  46. ^ @smtownmuseum (18 tháng 5 năm 0200). “[email protected] business closure notice” (Tweet) – qua Twitter.
  47. ^ “SM Entertainment to build culture playground in Changwon”. The Korea Herald. ngày 21 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2020.
  48. ^ Choi, Hee-jae (ngày 9 tháng 9 năm 2020). “SM 엔터, ‘K팝 스타 양성’ 교육기관 설립…2021년 3월 개강 [공식입장]” [SM Entertainment establishes ‘K-pop star training’ educational institution…beginning in March 2021]. XSports News (bằng tiếng Hàn). Naver. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2020.
  49. ^ “Nhóm nhạc nữ mới của SM – aespa thông báo ngày ra mắt chính thức”.
  50. ^ “SMTOWN”. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
  51. ^ “SM Rookies”. S.M. Entertainment. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2015.
  52. ^ Choi, EunHwa (ngày 9 tháng 5 năm 2012). “G-Dragon was Actually a SM Trainee?”. enewsWorld. CJ E&M. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2012.[liên kết hỏng ]
  53. ^ “[Interview] Gong Seung Yeon Opens Up About Trainee Days with Red Velvet′s Seulgi, SUJU′s Henry and f(x)′s Sulli”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
  54. ^ “Heo Young Saeng’s Web of Celebrity Friends”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2013.
  55. ^ “Kara’s Park Gyuri Says She Almost Debuted With CSJH’s Dana”. enewsWorld. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2016.
  56. ^ “프로듀스 101 유연정, 소녀시대 ‘다시 만난 세계’ 완벽 소화… 제아의 인정 받아”. ChosunBiz (bằng tiếng Triều Tiên). ChosunBiz. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2016.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  57. ^ “SM Entertainment signs partnership with ‘Kakao’ ”. allkpop. ngày 10 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2013.
  58. ^ “Media Asia Music”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2014.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

SM Entertainment – Wikipedia tiếng ViệtWikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về SM Entertainment.
  • Trang chủ SM Entertainment (tiếng Hàn)
  • Trang chủ SM Entertainment tiếng Nhật (tiếng Nhật)
  • Trang chủ Avex Trax Japan Lưu trữ 0969756783 tại Wayback Machine (tiếng Nhật)
  • SM Entertainment & Avex Trax Joint-Venture website Lưu trữ 0969756783 tại Wayback Machine (tiếng Nhật)
  • S.M Entertainment trên Facebook
  • Kênh SM Entertainment trên YouTube

[external_footer]

Xổ số miền Bắc