tài liệu môn cơ sở văn hóa việt nam nhaaaaaaaaaaaaa – ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM CƠ SỞ – Studocu
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
(TÀI LIỆU HỌC TẬP)
Đà Nẵng, năm 2019
Mục lục bài viết
CHƢƠNG 1. VĂN HÓA HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
1.1. Dẫn luận Văn hoá học
1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Văn hóa
Sự phát triển của loài người gắn liền với văn hóa ngay từ những bước đi sơ khởi, tuy không phải ngay lúc ấy đã có một khái niệm văn hóa độc lập song có thể nói rằng văn hóa xuất hiện khá sớm từ thời cổ đại, trong ngôn ngữ của các dân tộc văn minh như Trung Hoa, Ấn Độ, Ai Cập, Hi Lạp.
Ở phương Đông, từ văn hóa mà chúng ta dùng có cội nguồn từ tiếng Hán. Trong ngôn ngữ Hán, hai chữ văn và hóa xuất hiện khá sớm, như hai từ đơn có nghĩa riêng biệt. Theo những tài liệu cổ xưa của Trung Quốc thì văn có nghĩa là “vẻ đẹp”, hóa có nghĩa là “biến đổi”, biến hóa. Văn hóa gộp lại theo nghĩa gốc là “làm cho đẹp, trở thành đẹp đẽ”.
Ở phương Tây, từ văn hóa xuất hiện vào khoảng thế kỷ III TCN. Xét về nguồn gốc, văn hóa là khái niệm gắn với sản xuất nông nghiệp. Văn hóa trong tiếng Latinh bắt nguồn từ chữ Cultus có nghĩa gốc là trồng trọt, cày cấy, vun trồng. Về sau, thuật ngữ văn hóa mở rộng thành Cultus animi và được chuyển nghĩa, nói về sự vun trồng tinh thần, trí tuệ, bồi dưỡng tâm hồn con người. Từ thuật ngữ gốc Latinh này mà xuất hiện từ Culture trong tiếng Anh, Pháp, Kultur trong tiếng Đức và Kultura trong tiếng Nga đều có nghĩa là văn hóa.
Theo tiến trình lịch sử, khái niệm văn hóa dần phong phú hơn về nội hàm, trong rất nhiều thế kỷ nó được dùng để chỉ những khái niệm và hiện tượng hết sức khác nhau. Năm 1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn xuất bản quyển sách Culture, a critical review of concept and definitions [Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái niệm và định nghĩa], trong đó tác giả đã trích lục khoảng 160 định nghĩa về văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước khác nhau. Điều này cho thấy, khái niệm “Văn hóa” rất phức tạp.
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa: “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội” . Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một; nó bao gồm tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật… Có người ví, định nghĩa này mang tính “bách khoa toàn thư” vì đã liệt kê hết mọi lĩnh vực sáng tạo của con người.
F. Boas định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau”. Theo định nghĩa này, mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và môi trường là quan trọng trong việc hình thành văn hóa của con người.
Phạm Văn Đồng cho rằng: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”. Theo định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc.
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng: “Văn hóa là một phức hệ-tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…”; còn hiểu theo nghĩa hẹp: “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng”,…
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Chúng tôi dựa trên các định nghĩa đã nêu để xác định một khái niệm văn hóa cho riêng mình nhằm thuận tiện cho việc thu thập và phân tích dự liệu khi nghiên cứu. Chúng tôi cho rằng, văn hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong qua trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay), được chi phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính cách của từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so với các loài động vật khác; và do được chi phối bởi môi trường xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng.
1.1.1.2. Các khái niệm liên quan với văn hóa
* Văn minh
Văn minh là danh từ Hán – Việt, văn là vẻ đẹp, minh là sáng, chỉ tia sáng của đạo đức biểu hiện ở chính trị, pháp luật, văn học, nghệ thuật.
Trong tiếng Anh, từ civilisation với nội hàm nghĩa văn minh, có từ căn gốc Latinh là civitas với nghĩa gốc là đô thị, thành phố và các nghĩa phái sinh là thị dân, công dân.
Văn minh chủ yếu liên quan tới kĩ thuật làm chủ thế giới, biến đổi thế giới sao cho đáp ứng được đòi hỏi của con người. Cho nên một thành tựu của văn minh thường lan rộng khắp thế giới. Nghiên cứu văn minh là nghiên cứu mặt động của trí tuệ, tâm thức con người. Nếu như văn minh của loài người tiến lên không ngừng thì văn hóa lại không thể. Có những nước văn minh rất cao nhưng văn hóa lại suy giảm. Thế giới đã trải qua nhiều nền văn minh: văn minh đồ đá, văn minh du mục, văn minh nông nghiệp, văn minh thương nghiệp, văn minh công nghiệp và đang bước vào văn minh hậu công nghiệp.
Như vậy, văn hóa và văn minh khác nhau ở các điểm sau:
Theo đấy, văn minh là khái niệm mang tính quốc tế, có nguồn gốc từ phương Tây đô thị và chỉ trình độ phát triển nhất định của văn hóa chủ yếu về phương diện vật chất.
*Văn vật là truyền thống văn hóa tốt đẹp được thể hiện thông qua một đội ngũ tài và hiện vật trong lịch sử.
Để dễ dàng cho việc phân biệt các thuật ngữ trên, Trần Ngọc Thêm đã thể hiện thông qua bảng so sánh:
VĂN HÓA
VĂN HIẾN
VĂN VẬT
VĂN MINH
Chứa cả giá trị vật chất lẫn tinh thần
Thiên về giá trị tinh thần
Thiên về giá trị vật chất
Thiên về giá trị vật chất-kỹ thuật
Có bề dày lịch sử
Chỉ trình độ phát triển
Có tính dân tộc
Có tính quốc tế
Gắn bó nhiều với Phương Đông nông nghiệp
Gắn bó nhiều với phương Tây đô thị
Bảng 1: So sánh văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật
1.1.1.3. Văn hóa học
Để nghiên cứu các biểu thị của văn hóa, người ta sử dụng nhiều môn khoa học khác nhau như Dân tộc chí, Dân tộc học, Nhân học, Xã hội học, Khảo cổ học, Tâm lý học…Tuy nhiên chỉ có văn hóa học là nghiên cứu văn hóa như một chỉnh thể tự biến đổi và phát triển.
Người đầu tiên đặt nền móng cho cách tiếp cận tổng thể trong nghiên cứu văn hóa và cũng được coi là người đầu tiên đặt nền móng cho văn hóa học là Edward B.Tylor – nhà nhân học nổi tiếng người Anh với cuốn Văn hóa nguyên thủy (1871).
Tuy nhiên, công sáng lập ra văn hóa học thì thuộc về nhà nhân học Hoa Kỳ Leslie Alvin White (1900-1975). Ông nổi tiếng với những công trình lý luận về sự tiến hóa của văn hóa và với những nghiên cứu khoa học về văn hóa mà ông gọi là “văn hóa học”. Trong các tác phẩm “Khoa học về văn hóa” (The Science of Culture -1949), “Sự tiến hóa của văn hóa” (The Evolution of Culture -1959), “Khái niệm văn hóa” (The concept of Culture -1973) L.A.White đã đặt cơ sở cho văn hóa học với tính cách là một môn khoa học độc lập, lý giải văn hóa như một hệ thống toàn vẹn, làm rõ phạm vi, nguyên tắc và đối tượng nghiên cứu của văn hóa học…
Cuối thế kỷ XX, khi tiến trình toàn cầu hóa tác động mạnh mẽ lên đời sống của các cá thể và cộng đồng trên thế giới, người ta mới thực sự chú ý đến vai trò của các tác nhân văn hóa đối với các quá trình phát triển kinh tế -xã hội, và do đó mới quan tâm đầu tư để thúc đẩy văn hóa học phát triển và lan rộng trên khắp thế giới. Nhờ thế mà các bộ môn nghiên cứu về văn hóa có điều kiện để phát triển, dẫn đến việc phổ biến khoa học về văn hóa ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Ở Việt Nam, khái niệm về Văn hóa học cũng được bàn luận nhiều nhưng vẫn chưa đi đến thống nhất. Có thể tham khảo một vài quan điểm sau :
Trong công trình Đại cương văn hóa Việt Nam, Phạm Thái Việt cho rằng: Văn hóa học là một bộ môn khoa học tương đối mới, một khoa học tích hợp, vừa nghiên cứu văn hóa nói chung vừa nghiên cứu các hiện tượng văn hóa riêng biệt. Mục đích của văn hóa học là phát hiện ra và phân tích tính quy luật của những biến đổi văn hóa – xã hội.
Còn Trần Ngọc Thêm thì cho rằng: “Văn hóa học là một ngành khoa học nhân văn giáp ranh với khoa học xã hội, có đối tượng nghiên cứu là văn hóa với tư cách một hệ thống giá trị mang tính biểu tượng, bằng hệ phương pháp lý luận định tính mang tính liên ngành với độ bao quát rộng các sự kiện và tính khái quát cao trong yêu cầu khảo cứu”.
1.1.2. Đặc trƣng và chức năng của văn hóa
Tính hệ thống là đặc trưng hàng đầu của văn hóa. Chính nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một đối tượng bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được một trong ba chức năng cơ bản của mình là chức năng tổ chức xã hội . Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.
Đặc trưng thứ hai của văn hóa là tính giá trị (“văn hóa là một hệ thống … của các giá trị vật chất và tinh thần…”).Văn hóa có nghĩa là “trở thành đẹp, thành có giá trị”. Văn hóa chỉ chứa cái đẹp, chứa các giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Đặc trưng tính giá trị cho phép phân biệt văn hóa với hậu quả của văn hóa hoặc những hiện tượng phi văn hóa.
Nhờ thường xuyên xem xét, phân loại các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai của mình là chức năng điều chỉnh xã hội, nó định hướng các giá trị, điều chỉnh các ứng xử, nó là động lực cho sự phát triển của xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động của mình.
Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính lịch sử (“văn hóa… do con người… tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn…)” . Tính lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng hình thành trong một quá trình và được tích luỹ qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu; và chính nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bố lại các giá trị.
Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống (truyền = chuyển giao, thống = nối tiếp ) là cơ chế tích lũy và truyền đạt kinh nghiệm qua không gian và thời gian trong cộng đồng. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những kinh nghiệm tập thể ) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian và được cố định hoá dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận….
Truyền thống văn hóa được tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng quan trọng thứ ba của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành. Các giá trị đã ổn định và những giá trị đang hình thành tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách ở con người, trồng người (dưỡng dục nhân cách). Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục của lịch sử.
Văn hóa còn có tính nhân sinh (văn hóa… do con người sáng tạo… ). Nó là một hiện tượng xã hội, là sản phẩm hoạt động thực tiễn của con người. Nói một cách hình tượng, văn hóa là cái tự nhiên đã được biến đổi dưới tác động của con người, là “phần giao” giữa tự nhiên và con người. Đặc trưng này cho phép phân biệt văn hóa với những giá trị tự nhiên chưa mang dấu ấn sáng tạo của con người (như các tài nguyên khoáng sản trong lòng đất). Sự tác động của con người đối với tự nhiên có thể mang tính vật chất (như việc luyện quặng để chế tạo đồ dùng, đẽo gỗ tạc tượng) hoặc mang tính tinh thần (như việc đặt tên, tạo truyền thuyết cho các cảnh quan thiên nhiên: vịnh Hạ Long, núi Ngũ Hành Sơn, hòn Vọng Phu….).
Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội, văn hóa trở thành một công cụ giao tiếp quan trọng. Chức năng giao tiếp là chức năng thứ tư của văn hóa. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó; điều đó đúng với giao tiếp giữa các cá nhân trong một dân tộc, lại càng đúng với giao tiếp giữa những người thuộc các dân tộc khác nhau và giao tiếp giữa các nền văn hóa.
. . . Cấu tr c của hệ thống văn hóa
Như đã nói, lâu nay, tính hệ thống của văn hóa chưa được chú ý đầy đủ, cho nên cũng chưa có được một mô hình hệ thống văn hóa đầy đủ và có sức thuyết phục. Để tiếp cận văn hóa như một hệ thống, cần phải vận dụng chính Lí thuyết hệ thống. Trên cơ sở này, hợp lí hơn cả là xem văn hóa như một hệ thống gồm 4 thành tố (4 tiểu hệ) cơ bản, mỗi tiểu hệ lại có hai vi hệ nhỏ hơn như sau:
HỆ THỐNG
TIỂU HỆ
VI HỆ
HỆ THỐNG VĂN HÓA
. Văn hóa nhận thức
a) Nhận thức về vũ trụ
b) Nhận thức về con người
2. Văn hóa tổ chức cộng đồng
a) Tổ chức đời sống tập thể
b) Tổ chức đời sống cá nhân
. Văn hóa ứng xử với môi trƣờng tự nhiên
a) Văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên
b) Văn hóa đối phó với môi trường tự nhiên
4. Văn hóa ứng xử với môi trƣờng xã hội
a) Văn hóa tận dụng môi trường xã hội
b) Văn hóa đối phó với môi trường xã hội
Bảng 2: Cấu trúc của Hệ thống văn hóa
. .4. Đối tƣợng của Văn hoá học
Mặc dù trong việc định nghĩa thế nào là văn hóa có rất nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau nhưng trong việc xác định đối tượng nghiên cứu của khoa học văn hóa thì các nhà nghiên cứu đều đi đến chỗ thống nhất: đối tượng của văn hóa học chính là văn hóa. Vậy nên, công việc của chúng ta là đã rõ ràng:
. .5. Các phƣơng pháp nghiên cứu . .5. . Phƣơng pháp chung
Hệ thống -chỉnh thể: khi xem xét bất cứ thành tố văn hóa nào cũng phải đặt nó trong chính hệ thống, chỉnh thể mà nó tồn tại nhằm tìm ra giá trị, vai trò thực chất của nó.
Liên ngành: Văn hóa vốn dĩ là một khái niệm hàm chứa những nội dung rất phong phú và rộng lớn. Để tiếp cận được, đặc biệt hơn là để có thể hiểu được, con đường tất yếu là phải tạo ra sự kết hợp của nhiều ngành khoa học khác nhau.
Lịch sử (cách tiếp cận lịch đại): nghiên cứu văn hóa dưới góc độ thời gian, bao gồm diễn trình văn hóa của một dân tộc qua từng giai đoạn lịch sử
Lôgich (cách tiếp cận đồng đại): nghiên cứu văn hóa dưới góc độ không gian, thời gian cụ thể, mang tính chất khách quan nhất, không áp đặt quan điểm của bản thân.
. .5.2. Phƣơng pháp chu ên biệt
Nhân học văn hoá: một trong những đối tượng nghiên cứu của ngành Nhân học là lịch sử hình thành, phát triển và không ngừng biến đổi của các tộc người. Nghiên cứu văn hóa dưới góc độ nhân học sẽ chỉ ra được đặc trưng văn hóa tộc người.
Sử học văn hoá: thực hiện phương pháp này, chúng ta nghiên cứu văn hóa trong tiến trình hình thành, phát triển với những quy luật nội tại của chúng, nghiên cứu văn hóa gắn với lịch sử tư tưởng, lịch sử xã hội của mỗi dân tộc và nhân loại.
Xã hội học văn hoá: vận dụng những phương pháp nghiên cứu tối ưu của Xã hội học như quan sát, miêu tả, điều tra hiện tượng văn hóa để có cái nhìn đa chiều, cả chất và lượng.
Kinh tế học văn hoá: Cơ sở kinh tế -xã hội quy định nội dung, bản chất của một nền văn hóa và của các thành tố văn hóa. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế sẽ không hiểu được nội dung, bản chất của văn hóa. Cơ sở kinh tế -xã hội góp phần xác định mục tiêu, xu hướng phát triển của văn hóa; bởi văn hóa mang tính giai cấp.
.2. Văn hoá Việt Nam
1.2.1. Khái niệm văn hóa Việt Nam
Văn hóa Việt Nam như đang tồn tại là nền văn hóa của một quốc gia đa tộc người. Hiện nay Việt Nam gồm có tất cả 54 tộc người, trong đó tộc người Việt/ Kinh là tộc người chủ thể. Chỉnh thể văn hóa Việt Nam được thể hiện bởi một nền văn hóa thống nhất của một quốc gia dân tộc bao gồm 54 sắc thái văn hóa của 54 tộc người, với đặc điểm là một nền văn hóa đa tộc người vừa có tính thống nhất, vừa có tính đa dạng. Tiếp cận văn hóa Việt Nam cần phải hiểu và phản ánh được tính thống nhất trong sự đa dạng ấy.
Hiện trạng văn hóa Việt Nam là kết quả của một quá trình phát triển lịch sử lâu dài, bắt đầu từ khi hình thành những nền tảng văn hóa thời Tiền sử và Sơ sử cho đến nay, đã hình thành những hằng số văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Hằng số và bản sắc văn hóa luôn được gìn giữ và phát huy, và nó đang là nền tảng cho việc xây dựng một “nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
.2.2. Định vị văn hoá Việt Nam
1.2.2.1. Địa -văn hoá
Địa – văn hóa vừa là một phương pháp dùng để định vị văn hóa theo vùng địa lý, đồng thời cũng là phương pháp kiến giải các đặc điểm văn hóa dựa vào điều kiện địa lý và hoàn cảnh tự nhiên. Phương pháp này cùng với những phương pháp khác đã góp phần lý giải tính đồng nhất (tương đồng) văn hóa của các cộng đồng người cùng sống trên một vùng lãnh thổ -nơi có điều kiện tự nhiên khá giống nhau.
Vận dụng vào việc định vị văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm cho rằng xét từ trong cội nguồn, không gian văn hóa Việt Nam vốn được định hình trên nền của không gian văn hóa khu vực Đông Nam Á. Có thể hình dung không gian văn hóa khu vực Đông Nam Á này như một hình tròn bao quát toàn bộ Đông Nam Á lục địa và hải đảo.
Dù rộng hay hẹp thì đặc trưng địa lý cố hữu của khu vực này vẫn là: nhiệt độ, độ ẩm cao và có gió mùa. Điều kiện tự nhiên quy định cho khu vực này loại hình văn hóa nông nghiệp với những đặc điểm sau:
Do nằm trong vùng địa lý này nên văn hóa Việt Nam có đầy đủ những phẩm chất nói trên và chúng cấu thành các yếu tố đặc thù (mang tính khu vực) trong nội dung văn hóa Việt Nam.
Bên cạnh đó, điều kiện địa lý riêng có của Việt Nam cũng tạo ra những phẩm chất văn hóa độc đáo (các yếu tố riêng thuộc về bản sắc). Đó là:
1.2.2.2. Nhân học -văn hoá
Cùng với thời gian lịch sử, dân số trên hành tinh ngày càng tăng, điều kiện tự nhiên ở một số vùng trên trái đất cũng thay đổi và do cả những cuộc xâm lược lẫn nhau của chính con người đã dẫn đến những làn sóng di cư nhân khẩu từ vùng địa lý này sang vùng địa lý khác.
Di cư đã làm thay đổi đáng kể diện mạo của thứ văn hóa vốn trước kia bị chi phối bởi hoàn cảnh địa lý. Sự phát tán các cộng đồng người đã làm cho một không gian địa lý có thể hàm chứa vô số các không gian văn hóa khác nhau. Đây là nguyên nhân cơ bản thúc đẩy sự ra đời của phương pháp nhân học – văn hóa nhằm khắc phục những hạn chế của phương pháp địa – văn hóa.
Phương pháp này xác định thực thể văn hóa chủ yếu dựa vào sự phân bố chủng người và thổ ngữ. Bằng cách gắn các phẩm chất văn hóa với chủ thể -con người (vừa là vật mang, vừa là chủ thể, vừa là kết quả của văn hóa), phương pháp này đã giảm thiểu việc lệ thuộc vào hoàn cảnh địa lý khi tiến hành lý giải các hiện tượng văn hóa. Nó chuyển sang xem xét văn hóa như một quá trình tự thân có khả năng tái sản xuất ra chính nó trong khuôn khổ của một cồng đồng xác định.
Vận dụng vào việc định vị văn hóa Việt Nam, có thể thấy văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Tính đa dạng văn hóa là kết quả của sự đa dạng tộc người (có 54 tộc người đang sinh sống tại Việt Nam), trong đó, tộc người Kinh (Việt) đóng vai trò chủ thể (chiếm 90% tổng dân số). Bởi vậy, văn hóa Việt Nam tuy đa dạng song vẫn hướng tâm vào văn hóa chủ thể -văn hóa Việt.
1.2.2.3. Tôn giáo
Trong thiên niên kỷ thứ ba này, quá trình toàn cầu hóa đang kiến tạo nên các hệ thống chuẩn mực chung cho toàn nhân loại. Điều đó có nghĩa là, khía cạnh văn minh đang gia tăng một cách tỷ lệ thuận với sự tiến triển của toàn cầu hóa. Chính điều này đã làm cho các nền văn hóa ngày càng trở nên giống nhau hơn, xét từ góc độ văn minh.
Trong tình huống đó, tôn giáo với bản tính phi duy lý cố hữu của nó đã không bị biến dạng bởi tính duy lý của khoa học và công nghệ. Nhờ đó, tôn giáo đã trở thành chỗ dựa cho bản sắc văn hóa của nhiều cộng đồng trong điều kiện toàn cầu hóa. Đó chính là lý do khiến việc định vị văn hóa bằng tôn giáo trở thành một phương pháp thịnh hành trong các nghiên cứu hiện nay về văn hóa.
Có thể coi Chiristopher Dawson (1889 -1970) là ông tổ sáng lập ra phương pháp định vị này. Theo ông, tôn giáo không phải là một hình thái ý thức trừu tượng mà là truyền thống văn hóa hay tập tục văn hóa. Cũng theo ông thì một xã hội giàu sức sống tất có một tôn giáo, mà tôn giáo này ở mức độ rất lớn lại quyết định phương thức văn hóa của xã hội ấy. Do đó, việc nghiên cứu tôn giáo trong sự thống nhất với văn hóa sẽ mở ra một cái nhìn mới, hay nói đúng hơn là cho phép đánh giá lại các vấn đề có liên quan đến sự phát triển xã hội.
Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu hiện nay, Việt Nam thuộc cộng đồng các quốc gia Phật giáo (cùng với Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma…). Cách phân loại này đã không xếp Nho giáo vào hàng tôn giáo.
Một số khác coi Việt Nam nằm trong cộng đồng của các nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo (như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…).
Tồn tại quan điểm thứ ba, mà chủ yếu là các học giả trong nước, đó là coi tôn giáo ở Việt Nam mang tính tổng hợp theo nguyên lý “Tam giáo đồng nguyên” (Nho – Phật – Đạo). Trong đó, Phật giáo giữ vai trò cơ sở, chất dung môi để hòa trộn hai yếu tố còn lại.
Như vậy, đối với Việt Nam, việc định vị văn hóa dựa trên dấu hiệu tôn giáo là rất khó khăn, do thiếu tính thuần nhất về tín ngưỡng và tôn giáo. Bởi vậy, việc sử dụng lý thuyết giao lưu – tiếp biến văn hóa để định vị trong trường hợp này là rất cần thiết.
1.2.2.4. Giao lưu và tiếp biến văn hoá
Với vị trí địa lí giao điểm của các luồng văn hóa, quá trình phát triển lịch sử -xã hội của Việt Nam đã bị chi phối mạnh mẽ bởi các quan hệ giao lưu văn hóa rộng rãi với Đông Nam Á, Trung Hoa, Ấn Độ và phương Tây. Dưới giác độ giao lưu tiếp biến, văn hóa Việt Nam là kết quả của các cuộc gặp gỡ văn hóa lớn trong khu vực:
1.2.3. Diễn trình lịch sử của văn hoá Việt Nam
1.2.3.1. Văn hoá Việt Nam thời Tiền sử và Sơ sử
Giai đoạn bản địa của văn hóa Việt Nam có thể tính từ khi con người bắt đầu có mặt trên lãnh thổ Việt Nam cho tới khoảng thế kỷ I.TCN. Đây là một giai đoạn dài và có tính chất quyết định, là giai đoạn hình thành, phát triển và định vị của văn hóa Việt Nam. Giai đoạn này có thể chia làm hai thời kỳ: thời Tiền sử từ buổi đầu đến cuối thời đại đá mới; thời Sơ sử cách đây khoảng trên dưới 4000 năm.
1.2.3.1.1. Thời Tiền sử
Những kết quả nghiên cứu khoa học hiện nay của Khảo cổ học và Cổ nhân học đã khẳng định: Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những chiếc nôi của loài người. Cách đây khoảng 40 – 50 vạn năm và đến bây giờ khí hậu Việt Nam mang nặng đặc trưng nhiệt đới nóng ẩm thích hợp cho sự sinh sống của con người. Với những vết tích còn lại là các di cốt người – vượn trong các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn) và hang Thẩm Ồm (Nghệ An) và những phát hiện di cốt người hiện đại trong hang Hùm (Yên Bái) và hang Kéo Lèng (Lạng Sơn) đã chứng tỏ ở Việt Nam, con người đã có mặt từ rất sớm và đã trải qua sự tiến hóa từ dạng người vượn đến dạng người hiện đại (người khôn ngoan – Homo sapien).
Mở đầu cho giai đoạn tiền sử là văn hóa Núi Đọ (tên di chỉ khảo cổ học thuộc sơ kỳ thời đại đồ đá cũ (cách đây khoảng 300.000 năm) phát hiện ở núi Đọ -Thiệu Hóa – Thanh Hóa).
Sau văn hóa Núi Đọ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra di chỉ khảo cổ học thuộc hậu kỳ đá cũ ở Việt Nam, đó là văn hóa Sơn Vi – Lâm Thao, Phú Thọ (tồn tại trong khoảng từ 30.000 đến 11.000 năm cách ngày nay).
Trong giai đoạn Tiền sử, cách đây khoảng một vạn năm, loài người cũng bước vào thời đại đá mới. Thời kỳ này con người nhận biết, tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre, gỗ… Kĩ thuật chế tác đá được hoàn thiện và đạt tới đỉnh cao, loại hình công cụ nhiều. Đặc biệt con người đã biết làm gốm, thuần dưỡng động vật và cây trồng, bắt đầu sống định cư, dân số gia tăng. Tiêu biểu cho giai đoạn này là văn hóa Hòa Bình.
Cư dân văn hóa Hòa Bình sống chủ yếu trong các hang động núi đá vôi, nhất là khu vực gần cửa hang thoáng đãng, có ánh sáng. Người Hòa Bình cũng sống chủ yếu bằng săn bắt và hái lượm theo phổ rộng.
Sự xuất hiện của nông nghiệp trồng trọt và muộn hơn một chút trong các văn hóa thuộc trung kỳ và hậu kỳ đá mới, việc sản xuất đồ gốm đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong đời sống con người, từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản xuất. Cũng nhờ phương thức sản xuất mới mà con người đã mở rộng không gian sinh tồn, họ đã chinh phục được hai vùng sinh thái là núi, trước núi và ven biển.
Thời kỳ này cũng để lại những dấu vết của nghệ thuật như những hiện vật bằng xương có vết khắc hình cá, hình thú và những hình vẽ trên vách hang Đồng Nội, những mảnh thổ hoàng… Tư duy về thời gian vũ trụ được con người thể hiện bằng những hoa văn kí hiệu biểu thị mặt trời như hình tròn, hình chữ… vẽ trên đồ gốm. Thời kỳ này cũng xuất hiện những tín ngưỡng nguyên thủy. Là cư dân nông nghiệp nên mưa, gió và đặc biệt là mặt trời đã trở thành những thần linh quan trọng đối với con người.
1.2.3.1.2. Thời Sơ sử
Cách đây 4.000 năm, các cộng đồng cư dân từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Đồng Nai đã bước vào thời đại kim khí/ thời đại đồ đồng. Thời kỳ này trên lãnh thổ Việt Nam có ba trung tâm văn hóa:
* Văn hóa Đông Sơn
Quá trình hình thành và phát triển của văn hóa Đông Sơn ở miền Bắc là một quá trình hình thành nên cái cốt lõi của người Việt cổ và Nhà nước đầu tiên của người Việt cổ. Quá trình này là một sự phát triển có ý nghĩa nhảy vọt trong lịch sử Việt Nam. Bởi lẽ, về mặt xã hội sự phát triển từ xã hội công xã nguyên thủy sang xã hội phân hóa giai cấp sơ kỳ, từ bộ lạc đến liên minh bộ lạc, tiến đến hình thành Nhà nước sơ khai là Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng, rồi Nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương. Về mặt văn hóa thì từ những tiền đề của văn hóa thời Tiền sử đã hình thành nên nền văn minh đầu tiên của người Việt cổ là văn minh sông Hồng – quá trình văn hóa bộ lạc mất dần tính địa phương để hòa chung vào một nền văn hóa thống nhất trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt – Trung cho đến bờ sông Gianh (Quảng Bình) với chủ nhân là một cộng đồng cư dân nhiều thành phần tộc người (54 tộc người) thuộc 4 ngữ hệ lớn: Nam Á, Thái, Tạng – Miến, Nam Đảo.
Xã hội Đông Sơn là một xã hội đã có phân hóa nhưng chưa sâu sắc, Nhà nước thì mới hình thành. Đơn vị cơ sở của xã hội là công xã nông thôn – một tổ chức mang tính chất vùng địa lý, tập hợp một số gia đình gần gũi nhau cùng chung sống, quan hệ huyết thống dòng họ được duy trì. Đơn vị kinh tế là gia đình nhỏ.
Ở phạm vi quốc gia, ngay từ thời kỳ này đã xác lập thể kết hợp “Nhà – Làng – Nước” mang sắc thái riêng của xã hội truyền thống Việt Nam. Trong đó, làng là đơn vị xã hội – văn hóa giữ vai trò chủ yếu trong sáng tạo, bảo tồn và tái tạo các truyền thống văn hóa.
Nền kinh tế nông nghiệp lúa nước dùng cày với sức kéo trâu bò phát triển, với sản phẩm chủ yếu là lúa. Bên cạnh đó là các ngành sản xuất thủ công như luyện kim, chế tạo đồ gốm, thủy tinh, nghề mộc, nghề dệt vải cũng phát triển.
Cơ cấu bữa ăn là Cơm – Rau -Cá. Có tục uống nước chè, uống rượu, tục ăn trầu, nhuộm răng, xăm mình… Y phục: sau một thời kỳ dùng vỏ cây làm áo, người Việt cổ tiến tới trồng gai, đay, trồng dâu chăn tằm, ươm tơ, dệt vải lụa. Từ các chất liệu đó, người xưa làm ra khố, váy, yếm, thắt lưng, khăn đội đầu… Nhà ở chủ yếu là nhà sàn có nhiều kiểu dáng, vật dụng sinh hoạt chủ yếu bằng gốm, tre nứa… Phương tiện đi lại là bằng thuyền, bè, mảng… Ngoài ra còn có đi bộ, gánh gồng mang vác trên vai trên lưng, con người cũng biết thuần dưỡng voi để chuyển chở. Nghề mộc phát triển nên người xưa đã đóng được những thuyền lớn chở được vài chục người, họ còn đóng cả thuyền chiến, thuyền đua…
Tín ngưỡng người Đông Sơn chủ yếu liên quan đến nông nghiệp trồng lúa. Đó là hình thái tín ngưỡng sùng bái tự nhiên với tục thờ mặt trời, thờ thần sông, thần biển… Tiếp đến là tín ngưỡng phồn thực biểu hiện ở tục thờ cơ quan sinh dục nam nữ và thờ hành vi giao phối. Tục thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh hùng và thủ lĩnh, tín ngưỡng thờ Thành hoàng…
+ Văn hóa nghệ thuật
Các nghệ thuật âm nhạc, nhảy múa thời Đông Sơn khá phát triển. Nhạc khí phong phú và đa dạng như trống các loại, chiêng, cồng, chuông, sênh, phách, khèn… Nghệ thuật múa gồm có múa hóa trang và múa vũ trang.
Lễ hội là một sinh hoạt quan trọng của cư dân nông nghiệp Đông Sơn. Tính chất của lễ hội là lễ hội làng, thường mở vào mùa xuân và mùa thu, có nội dung cầu mùa, cầu bình an vô sự. Các thần thoại, truyền thuyết cũng hình thành trong thời gian này, biểu hiện tư duy của người Đông Sơn trong sự nhận thức về thế giới với đặc điểm chính là tư duy lưỡng phân.
Biểu tượng của văn hóa Đông Sơn, văn minh sông Hồng là trống đồng Đông Sơn.
Trung tâm hay đỉnh cao của văn hóa thời đại kim khí Việt Nam ở miền Trung (từ đèo Ngang đến Đồng Nai) được gọi theo tên một địa điểm khảo cổ học ven biển tỉnh Quảng Ngãi, đó là văn hóa Sa Huỳnh.
Văn hóa Sa Huỳnh tồn tại từ sơ kỳ thời đại đồng thau (hơn 4.000 năm cách ngày nay) cho tới sơ kỳ thời đại sắt sớm (những thế kỉ 7-6 T.CN tới thế kỉ 1-2 S.CN). Chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với chủ nhân văn hóa Bàu Tró là người tiền Mã Lai – Pôlinêdi và chủ nhân của văn hóa sơ kì đồng thau miền cao nguyên Lâm Đồng là người tiền Môn – Khơme hay tiền Nam Á. Ngoài ra còn có những mối giao lưu rộng rãi với các cư dân kim khí Đông Nam Á hải đảo và lục địa. Qua đó có thể thấy chủ nhân của nền văn hóa này nói tiếng Nam Đảo hay Malai – Pôlinêdi với nhiều yếu tố Nam Á.
Một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Sa Huỳnh là hình thức mai táng bằng chum gốm với nhiều hình dạng như hình cầu, hình trứng, hình trụ… Trong và ngoài chum chứa nhiều đồ tùy táng với các chất liệu đá, thủy tinh, đồng, sắt…
Công cụ lao động và vũ khí chủ yếu bằng đồng, sắt như dao, rựa, giáo, mai, liềm, thuổng, kiếm, qua… Cùng với việc đạt đến trình độ cao của kĩ thuật chế tạo đồ sắt, cư dân văn hóa Sa Huỳnh còn đạt đến bước phát triển cao với các nghề se sợi, dệt vải, chế tạo đồ gốm, làm đồ trang sức.
Nền kinh tế của cư dân văn hóa Sa Huỳnh là nền kinh tế đa thành phần. Bên cạnh làm nông họ còn biết khai thác những nguồn lợi từ biển, rừng, biết phát triển các nghề thủ công, mở rộng quan hệ buôn bán với các cư dân trong khu vực Đông Nam Á lục địa và hải đảo, và rộng hơn là với Ấn Độ, với Trung Hoa.
* Văn hóa Đồng Nai
Cư dân Đồng Nai có mặt ở vùng đồng bằng Nam Bộ cách ngày nay khoảng 4.000 – 5.000 với không gian sinh sống gắn chặt với vùng đất cửa sông, giáp biển. Các cư dân ấy là lớp người đầu tiên đến lập nghiệp ở vùng đất này và xây dựng nên văn hóa Đồng Nai, đặt nền móng cho thời kì chinh phục vùng châu thổ sông Cửu Long, tức thời kì của văn hóa Óc Eo vào những thế kỉ đầu công nguyên sau này.
Hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Đồng Nai là nghề nông và nghề thủ công. Trong trồng trọt, lúa là loại cây lương thực chính. Người Đồng Nai còn khai thác các sản vật rừng và săn bắn. Nghề thủ công của họ khá phát triển, thể hiện ở chế tác các đồ trang sức bằng đá, thủy tinh, sắt, đồng…
Đời sống tinh thần của cư dân Đồng Nai còn nặng tín ngưỡng bái vật giáo được thể hiện qua nghệ thuật tạo hình: các di vật như tượng lợn rừng, rùa bằng sa thạch, tượng chó săn mồi bằng đồng… Ngoài ra còn phải kể tới sưu tập đàn đá hơn 60 thanh.
Ngoài ra còn có sự hội nhập của không ít yếu tố văn hóa láng giềng như trống đồng Đông Sơn, khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu của văn hóa Sa Huỳnh…
1.2.3.2. Văn hoá Việt Nam thiên niên kỷ đầu công nguyên
1.2.3.2.1. Văn hóa ở châu thổ Bắc bộ thời Bắc thuộc
* Bối cảnh văn hóa lịch sử
Vào những thế kỷ cuối của thiên niên kỷ trước công nguyên, nền văn hóa Việt cổ bắt đầu chịu những thử thách lớn. Quốc gia Văn Lang, sau đó là Âu Lạc và dân tộc hầu như vừa mới được xác lập và tồn tại chưa bao lâu đã rơi vào tình trạng bị đô hộ. Năm 179 T.CN, Triệu Đà vua nước Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Đông -Trung Quốc ngày nay) xâm chiếm nước Âu Lạc, chia Âu Lạc ra thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 111 T.CN, nhà Hán chiếm được nước Nam Việt, đổi vùng đất của Âu Lạc thành châu Giao Chỉ, dưới đó là bảy quận, với chức quan đầu châu là Thứ sử, đầu quận là Thái thú. Thời kỳ này kéo dài từ năm 179 T.CN tới năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyền mở đầu cho kỷ nguyên độc lập thời tự chủ của quốc gia Đại Việt. Thời kỳ này thường được gọi là thời nghìn năm Bắc thuộc, song có lẽ đúng hơn là thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc vì người Việt chưa bao giờ chịu khuất phục.
Trong diễn trình lịch sử văn hóa, bên cạnh xu hướng Hán hóa là xu hướng chống Hán hóa mạnh mẽ, gìn giữ bản sắc của dân tộc Việt, văn hóa Việt. Cùng với việc xâm lược lãnh thổ, nhà Hán và sau này là các triều đại tiếp theo của phong kiến phương Bắc đã tiến hành đồng hóa về mặt dân tộc và văn hóa. Trong thời kỳ này, đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt là đấu tranh để bảo vệ bản sắc văn hóa của mình, chống lại chính sách đồng hóa, đồng thời vẫn tiếp tục cố gắng phát triển, cố gắng duy trì và nung nấu quyết tâm giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc.
* Tiếp x c cƣỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Hán
Cùng với việc xâm chiếm và thôn tính đất đai của người Việt, giai cấp thống trị Hán đã tiến hành những chính sách đồng hóa văn hóa Việt trên mọi phương diện.
Nhưng Hán hóa với mục tiêu là đồng hóa thì bọn xâm lược phương Bắc không thành công. Điều đó là do trong suốt thời gian này, bên cạnh hướng Hán hóa đã có một chiều hướng khác luôn hạn chế và làm biến chất cái áp đặt từ bên ngoài. Đó là chiều hướng chống Hán hóa để giữ gìn bản sắc của dân tộc. Vì thế từ đầu công nguyên trở đi, nền văn minh Đông Sơn mà sợi dây liên kết là Nhà nước Âu Lạc với thiết chế xã hội là chế độ Lạc tướng đã bị giải thể cấu trúc. Những mảnh vụn của nền văn minh này cùng với cái “thần thái Đông Sơn” của nó tuy không bị mất đi nhưng một mặt đã hòa tan vào nền văn hóa dân gian của các làng Việt cổ và các thành phần tộc người khác của miền Đông Dương và Đông Nam Á; mặt khác đã và sẽ gá lắp với những thể chế văn minh ngoại sinh tới từ phía Trung Hoa, Ấn Độ… để dần dần tạo nên một sắc thái văn minh mới.
* Giao lƣu văn hóa tự nhiên Việt -Ấn
Ngay từ thời Đông Sơn, người Việt cổ đã tiến hành giao lưu rộng rãi với nhiều vùng trong khu vực. Trong giai đoạn thiên niên kỉ I sau công nguyên, bên cạnh giao lưu với văn hóa Hán, luồng ảnh hưởng của văn hóa phương Nam mà tiêu biểu là văn hóa Ấn Độ đã theo Phật giáo du nhập vào nước ta. Phật giáo từ Ấn Độ truyền bá vào đất Việt và Trung Quốc, rồi từ Trung Quốc truyền dội sang đất nước ta từ rất sớm, khoảng thế kỉ I, II đầu công nguyên.
Ở đời Hán, ba trung tâm Phật giáo là Lạc Dương ở Hà Nam (kinh đô nhà Hậu Hán), Bành Thành ở Giang Tô và trung tâm Luy Lâu ở đất nước ta. Trung tâm Luy Lâu có thể được hình thành do sự viếng thăm của những thương nhân và tăng sĩ Ấn Độ theo thuyền mà tới bằng đường biển và đường sông. Đạo Phật tại Giao Châu chắc chắn do từ Ấn Độ truyền sang trực tiếp, mãi về sau mới lại do từ Trung Hoa tiếp tục truyền xuống.
Thương gia Ấn Độ đến Giao Châu phải ở lại đây cho đến năm tới, chờ gió mùa Đông Bắc để trở về Ấn Độ. Một số tăng sĩ có thể ở lại hẳn Luy Lâu. Họ sống với người Việt và Hoa kiều, và đã ảnh hưởng tới những người này bằng tiếng nói, lối sống và đạo Phật. Người Việt đã tiếp thu nhiều thành tựu văn hóa vật chất, ngôn ngữ và tinh thần Ấn Độ trong đó có Phật giáo.
* Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc
Từ trong các xóm làng cổ, người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn và phát huy cái vốn liếng văn hóa bản địa, nội sinh tích lũy được qua hàng nghìn năm trước.
Trên cơ sở vốn liếng văn hóa bản địa vững chắc, sự hấp thụ các yếu tố văn hóa Đông Nam Á, Ấn Độ, Trung Á và Tây Á… có tác dụng trung hòa những ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, khiến cho văn hóa Việt cổ thời Bắc thuộc vẫn mang tính chất độc đáo, đặc thù, khác và vẫn có thể phân biệt được với văn hóa Trung Hoa. Nhân dân ta đã biến những của cải đi vay thành tài sản của dân tộc để bồi dưỡng, xây dựng và phát triển nền kinh tế và văn hóa dân tộc.
Ngay trong khi vay mượn, nhân dân ta vẫn thể hiện được tinh thần sáng tạo. Ví dụ như từ chỗ tiếp thu kĩ thuật làm giấy của Trung Quốc, nhân dân ta đã biết tìm tòi, khai thác nguyên liệu địa phương để chế tác những loại giấy tốt, chất lượng và có phần hơn giấy sản xuất ở miền nội địa Trung Hoa. Hay là trong khi chịu ảnh hưởng của kĩ thuật gốm sứ Trung Quốc, ta vẫn sản xuất ra các mặt hàng độc đáo như sanh hai quai, ống nhổ, bình con tiện có đầu voi, bình gốm có nạm hạt đá ở chung quanh cổ tựa như loại “iang” của đồng bào Mơnông gần đây.
Biểu hiện rõ rệt của sự bảo tồn nòi giống và văn hóa Việt là sự bảo tồn tiếng Việt – tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của dân tộc. Khi bị đế chế Trung Hoa chinh phục và kiểm soát chặt chẽ, tiếng Hán và chữ Hán được du nhập ồ ạt vào nước ta. Song nó không thể tiêu diệt được tiếng Việt bởi lý do rất đơn giản là chỉ một lớp người thuộc tầng lớp trên học. Nhân dân lao động trong các xóm làng Việt cổ vẫn sống theo cách sống riêng của mình, cho nên họ duy trì được tiếng nói của tổ tiên, tiếng nói biểu hiện cuộc sống và tâm hồn Việt. Nói như vậy không có nghĩa là tiếng Việt không có sự thay đổi dưới tác động của ngôn ngữ Hán. Tiếng Việt đã phát triển ngày càng xa với trạng thái ban đầu của nó do có tiếp thu nhiều yếu tố của ngôn ngữ Hán. Tiếng Việt có nhiều từ gốc Hán, và chúng được nhân dân biến đổi để trở thành những từ Hán – Việt. Ngoài ra, tiếng Việt cũng tiếp thu nhiều ảnh hưởng của ngôn ngữ Mã Lai, Tạng-Miến và nhất là Ấn Độ làm cho vốn từ tiếng Việt thêm phong phú. Về mặt chữ viết, người Việt cũng tiếp nhận một cách sáng tạo loại hình chữ khối vuông của chữ Hán để ghi âm tiếng Việt đã dẫn đến sự hình thành chữ Nôm.
Phong tục, lễ giáo, văn học nghệ thuật trong thời kỳ Bắc thuộc vẫn được duy trì và phát huy mạnh mẽ. Nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn được bảo tồn như tục cạo tóc hay búi tóc, tục xăm mình, tục chôn người chết trong quan tài hình thuyền hay thân cây khoét rỗng, tục nhuộm răng, ăn trầu…
Tục thờ cúng các anh hùng huyền thoại và các anh hùng lịch sử như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan… được người Việt thực hiện thường niên. Các tín ngưỡng và lễ hội nông nghiệp của cư dân lúa nước vẫn giữ được sức sống của nó trong lòng các làng xã.
Về âm nhạc, bên cạnh một số nhạc cụ chịu ảnh hưởng của Trung Hoa như khánh, chuông… chịu ảnh hưởng của Ấn Độ và Trung Á như trống cơm, hồ cầm,… vẫn tồn tại những dụng cụ độc đáo của nền nhạc Việt như trống, khèn, cồng chiêng…
Đứng trên phương diện thể chế chính trị và cơ cấu xã hội hạ tầng, có thể nói, trong thời Bắc thuộc người Việt mất nước chứ không mất làng. Giống như một học giả phương Tây đã nhận xét, qua Bắc thuộc, nước Việt như một tòa nhà chỉ bị thay đổi mặt tiền mà không bị thay đổi cấu trúc bên trong. Đó là một hạn chế rất lớn của nền Bắc thuộc và cũng là một lợi thế quan trọng của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống đồng hóa, giành lại độc lập dân tộc.
1.2.3.2.2. Văn hóa Chămpa
Người Chăm lập quốc vào khoảng thế kỉ thứ II, sau khi thoát khỏi ách độ hộ của phong kiến Trung Quốc, và cho đến tận thế kỉ XV, vương quốc Chămpa tan rã. Trong quá khứ, vương quốc này trải dài dọc theo Trung Bộ: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Nha Trang, Khánh Hoà, Phan Rang -Phan Thiết. Từ rất sớm (vào những thế kỉ trước công nguyên), thông qua các hoạt động thương mại và truyền giáo, người Chăm đã giao lưu với văn hoá Ấn một cách hoà bình.
* Đời sống kinh tế
Người Chăm có một nền kinh tế đa thành phần mà trước hết là nghề nông trồng lúa nước – dâu tằm – bông – hoa màu; nghề rừng khai thác lâm thổ sản như quế, trầm hương, hạt tiêu…; nghề biển; nghề thủ công như rèn, dệt vải lụa, làm gốm, chế tạo đồ thủy tinh, đá ngọc…
Người Chăm có những tiến bộ về nông nghiệp mà đầu tiên là phát hiện ra giống lúa chịu hạn (lúa Chiêm), gieo cấy cả hai vụ từ tháng 7 đến tháng 10 trồng lúa trắng ở ruộng bạch điền, từ tháng 12 đến tháng 4 trồng lúa đỏ ở ruộng xích điền. Để thích ứng với đất khô hạn, người Chăm có hàng loạt biện pháp thủy lợi như cọn nước, giếng, hồ đập… đặc biệt là hệ thống khai thác nước mạch chảy ra từ những cồn cát, đồi gò mà vết tích hiện nay vẫn còn thấy ở Ninh Thuận, Bình Thuận…
* Đời sống tôn giáo Hầu như tất cả các tôn giáo của Ấn Độ đều có mặt trong văn hoá Chăm, trong đó
Bàlamôn giáo là tôn giáo có ảnh hưởng lớn nhất.
Người Chăm để lại một di sản kiến trúc đầy tính nghệ thuật và tinh tế. Đó là các quần thể kiến trúc -điêu khắc mà chủ yếu là quần thể các tháp Chàm.
Tháp Chăm đứng sừng sững uy nghi trước sóng gió, chúng có mặt rải rác từ ven biển lên đến Tây Nguyên, suốt dọc miền Trung từ Bắc vào Nam – khắp nơi có người Chăm cư trú. Thống kê cho biết hiện còn 19 khu tháp với hơn 40 kiến trúc lớn nhỏ. Số lượng các phế tháp do bom đạn tàn phá và hủy diệt là chưa thể xác định được. Theo khảo sát và thống kê của H. Parmentier vào năm 1904-1909, riêng lòng chảo Mĩ Sơn (Quảng Nam) đã có tới trên 70 kiến trúc.
Về kiến trúc quần thể, tháp Chăm có hai loại: Loại thứ nhất là các quần thể kiến trúc bộ ba gồm tháp song song thờ ba vị thần Brahma, Visnu, Siva. Loại thứ hai là các quần thể kiến trúc có một tháp trung tâm thờ Siva và các tháp phụ vây quanh. Loại này thường xuất hiện muộn hơn (khoảng thế kỉ IX); có những nơi trước vốn là quần thể kiến trúc bộ ba, đến khi tu chỉnh đã được chuyển thành loại quần thể có một tháp trung tâm.
Về chức năng, hầu hết tháp Chăm đều mang tính chất lăng mộ thờ vua (ta theo hình thức mà gọi là “tháp”, nhưng người Chăm thì gọi chúng là kalăn, có nghĩa là “lăng”). Ngoài chức năng lăng mộ thờ vua, tháp Chăm còn là đền thờ thần bảo trợ của nhà vua. Chính vì chức năng lăng mộ và đền thờ nên nội thất tháp Chăm rất chật hẹp, nó chỉ đủ chỗ cho các pháp sư hành lễ chứ không phải là nơi tín đồ hội tụ và cầu nguyện.
Người Chăm tiếp thu hệ thống văn tự Ấn Độ cổ (chữ Phạn -Sancrit) để tạo ra chữ viết riêng của họ.
Từ thời xưa, người Chăm đã biết dùng lịch. Có một lịch pháp Ấn Độ đã du nhập vào Chămpa và người Chăm đã dùng lịch này từ đó đến nay.
Âm nhạc và múa có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm, nhất là những nghi lễ và hội lễ mang tính chất tín ngưỡng, tôn giáo như lễ Tết Katê, lễ mở cửa thánh, lễ cầu đảo, các lễ Chà Và lớn và nhỏ, những buổi lên đồng. Trống Baranưng và trống Kynăng là hai loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ gõ của người Chăm. Trong nhạc cụ hơi, chiếc kèn Saranai có vị trí đặc biệt. Múa là loại hình nghệ thuật gắn bó với người Chăm như hình với bóng. Người Chăm có các loại múa như múa sinh hoạt, múa tôn giáo, múa tập thể và độc diễn, múa đạo cụ và múa bóng…
1.2.3.2.3. Văn hóa Óc Eo
Óc Eo là tên một di tích khảo cổ học ở cánh đồng Giồng Cát – Giồng Xoài, nơi lần đầu tiên phát hiện ra di chỉ của một nền văn hoá, được người Pháp tiến hành khai quật vào năm 1944. Hiện nay, địa danh này thuộc tỉnh An Giang.
Chủ nhân của nền văn hoá Óc Eo, cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Một số học giả cho rằng, chủ nhân của nền văn hoá này là thuỷ tổ của người Khơ-me ngày nay, một số quan điểm khác lại coi đây là nền văn hoá của giống người thuộc chủng Indonesia, sử dụng tiếng Nam Đảo là chủ yếu. Nền văn hoá rực rỡ này đã tàn lụi vào khoảng thế kỉ thứ VIII, và hiện nay người ta chỉ biết về nó thông qua các di chỉ khảo cổ.
Các di chỉ khảo cổ cho thấy, địa bàn cư trú của người của người Óc Eo trải rộng khắp các tỉnh Nam Bộ ngày nay, ở nhiều tiểu vùng sinh thái khác nhau và ở mỗi tiểu vùng này có những đặc trưng riêng về cách xây cất nhà ở, đền tháp, cách thức làm ăn, đi lại. Có các tiểu vùng như tiểu vùng tứ giác Long Xuyên, tiểu vùng Đồng Tháp Mười, tiểu vùng ven biển Tây Nam (vùng U Minh – Năm Căn), tiểu vùng rừng sát duyên hải, tiểu vùng ven biển Đông, tiểu vùng Đông Nam Bộ…
Người Óc Eo ở nhà đất và nhà sàn, phổ biến là nhà sàn. Họ trồng trọt trên nhiều loại thổ nhưỡng khác nhau, chủ yếu là trồng lúa. Ngoài ra còn có trồng dừa, mía, cau và nhiều loại cây ăn quả khác. Hoạt động chăn nuôi thuần dưỡng khá phát triển như nuôi trâu, bò, lợn, chó… Nghề thủ công phát triển cao, rất đa dạng và tinh xảo nhất là nghề làm trang sức bằng vàng, rồi nghề gia công kim loại màu, nghề chế tác đá, nghề làm gốm… Ngoài các hoạt động sản xuất, hoạt động trao đổi buôn bán cũng khá phát triển ở cư dân Óc Eo.
Người Óc Eo ảnh hưởng mạnh văn hoá Ấn Độ. Cư dân theo Bàlamôn giáo, Phật giáo, thờ cúng Linga. Hệ thống đền đài và lăng tẩm khá quy mô, tất cả đều mang hơi hướng của nền văn hoá Ấn.
Tóm lại, có thể nhận ra Phật giáo là “mẫu số chung” của những lần giao lưu với văn hoá Ấn. Vì yếu tố này hiện diện nhiều lần trong các đợt lan toả trực tiếp và thứ phát. Điều đó giúp lí giải vì sao Phật giáo lại là yếu tố văn hoá ngoại sinh song lại có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tại Việt Nam.
1.2.3.3. Văn hoá Việt Nam thời tự chủ
1.2.3.3.1. Bối cảnh văn hóa lịch sử
Thời tự chủ của quốc gia Đại Việt kéo dài suốt gần một thiên niên kỉ, từ năm 938 cho đến năm 1858. Giai đoạn này có nhiều biến đổi tự thân trong nội bộ quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng lại là thời kì có biến đổi nhiều từ ngoại cảnh.
Sau chiến thắng Bạch Đằng, Đại Việt bước vào thời kì xây dựng quốc gia độc lập.
Diễn trình lịch sử từ năm 938 đến 1858 diễn ra với những đặc điểm sau:
1.2.3.3.2. Đặc trưng văn hóa thời Lý – Trần
Với việc dời đô về Đại La và đổi tên là thành Thăng Long, nhà Lý đã mở đầu một giai đoạn phục hưng văn hóa Đại Việt. Nhà Trần tiếp tục sự nghiệp của nhà Lý, đưa đất nước tiếp tục phát triển về mọi mặt.
* Văn hóa vật chất
Sau dời đô, tại Thăng Long, nhà Lý cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài, thành lũy. Thành Thăng Long là một công trình xây dựng thành lũy lớn nhất trong các triều đại phong kiến với hai vòng, thành dài khoảng 25 km, bên trong lại có những cung điện cao ba bốn tầng.
Kiến trúc và điêu khắc phát triển, chủ yếu là các công trình chùa chiền như chùa Một Cột, tháp Báo Thiên, chùa Giạm… Nghệ thuật điêu khắc trên đá, trên gốm thể hiện một phong cách đặc sắc và tay nghề khá thuần thục. Bố cục tượng gọn, đẹp và cân xứng nhưng không trùng lặp và đơn điệu. Từng chi tiết được chú ý khi chạm trổ, những đường cong mềm mại, gợi tả nên rất thanh thoát và nhẹ nhàng.
Các nghề thủ công cũng rất phát triển như nghề dệt, nghề gốm, mĩ nghệ… Đã hình thành những làng nghề chuyên sản xuất một mặt hàng nhất định như làng Ma Lôi (Hải Hưng). Kinh thành Thăng Long mở rộng chia thành 61 phường, tại đây không chỉ có chợ mà còn có những phường thủ công và phố xá buôn bán.
* Hệ tƣ tƣởng
Đặc trưng nổi trội thời Lý – Trần là sự dung hòa Tam giáo Nho – Phật – Đạo hay còn gọi là Tam giáo đồng nguyên. Tinh thần văn hóa Lý – Trần là tinh thần khai phóng đa nguyên, phối hợp Phật, Nho, Đạo cùng các tín ngưỡng dân gian khác kể cả ảnh hưởng của tôn giáo Chămpa.
* Văn hóa tinh thần
Nhà Lý bắt đầu chăm lo mở mang học tập và thi cử để đào tạo nhân tài và tuyển lựa quan lại có năng lực cho bộ máy hành chính. Năm 1070 cho xây dựng Văn Miếu, năm 1076 mở Quốc Tử Giám làm nơi học tập cho con em quý tộc, năm 1975 mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài…
Các hình thái văn hóa dân gian như lễ hội, tín ngưỡng, phong tục, truyện dân gian, hát múa, điêu khắc được phục hưng và lưu truyền cho đến tận ngày nay.
Nền văn hóa bác học hình thành và phát triển. Văn học chữ viết được hình thành với một đội ngũ tác giả hùng hậu. Bên cạnh dòng văn học viết bằng chữ Hán, lịch sử thời kì này chứng kiến sự hình thành của văn học chữ Nôm.
1.2.3.3.3. Đặc trưng văn hóa thời Minh thuộc và Hậu Lê
Cuối thời nhà Trần, nhà Hồ thay thế một khoảng thời gian rất ngắn (1400 -1407). Hồ Quý Ly đã tiến hành những cải cách có những mặt tiến bộ nhất định. Nhưng các chính sách cải cách này chưa đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội và chưa trả lời được những câu hỏi lớn của dân tộc đang đặt ra một cách gay gắt. Tháng 4 năm 1407, sau khi chiếm được Đại Việt, nhà Minh đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, tiến hành một chính sách cai trị vô cùng tàn bạo nhằm thủ tiêu nền độc lập của Đại Việt và thủ tiêu luôn cả nền văn hóa của nước ta. Toàn thể dân tộc Đại Việt đứng trước một thử thách vô cùng ngặt nghèo.
Cuộc tụ nghĩa ở Lam Sơn của người dân, của những thức giả có lòng yêu nước đã dẫn đến chiến thắng của dân tộc Đại Việt trước sự xâm lược và đô hộ của nhà Minh. Trang sử mới của đất nước được mở ra, văn hóa dân tộc bước vào thời kì phục hưng lần thứ hai.
* Hệ tƣ tƣởng
Nho giáo đã nhanh chóng chiếm một địa vị ưu thế so với các tôn giáo khác. Nho giáo thời Lê chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo đời Tống. Phật giáo, Đạo giáo bị lấn át, nhất là Phật giáo mất vị trí ưu thế của mình đã có từ thời Lý – Trần.
* Văn hóa vật chất
Nhà Lê rất quan tâm đến đê điều và các công trình thủy lợi. Một số đê điều được tu bổ lại, một số đê mới ở ven biển được đắp để ngăn mặn có kè đá chắc chắn.
Sau một thời gian bị tàn phá nặng nề, các ngành nghề, làng nghề lại tiếp tục phát triển. Nhiều trung tâm thủ công nghiệp xuất hiện, kinh thành Thăng Long chia lại 36 phường. Nhiều phường có phố xá buôn bán và sản xuất thủ công nghiệp. Riêng quan hệ buôn bán với nước ngoài nhà Lê có phần hạn chế nên ngoại thương cũng không phát triển bằng thời Lý – Trần.
Kiến trúc và điêu khắc chịu sự tác động của hệ tư tưởng mà triều đình lựa chọn.
* Văn hóa tinh thần
Vương triều Lê chú trọng mở mang giáo dục. Chế độ đào tạo Nho sĩ được xây dựng theo một xu hướng rất chính quy. Nội dung học tập chủ yếu là các sách kinh điển của Nho giáo. Đối tượng người học có phần cởi mở hơn lúc trước, có cả con em bình dân, không kể giàu nghèo. Chế độ thi cử khá quy cũ. Từ 1422 trở đi, cứ 3 năm có một lần thi Hội ở kinh thành, tại các địa phương có thi Hương, triều đình đặt ra lễ xướng danh, lễ vinh quy và lễ khắc tên mỗi người đỗ tiến sĩ vào bia đá dựng ở Văn Miếu gọi là bia tiến sĩ.
Văn hóa ngôn từ, văn học chữ Nôm vẫn không ngừng phát triển. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là bài thơ Nôm cổ nhất hiện còn. 28 hội viên của hội Tao Đàn để lại khá nhiều tác phẩm, về hình thức tuy còn khuôn sáo nhưng có ít nhiều đóng góp cho tiến trình văn học, văn hóa của dân tộc.
Một số loại hình như ca, múa nhạc vẫn tiếp tục phát triển. Tuồng chèo là hai thể loại sân khấu đã đạt đến sự ổn định về mặt nghệ thuật. Cuốn Hý phường phả lục của Lương Thế Vinh đã hoàn thành năm 1501 là tác phẩm lý luận đầu tiên về kịch hát cổ truyền chứng tỏ bước phát triển của tư duy nghệ thuật dân tộc về phương diện lý luận.
Tín ngưỡng thờ cúng Thành hoàng có sự thay đổi cả về lượng lẫn diện mạo. Đình làng trở thành trú sở của thần linh ở mỗi làng quê và cũng mang chức năng mới – công sở của làng xã, nơi ban bố chính lệnh của Nhà nước.
Thành tựu đáng ghi nhận ở thời kì này là bộ luật Hồng Đức, bao gồm cả luật hình sự, luật hôn nhân và gia đình, luật dân sự và tố tụng. Bộ luật này được thi hành cho đến cuối thế kỉ XVIII, về sau có bổ sung thêm một số điều, tổng cộng là 721 điều chia làm 6 quyển, 16 chương. Bộ luật Hồng Đức là một bước phát triển quan trọng của lịch sử pháp quyền Việt Nam.
1.2.3.3.4. Đặc trưng văn hóa từ thế kỉ XVI đến năm 1858
Đặc điểm của thời kì này là sự phân liệt về chính trị một cách gay gắt. Sự xung đột giữ nhà Mạc và nhà Lê rồi sự xung đột gay gắt giữa nhà Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài với các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, sự thống nhất đất nước buổi đầu của Nguyễn Huệ và sau đó là nhà Nguyễn của vua Gia Long đã tạo cho văn hóa giai đoạn này một diện mạo khá đa dạng.
* Hệ tƣ tƣởng
Trên thực tế, nhà Mạc chống lại tư tưởng độc tôn Nho giáo của nhà Lê, nhưng từ trong tiềm thức của giai cấp phong kiến thì Nho giáo vẫn được bảo vệ để làm kỷ cương cho đời sống xã hội. Tuy nhiên, tầng lớp Nho sĩ lúc này bị phân hóa, một số có tấm lòng ưu thời mẫn thế thì hoặc lui về ở ẩn hoặc tham gia các cuộc khởi nghĩa của nông dân; còn đa số đua chen vào con đường danh lợi.
Sự suy sụp của Nho giáo kéo dài cho đến đầu thế kỉ XIX. Bắt đầu từ vua Gia Long cho tới Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức đều ra sức củng cố địa vị của Nho giáo nhưng vẫn không làm cho Nho giáo có được vị thế như nó đã từng có ở thế kỉ XV.
Bắt đầu từ thế kỉ XVI, một tôn giáo mới được du nhập vào nước ta là Kitô giáo. Sự phát triển của Kitô giáo ở Việt Nam có phần khác biệt với Nho giáo, Phật giáo ở Việt Nam.
Từ thế kỷ XVII, khi vào nước ta để truyền đạo, các giáo sĩ đã học tiếng Việt để giảng đạo, dùng chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt nên chữ Quốc ngữ dần dần xuất hiện.
* Sự phát triển của các ngành văn hóa nghệ thuật
Nét đáng chú ý của văn học giai đoạn này là văn Nôm, được khởi phát từ các giai đoạn trước đã ngày càng phát triển. Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ đã dùng văn Nôm để sáng tác, và sang đến thế kỷ XVIII – XIX những tác phẩm chữ Nôm đã hoàn toàn chiếm ưu thế trên văn đàn như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều, thơ của Bà Huyện Thanh Quan, những truyện Nôm dài như Phan Trần, Nhị độ mai, Quan Âm Thị Kính, Phạm Công – Cúc Hoa… Tương ứng với sự phát triển của văn học viết bằng chữ Nôm là sự phát triển của thể lục bát và song thất lục bát, cùng những sáng tác dân gian như truyện trạng, truyện cười, tục ngữ; các hình thức diễn xướng như hát tuồng, hát chèo, hát ả đào… đều phát triển.
Về kiến trúc và điêu khắc là sự nở rộ của những công trình mang đậm màu sắc Phật giáo và Đạo giáo như chùa chiền, đình đền… Bên cạnh những chủ đề tâm linh nhân thế, điêu khắc đình làng thời kỳ này còn có những hoa văn phản ánh sinh hoạt văn hóa đời thường. Nghệ thuật tạc tượng thế kỷ XVIII đã đạt đến một trình độ nghệ thuật điêu luyện. Đáng chú ý là kiến trúc và điêu khắc thời các vua Nguyễn nửa đầu XIX, thể hiện qua các công trình của Kinh đô Huế và các đền đài lăng tẩm.
1.2.3.4. Văn hoá Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1945
1.2.3.4.1. Bối cảnh văn hóa lịch sử
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam với lý do triều đình Huế ngược đãi các giáo sĩ và cự tuyệt không nhận quốc thư của Pháp đòi tự do buôn bán – mở đầu cho thời kỳ thực dân Pháp đô hộ nước ta.
Đứng trước vận mệnh lớn lao của lịch sử, nhân dân Việt Nam đã liên tục đứng lên chống Pháp. Tất cả các phong trào yêu nước chống Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc tuy rất kiên cường nhưng đều bị thất bại.
Công cuộc bình định Việt Nam của thực dân Pháp căn bản hoàn thành và chúng bắt tay vào công cuộc khai thác thuộc địa. Cả hai lần khai thác thuộc địa, thực dân Pháp không hề chủ trương xóa bỏ các quan hệ kinh tế cổ truyền mà chủ trương duy trì các quan hệ ấy. Vậy nên, diện mạo văn hóa xã hội Việt Nam thời kỳ này sẽ bao gồm cả quan hệ tư bản thực dân và cả quan hệ phong kiến.
1.2.3.4.2. Đặc trưng văn hóa từ năm 1858 đến năm 1945
Giai đoạn này có hai đặc trưng văn hóa lớn là sự tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Pháp; giao lưu văn hóa tự nhiên Việt Nam với thế giới Đông Tây.
* Hệ tƣ tƣởng
Sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây tạo ra sự chuyển mình của hệ tư tưởng Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1945 diễn ra trong một thời kì đầy biến động lớn về tư tưởng và chính trị.
Trên mặt bằng lịch sử, các hệ tư tưởng vào Việt Nam từ hàng nghìn năm trước vẫn tồn tại ở xã hội mà căn bản vẫn là xóm làng với những người nông dân trồng lúa nước nên hệ tư tưởng của họ là hệ tư tưởng thần thoại với một hệ thống thần linh đa dạng.
Hệ tư tưởng Nho giáo mất dần vị trí của mình khi ngày càng có nhiều luồng tư tưởng mới du nhập vào Việt Nam như trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản qua các tân văn và tân thư của Trung Quốc, các thuyết về nhân đạo, dân quyền của một số nhà tư tưởng phương Tây. Các nhà Nho Việt đã từ biệt hệ tư tưởng cũ để tiếp thu các hệ tư tưởng mới này để tìm một con đường khác trên hành trình cứu nước. Phan Bội Châu là một nhân chứng tiêu biểu. Đi từ tư tưởng quân chủ chuyển sang tư tưởng dân chủ, và cuối đời ông còn viết sách về chủ nghĩa xã hội.
Từ tấm lòng yêu nước, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin rồi truyền bá vào Việt Nam. Giai cấp công nhân ngày càng phát triển và giác ngộ về mình. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng lan rộng và có tổ chức. Đặc biệt là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng nước ta. Nó chứng tỏ giai cấp vô sản đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, đồng thời cũng khẳng định sự hiện diện của một hệ tư tưởng mới ở Việt Nam.
* Văn hóa vật chất
Từ cuối thế kỷ XIX, tính chất của đô thị Việt Nam đã chuyển từ một trung tâm chính trị văn hóa sang tính chất của một trung tâm công – thương nghiệp. Đó là các đô thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn – Chợ Lớn, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Biên Hòa, Mỹ Tho…
Kiến trúc đô thị cũng phát triển không kém. Các kiến trúc Tây phương được đưa vào Việt Nam nhưng đã được Việt Nam hóa. Giao thông vận tải có diện mạo mới với các con đường liên tỉnh dài 20 ngàn km, hệ thống đường sắt dài với 2059 km (1912)…
* Văn hóa tinh thần
Báo chí tiếp tục phát triển và ngày càng có nhiều tờ báo nổi tiếng như Gia Định báo, Phan Yên báo, Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Phụ nữ tân văn, Đăng cổ tùng báo, Thực nghiệp dân báo, Trung Bắc tân văn…
Văn học lúc này là một thứ vũ khí của quần chúng để chống kẻ thù cướp nước, cổ động cho sự tiến bộ xã hội nên văn học giai đoạn này có bước phát triển nhanh chóng về cả nội dung và hình thức.
Với việc phổ biến chữ Quốc ngữ, mảng văn học bằng chữ Quốc ngữ đã phát triển với các thể loại như kí sự, tiểu thuyết, văn xuôi, truyện ngắn, truyện dài… Về mặt nội dung, cái tôi cá nhân, sự ý thức về cá nhân, tình yêu đôi lứa được thể hiện trong hầu hết các thể loại của văn học.
1.2.3.5. Văn hoá Việt Nam từ năm 1945 đến nay
1.2.3.5.1. Bối cảnh văn hóa lịch sử
Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, toàn dân Việt Nam bước sang một cuộc đời mới. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập chấm dứt chế độ thực dân nửa phong kiến ở nước ta. Thế nhưng, chỉ hai chục ngày sau đó – 23/9/1945, thực dân Pháp núp dưới bóng quân Anh, trong vai trò lực lượng đồng minh sang giải giáp phát xít Nhật ở Đông Dương, gây hấn ở Nam Bộ. Ngày 19/12/1945, nghe theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc bước vào cuộc trường chinh kháng chiến để bảo vệ quyền độc lập dân tộc mới giành lại được.
Ngày 21/7/1954, hiệp định Giơnevơ được kí kết, nước ta tạm thời chia thành hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau, quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ở hai miền cùng tiến hành hai nhiệm vụ chính trị khác nhau. Miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Với chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta toàn thắng, giành lại toàn vẹn non sông.
1.2.3.5.2. Đặc trưng văn hóa từ năm 1858 đến năm 1945
Tiến trình 50 năm qua thực ra rất ngắn ngủi so với toàn bộ diễn trình văn hóa Việt Nam nhưng lại là một giai đoạn văn hóa Việt Nam phát triển cả về lượng và chất. Tuy vậy, đây là một giai đoạn còn đang chịu thử thách của thời gian nên sự khái quát các đặc điểm còn ở mức ban đầu.
Điều dễ nhận thấy của văn hóa Việt Nam giai đoạn này là sự phát triển của văn hóa chuyên nghiệp. Các hoạt động in ấn, báo chí, xuất bản , hoạt động văn học nghệ thuật rất được chú trọng để phát triển. Các đoàn nghệ thuật như kịch nói, ca múa nhạc được tổ chức lại; các thể loại như nhạc, kịch hát, thơ múa, kịch múa, các thể loại âm nhạc thính phòng tiếp thu từ tinh hoa văn hóa bác học thế giới phát triển. Nghệ thuật điện ảnh qua thời kì phôi thai trước năm 1945 đến nay đã có bước phát triển đột biến, có những phim Việt Nam như Cánh đồng hoang và một số phim khác được giải thưởng.
Nét khác biệt căn bản giữa văn hóa từ năm 1945 đến nay và các giai đoạn trước là ở mức độ của sự giao lưu văn hóa. Giai đoạn này, sự giao lưu diễn ra trong sự tự nhiên và tự giác. Tiếp thu tinh hoa văn hóa nước ngoài để xây dựng nền văn hóa mới là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta đối với công tác văn hóa.
Từ sau năm 1975, việc giao lưu văn hóa giữa ta với thế giới càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Và cuối cùng, không thể không thừa nhận sự tiến bộ về khoa học kĩ thuật, nhất là khoa học thông tin hiện đại đã khiến cho việc giao lưu văn hóa thời hiện đại diễn ra mạnh mẽ hơn nhiều so với trước đây.
HƢỚNG DẪN ÔN TẬP
CHƢƠNG 2. CÁC THÀNH TỐ VĂN HÓA VIỆT NAM
2. . Văn hoá vật chất
2. . . Văn hóa ẩm thực
Để duy trì sự sống, ăn uống là việc có tầm quan trọng số 1. Người Việt Nam nông nghiệp với tính thiết thực công khai nói to lên rằng, có năng lượng vật chất mới nói đến chuyện tinh thần.
“Có thực mới vực được đạo” ăn uống là văn hóa, đó là văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên, cho nên trong cơ cấu bữa ăn của người Việt bộc lộ rất rõ dấu ấn của truyền thống văn hóa nông nghiệp lúa nước. Đó là cơ cấu ăn thiên về thực vật với lúa gạo là thành phần đứng đầu bảng “người sống về gạo, cá bạo về nước”, “cơm tẻ mẹ ruột”, “đói thì thèm thịt thèm xôi, hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường”. Không phải ngẫu nhiên mà bữa ăn của người Việt Nam được gọi là bữa cơm.
Trong bữa ăn của ta, sau lúa gạo thì đến rau quả. Nằm trong khu vực là một trong những trung tâm trồng trọt, Việt Nam có một danh mục rau quả mùa nào thức ấy phong phú vô cùng. Đối với người Việt thì đói ăn rau, đau uống thuốc là chuyện tất nhiên. Thực đơn của người Việt có nhiều món canh, món xào với đủ các loại rau xanh, các loại quả như bí, bầu, mướp, đu đủ, cà… và cả các loại hoa như hoa bí, bắp chuối, thiên lý… Nói đến rau trong bữa ăn thì không thể không nhắc đến 2 món đặc thù là rau muống và dưa cà: “Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”…
Đứng thứ ba trong cơ cấu bữa ăn và đứng đầu trong hàng thức ăn động vật của người Việt Nam là các loại thủy sản – sản phẩm đặc thù của vùng sông nước: Có cá đổ vạ cho cơm; Con cá đánh ngã bát cơm… Từ các loại thủy sản người Việt đã chế tạo ra một thứ đồ chấm đặc biệt là nước mắm và mắm các loại. Thiếu nước mắm thì chưa thành bữa cơm Việt.
Cuối cùng chiếm một vị trí khiêm tốn trong cơ cấu bữa ăn Việt Nam mới là thịt. Phổ biến thì như thịt gà, thịt lợn, thịt heo, thịt trâu… Đặc sản bình dân thì có thịt chó “Sống được miếng dồi chó, chết được bó vàng tâm”, sơn hào hải vị thì có yến sào, gân hổ…
Các loại gia vị như hành, gừng, ớt, tỏi, riềng, rau mùi, rau răm… cũng là những thứ không thể thiếu được trong bữa ăn người Việt.
Người nước ta có thói ăn trầu, nhai một miếng cau tươi hay khô với một miếng trầu quyệt vôi, phụ thêm một miếng vỏ cây chát hay hột mây, hột móc. Người nước ta cũng có tục hút thuốc lào. Thuốc lào là một thứ lá cây phơi khô xắt ra cho nhỏ rồi dùng điếu mà hút. Có ba thứ điếu hút thuốc lào, điếu cày bằng ống tre, điếu bát bằng sành hay bằng sứ, và điếu đóng bằng gỗ hay bằng ngà.
Rượu Việt Nam làm từ gạo và nếp. Gạo nếp được đem đồ xôi, ủ cho lên men rồi cất ra. Rượu chế tạo như thế gọi là rượu trắng hoặc rượu đế, để phân biệt với rượu có ướp thêm các thứ hoa gọi là rượu mùi. Cúng ông bà tổ tiên thì phải có ly rượu trắng.
Các đặc trưng trong văn hóa ẩm thực người Việt
Lối ăn uống của người Việt mang đậm tính tổng hợp. Đặc tính này thể hiện trước hết trong cách chế biến đồ ăn. Hầu hết các món ăn Việt Nam đều là sản phẩm của sự pha chế tổng hợp từ rất nhiều nguyên liệu, để đảm bảo một món ăn vừa có đủ ngũ chất (đạm-béo-bột-khoáng-nước), ngũ vị (mặn-béo-chua-cay-ngọt), ngũ sắc (đen-đỏ-trắng-xanh-vàng)… Tính tổng hợp còn thể hiện ngay trong cách ăn với mâm cơm dọn ra bao giờ cũng rất nhiều món. Suốt bữa ăn là cả một quá trình tổng hợp các món ăn. Bất kì bát cơm nào, miếng cơm nào cũng là sự tổng hợp nhiều món canh-rau-cá-thịt. Cái ngon của bữa ăn Việt Nam là tổng hợp cái ngon của nhiều yếu tố: thức ăn ngon, hợp thời tiết, chỗ ăn ngon, bạn bè tâm giao, không khí bữa ăn…
Tính tổng hợp kéo theo tính cộng đồng. Ăn tổng hợp, ăn chung cho nên các thành viên trong bữa ăn có liên quan và phụ thuộc vào nhau. Vì vậy trong lúc ăn uống, người Việt rất thích chuyện trò, thú uống rượu cần của người vùng cao cũng là biểu hiện tiêu biểu của tính cộng đồng. Tính cộng đồng đòi hỏi mọi phải có một văn hóa ăn uống. Đó là “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”; “lời chào cao hơn mâm cỗ”; “ăn hết bị đòn ăn còn mất vợ”…
Trong cách ăn của người Việt thể hiện rõ tính linh hoạt, biện chứng. Chẳng hạn, có bao nhiêu người ăn thì có bấy nhiêu cách tổng hợp khác nhau trong cách ăn. Tính linh hoạt còn thể hiện ở dụng cụ ăn là đôi đũa. Nó có thể thực hiện nhiều chức năng như: gắp, và, xẻ, xé, dầm, trộn,… nối cho cánh tay dài ra để gắp thức ăn. Người Việt Nam đặc biệt chú ý đến quan hệ biện chứng âm dương trong việc ăn. Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương, người Việt phân biệt thức ăn theo 5 mức âm dương ứng với Ngũ hành: hàn, nhiệt, ôn, bình, trung tính. Tập quán dùng gia vị ngoài các tác dụng kích thích dịch vị làm dậy mùi thơm ngon của thức ăn còn có tác dụng điều hòa âm dương, thủy hỏa của thức ăn. Để đảm bảo quân bình âm dương giữa con người với môi trường người, Việt có tập quán ăn uống theo vùng khí hậu, theo mùa và chọn đúng bộ phận có giá trị để ăn. “chuối sau cau trước”, “tôm nấu sống, bống để ươn”, “cơm chín tới, cải vồng non, gái một con, gà ghẹ ổ”…
2. .2. Văn hóa trang phục
Đối với con người, sau ăn thì đến mặc là cái quan trọng. Nó giúp con người đối phó với môi trường, với cái nóng, cái rét của thời tiết, khí hậu “được bụng no còn lo ấm cật”. Vì vậy, quan niệm về mặc của người Việt hết sức thiết thực: “ăn lấy chắc mặc lấy bền”, “cơm ba bát, áo ba manh, đói không xanh rét không chết”…
Từ mục đích ban đầu là đối phó với môi trường tự nhiên, mặc dần dần trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong mục đích trang điểm, làm đẹp cho con người: “Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân, chân tốt về hài, tai tốt về hoa”…
Mỗi dân tộc có một cách ăn mặc riêng, vì vậy mặc đã trở thành biểu tượng của văn hóa dân tộc. Cái riêng trong cách ăn mặc của người Việt trước hết là cái chất nông nghiệp trong chất liệu may mặc – đó là các chất liệu có nguồn gốc thực vật là sản phẩm của nghề trồng trọt, cũng là chất liệu may mặc nhẹ thoáng phù hợp với xứ nóng. Đó là sợi gai, đay, chuối, bông, tơ tằm…
Trang phục thường chọn các màu âm tính như đen, nâu, chàm, gụ, tím… và chỉ sử dụng những trang phục có màu sắc dương tính như đỏ, điều, vàng, xanh… vào các dịp lễ hội.
Cách thức trang phục của người Việt qua các thời đại bị chi phối bởi hai nhân tố chính là khí hậu nhiệt đới nóng bức và công việc trồng lúa nước. Đồ mặc phía dưới tiêu biểu và ổn định hơn cả của phụ nữ qua các thời đại là cái váy. Váy có hai loại là váy mở -một mảnh vải quấn quanh thân; và váy kín được khâu lại thành hình ống. Đối với nam giới, đồ mặc phía dưới ban đầu là chiếc khố. Khố mặc mát, phù hợp với khí hậu nóng bức và dễ thao tác trong lao động. Ngày nay nam giới không còn đóng khố nữa nhưng lối cởi trần mặc độc một chiếc quần đùi lúc ở nhà vào mùa nóng vẫn không khác cách mặc cởi trần đóng khố là mấy. Khi chiếc quần thâm nhập ngày càng mạnh vào Việt Nam thì nam giới là bộ phận tiếp thu nó sớm nhất. Tiếp thu nhưng người Việt Nam đã cải biến nó một cách linh hoạt thành quần lá tọa. Đó là quần ống rộng và thẳng, đũng sâu, cạp quần to bản. Khi mặc người ta buộc dây thắt lưng ra ngoài rồi thả phần cạp thừa phía trên rủ xuống ra ngoài thắt lưng thành lá tọa.
Đồ mặc phía trên của người phụ nữ ổn định nhất qua các thời đại là cái yếm. Yếm là đồ mặc thuần túy Việt Nam thường do phụ nữ tự cắt may, nhuộm với nhiều màu phong phú: yếm nâu để đi làm thường ngày ở nông thôn, yếm trắng thường ngày ở thành thị, yếm hồng -yếm đào -yếm thắm dùng vào các ngày lễ hội. Đối với đàn ông, khi lao động thì thường cởi trần. Ngoài ra, nam và nữ cũng thường mặc áo ngắn có hai túi phía dưới, có thể xẻ tà hai bên hông hoặc bít tà, ngoài Bắc gọi là áo cánh, trong Nam thì gọi là áo bà ba. Dịp lễ hội, phụ nữ (mặc áo dài), gồm áo tứ thân và áo năm thân. Đàn ông vào dịp hội hè cũng mặc áo dài (là áo the đen), giới thượng lưu thì mặc áo dài cả trong sinh hoạt thường ngày.
Về màu sắc, màu phổ biến là các màu âm tính, phù hợp với phong cách truyền thống ưa tế nhị, kín đáo: ở miền Bắc là màu nâu, gụ; ở miền Nam là màu đen; ở xứ Huế thì ưa màu tím trang nhã phù hợp với phong cách đế đô. Gần đây, do ảnh hưởng của phương Tây nên màu sắc đã trở nên đa dạng hơn.
Phụ nữ trước đây để tóc dài và vấn tóc bằng một mảnh vải dài cuộn lại để trên đầu, đuôi tóc để chừa ra một ít gọi là đuôi gà. Có thể phủ ra ngoài cái vấn tóc là cái khăn vuông chít hình mỏ quạ vào mùa lạnh hoặc hình đồng tiền vào mùa nóng. Đàn ông trước đây để tóc dài búi tròn, khi làm lụng vấn khăn đầu rìu, lúc sang trọng thì đội khăn xếp, người Nam bộ thường đội khăn rằn.
Trên khăn hoặc thay cho khăn là cái nón che mưa che nắng. Có nhiều loại nón nhưng nhiều nhất, phổ biến nhất là nón rộng vành và có mái dốc. Các loại nón này thường phải có quai để giữ, quai thao làm bằng vải thao là loại phổ biến hơn cả. Mũ là loại đồ đội đầu ôm sát và kín tóc, xuất hiện muộn sau này, gọn hơn nón nhưng khả năng che mưa nắng kém hơn. Bởi vậy người miền Nam dùng một từ nón để gọi chung cho cả mũ và nón.
Về đồ trang sức thì từ thời Hùng Vương, người Việt đã rất thích đeo vòng các loại như vòng tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân… Thời Hùng Vương có tục xăm mình theo hình cá sấu để khi xuống nước khỏi bị nó làm hại. Tục nhuộm răng đen vừa có tác dụng bảo vệ răng vừa để trang điểm.
2. . . Văn hóa cƣ tr
Đối với người nông nghiệp, ngôi nhà là cái tổ ấm để đối phó với nóng lạnh, mưa nắng, gió bão; là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo cho cuộc sống định cư ổn định. Nằm trong khu vực là vùng sông nước cho nên ngôi nhà của người Việt truyền thống cũng mang đậm dấu ấn môi trường sông nước. Những người chài lưới, chèo đò thường lấy ngay thuyền bè làm nhà ở, nhiều gia đình tụ họp với nhau lại tạo nên các làng chài, xóm chài… Rồi nhiều người, tuy không sống bằng nghề sông nước nhưng cũng làm nhà sàn để ứng phó với lũ lụt quanh năm. Đây là kiểu nhà rất phổ biến ở Việt Nam từ thời Đông Sơn. Ngôi nhà Việt cổ thường làm với chiếc mái cong mô phỏng hình thuyền – kỉ niệm về sông nước. Các đình, chùa, cung điện thì đầu đao ở 4 góc thường được làm cong vút như một con thuyền rẽ sóng nước lướt tới, tạo nên dáng vẻ thanh thoát và gợi cảm giác bay bổng cho cấu trúc.
Để ứng phó với môi trường tự nhiên, tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam về mặt cấu trúc phải là nhà cao cửa rộng, tạo không gian thoáng mát giao hòa với thiên nhiên. Nơi được chọn làm nhà phải đáp ứng những yêu cầu trong việc chọn hướng nhà, hướng đất. Hướng nhà tiêu biểu là hướng Nam vì Việt Nam ở gần biển, trong khu vực gió mùa, trong 4 hướng chỉ có hướng Nam và Đông Nam là tránh được cái nóng từ phương Tây, cái bão từ phương Đông và gió lạnh thổi vào mùa rét từ phương Bắc, nhưng lại tận dụng được cái gió mát từ phương Nam vào mùa nóng.
Phong và thủy là hai yếu tố quan trọng tạo thành vi khí hậu cho một ngôi nhà. Nhà ở là nơi có gió không nhiều quá cũng không ít quá. Có mặt nước trước nhà tạo nên sự cân bằng sinh thái nhưng không được là nước đọng, cũng không là nước chảy quá mạnh, nước chảy từ từ là tốt nhất. Ngoài ra, trong việc chọn nhà ở, người Việt Nam với tính cộng đồng rất quan tâm đến việc chọn hàng xóm láng giềng, chọn vị trí giao thông thuận lợi “nhất cận thị, nhị cận giang” hay là “nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền”…
Về cách thức kiến trúc thì đặc điểm của ngôi nhà Việt Nam truyền thống là rất động và linh hoạt, thể hiện ở lối kết cấu khung. Cốt lõi của ngôi nhà là một bộ khung chịu lực với sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận trong một không gian ba chiều: theo chiều đứng, trọng lực của ngôi nhà phân bố đều vào các cột và dồn xuống các viên đá tảng kê chân cột; theo chiều ngang, các cột được liên kết với nhau bằng các kẻ tạo nên các vì kèo; theo chiều dọc, các vì kèo được liên kết lại bằng các xà. Tất cả các chi tiết của ngôi nhà được liên kết với nhau bằng mộng, khi cần di chuyển có thể tháo dở ra rất dễ dàng.
Về cách thức kiến trúc, ngôi nhà Việt Nam thể hiện đậm nét các đặc điểm của truyền thống văn hóa dân tộc. Trong nhà không phân chia thành nhiều phòng nhỏ như ở phương Tây, giữa hai nhà thì ngăn cách bằng rặng cây xén thấp để hai bên hàng xóm có thể nói chuyện với nhau hoặc khi cần có thể lách rào đi tắt sang nhà nhau. Gian giữa của ngôi nhà thường là nơi đặt bàn thờ gia tiên. Hình thức kiến trúc ngôi nhà còn tuân thủ nguyên tắc coi trọng các số lẻ ước lệ của truyền thống văn hóa Việt Nam: tam quan, tam cấp, ba gian hai chái…
2. .4. Văn hóa giao thông
Trong điều kiện của một nước nông nghiệp, nhân dân ta ít có nhu cầu đi lại, thường chỉ có đi ra đồng, đi lại giữa láng giềng với nhau và thỉnh thoảng mới đi lại giữa các làng để dự lễ hội hoặc thăm nhau. Do đó, hoạt động giao thông ở Việt Nam thời xưa chậm phát triển.
Hệ thống đường giao thông bộ ở nước ta đến trước thời Pháp thuộc gồm ba loại đường: đường thiên lý, đường hàng tỉnh và đường hàng xã. Đến đầu thế kỷ XX, cùng với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, hệ thống đường đá, đường nhựa, đường sắt xuyên Việt cũng như liên tỉnh mới được xây dựng. Bộ mặt giao thông ở Việt Nam được đổi mới.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, phương tiện vận chuyển chủ yếu của giới bình dân là đi bộ, gồng gánh đội thúng trên đầu hoặc mang gùi trên lưng. Các vật nặng trên bộ được chở bằng xe cút kít (một bánh gỗ) hoặc xe do trâu bò kéo. Nói cách khác, trước ngày tiếp xúc với văn minh phương Tây, người Việt thường sử dụng voi, ngựa, xe trâu, xe bò, kiệu cáng, gùi, điệu, cõng, mang… và được cải tiến theo lối kéo trực tiếp hoặc kéo bằng xe. Sách Trung Hoa đời Hán diễn đạt sự khác biệt truyền thống trong cách thức đi lại của người phương Nam và phương Bắc rất ngắn gọn: Nam di chu, Bắc di mã (Nam đi thuyền, Bắc đi ngựa). Ở phương Nam sông nước, thuyền rồng là biểu tượng của quyền uy, ở Trung Hoa du mục thì cái sang trọng của vua thể hiện ở các cỗ xe tam mã, tứ mã…
Đường bộ thường nhỏ hẹp, bùn lầy khi trời mưa, nên dân quê thường đi chân đất. Các tầng lớp quan liêu thường hay sử dụng các loại vận chuyển cho những phu hầu phục vụ, như võng, cáng, kiệu, có thêm những người hầu che lọng đi theo. Trong quân sự và ở những cấp quan cao có dùng ngựa cưỡi và đôi khi dùng voi kéo, do người quản tượng điều khiển.
Đò thuyền là hình thức vận chuyển chủ yếu và thích hợp trong một đất nước nhiều sông, rạch, theo chức năng, có các loại đò dọc, đò ngang, theo chủng loại, có các loại thuyền thúng, thuyền đinh, thuyền độc mộc, thuyền buồm…
Ngay từ thời Đông Sơn, Phù Nam, Chăm pa, chúng ta đã có nhiều loại thuyền:
thuyền độc mộc, thuyền tam bản, thuyền lớn. Thuyền chiến, thuyền rồng cũng được sử dụng trong quân đội và các hàng ngũ quan liêu quý tộc. Các người ngoại quốc phương Tây đến Việt Nam trong những thế kỷ XVII, XVIII, XIX đều có nhận xét rằng người Việt Nam đóng thuyền chiến và điều khiển thuyền chiến rất giỏi, kỹ thuật vào loại cao trên thế giới.
Ngoài ra, nước ta còn có các loại phương tiện giao thông vận tải trên sông nước rất phong phú như ghe, xuồng, bè, mảng, phà, tàu…
2.2. Văn hoá xã hội
2.2. . Văn hóa gia đình
Mô hình phổ biến của gia đình Việt Nam truyền thống là loại gia đình nhỏ, bình quân số khẩu trong một hộ khoảng từ 4 đến 8 người, bao gồm hai thế hệ hoặc ba thế hệ (ông bà, cha mẹ, con cái), nhưng trong các gia đình thượng lưu quý tộc hoặc quan lại, cũng đã xuất hiện những loại hình gia đình lớn, 4 hoặc 5 thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà, dưới quyền răn dạy của vị gia trưởng cao tuổi, uy nghiêm, nhân từ.
Gia đình truyền thống Việt Nam đã gắn bó các thành viên bằng những quan hệ chặt chẽ, xuất phát từ những nguyên lý Nho giáo vừa cố kết bằng tình cảm kính trọng yêu thương, giữa các thế hệ khác nhau trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Người ta thờ cúng tổ tiên như một hành động tiếp tục phụng dưỡng những người đã khuất, cũng như tin vào sự hiện diện của tổ tiên luôn bên họ, phù hộ độ trì cho con cháu. Sự lo toan cho những thế hệ con cháu sẽ sinh ra, dẫn đến những quan điểm quá đề cao việc nối dõi tông đường, trọng nam trọng trưởng và một hệ quả tiêu cực là tục đa thê.
Sự gắn bó giữa những người cùng sống trong gia đình biểu hiện chủ yếu trong hai quan hệ cơ bản là bố mẹ -con cái và vợ -chồng. Theo quan điểm Nho giáo, nội dung của đạo hiếu của con cái với bố mẹ bao gồm các mặt kính yêu, vâng lời và phụng dưỡng bố mẹ. Trách nhiệm chủ yếu của bố mẹ là việc nuôi dưỡng và răn dạy con cái. Còn đối với quan hệ vợ chồng, vai trò của người vợ được đề cao mặc dù người vợ chỉ giới hạn công việc trong phạm vi chăm sóc gia đình, chồng con. Sự bền chặt của hai mối quan hệ này cùng với một nền giáo dục gia đình tỉ mỉ và hiệu quả đã củng cố tính vững chắc của gia đình như một tế bào cơ sở của xã hội.
Gia đình mở rộng thành gia tộc (họ hàng), cơ bản dựa trên mối quan hệ huyết thống gần gũi đến một chừng mực nào đó (thường trong phạm vi 9 thế hệ cùng chung một vị tổ phụ xa nhất. Trên nguyên tắc, một dòng họ có thể phân bố thành nhiều làng, thậm chí ở nhiều địa phương xa cách nhau, nhưng trong thực tế, sự cố kết gắn bó của dòng họ thường chỉ trong một thôn làng hoặc một xã. Dòng họ ở Việt Nam khá cố kết gắn bó trong cơ cấu làng xã. Một làng có thể có một họ, có thể có nhiều họ, tập trung vào một vài họ mạnh, những họ này thường cạnh tranh thế lực với nhau.
Một họ chia thành nhiều chi, chỉ tính theo nam giới, nữ giới thuộc họ bên nhà chồng. Người con trai trưởng không kể tuổi tác, được kính nể. Mỗi dòng họ thường có một nhà thờ họ (Từ đường), là nơi thờ cúng tổ tiên và hội họp trong các buổi giỗ tết, thường cũng là dịp ăn uống cỗ bàn và bàn bạc những công việc chung của họ
Mỗi dòng họ thường lưu giữ một quyển lịch sử dòng họ tức gia phả, ghi lại tên tuổi, thế thứ các chi họ và đặc biệt là các công trạng khoa mục chức tước của những vị tổ phụ, coi đó là niềm vinh dự chung của họ.
Kinh phí thờ cúng của họ dựa vào hoa lợi của loại ruộng hương hỏa, được giao cho người con trai trưởng. Người nào không có con trai sẽ trao phần ruộng đó cho họ hàng để lo việc cúng giỗ cho mình sau này, gọi là ruộng kỵ.
Những người cùng một dòng họ trong làng xã thường có ý thức cao trong việc đoàn kết, tượng trợ bảo vệ uy tín của họ mình. Tuy nhiên, từ đó cũng sinh ra tệ nạn bè phái, cục bộ, tranh chấp, kiện tụng trong các vấn đề quyền lực đất đai. Tính cố kết dòng họ ở đây đã biến thành một thứ chủ nghĩa vị kỷ dòng họ mang nhiều yếu tố tiêu cực.
Gia đình được coi là tế bào cơ sở, là một tư cách pháp nhân trong xã hội. Hộ gia đình là một đơn vị kinh tế, lao động tập thể và hợp nhất, nhất là trong việc làm ruộng theo mùa vụ cũng như trong các nghề thủ công làng xã. Hộ gia đình cũng được coi như những cá thể trong cơ cấu làng xã, là đơn vị được phân chia ruộng công, chịu sưu thuế, lao dịch và những khoản đóng góp khác. Đó cũng là một đơn vị chịu liên đới trách nhiệm trước pháp luật. Toàn thể gia đình (và gia tộc) được hưởng chung những vinh dự của một thành viên trong cộng đồng có được. Một người đỗ đạt, cả gia đình đều được trọng vọng trong lễ vinh quy. Một người làm quan, ân tứ của Triều đình đã ban phát đến cả những người thân như ông bà cha me (lệ phong tước) hoặc con cháu (lệ phong ấm). Ngược lại, khi một thành viên trong gia đình bị tội, gia đình cũng bị vạ lây, nếu là trọng tội như mưu phản, gia đình bị khép vòa hình phạt tru di tam tộc. Pháp luật đề cao vai trò, trách nhiệm và quyền lực của người tôn trưởng, gia trưởng trong việc răn dạy con cái, biện pháp trừng phạt bằng roi vọt được coi là chuyện bình thường và cần thiết trong việc giữ nghiêm gia pháp. Những gương sáng về lòng hiếu nghĩa, tiết liệt trong gia đình được nhà nước quan tâm, khen thưởng và tuyên dương trong việc ban tặng bằng, sắc.
2.2.2. Văn hóa làng xã
Làng xã Việt Nam đã xuất hiện từ cuối thời nguyên thủy, đầu thời dựng nước, có thể được coi là sản phẩm của một nền nông nghiệp lúa nước. Lúc này, ở các vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ, người Việt cổ đã quần tụ lại, định cư theo từng điểm cư dân trông nom đồng ruộng. Trong các làng này, tồn tại rất đậm tính cộng đồng, chủ nghĩa trọng lão (vai trò của các già làng được đề cao) và trọng nữ (trong nền nông nghiệp lúa nước, giới nữ có vai trò tương đối cao trong sản xuất).
Thời Bắc thuộc, làng xã Việt Nam đã co mình lại để tự vệ bảo tồn cơ cấu lối sống cổ truyền, chống lại sự đô hộ chính trị và đồng hóa văn hóa các thế lực phương Bắc. Dưới các vương triều phong kiến dân tộc, làng xã trở thành đơn vị hành chính quốc gia. Một xã có thể gồm một hoặc nhiều làng (tương đương cấp thôn). Xã là tên gọi mang tính chất hành chính, còn làng là một cộng đồng xã hội nhiều mặt mang tính dân gian.
Thời Lý – Trần, làng xã Việt còn giữ nhiều nét cổ truyền về kinh tế -xã hội, có vai trò tự trị tương đối lớn, nhà nước ít can thiệp vào đời sống xã. Từ thời Lê sơ, sự can thiệp của nhà nước vào làng xã diễn ra mạnh hơn, làng xã từng bước bị phong kiến hóa và sẽ phân hóa xã hội, kinh tế nội bộ cũng diễn ra sâu sắc.
Về không gian, các làng xã miền Bắc – mà điển hình là các làng xã vùng đồng bằng Bắc bộ thường có kết cấu kinh tế xã hội chặt và khép kín hơn là các làng xã miền Nam, sự phân hóa đẳng cấp cũng sâu sắc hơn. Làng xã Nam bộ mà phần lớn có nguồn gốc di dân lập ấp thường trải dài theo hai bờ kênh rạch, sự trao đổi giao lưu kinh tế có phần năng động hơn, văn hóa thoáng mở hơn, và ảnh hưởng của Nho giáo cũng nhạt hơn các làng xã miền Bắc.
Làng xã miền Bắc cũng có nhiều dạng khác nhau về loại hình kinh tế: làng thuần nông, làng chài, làng nghề, làng buôn…
Tuy có nhiều sắc thái khác nhau về các phương diện nói trên, nhìn một cách tổng quát, làng xã Việt Nam truyền thống vẫn mang nhiều đặc điểm chung. Nó vừa là một cộng đồng cố kết chặt, vừa là một cấu trúc phân tầng sâu sắc.
Làng xã là một cộng đồng xã hội cố kết chặt về nhiều mặt, có tính tự quản. Tính cộng đồng làng xã đó có cơ sở, đặt nền móng cho truyền thống đoàn kết tương trợ, tinh thần tập thể của người nông dân Việt Nam, tuy trong những điều kiện nhất định, nó cũng có thể biến thái thành một thứ cộng đồng bản vị mang tính địa phương, bè phái, cục bộ.
Về cảnh quan, địa thế, một làng thường được bao bọc, phòng vệ sau một lũy tre xanh, thông thương với bên ngoài bằng một cổng làng, đó là một không gian cưu trú khép kín. Tuy nhiên, bên trong làng, là một tụ điểm quần cư thoáng mở, nhà cửa của các hộ gia đình thường được ngăn cách sơ sài, dễ dàng thông thương với nhau. Đình làng, quán cầu, cây đa, giếng nước là những điểm giao tiếp cộng đồng. Do đó các gia đình thường quen biết nhau, nhưng một người trong làng có thể cả đời chỉ quanh sống trong làng và đồng ruộng, không hề đi tới các làng xã hoặc địa phương khác.
Kinh tế ở những làng thuần nông là kinh tế bán tự túc. Mối liên hệ với bên ngoài thường ít ỏi và ở cự ly gần, qua mạng lưới chợ luân phiên, phần lớn các hoạt động kinh tế thực hiện ở quy mô làng: ruộng đất cày cấy tập trung quanh làng, công việc thủy lợi chung, thủ công nghiệp mang tính tự cấp gia đình, việc mua bán các phẩm vật hàng ngày chủ yếu diễn ra ở chợ làng. Các làng nghề trao đổi hàng hóa ở những thị trường xa hơn, nhưng bí mật về kỹ thuật sản xuất thì vẫn mang tính làng xã. Ngay ở các làng buôn, người ta cũng tập hợp thành các phường, bạn mang tính cộng đồng cao khi đi buôn bán ở các địa phương xa.
Tính cộng đồng tự quản về mặt chính trị của làng xã thể hiện ở sự tồn tại song song hai hình thức quyền lực. Bộ máy chính quyền mang tính nhà nước (thực chất vẫn dân cử) có chức năng hành pháp và thiết chế làng xã tự quản (hội đồng kỳ mục) có chức năng lập pháp. Các chủ trương và những công việc chung của làng xã thường được bàn bạc và giải quyết nội bộ ít khi cần đến sự can thiệp của cấp trên. Làng xã cũng tổ chức những lực lượng dân phòng tự quản (đội tuần đinh do Hán thủ phụ trách) để duy trì công việc an ninh trật tự.
Làng xã còn là cộng đồng cố kết và tự quản về văn hóa tinh thần. Có một thứ tôn giáo làng là tục thờ cúng thành hoàng, được coi là vị thần bảo trợ cho toàn thể dân làng. Không gian thiêng của làng bao gồm các đình (chức năng tôn giáo kết hợp với chức năng chính trị, xã hội), chùa chiền, miếu mạo, nghĩa trang làng… Trong làng, người ta thưỡng sống theo những phong tục tập quán cổ truyền (lệ làng) mang tính mềm dẻo, là đối trọng của phép nước (mang tính cứng rắn). Một sự thỏa hiệp hỗn dung giữa lệ làng và phép nước, được văn bản hóa thành các khoán ước, hương ước và thương do nho sĩ được làng xã cử ra soạn thảo, đề cập đến làng. Việc giáo dục trẻ em được giao cho một thầy đồ, thầy đồ được làng chu cấp. Trong năm, người ta tổ chức những đám rước tế, lễ hội, các bữa cỗ tập thể đình đám, tục hương ẩm, các dịp khao vọng, cheo cưới, nhân cơ hội này đã thu hút đông đảo mọi tầng lớp dân làng, vừa nghiêm trang, vừa vui vẻ nhưng có khi lãng phí hình thức, biến thành hũ tục.
2.2. . Văn hóa quốc gia
Ở Việt Nam, do những nhu cầu cố kết các cộng đồng dân cư trong công cuộc đấu tranh chống thiên nhiên (vấn đề thủy lợi) và đấu tranh xã hội (chống xâm lược), nhà nước đã hình thành từ rất sớm. Văn Lang là quốc gia đầu tiên của người Việt Nam hình thành ở phần đất phía Bắc, cùng với hai quốc gia cổ đại khác ở miền Trung và miền Nam. Tiếp theo, là những quốc gia mang quốc hiệu Âu Lạc (thời An Dương Vương), Vạn Xuân (thời Lý Bôn), Đại Cồ Việt (thời Đinh), Đại Việt (thời Lý – Trần – Lê) xen giữa là Đại Ngu (thời Hồ) sau đó đến Việt Nam, Đại Nam (thời Nguyễn). Giao Chỉ và An Nam là những tên gọi nước Việt của người phương Bắc mang ý khinh thị. Việt Nam là một quốc gia đa tộc người.
Từ thời dựng nước, đứng đầu nhà nước Văn Lang đã có một nhà vua theo chế độ cha truyền con nối. Tuy nhiên, thực chất đó chỉ là những thủ lĩnh liên minh bộ lạc. Thiết chế quân chủ tập quyền Việt Nam được xác lập trong những vương triều phong kiến, muộn nhất là từ thời Lý. Và, tuy có những mức độ khác nhau, thiết chế đó đã tồn tại trong suốt thời trung đại, đến thời Pháp thuộc. Đó là một thiết chế dựa theo mô hình lý tưởng của văn hóa Trung Hoa, nhưng khi du nhập vào Việt Nam, nó đã bị đẽo gọt, biến thái, hỗn dung với các yếu tố truyền thống để thích ứng với thực tế xã hội Việt Nam.
Trên nguyên lý, vua là biểu tượng tối cao của quốc gia, dân tộc, có sứ mệnh “Thay trời trị dân”, là bậc trung gian giữa Trời và người, vừa là con Trời vừa là cha mẹ của dân chúng. Vấn đề tuổi tác và kể cả năng lực đối với nhà vua đều không quan trọng. Trong lịch sử, đã có một số ít nhà vua từng là Hoàng đế mạnh mẽ, quyết đoán, điển hình là vua Lê Thánh Tông triều Lê sơ và vua Minh Mạng triều Nguyễn. Một số chỉ nắm quyền hành trên danh nghĩa, thậm chí là hư vị, như dưới thời vua Lê chúa Trịnh, điển hình là vua Lê Hiển Tông.
Trên danh nghĩa, nhà vua có quyền tối thượng và toàn năng. Vua là người chủ tế duy nhất, không ai thay thế được trong các nghi lễ quan trọng (như tế Nam Giao, tế Tôn Miếu, tế Giám). Vua cũng là người chủ sở hữu toàn bộ đất đai trong nước, có toàn quyền phong cấp hoặc tịch thu đất đối với toàn dân. Vua là vị Tổng tư lệnh chỉ huy quân đội, là người trực tiếp bổ nhiệm hoặc bãi miễn các chức quan cao cấp, người ra đề thi chọn học vị cao nhất (thi Đình), quan tòa xử kiện tối hậu đối với các vụ trọng án. Uy quyền tối thượng đó mang tính chất thần thánh, được biểu tượng hóa trong việc kiêng kỵ tên húy, độc quyền được dùng các đồ dùng có hình rồng (long ngai, long sàng, long bào…) là con vật tượng trưng cho vương quyền, độc quyền dùng áo khoác mầu vàng (hoàng bào) vì theo thuyết ngũ hành, màu vàng thuộc hành thổ, ở trung tâm, tượng trưng cho quyền uy lãnh tụ của nhà vua.
Ở một mặt khác, vua được coi là người cha của toàn thể dân tộc như trong một gia đình lớn, là người bảo vệ, chăm lo cho dân. ở Việt Nam đã tồn tại một thứ chủ nghĩa dân bản, thân dân, được tô đậm bởi những truyền thống cộng đồng của nền văn hóa cơ tầng Nam Á. Một số vị vua, nhất là trong giai đoạn Lý – Trần đã sinh hoạt gần gũi với các thần dân như trực tiếp đi kiểm tra việc đắp đê, gặt hái, dự các lễ hội dân gian như đua thuyền, đấu vật, đầu năm cày ruộng tịch điền để nêu gương. Trong lịch sử Việt Nam, vai trò của vị Hoàng đế trên thực tế đã tùy thuộc nhiều vào đức độ và tư chất của cá nhân nhà vua, dao động trên một biên độ rất rộng giữa danh và thực. Thể chế quân chủ tập quyền ở Việt Nam là một thực thể chính trị mang trong mình nó vừa là những yếu tố mạnh, tích cực, đồng thời vừa là những yếu tố mạnh, tích cực, đồng thời vừa là những yếu tố yếu, tiêu cực.
2. . Văn hoá tinh thần
2. . . Tôn giáo, tín ngƣỡng
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Người dân Việt Nam có truyền thống sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng từ lâu đời. Các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn liền với đời sống kinh tế và tâm linh của mình.
Tín ngƣỡng dân gian: Với quan niệm vạn vật hữu linh, nên người xưa đã thờ rất nhiều thần linh, đặc biệt là những sự vật có liên quan đến nông nghiệp như trời, trăng, đất, rừng, sông, núi… để được phù hộ. Đối với các dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc có hình thái tín ngưỡng riêng của mình. Tuy nhiên, đặc trưng nhất là các hình thái tín ngưỡng nguyên thủy và tín ngưỡng dân gian ngày nay còn lưu giữ được trong các nhóm dân tộc như nhóm Tày-Thái, nhóm Hmông-Dao; nhóm Hoa-Sán Dìu-Ngái; nhóm Chăm-Ê đê-Gia Rai; nhóm Môn-Khơ me.
Tín ngưỡng thờ thần linh rất phổ biến. Người ta phân loại thành các vị thiên thần, nhân thần. Thiên thần phần lớn là các vị thần núi, thần sông. Ở Bắc Bộ, những thiên thần được thờ cúng nhiều nhất là Tản Viên và Thánh Gióng. Trong số các nhân thần, một số là các nhân vật lịch sử tầm cỡ quốc gia, phổ biến là Hùng vương, Hai Bà Trung, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt và Trần Quốc Tuấn (được suy tôn là Đức Thánh Trần), một số khác là các nhân vật lịch sử văn hóa mang tính địa phương.
Người ta thờ thần linh trong các đền miếu, và ở trong các đình của làng xã, trong trường hợp này, vị thần trở thành vị Thành hoàng làng. Thần thành hoàng được thờ trong các đình làng có thể là các vị thần linh hoặc là những nhân vật kiệt xuất có nhiều công lao to lớn như những ông tổ làng nghề hoặc anh hùng dân tộc có công “khai công lập quốc”, chống giặc ngoại xâm. Các thành hoàng làng được phân loại Thượng đẳng thần, Trung đẳng thần và Hạ đẳng thần, có thần phả, thần tích và sắc phong của nhà nước.
Một tín ngưỡng đặc trưng cho xã hội nông nghiệp là tín ngưỡng phồn thực. Tín ngưỡng này bắt nguồn từ sự sùng bái việc sinh sôi nảy nở (con người, cây cối, động vật). Biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực là sự sùng bái các cơ quan sinh dục (nam và nữ) và hành vi tính giao. Tất cả đều được cách điệu hóa và biểu trưng hóa trong nghệ thuật tạo hình cũng như trong các lễ hội. Ở Chăm pa cũng có nhiều biểu tượng Linga – Yoni (sinh thực khí nam nữ) trong điêu khắc, kiến trúc.
Tín ngưỡng thờ Mẫu cũng rất phổ biến ở nhiều địa phương. Người ta thờ Mẫu trong cả chùa và ở các điện, phủ theo hệ thống Tam phủ, Tứ phủ. Đó là các Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn. Mẫu Thoải. Mẫu thứ tư là Trời đầu thai vào một cô gái có cuộc đời thực ở Vụ Bản, Nam Định, thế kỷ XVI, tên Liễu Hạnh. Liễu Hạnh là vị Mẫu được thờ ở rất nhiều địa phương, tập trung ở ba phủ lớn: Phủ Giày (Nam Định), đền Sòng (Thanh Hóa), phủ Tây Hồ (Hà Nội).
Tục thờ Mẫu còn đan xen vào Phật giáo ở thời kỳ đầu du nhập vào Việt Nam với Phật Mẫu Man Nương (chùa Dâu, Bắc Ninh), cùng hệ thống Tứ pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện) thờ các vị Phật mẫu sinh ra mây, mưa, sấm, chớp phù hộ cho mùa màng tươi tốt. Ở miền nam, có tục thờ Thánh Mẫu Thiên Yana (Tháp Bà tức Poonagar ở Nha Trang), dung hợp với Mẫu Liễu trở thành bà chúa Ngọc (điện Hòn Chén – Huế), bà chúa Xứ (Châu Đốc). Lễ thức thờ Mẫu thể hiện trong nghệ thuật biểu diễn các bài hát múa chầu văn, trong tục lên đồng.
Bên cạnh đó, một phong tục, tập quán lâu đời phổ biến nhất của người Việt và một số dân tộc thiểu số khác là việc thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ những người đã mất. Nó vừa biểu hiện cho sự nhớ ơn, biết ơn các vị tổ phụ, tình cảm với ông cha, vừa là niềm tin cho rằng các vị tổ đó vẫn tồn tại bên con cháu, ban phúc hoặc giáng họa cho người còn sống. Trong từng gia đình hoặc dòng họ, người ta lập nên các bàn thờ, trên đó các đồ thờ, khám thờ, bài vị ghi tên tuổi chức tước tổ phụ (thường là 4, 5 đời), đèn hương. Trong các dịp giỗ tết hoặc ngày sóc vọng, các gia đình thường cúng tế tổ tiên với niềm thành kính.
Ngoài thờ cúng tổ tiên, người Việt còn thờ các vị thần linh khác như Thổ Công (thần bếp), Thổ Địa, Thần Tài. Các phường nghề có tục thờ Tiên sư (Ông Tổ nghề).
Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có một hệ thống 4 vị thần được coi là tứ bất tử: thần Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh.
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam đã phản ánh một đời sống tâm linh phong phú của người Việt xưa. Tuy nhiên, sau khi kết hợp với những yếu tố tôn giáo khác, một só cũng biến thái thành các tục mê tín dị đoan như các thuật phù thủy, ma thuật, đồng cốt…
Các tôn giáo ở Việt Nam
Phật giáo: Trong thời kỳ Bắc thuộc, các thương nhân, các nhà sư và các tu sĩ Bà la môn trên con đường truyền bá Phật giáo có dừng chân tại Giao Châu và đã truyền bá các truyền thống văn hóa và tôn giáo Ấn Độ.
Phật giáo là một học thuyết về bản chất của nỗi đau khổ và sự giải thoát. Để đáp lại câu hỏi về nguyên nhân khiến cho sinh linh sa vào chu kỳ luân hồi, và những phương tiện để thoát khổ, Phật đã đề xướng bốn chân lí gọi là Tứ diệu đế. Bốn chân lí kì diệu đó là:
Khổ đế (Dukkha): chân lí về sự đau khổ -mọi tồn tại là đau khổ và không thỏa mãn.
Tập đế (Samudaya): chân lí về nguyên nhân của nỗi khổ -nguyên nhân ấy là ham muốn, dục vọng, dẫn người ta tới chu kỳ luân hồi.
Diệt đế (Nirodha): chân lí về sự kết thức đau khổ -việc xóa bỏ hoàn toàn mọi ham muốn có thể chấm dứt mọi đau khổ.
Đạo đế (Magga): chân lí về con đường cứu rỗi, được cụ thể hóa trong khái niệm Bát chánh đạo (tám nẻo đường chân chính): chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh (thuộc lĩnh vực rèn luyện đạo đức, gọi là giới), chính niệm, chính định (thuộc lĩnh vực rèn luyện tư tưởng, gọi là định), chính kiến, chính tư duy, chính tịnh tiến (thuộc lĩnh vực khai sáng trí tuệ, gọi là tuệ).
Toàn bộ giáo lý của Phật giáo về sau được sắp xếp lại thành ba tạng: kinh tạng, luật tạng, luận tạng, hay còn gọi là tam tạng (Tripitaka). Còn khái niệm tam bảo (Triratna) dùng để chỉ ba yếu tố căn bản của Phật giáo là Phật, Pháp, Tăng. Tín đồ Phật giáo tự đặt mình vào sự bảo trợ của Tam bảo bằng cách nói lên công thức “Ba quy y” (quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng) để công khai thừa nhận sự gia nhập Phật giáo.
Phật giáo có một lịch sử phát triển lâu dài. Từ giữa thế kỷ VI -V TCN là giai đoạn Phật giáo nguyên thủy. Sau đó Phật giáo phát triển thành những tông phái. Hai tông phái chính là Đại thừa và Tiểu thừa. Ngoài ra còn có một nhánh nữa là Kim cương thừa, xuất hiện vào giữa thiên niên kỷ thứ I, phát triển từ học thuyết Đại thừa và ma thuật. Từ thế kỷ III, Phật giáo bắt đầu được truyền bá ra ngoài Ấn Độ. Ở mỗi vùng mà nó du nhập, Phật giáo thích nghi với những tín ngưỡng bản địa. Phật giáo Tiểu thừa ngày nay đang có mặt ở Srilan ca, Thái Lan, Mianma, Campuchia. Phật giáo Đại thừa có mặt tại Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam. Còn Phật giáo Kim cương thừa thì có mặt tại Tây Tạng, Mông Cổ và Nhật Bản.
Phật giáo du nhập vào nước ta từ thế kỷ đầu công nguyên. Đời Hán, có ba trung tâm Phật giáo là Lạc Dương, Bành Thành, Luy Lâu. Hai trung tâm thuộc lãnh thổ Trung quốc, còn Luy Lâu ở miền Bắc nước ta. Trong suốt ba thế kỷ đầu công nguyên, Giao Châu với trung tâm Luy Lâu, là mảnh đất tốt đầu tiên ở Đông Á cho những ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ bén rễ. Trong các thế kỷ này, Phật giáo được truyền trực tiếp từ Ấn Độ sang Việt Nam.
Từ thế kỷ IV, V, Việt Nam lại tiếp nhận Phật giáo Đại thừa từ Trung Quốc truyền sang, và mở đầu cho sự ra đời các dòng thiền đầu tiên trong lịch sử Thiền tông Việt Nam: dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi (thế kỷ VI) do nhà sư có tên là Tỳ-ni-đa-lưu-chi (người Ấn Độ) sáng lập, ông qua Trung Quốc, rồi sang Việt Nam tu ở chùa Pháp Vân (Bắc Ninh) -đây là một trong những dòng thiền có mặt sớm nhất ở phương Đông; dòng thiền Vô Ngôn Tông (thế kỷ IX) do nhà sư người Trung quốc sang Việt Nam tu ở chùa Kiến Sơ (Bắc Ninh).
Lịch sử Phật giáo tại Việt Nam được tính như sau:
Thời kỳ thứ nhất diễn ra khoảng hơn năm thế kỷ, tính từ khi Phật giáo được khai sinh ở Ấn Độ cổ đại cho đến khi Phật giáo được truyền bá đến Trung Quốc và các nước Đông Nam Á.
Thời kỳ thứ hai gồm toàn bộ lịch sử truyền bá và không ngừng tạo nên những ảnh hưởng đa dạng của Phật giáo đối với đời sống tư tưởng và văn hóa của Việt Nam. Thời kỳ này có thể tạm chia thành bốn giai đoạn lớn sau đây:
Giai đoạn thứ nhất: bắt đầu từ khi Phật giáo được truyền bá vào nước ta đến hết thời Bắc thuộc, kéo dài khoảng 1.000 năm.
Giai đoạn thứ hai: kéo dài từ đầu thế kỷ X cho đến cuối thế kỷ XIV, giai đoạn này tương ứng với khoảng từ họ Khúc bắt đầu dựng nghiệp cho đến gần hết thời Trần. Đây là giai đoạn mà vị trí của Phật giáo trên vũ đài chính trị và tư tưởng của Nhà nước rất lớn. Phật giáo tồn tại gần như là quốc giáo của dân tộc.
Giai đoạn thứ ba bao gồm toàn bộ khoảng thời gian lịch sử từ cuối thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XIX, giai đoạn này có thể chia làm ba chặng sau:
Chặng thứ nhất: từ cuối thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XVI tức là cuối thời nhà Trần cho đến hết thời Lê sơ. Ở chặng này, vị trí quan trọng của Phật giáo từng bước bị đẩy lùi và đến thời Lê sơ thì Phật giáo và cả Đạo giáo phải rút lui khỏi vũ đài chính trị và tư tưởng, lui về phát triển trong lòng xã hội, nhường chỗ cho Nho giáo giữ vị trí độc tôn tư tưởng.
Chặng thứ hai: từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII. Ở chặng này, Phật giáo phát triển rất mạnh mẽ. Số lượng người tu hành ngày một đông, chùa chiền được xây dựng lên rất nhiều, trong đó có nhiều ngôi chùa rất nổi tiếng. Một số dòng Thiền Tông đã gây ra được ảnh hưởng rất lớn.
Chặng thứ ba: gồm gần một thế kỷ XIX. Ở chặng này, Phật giáo được chấn hưng nhưng ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội không bằng các giai đoạn trước.
Giai đoạn thứ tư: từ đầu thế kỷ XX đến nay, Phật giáo tiếp tục phát triển mạnh mẽ và là tôn giáo lớn nhất ở Việt Nam. Từ đây, thống nhất là xu hướng chi phối, chính vì vậy mà các dòng tu của Phật giáo dần dần biến mất.
Đạo giáo: Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ II. Ảnh hưởng của tư tưởng Lão -Trang và Đạo giáo Thần tiên chỉ hạn chế ở tầng lớp trên và quan lại đô hộ. Nhiều quan lại Trung Quốc sang nước ta cai trị đều sính phương thuật, mà điển hình là Cao Biền đời Đường. Còn Đạo giáo Phù thủy khi vào nước ta đã nhanh chóng hòa quyện vào tín ngưỡng dân gian, ma thuật cổ truyền của người Việt. Các tín ngưỡng, ma thuật cổ truyển của người Việt vốn có từ thời Bắc thuộc và trong cả quá trình lịch sử nước ta về sau, có rất nhiều đặc điểm cùng bản chất với tư tưởng Đạo giáo Trung Quốc. Vì vậy, phân biệt trong tín ngưỡng dân gian truyền thống của người Việt đâu là phần bản địa, đâu là phần tiếp nhận từ Đạo giáo Trung quốc không phải dễ dàng.
Từ Việt Nam và từ vị trí của góc nhìn hiện đại, có thể chia lịch sử Đạo giáo thành hai thời kỳ lớn:
Giai đoạn thứ nhất: tương ứng với toàn bộ thời gian lịch sử của thời Bắc thuộc, Đạo giáo đã tự tìm đường truyền bá vào nước ta. Chính quyền phong kiến Trung Quốc đã có tác động mạnh mẽ để vừa tạo cơ hội thuận tiện cho việc truyền bá, vừa để lợi dụng Đạo giáo. Riêng với Đạo giáo,việc chọn lựa những nội dung để truyền bá thì không quá khắt khe như đối với Nho giáo. Bấy giờ, chính quyền đô hộ đã nhất thể hóa đội ngũ quan lại đô hộ với đội ngũ những đạo sĩ cao tay ấn, có nghĩa là chúng muốn đồng thời nắm cả chính quyền lẫn thần quyền.
Giai đoạn thứ hai: bao hàm khoảng thời gian từ đầu thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIV. Ở giai đoạn này, Đạo giáo không những có vị trí quan trọng trong đời sống tư tưởng của xã hội mà còn có một ảnh hưởng rất lớn lao trên vũ đài chính trị của đất nước. Các thiết chế của Đạo giáo là đạo quán, đền miếu được dựng lên ở khắp nơi. Số người tu hành theo Đạo giáo cũng ngày một nhiều.
Giai đoạn thứ ba: từ cuối thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XIX. Giai đoạn này, Đạo giáo rút lui khỏi vũ đài chính trị và tư tưởng nhưng vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong dân gian.
Giai đoạn thứ tư: từ đầu thế kỷ XX cho đến nay, ở giai đoạn này, Đạo giáo dần dần bị thu hẹp.
Nho giáo: du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc qua một số quan chức cai trị và nho sĩ di cư, nhưng ảnh hưởng của nó còn khá nhạt nhòa. Thời Lý Trần, nhà vua chủ trương xây dựng một thiết chế nhà nước quân chủ tập quyền, lấy tư tưởng Nho giáo làm cơ sở chính thống, nhưng nó vẫn chưa thấm sâu vào những tầng lớp bình dân. Thế kỷ XV đánh dấu bước phát triển quan trọng của Nho giáo ở Việt Nam. Các triều vua Lê đưa Nho giáo lên vị trí độc tôn, trở thành hệ tư tưởng chính thống. Từ thế kỷ XVI đến XVIII, Nho giáo suy thoái và biến dạng đi nhiều, dần dần lâm vào một cuộc khủng hoảng, khủng hoảng niềm tin trong dân chúng. Sự bất lực của hệ tư tưởng đó trong việc ổn định xã hội, thực tế ngày càng xa rời lý thuyết, mặt khác, nó cũng nói lên một sự thức tỉnh giác ngộ tinh thần của nhân dân, những khát vọng về quyền sống – về công bằng xã hội mang tính nhân văn, dân chủ.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, Nho giáo đã để lại những dấu ấn sâu đậm nhất trong mọi tầng lớp xã hội và trong mọi mặt đời sống. Được du nhập từ Trung Hoa, nhưng nó đã bị biến thái, khúc xạ để thích ứng với thực tế xã hội cũng như tín ngưỡng đạo đức cổ truyền, bản địa. Nho giáo Việt Nam so với Nho giáo Trung Hoa có phần đậm về thực dựng, nhạt về lý thuyết, đậm về chữ nhân, nghĩa và nhạt về chữ lễ.
Trong nhiều thế kỷ, Nho giáo đã là bệ đỡ tư tưởng giúp cho chế độ phong kiến nhà nước phát triển và củng cố trật tự xã hội và gia đình, hòa nhập vào một số truyền thống đạo đức dân tộc. Nó góp phần to lớn và chủ yếu vào sự nghiệp giáo dục khoa cử, đào tạo các trí thức nhân tài cũng như hàng ngũ quan lại, là ý thức hệ nền tảng cho các công trình, tác phẩm văn học, học thuật. Ở những thế kỷ sau, Nho giáo trở nên bảo thủ, phản nhân văn, không còn đáp ứng những nhu cầu của lịch sử, trở thành lực cản kìm hãm sự phát triển của nhân cách cũng như của xã hội Việt Nam.
Đạo Gia tô: Đạo Gia tô khi truyền bá vào Việt Nam, đương thời gọi là đạo Thiên Chúa. Các nhà nước phong kiền gọi nó là đạo Tây dương. Ngày nay, tên chính thức là Công giáo.
Đạo Gia tô là giáo phái chính và lớn nhất của đạo Ki tô (Cơ đốc giáo). Bắt nguồn từ Trung Đông, đạo Ki tô đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo thế giới. Sách kinh của đạo Ki tô là Kinh thánh: cựu ước và tân ước. Giáo lý Ki tô cơ bản chủ trương niềm tin và sự tôn thờ chúa, tình bác ái đồng loại, mặc cảm tội lỗi và sự cứu rỗi. Nhà thờ La Mã (tòa thánh Vatican) là trung tâm thế giới đạo Ki tô, quản lý các tín đồ bằng một tổ chức chặt chẽ (Giáo hoàng, Giáo hội), một hệ thống các lễ thức phức tạp.
Trong quá trình phát triển, đạo Ki tô đã phân nhánh thành nhiều tông phái. Chính thống giáo là đạo Ki tô của một số nước Đông Âu, tách ra từ thế kỷ XI. Từ thế kỷ XVI, trong phong trào cải cách tôn giáo, đã ra đời Tân giáo hoặc đạo Tin lành, phổ biến ở các nước Bắc Âu và Bắc Mỹ.
Theo chính sử, đạo Gia tô lần đầu tiên được truyền bá vào Việt Nam dưới thời nhà Mạc. Năm 1533, một người Tây Dương tên là I-nê-khu (Ignatio) theo đường biển lẻn vào giảng đạo Gia tô ở các làng Ninh Cường, Quần Anh, Trà Lũ, nay thuộc Nam Hà” (nay là Nam Định và Hà Nam). Những tín đồ Việt Nam đầu tiên theo đạo thường là những dân nghèo ít học, dân chài và phụ nữ. Họ tìm thấy một sự phù hợp giữa tinh thần bác ái Ki tô giáo và truyền thống nhân ái của người Việt Nam. Tiếp theo đó nhiều giáo sĩ phương Tây đã đến giảng đạo cả ở Đàng Ngoài, Đàng Trong. Đầu thế kỷ XVII, nổi bật lên là các giáo sĩ thuộc Dòng tên C.Borri và đặc biệt là Alexan dre de Rhodes.
Lúc đầu, các vua thời Mạc, Lê trung hưng và một số chúa (như Trịnh Tráng – chúa Sãi) đã tỏ ra khoan dung với đạo Gia tô. Một số quý tộc như công chúa con Lê Thế Tông, các bà phi của Nguyễn Hoàng, Trịnh Tùng, bà cô chúa Sãi cũng đã theo đạo này. Giữa thế kỷ XVII, ở Việt Nam đã có đến 340 nhà thờ, 250.000 tín đồ ở Đàng Ngoài và 100.000 ở Đàng Trong như các trung tâm thuộc Kẻ Chợ, Phố Hiến, Hội An, Nước Mặn.
Tuy nhiên, quan hệ giữa các giáo sĩ Gia tô với các chính quyền phong kiến không được tốt đẹp. Ngoài sự khác biệt về chủng tộc, có mâu thuẫn về hệ tư tưởng giữa nho giáo và Ki tô giáo, việc các giáo sĩ không thừa nhận đạo thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam, một số giáo sĩ đã dính líu đến chính trị… đã khiến mối quan hệ này ngày càng xấu đi
Các vua đầu triều Nguyễn đặc biệt là vua Minh Mạng đã thi hành một chính sách không khôn ngoan là cấm đạo, khủng bố giáo sĩ và giáo dân, tạo cớ cho thực dân Pháp can thiệp vũ trang.
Sự du nhập của đạo Gia tô vào Việt Nam đã mở đầu cho sự giao lưu giữa văn hóa phương Tây và văn hóa Việt Nam, nó có một số đóng góp nhất định vào di sản văn hóa Việt như: một số kiến thức khoa học kỹ thuật (thiên văn, toán, y học) do các giáo sĩ đem theo, nghệ thuật kiến trúc các nhà thờ và đặc biệt là sự ra đời và phát triển của chữ quốc ngữ được La tinh hóa.
3.3.2. Phong tục tập quán
Gắn liền với tín ngưỡng là phong tục. Đó là những thói quen ăn sâu vào đời sống xã hội từ lâu đời, được đại đa số mọi người thừa nhận và làm theo. Phong tục có trong mọi mặt đời sống, ở đây tập trung xem xét ba nhóm chủ yếu: phong tục hôn nhân, tang ma, lễ Tết và lễ hội
Phong tục hôn nhân
Hôn nhân của người Việt Nam truyền thống không phải là việc hai người lấy nhau mà là việc “hai họ” dựng vợ gả chồng cho con cái. Vì vậy, đây là dịp hai họ xác lập mối quan hệ, trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi. Hôn nhân là một công cụ duy nhất và thiêng liêng để duy trì dòng dõi và phát triển nguồn nhân lực. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực của nghề trồng lúa, khi xem xét con người trong hôn nhân, người nông nghiệp Việt Nam quan tâm trước hết đến năng lực sinh sản của họ. Kén dâu, lấy vợ thì phải chọn người Lưng chữ cụ, vú chữ tâm, phải là Đàn bà thắt đáy lưng ong, Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con. Năng lực sinh đẻ của người phụ nữ còn có thể nhìn thấy qua gia đình họ: Mua heo chọn nái, lấy gái chọn dòng; Ăn mày nơi cả thể, làm rể nơi nhiều con; Lấy con xem nạ (nạ = mẹ). Hướng tới mục đích sinh đẻ là tục “giã cối đón dâu” và tục trải chiếu cho lễ hợp cẩn: gia đình nhờ một người phụ nữ đứng tuổi, đông con, phúc hậu, vợ chồng song toàn vào trải chiếu cho cô dâu chú rể: chiếu trải phải một đôi -một ngửa, một sấp (một âm một dương) úp vào nhau. Không chỉ duy trì dòng giống, người con tương lai còn có trách nhiệm làm lợi cho gia đình. Con gái phải đảm đang tháo vát, đem lại nguồn lợi vật chất cho gia đình nhà chồng; con trai phải giỏi giang, đem lại vẻ vang cho gia đình nhà vợ.
Theo phong tục, khi lấy vợ, nhà trai phải nộp cho làng xã bên gái một khoản “lệ phí” gọi là “cheo” thì đám cưới mới được công nhận là hợp pháp. Ca dao, tục ngữ có những câu: Nuôi lợn thì phải vớt bèo, Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng; Lấy vợ mười heo, không cheo cũng mất; Lấy vợ không cheo, tiền gieo xuống suối. Người cùng làng lấy nhau thì nộp ít (có tính tượng trưng), gọi là cheo nội; lấy vợ ngoài làng thì cheo rất nặng, gấp đôi gấp ba cheo nội, gọi là cheo ngoại.
Trước lễ cưới, còn phải thực hiện lễ vấn danh (ngày nay gọi là chạm ngõ, hay lễ dạm) xem đôi trai gái có hợp tuổi nhau hay không, còn nếu xung khắc thì thôi. Để cho quan hệ vợ chồng được bền vững, khi cưới, đôi vợ chồng trẻ thời Hùng Vương có tục trao cho nhau nắm đất và gói muối: nắm đất tượng trưng cho lời nguyền gắn bó với đất đai -làng xóm; gói muối là lời chúc cho tình nghĩa giữa hai người mặn mà thủy chung. Sau này, thay cho đất và muối, trong lễ vật dẫn cưới luôn có một loại bánh đặc biệt rất có ý nghĩa là bánh su sê (tên đọc chệch đi của phu thê): Bánh “phu thê” (vợ chồng) hình tròn bọc bằng hai khuôn hình vuông úp khít vào nhau. Đó chính là biểu tượng của triết lí âm dương (vuông tròn) và ngũ hành (ruột dừa trắng, nhân đậu vàng, rắc vừng đen, khuôn lá xanh, buộc lạt đỏ), biểu tượng cho sự vẹn toàn, hòa hợp -hòa hợp của đất trời và của con người. Khi làm lễ hợp cẩn, còn có tục hai vợ chồng ăn chung một đĩa cơm nếp, uống chung một chén rượu: ý nghĩa của tục này cũng là cầu chúc cho hai vợ chồng luôn gắn bó với nhau: đính nhau như cơm nếp và say nhau như say rượu. Quan hệ mẹ chồng -nàng dâu cũng rất được chú ý. Mẹ chồng, nàng dâu vốn hay mâu thuẫn vì những chuyện không đâu, chẳng qua là do cả hai đều cảm thấy tình cảm của người con -người chồng đã không dành trọn cho mình. Vì vậy mà khi cô dâu mới bước vào nhà, có tục mẹ chồng ôm bình vôi lánh sang nhà hàng xóm. Trong gia đình nông nghiệp Việt Nam, người phụ nữ được xem là nội tướng; người mẹ chồng lánh đi là có ý nhượng quyền “nội tướng” tương lai cho con dâu để cho trong gia đình trên thuận dưới hòa. Nhưng đó là trong tương lai, còn hiện tại thì chưa, cho nên mẹ chồng mới ôm theo chiếc bình vôi -biểu tượng quyền lực của người phụ nữ.
Phong tục tang ma
Sinh lão bệnh tử vốn là quy luật cuộc đời mà ai cũng phải trải qua, cho nên người Việt Nam, nhất là người già rất bình tĩnh, yên tâm đón chờ cái chết. Người Việt Nam chuẩn bị khá chu đáo cho cái chết của mình. Các cụ già tự mình lo sắm áo quan (quan tài, còn gọi là cỗ hậu, cỗ thọ). Có cỗ thọ rồi, các cụ lo đến việc nhờ thầy địa lí đi tìm đất, rồi xây sinh phần (mộ). Do chu đáo khi trong nhà có người hấp bối, việc quan trọng là đặt tên kèm (tên thụy) cho người sắp chết. Đó là một tên mới (do người sắp chết tự đặt hoặc con cháu đặt cho) mà chỉ có người chết, con cháu và thần Thổ công nhà đó biết mà thôi. Khi cúng giỗ, con trưởng sẽ khấn bằng tên hèm, Thổ thần có trách nhiệm chỉ cho phép linh hồn có “mật danh” đúng như thế vào thôi (vì vậy, tên này còn gọi là tên cúng cơm). Làm như vậy là để phòng ngừa những cô hồn lang thang vào ăn tranh cỗ cúng sau này. Trước khi khâm liệm, phải làm lẽ mộc dục (tắm gội cho người chết) và lễ phạm hàm: bỏ một nhúm gạo nếp và ba đồng tiền vào miệng (gạo để dùng thay bữa, tiền để đi đò – quan niệm của người vùng sông nước). Khi khâm liệm, phải có miếng vải đắp mặt người chết để khỏi trông thấy cháu con sinh buồn. Trước khi đưa tang, người Việt cúng thần coi sóc các ngả đường để xin phép. Trên đường đi, có tục rắc vàng giấy làm lộ phí cho ma quỷ. Đến nơi, làm lễ tế Thổ thần xin phép cho người chết được “nhập cư”. Chôn cất xong, trên mộ đặt bát cơm, quả trứng, đôi đũa (cắm trên bát cơm) có tua bông ở đầu (hoặc mớ bùi nhùi). Bát cơm là đất mẹ (âm); tua bông (hoặc mớ bùi nhùi) là mây trời (dương); đôi đũa nối âm dương hòa hợp. Hoặc theo cách giải thích của những Nho học thì tua bông (mớ bùi nhùi) tượng trưng cho thế giới hỗn mang, trong hỗn mang hình thành nên thái cực (tượng trưng bằng bát cơm), thái cực sinh ra lưỡng nghi (đôi đũa), có lưỡng nghi (âm dương) là có sự sống (tượng trưng bằng quả trứng). Toàn bộ toát lên ý cầu chúc cho người chết sớm đầu thai trở lại. Xót thương nên muốn níu kéo, giữ lại. Tục khiêng người chết đặt xuống đất, tục gọi hồn thể hiện hi vọng mong người chết sống lại. Vì xót thương nên có tục khóc than; con cháu không lòng dạ nào mà dùng đồ tốt (đồ tang làm hằng các loại vải thô, xấu như xô, gai); không tâm trí nào mà nghĩ đến việc ăn mặc (nên gấu xổ, áo trái, đầu bù,…); đau buồn quá nên đứng không vững (trai phải chống gậy, gái phải lăn đường); đau buồn quá dễ sinh quẫn trí và đập thành trùng tang (nên phải đội mũ dây chuối,…). Ngày nay, nhiều tục lệ trong số đó không còn tồn tại nữa, không phải vì chúng vô nghĩa mà có lẽ chính là vì chúng quá chi li, cầu kì.
Phong tục lễ tết và lễ hội
Thời gian nông nhàn, người Việt tổ chức nhiều lễ tết, hội hè, thường trước hoặc sau mùa thu hoạch.
Trong năm, quan trọng nhất là Tết Nguyên Đán. Con cháu dù đi làm ăn ở đâu ngày Tết cũng cố gắng về ăn Tết với gia đình; hương hồn ông bà tổ tiên các thế hệ cũng cùng về gặp mặt; các vị thần phù hộ cho gia đình đều được chăm lo cúng bái. Tết thật là một cuộc đại đoàn viên. Truyền thống Việt Nam không có tục kỉ niệm sinh nhật, mọi người đều như nhau -Tết đến, tất cả đều được thêm một tuổi, nên có tục mừng tuổi, lì xì vào đầu năm mới.
Ngoài Tết Nguyên Đán là Tết rằm tháng Giêng -đó là ngày trăng tròn đầu tiên, là Tết Thượng Nguyên, hướng Thiên cầu phúc, rằm tháng giêng còn là ngày vía của đứt Phật Adiđà. Trước đây, người Việt còn kỉ niệm cả ngày 9 và 10 tháng Giêng nữa: Ngày 9 ví Trời, ngày 10 vía Đất. Hai số 9 và 10 là hai số dương và âm tận cùng, được xem là số của Trời và Đất; đó cũng là “số phương” của Trời Đất: Lạy 9 phương Trời, lạy 10 phương Đất. Tết Thượng Nguyên nằm trong cùng hệ thống với các Tết Trung Nguyên (rằm tháng Bảy, Địa quan xá tội, dâng cúng cô hồn bằng cháo hoa đổ vào những chiếc lá đa đặt dọc đường đi; cũng là ngày lễ Vu Lan của nhà Phật) và Hạ Nguyên (rằm tháng Mười, Thủy quan giải ách; cũng là ngày Tết cơm mới). Thuộc loại Tết ngày rằm còn có Trung Thu (rằm Tháng Tám) vốn là Tết chung của mọi người, đánh dấu ngày có trăng tròn nhất trong năm, lúc thời tiết mát mẻ, tổ chức thả diều, hát trống quân… sau này chuyển thành Tết của thiếu nhi. Ngoài ra, có Tết Hàn Thực (3-3) làm bánh trôi, bánh chay cúng gia tiên; Tết Đoan Ngọ (5-5) là Tết của xứ nóng phương Nam ta kỉ niệm thời điểm giữa năm (lịch nguyên thủy tính từ tháng Tí, cho nên Tí = đầu năm, Ngọ = giữa năm). Đây là thời điểm nóng nực, nhiều bệnh tật phát sinh nên dân ta gọi ngày này là Tết giết sâu bọ, với tục dùng lá móng nhuộm (để bảo vệ) móng tay móng chân cho trẻ, ăn rượu nếp (miền Nam gọi là cơm rượu) và hoa quả chua chát (để “sâu bọ” trong người say và chết), vào giờ Ngọ đi hái lá (các loại lá ngải, ích mẫu, lá muỗm, lá vối…) phơi khô để dùng uống cả năm. Thuộc loại Tết trùng ngày tháng (3-3, 5-5), trước đây còn có Tết Ngâu 7-7. Cuối năm, 23 tháng chạp là ngày Tết ông Táo, các gia đình sắm 2 mũ ông 1 mũ bà để cúng bộ ba Thổ Công -Thổ Địa -Thổ Kì cùng với cá chép để ông lên chầu Trời. Mở đầu bằng Tết Nguyên Đán, kết thúc bằng Tết ông Táo, để rồi đêm 30, ông Táo lại trở về cùng gia đình bước vào năm tiếp theo -hệ thống lễ Tết làm thành một chu trình khép kín, âm dương chuyển hóa cho nhau.
Nếu lễ Tết là một hệ thống phân bố theo thời gian thì lễ hội là hệ thống phân bố theo không gian: Vào mùa xuân và mùa thu, lễ hội diễn ra liên tiếp hết chỗ này đến chỗ khác, mỗi vùng có lễ hội riêng của mình. Chẳng thế mà vùng Kinh Bắc có câu: Mồng 7 hội Khám, Mồng 8 hội Dâu, Mồng 9 đâu đâu nhớ về hội Gióng.
Lễ hội có phần lễ và phần hội. Phần LỄ mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin thần linh bảo trợ cho cuộc sống của mình. Căn cứ vào mục đích này và dựa vào cấu trúc của hệ thống văn hóa, có thể phân biệt ba loại lễ hội: Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong quan hệ với môi trường tự nhiên (lễ hội cầu mưa, hội xuống đồng, hội đâm trâu, hội cơm mới, hội cốm, hội đua thuyền, hội đua ghe…); lễ hội liên quan đến cuộc sống trong quan hệ với môi trường xã hội (kỉ niệm các anh hùng dựng nước và giữ nước -hội Đền Hùng, hội Gióng, hội đền An Dương Vương,hội đền Hai Bà Trưng, hội đền Kiếp Bạc, hội Tây Sơn, hội Đống Đa…), và lễ hội liên quan đến đời sống cộng đồng (các lễ hội tôn giáo và văn hóa -hội Chùa Hương, hội chùaTây Phương, hội chùa Thầy, hội đền Bắc Lệ, hội đền Dạ Trạch, hội Phủ Giày, hội núi Bà Đen…). Phần Hội gồm các trò vui chơi giải trí hết sức phong phú. Xét về nguồn gốc, phần lớn các trò chơi này đều xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng của con người nông nghiệp: Xuất phát từ ước vọng cầu mưa là các trò tạo ra tiếng nổ mô phỏng tiếng sấm vào các hội mùa xuân để nhắc Trời làm mưa như thi đốt pháo, đi thuyền đốt pháo, ném pháo, đánh pháo đất… Xuất phát từ ước vọng cầu cạn là các trò thi thả diều vào các hội mùa hè mong gió lên, nắng lên để nước lụt mau rút xuống. Xuất phát từ ước vọng phồn thực là các trò cướp cầu thả lỗ, đánh đáo, ném còn, nhún đu, bắt chạch trong chum… Xuất phát từ ước vọng luyện rèn sự nhanh nhẹn, tháo vát, khéo léo là các trò thi thổi cơm, vừa gánh vừa thổi cơm, vừa giữ trẻ vừa thổi cơm, vừa bơi thuyền vừa thổi cơm, thi luộc gà, thi dọn cỗ, thi bắt lợn, thi bắt vịt, thi dệt vải, thi bịt mắt bắt dê, đua cà kheo… Xuất phát từ ước vọng luyện rèn sức khoẻ và khả năng chiến đấu là các trò đấu vật, kéo co, chọi gà, chọi trâu, chọi dế…
2.3.3. Văn hóa nghệ thuật *Ngôn ngữ
Từ thời dựng nước, chúng ta đã có một nền văn hóa văn minh riêng của người Việt cổ: văn minh Văn Lang – Ân Lạc. Tuy nhiên, lúc bấy giờ liệu trong xã hội đã xuất hiện chữ viết hay chưa thì còn là một vấn đề tiếp tục được tranh cãi.
Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết cho rằng có thể đã có một loại hình chữ viết nào đó, riêng của người Việt Nam trước thời kỳ Bắc thuộc. Chứng cứ đưa ra là một số ký hiệu hoặc hình con nòng nọc ngoằn nghèo được khắc trên bãi đá Sa pa, trên một số dụng cụ đồng thau như lưỡi cày đồng, trống đồng… Tuy nhiên, chưa một ai giải mã được những ký hiệu đó để khẳng định rằng đó là một loại hình văn tự. Cho nên, vấn đề chữ viết riêng của người Việt cổ vẫn chỉ là một nghi vấn.
Chữ Hán được du nhập vào Việt Nam đầu thời Bắc thuộc, đặc biệt với vai trò của Sĩ Nhiếp. Chữ Hán tiếp tục được được các vương triều phong kiến sử dụng là chuyển ngữ chính thức dùng trong giáo dục, khoa cử, văn bản chính trị cũng như các tác phẩm văn thơ bác học của các nho sĩ trí thức. Tuy ngay từ lúc đầu, nó đã được Việt Hán phần nào (đọc theo âm Hán Việt chứ không đọc theo âm Trung Quốc), nhưng chữ Hán vẫn là một loại hình văn tự khó nhọc, khó nhớ, phức tạp với các thể văn bát cổ, biền ngẫu, những niêm luật trong thi phú. Vì vậy, nó đã không phổ biến được rộng rãi trong đông đảo quần chúng bình dân.
Trong quá trình tiếp biến văn hóa Hán Việt, một loại hình chữ viết độc đáo của người Việt đã xuất hiện, đó là chữ Nôm, mô phỏng và biến cách chữ Hán để ghi trực tiếp tiếng Việt. Thời xưa, chữ Nôm được gọi là quốc âm, quốc ngữ, vừa mang tính dân tộc (Nôm= Nam) vừa mang tính dân gian (Nôm, Nam Á).
Chữ Nôm có nhiều khả năng xuất hiện từ lâu đời, trong thời Bắc thuộc để ghi các tên người, tên đất thuần Việt trong các sổ sách. Chữ Nôm được phổ biến từ khoảng đời Trần (thế kỷ XIII), gắn liền với giai thoại về Nguyễn Thuyên (tức Hàn Thuyên) với bài Văn tế cá sấu bằng chữ Nôm (nay đã thất truyền).
Chữ Nôm được sáng tạo từ việc biến cách chữ Hán qua nhiều phương pháp ghép chữ linh hoạt: hoặc dùng nguyên chữ Hán, đọc theo âm Việt, hoặc ghép 2 chữ Hán thành một chữ Nôm, hoặc ghép một chữ Hán với một chữ Nôm.
Trong lịch sử, các tác giả hay sử dụng chữ Nôm được kể đến là Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Hồ Quý Lý, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quang Trung…
Loại hình văn tự mới nhất trong văn học Việt là chữ quốc ngữ được La Tinh hóa. Chữ quốc ngữ ra đời từ thế kỷ XVII, gắn liền với hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây trong việc soạn giảng các sách đạo. Chữ quốc ngữ là công trình sáng tạo của tập thể các giáo sĩ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Pháp và có cả người Việt Nam. Những tác giả đầu tiên đóng góp vào xây dựng chữ quốc ngữ như Borri, Busomi, Pina, Amaral, Barbosa và đặc biệt là Alexanhdre de Rhodes, ông là tác giả hai cuốn sách nổi tiếng có sử dụng chữ quốc ngữu là cuốn Từ điển Việt – Bồ -La (1651) có kèm theo phần ngữ pháp Annam, và cuốn Phép giảng tám ngày. Chữ quốc ngữ là một kết quả độc đáo của quá trình giao lưu văn hóa Đông – Tây, là một thành tựu văn hóa vô cùng quý giá của dân tộc.
Với tư cách là công cụ của giao tiếp, ngôn ngữ nói chung và ngôn từ tiếng Việt nói riêng chịu sự chi phối to lớn của văn hoá giao tiếp của người Việt, vì thế một sự tìm hiểu về nghệ thuật ngôn từ Việt Nam rất cần chú ý đến văn hoá giao tiếp.
Trước hết, xét về thái độ của người Việt Nam đối với việc giao tiếp, có thể thấy người Việt Nam là vừa thích giao tiếp, lại vừa rất rụt rè. Sự tồn tại đồng thời hai tính cách trái ngược nhau này bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị. Người Việt Nam xởi lởi, rất thích giao tiếp, nhưng đó là khi thấy mình đang ở trong phạm vi của cộng đồng quen thuộc, còn khi đã vượt ra khỏi phạm vi của cộng đồng, trước những người lạ, nơi tính tự trị phát huy tác dụng thì người Việt Nam, ngược lại, lại tỏ ra rụt rè.
Xét về quan hệ giao tiếp, người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm -lấy sự yêu sự ghét -làm nguyên tắc ứng xử, sống có lí có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Khi cần cân nhắc giữa tình với lí thì tình được đặt cao hơn lí. Với đối tượng giao tiếp, người Việt Nam có thói quen ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá. Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình trạng gia đình… là những vấn đề người Việt Nam thường quan tâm. Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến người khác, mà muốn quan tâm thì cần biết rõ hoàn cảnh.
Tính cộng đồng còn khiến cho người Việt Nam, dưới góc độ chủ thể giao tiếp, có đặc điểm là trọng danh dự. Danh dự được người Việt Nam gắn với năng lực giao tiếp: Lời nói ra để lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm, nó được truyền đến tai nhiều người, tạo nên tai tiếng.
Về cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận. Lối giao tiếp ưa tế nhị khiến người Việt Nam có thói quen giao tiếp “vòng vo tam quốc”, không bao giờ mở đầu trực tiếp, nói thẳng vào vấn đề như người phương Tây. Nó tạo nên một thói quen đắn đo cân nhắc kĩ càng khi nói năng: Ăn có nhai, nói có nghĩ; Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe; Người khôn ăn nói nữa chừng, Để cho kẻ dại nữa mừng nữa lo,…Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm thiếu tính quyết đoán. Để tránh phải quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để giữ được sự hòa thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận quan trọng trong thói quen giao tiếp của người Việt; có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả những lúc ít chờ đợi nhất.
Người Việt Nam có một hệ thống nghi thức lời nói rất phong phú.Trước hết, đó là sự phong phú trong hệ thống xưng hô bằng các từ chỉ quan hệ họ hàng. Hệ thống xưng hô này có các đặc điểm:
Thứ nhất, có tính chất thân mật hóa (trong tình cảm), coi mọi người trong cộng đồng như bà con họ hàng trong một gia đình.
Thứ hai, có tính chất xã hội hóa, cộng đồng hóa cao -trong hệ thống từ xưng hô này, không có cái “tôi” chung chung. Quan hệ xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian, không gian giao tiếp -chú khi ni, mi khi khác. Cùng là hai người, nhưng cách xưng hô có khi đồng thời tổng hợp được hai quan hệ khác nhau: Chú-con, bác-con, bác-em, anh-tôi,… Lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên chồng; bằng thứ tự sinh (Cả, Hai, Ba, Tư…).
Thứ ba, thể hiện tính tôn ti kĩ lưỡng: Người Việt Nam xưng và hô theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn (gọi mình thì khiêm nhường, còn gọi đối tượng giao tiếp thì tôn kính). Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi cả hai đều cùng xưng hô là em và đều cùng xưng là em và đều gọi nhau là chị. Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng: người ta chỉ gọi tên cái ra để chửi nhau; đặt tên con cần nhất là không được trùng với tên của những người bề trên trong gia đình, gia tộc cũng như ngoài xã hội. Do truyền thống nặng về tình cảm và linh hoạt nên người Việt Nam không có những từ cảm ơn, xin lỗi khái quát dùng chung cho mọi người trường hợp như người phương Tây. Cũng như trong xưng hô, đối với mỗi người ta có một cách cảm ơn, xin lỗi khác nhau: Con xin chú (Cảm ơn khi nhận quà), Chị chu đáo quá, Anh tốt quá (cảm ơn khi được quan tâm), Bác bày vẽ quá (cảm ơn khi được tiếp đón nồng hậu), Quý hóa quá (cảm ơn khi có khách đến thăm), Anh quá khen (cảm ơn khi được khen),…
Các đặc trưng cơ bản trong nghệ thuật ngôn từ Việt Nam
Trước hết, nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có tính biểu trưng cao. Tính biểu tượng thể hiện ở xu hướng khái quát hóa, công thức (ước lệ) hóa với những cấu trúc cân đối, hài hòa. Xu hướng ước lệ bộc lộ ở chỗ tiếng Việt thích những cách diễn đạt bằng các con số biểu trưng. Ở những trường hợp, người châu Âu dùng từ “tất cả” thì người Việt dùng các từ chỉ số lượng ước lệ: ba thu, nói ba phải, ba mặt một lời, năm bè bảy mối, tam khoanh tứ đốm, Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo …, trăm dâu đổ một đầu tằm, trăm khôn ngàn khéo, tiền trăm bạc vạn, trăm họ, vạn sự, muôn dân, muôn vật,… Lối tư duy tổng hợp mọi yếu tố, lối sống ổn định có quan hệ tốt với hết thảy mọi người dẫn đến xu hướng trọng sự cân đối hài hòa trong ngôn từ -một biểu hiện khác của tính biểu trưng. Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt.
Theo nguyên lí cấu trúc loại hình, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn tiết, song nó chứa một khối lượng không nhỏ các từ song tiết; điều quan trọng hơn nữa là mỗi từ đơn tiết lại hầu như đều có thể có những biến thể song tiết, dạng láy, cho nên thực chất trong ngôn từ, lời nói Việt thì cấu trúc song tiết lại là chủ đạo. Các thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt đều cấu tạo theo cấu trúc có 2 vế đối ứng: trèo cao/ ngã đau; ăn vóc/học hay; một quả dâu da/ bằng ba chén thuốc; biết thì thưa thốt/ không biết thì dựa cột mà nghe..
Tiếng Việt rất phát triển hình thức câu đối, rất phát triển thơ. Câu đối là một loại sản phẩm văn chương đặc biệt, nó vừa công phu tỉ mỉ, lại vừa cô đúc ngắn gọn. Trong một tác phẩm “mini” ấy thể hiện đủ cả cái đẹp cân đối nhịp nhàng của hình thức và cái uyên thâm của chiều sâu triết lí Đông Phương. ở Việt Nam xưa kia, nhà nhà, đình đình, chùa chùa… nơi nào cũng đều có treo câu đối. Người Việt Nam, hầu như ai cũng biết làm thơ. Ở Việt Nam, văn xuôi truyền thống cũng là một thứ văn xuôi thơ, thế mạnh đó còn do tiếng Việt là một ngôn ngữ giàu thanh điệu, tự thân các thanh điệu đã tạo nên tính nhạc cho câu văn rồi. Từ những bài văn xuôi viết theo lối biền ngẫu như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, hoặc tự do như thư dụ hàng của Nguyễn Trãi gửi địch, cho tới những lời văn nôm bình dân … khắp nơi, ta đều gặp một lối cấu trúc cân đối, nhịp nhàng, chặt chẽ và có tiết tấu, vần điệu. Thậm chí ngay cả trong việc chửi nhau, người Việt cũng chửi nhau một cách có bài bản, cân đối, nhịp nhàng, đầy chất thơ.
Đặc điểm thứ hai của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam là nó rất giàu chất biểu cảm. Về mặt từ ngữ chất biểu cảm này thể hiện ở chỗ các từ, bên cạnh yếu tố gốc mang sắc thái nghĩa trung hoà, thường có rất nhiều biến thể với những sắc thái nghĩa biểu cảm: Bên cạnh màu xanh trung tính, có đủ thứ xanh rì, xanh rờn, xanh rợn, xanh ngắt, xanh um, xanh lè… Bên cạnh màu đỏ trung tính có đỏ rực, đỏ âu, đỏ lòm, đỏ loét, đỏ hoe… Các từ lấy mang sắc thái biểu cảm mạnh cũng rất phổ biến trong tiếng Việt. Về mặt ngữ pháp, tiếng Việt sử dụng rất nhiều các hư từ có sắc thái biểu cảm: à, ư, nhỉ, chăng, chớ, hả, hở, phỏng, sao, chứ…
Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có đặc điểm thứ ba là tính động, linh hoạt. Tính động, linh hoạt này trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp. Trong khi ngữ pháp biến hình của các ngôn ngữ châu Âu là một thứ ngữ pháp chặt chẽ tới mức máy móc thì ngữ pháp tiếng Việt tổ chức chủ yếu theo lối dùng các từ hư để biểu hiện các ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp, khiến cho người sử dụng được quyền linh hoạt tối đa. Ngữ pháp phương Tây là ngữ pháp hình thức, còn ngữ pháp Việt Nam là ngữ pháp ngữ nghĩa. Nói bằng một ngôn ngữ châu Âu, ta bắt buộc phải đáp ứng đầy đủ mọi đòi hỏi tai quái mà hệ thống ngữ pháp của ngôn ngữ đó yêu cầu. Còn trong tiếng Việt thì tùy theo ý đồ của người nói mà anh ta có thể diễn đạt, không thể diễn đạt hay diễn đạt nhiều lần một ý nghĩa ngữ pháp nào đó: Tôi đi Hà Nội, Tôi sẽ đi Hà Nội, Ngày mai tôi đi Hà Nội, Ngày mai tôi sẽ đi Hà Nội.
Chính vì linh hoạt như vậy mà tiếng Việt có khả năng diễn đạt khái quát rất cao, có thể nói một câu không thời, không thể, không ngôi. Khả năng diễn đạt khái quát, mơ hồ chính là điều kiện rất quan trọng cho việc phát triển thơ ca đã nói đến ở trên. Tính động, linh hoạt của ngôn từ Việt Nam còn bộc lộ ở chỗ trong lời nói, người Việt rất thích dùng cấu trúc động từ: trong một câu có bao nhiêu hành động thì có bấy nhiêu động từ; trong khi đó thì các tiếng phương Tây có xu hướng ngược lại -rất thích dùng danh từ. Trong khi người Việt nói: Cảm ơn anh đã tới nhà chơi thì người Anh nói: Thank you for your coming (Cảm ơn về sự đến chơi của anh).
Tính linh hoạt, năng động còn nguyên nhân khiến cho tiếng Việt rất ít dùng cấu trúc bị động. Người Việt thậm chí dùng cấu trúc chủ động ngay cả trong câu bị động: Trong khi người Việt nói: Lan bị thầy giáo phạt thì người Anh nói: Linda was punished by the teacher (Linda bị phạt bởi thầy giáo).
Như vậy, có thể nói rằng trong giao tiếp, người Việt Nam có thiên hướng nói đến những nội dung tĩnh (tâm lí, tình cảm, dẫn đến nghệ thuật thơ ca và phương pháp biểu trưng) bằng hình thức động (kiến trúc động từ, ngữ pháp, ngữ nghĩa linh hoạt). Trong khi đó thì người phương Tây nói riêng và truyền thống văn hóa trọng dương nói chung lại có thiên hướng nói đến những nội dung động (hành động, sự việc, dẫn đến nghệ thuật văn xuôi và phương pháp tả thực) bằng hình thức tĩnh (kiến trúc danh từ, ngữ pháp hình thức chặt chẽ).
*Văn học
Văn học gồm hai bộ phận chủ yếu là văn học truyền miệng (văn học dân gian) và văn học viết (văn học bác học). Văn học dân gian gồm: truyền thuyết, thần thoại, truyện cổ tích, ca dao, tục ngữ, hò vè, truyện cười, truyện ngụ ngôn…do tập thể nhân dân sáng tác. Văn học viết là những tác phẩm văn thơ của tầng lớp trí thức (sư sãi, vua quan, nho sĩ) viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ.
Thời Lý – Trần – Hồ: 3 khuynh hướng văn học nổi trội: văn học Phật giáo (bao gồm nhiều bài thơ phú, kệ, minh hàm chứa tư tưởng Phật giáo về triết học, nhân sinh, xã hội: Thiền uyển tập anh, Tam tổ thực lục), văn thơ yêu nước (Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ…), khuynh hướng tìm về cội nguồn dân tộc (phản ánh qua các dã sử, truyền thuyết thời sơ sử: Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái.
Thời Lê sơ: 2 khuynh hướng văn học nổi trội: văn học yêu nước (gương mặt nổi bật là Nguyễn Trãi – một chiến sĩ nho gia thấm đậm lòng yêu nước, thân dân, tư tưởng nhân nghĩa và lòng khí tiết thể hiện qua các tác phẩm Quân Trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Lam Sơn thực lục, văn học Nho giáo (thơ văn hội Tao Đàn do Lê Thánh Tông chủ xướng, có nội dung quan phương, thuyết giáo, ca tụng chế độ, quan hệ vua – tôi với hình thức mang tính quy phạm, khuôn sáo trong cung đình.
Thế kỷ XVI – XIX, về mặt chính trị và hệ tư tưởng, đây là giai đoạn suy thoái của thể chế quân chủ tập quyền và ý thức hệ Nho giáo. Ngược lại, đó là giai đoạn thịnh đạt, những thế kỷ vàng của văn hóa dân tộc. Đây là toàn cảnh của văn học đa sắc, đa khuynh hướng với nhiều thơ văn thể loại, nội dung phong phú, trình độ nghệ thuật điêu luyện. Tính chất khai phóng, nhân văn, hiện thực cũng rất đậm nét trong thơ văn thời kỳ này.
Tác giả nổi bật nhất trong thế kỷ XVI là Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ ca có xu hướng thiên về mặt triết lý nhân sinh. Ông chính là người dung hòa tinh hoa của ba tư tưởng Nho – Phật – Đạo, đồng thời là người dự báo của thế kỷ, cảnh báo về vai trò lũng đoạn xã hội của đồng tiền.
Khuynh hướng thơ văn trữ tình: thơ văn trữ tình nói nhiều đến những chủ đề về khát vọng hạnh phúc cá nhân, khát vọng cuộc sống hòa bình, nói nhiều đến nữ giới, tố cáo những mặt trái của cuộc sống. Những tác phẩm – tác giả chính của khuynh hướng này là Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Sư kính tân trang (Phạm Thái), thơ Hồ Xuân Hương, Truyện Kiều (Nguyễn Du).
Thế kỷ XIX, một xu hướng thơ văn mang tính phóng túng, hưởng lạc đậm màu tư tưởng Lão Trang xuất hiện, với 2 tác giả điển hình là Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát. Thể loại hát nói đã rất thích hợp và có hiệu quả để thể hiện khuynh hướng thơ văn tài tử này. Thể loại ký sự cũng rất phát triển trong giai đoạn này. Những tác phẩm đáng lưu ý nhất là cuốn ký sự Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ), Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác) và Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái). Cùng với nền văn học nho sĩ, văn học dân gian cũng bùng nổ với rất nhiều thể loại truyền miệng và văn học chữ Nôm khuyết danh. Đó là các truyện cười, truyện tiếu lâm (Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Ba Giai Tú Xuất), các truyện Nôm dài (Phan Trần, Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa). Nền văn học dân gian lúc này mang đậm tính hiện thực (tố cáo cái ác) và nhân văn (khát vọng chiến thắng của cái thiện).
Thế kỷ XX, văn thơ yêu nước phát triển đến đỉnh cao, văn học phát triển theo hướng chuyên nghiệp.
*Nghệ thuật biểu diễn
Có nhiều loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian và cung đình. Thời Lê sơ, nhà nước phân biệt hai loại âm nhạc: tục nhạc (dân gian) và nhã nhạc (cung đình). Tuy nhiên, các hình thức nghệ thuật thường xen cài, đan quyện vào nhau. Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam phản ánh nền văn minh nông nghiệp và sông nước. Giai điệu, động tác, nhịp thường thong thả, mềm mại, êm dịu, trữ tình…
Các loại hình ca múa, nhạc kịch truyền thống rất đậm đà tính cộng đồng, giao cảm.
Thường diễn ngoài trời cho đông đảo khán giả xem, bài trí sân khấu giản dị. Có sự giao cảm giữa các nhóm biểu diễn (hát giao duyên, hát quan họ, ví, ghẹo), giữa người biểu diễn và người xem (thể hiện trong tiếng đế). Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam thường mang tính cách điệu, biểu trưng (trong múa, tuồng, chèo), đối xứng (giữa các cặp trung – nịnh, thiện – ác, bi – hài). Tính chất trào lộng được thể hiện qua vai hề.
Ca múa: ở Việt Nam có nhiều loại ca hát, phần lớn mang tính chất dân gian như các loại hát đồng giao, hát ru, hát ví, cò lả, hát trống quân. Nhiều điệu hát đã mang tính địa phương, là đặc trưng của một vùng văn hóa: quan họ Bắc Ninh, hát dặm Nghệ Tĩnh, hò Huế, hát bài chòi Nam Trung Bộ. Hát chầu văn (hầu bóng) dùng trong nghi lễ lên đồng của tín ngưỡng thờ Mẫu. Hát ca trù là một dạng hát đặc biệt giữa hát cung đình, hát dân gian và hát thính phòng, chủ yếu dựa loại hát nói, bao gồm một đào (hát và gõ phách) một kép (gảy đàn đáy) và một quan viên (điểm trống chầu).
Nhạc: âm nhạc truyền thống thường làm nền cho múa và tế lễ. Đó là loại nhạc ngũ âm phương Đông (hò, xừ, xàng, xê, cống). Các nhạc cụ sớm nhất Việt Nam thuộc loại bộ gõ: trống đồng, trống cơm, cồng chiêng, chuông khánh, thanh la não bạt. Tiếp đến là các nhạc cụ thổi bằng hơi: tù và, khèn, sáo trúc… Cuối cùng là nhiều loại nhạc cụ kéo, gảy bằng dây: đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tỳ bà, đàn tranh, đàn tam thập lục. Có những loại đàn đặc biệt của Việt Nam: đàn bầu (một dây), đàn đáy (bầu đàn hình thang không có đáy, 3 dây tơ, dùng trong hát ả đào).
*Sân khấu
Cũng như nhiều nước Đông Nam Á, Việt Nam đã có nhiều loại hình múa rối. Đặc biệt loại múa rối nước đã phản ánh một nền văn minh sông nước. Từ thời Lý, trong các hội đèn Quảng chiếu, đã có nhiều trò rối nước rất sinh động, trình diễn cho vua xem. Rối nước có sân khấu nước (thủy đình), chú Tễu giáo đầu và máy rối (sào và dây) điều khiển con rối. Rối nước nổi tiếng là của địa phương Hà Nam, Hà Nội, Thái Bình…
Chèo là loại hình sân khấu dân gian, tổng hợp các yếu tố ca, vũ, kịch. Bài trí và đạo cụ đơn giản. Chèo sử dụng nhiều ngôn ngữ và hành động ước lệ, chất liệu trào phúng (hề). Loại chèo phổ biến nhất là chèo cửa đình, diễn trong các hội hè. Nội dung chèo mang đậm tính nhân văn và hiện thực. Một số vở chèo nổi tiếng như các vở Trương Viên, Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình – Dương Lễ, Thạch Sanh, Tấm Cám…
Tuồng là loại hình sân khấu dân tộc, có từ thế kỷ XIII, chịu ảnh hưởng của hý khúc Trung Quốc. Phổ biến là loại tuồng pho, thường có chủ đề lịch sử, các âm mưu chính trị cung đình, đấu tranh giữa chính và tà. Nghệ thuật tuồng cũng mang nhiều tính ước lệ, có nhiều tình huống mang tính mâu thuẫn, bi kịch. Một số vở tuồng nổi tiếng như Sơn Hậu, Tam nữ Đồ Vương… Còn có loại tuồng hài đậm tính dân gian, gần với chèo như vở Nghêu, Sò, Ốc, Hến.
Các diễn viên trên sân khấu truyền thống được gọi là đào (nữ) và kép (nam). Tùy
theo tính cách của vai diễn, người ta phân loại thành đào chiến, đào thương, đào lẳng, đào cảnh. Đối với kép, tính cách được biểu hiện qua màu hóa trang của sắc mặt: kép đỏ (trung nghĩa), kép đen (dũng mãnh, nóng nảy) và kép trắng (gian nịnh).
Trong lịch sử, một số tác giả đã nghiên cứu, sáng tác và chỉnh lý về nghệ thuật sân khấu truyền thống. Có thể kể: Lương Thế Vinh (tác giả cuốn Hí phường giả lục), Đào Duy Từ (tác giả khởi thảo vở tuồng Sơn hậu) và Đào Tấn.
*Nghệ thuật tạo hình
Kiến trúc: loại hình kiến trúc đơn giản nhất là nhà ở dân gian: nhà sàn ở miền núi, nhà đất ở nông thôn, nhà ống bằng gạch ở thành thị, nhà bè nơi sông nước… Các loại nhà chủ yếu được dựng bằng tre và gỗ, mỗi nhà thường có vườn tược và giếng nước. Các dinh thự của quý tộc, quan lại tuy có kiên cố, to rộng hơn nhưng nhìn chung không thật khác lạ so với nhà ở của dân.
Các công trình kiến trúc được coi là quy mô là những cung điện của vua chúa. Hoàng thành Thăng Long được coi là một quần thể các cung, điện, đường, lâu, đài, các… đồ sộ, nguy nga trong nhiều thế kỷ. Lăng tẩm của các triều vua cũng là một loại hình kiến trúc đáng lưu ý, còn lại các phế tích của khu lăng các vua Trần ở Thái Bình và Đông Triều, khu lăng các vua Lê ở Lam Sơn (Thanh Hóa). Dọc theo bờ sông Hương bên cạnh hoàng thành Huế, hầu hết các vua Nguyễn đều xây dựng cho mình các khu lăng (mộ táng) bên cạnh là các kiến trúc (nhà nghỉ khi còn sống). Nổi tiếng là lăng Minh Mạng (Hiếu Lăng) uy nghiêm, lăng Tự Đức (Khiêm Lăng) thơ mộng. Vẻ đẹp độc đáo của khu lăng tẩm các vua Nguyễn là sự kết hợp hài hòa giữa cái nhân tạo và cái thiên nhiên, giữa cái sống và cái chết, gây niềm suy tư mà không đem lại cảm giác sợ hãi.
Kiến trúc thành lũy ở Việt Nam vừa mang tính chính trị vừa mang tính quân sự: hoàng thành Thăng Long, hoàng thành Huế, thành Nhà Hồ (Thanh Hóa), lũy Thầy (Quảng Bình).
Kiến trúc tôn giáo, bao gồm nhiều loại hình khác nhau như chùa, tháp, đền, đình, quán, miếu, phủ, nhà thờ.
Điêu khắc: phần lớn là hỗ trợ cho kiến trúc, mang chức năng trang trí. Chất liệu sử dụng là đá, đồng, phổ biến là gỗ và đất nung. Hai loại hình điêu khắc chủ yếu là tượng và phù điêu. Có nhiều loại tượng: tượng Phật, tượng Thần, tượng Bồ tát, tượng đạo sĩ. Ở các khu lăng vua Trần, lăng vua Minh Mạng đã có nhiều tượng đá miêu tả người (võ sĩ, quan hầu văn, võ) và thú vật (rồng, voi, hổ, chó, ngựa, dê, trâu, dơi, chim…). Trong các công trình kiến trúc, có rất nhiều loại tượng tròn và phù điêu chạm khắc nổi trên đồ đồng, đá, gỗ. Các mô típ điêu khắc tượng tròn và phù điêu phổ biến và tiêu biểu là: rồng, tiên nữ, lá đề, hoa sen, sông nước, lưỡng long chầu nguyệt, ngũ long tranh châu, sư tử hí cầu, tứ linh, ngũ phúc, ngũ hổ, tứ quý. Trong những mô típ đó đã phản ánh sự hài hòa và đậm đà các yếu tố thiên nhiên, tâm linh trong đời sống con người.
Hội họa: ở Việt Nam, còn lại rất ít những tác phẩm hội họa đơn thuần mang tính nghệ thuật. Điều đó có nhiều nguyên nhân. Trước hết, do quan điểm thẩm mỹ thực dụng, phần lớn các tác phẩm hội họa đều mang tính tập thể quần chúng hoặc khuyết danh, phục vụ chức năng trang trí. Hơn nữa do điều kiện khí hậu nóng ẩm, phần lớn những tác phẩm hội họa đã bị hư hại qua thời gian. Hội họa thường sử dụng màu sắc từ chất liệu thiên nhiên. Có nhiều loại tranh: tranh chân dung (tranh chân dung Nguyễn Trãi và Phùng Khắc Khoan), tranh sinh hoạt, tranh tôn giáo… Nổi tiếng nhất, sinh động nhất, phong phú nhất là loại tranh dân gian. Nó được sáng tác hàng loạt qua mẫu vẽ của các phiên bản màu. Tiêu biểu nhất có loại tranh Đông Hồ (làng Mái, Thuận Thành, Bắc Ninh) mang vẻ đẹp chất phác, hồn nhiên với những chủ đề dân dã, hóm hỉnh: Thầy đồ cóc, Đám cưới chuột, Kéo co, Tố nữ, Đánh ghen, Hứng dừa. Ngoài ra còn có tranh Hàng Trống, nét vẽ tinh tế hơn, mang nhiều tính thị dân và một số các bức tranh thờ cúng tiêu biểu như: Lý ngư vọng nguyệt, Tam đa (phúc, lộc, thọ), Tứ bình, Ngũ hổ…
Mỹ nghệ là loại hình mỹ thuật ứng dụng (kết hợp thẩm mỹ và thực dụng) được phổ biến trong dân gian, phục vụ đời sống. Nó gắn liền với các nghề thủ công truyền thống, ở đây, thay vào các cá nhân nghệ sĩ là một tầng lớp nghệ nhân khéo tay lành nghề.
2. . . Tƣ tƣởng học thuật
Tư tưởng về sự nhận thức vũ trụ: trong cuộc sống, dân tộc nào cũng va chạm với những cặp đối lập “âm -dương”, “nóng -lạnh”, “cao -thấp”… Đặc biệt, người sống bằng nghề nông luôn cầu mùa màng bội thu, đề cao Mẹ -Cha và Đất -Trời. Người ta cũng dần dần nhận ra rằng hai hình thái sinh sản này có cùng một bản chất: Đất được đồng nhất với mẹ, còn trời được đồng nhất với cha. Việc hợp nhất của hai cặp “mẹ -cha” và “đất -trời” chính là sự khái quát hóa đầu tiên trên con đường dẫn tới triết lí âm dương. Chính từ quan niệm âm dương với hai cặp đối lập gốc “mẹ -cha” và “đất -trời” này, người xưa đã dần dần suy ra vô số những đối lập mà, đến lượt mình, lại trở thành cơ sở để suy ra những đối lập mới. Chẳng hạn, từ cặp “lạnh – nóng”, có thể suy ra: (a) Về thời tiết thì mùa đông lạnh thuộc âm, mùa hè nóng thuộc dương; (b) Về phương hướng thì phương bắc lạnh thuộc âm, phương nam nóng thuộc dương; (c) Về thời gian thì ban đêm lạnh thuộc âm, ban ngày nóng thuộc dương. Tiếp tục, đêm thì tối nên màu đen thuộc âm, ngày thì nắng đỏ nên màu đỏ thuộc dương.
Từ hai cặp đối lập gốc “mẹ -cha” và “đất -trời” người xưa dần dần suy ra hàng loạt cặp đối lập như những thuộc tính của âm dương. Lối tư duy đó tạo nên ở người Đông Nam Á cổ đại một quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp (nhị nguyên) có phần chất phác và thô sơ về thế giới. Từ tư duy lưỡng phân lưỡng hợp, trên cơ sở các cặp đối lập rõ nét, người Đông Nam Á xưa hơn đã mở rộng dần ra để tìm cách xác lập bản chất âm dương cho những khái niệm, sự vật biệt lập. Quá trình này chắc đã dẫn họ tời chỗ cảm nhận được tính hai mặt của âm dương và quan hệ chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng.
Cùng xuất phát từ nguyên lí âm dương, người xưa đã theo hai ngả khác nhau để có hai sản phẩm rất khác nhau là Ngũ hành và Bát quái. Một hướng gọi âm dương là Lưỡng nghi và, bằng phép phân đôi thuần túy, đã sản sinh ra những mô hình vũ trụ chặt chẽ với số lượng thành tố chẵn: 2 sinh 4 (Tứ tượng), 4 sinh 8 (Bát quái). Kinh dịch trình bày nguyên lí hình thành vũ trụ dưới dạng: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái biến hoá vô cùng.
Hướng thứ hai tạo nên những mô hình vũ trụ bí ẩn với số lượng thành tố lẻ: 2 sinh 3 (Tam tài), 3 sinh 5 (Ngũ hành). Tư duy số lẻ dường như là nét đặc thù của người nông nghiệp phương Nam. Dân gian Việt Nam rất thích dùng những cách nói với các con số lẻ: 3 mặt 1 lời, 3 xôi nhồi 1 chỗ, 3 thưng cũng vào 1 đấu, Mua danh 3 vạn, bán danh 3 đồng, 3 bè 7 mối, 3 hồn 7 vía, 3 dãy 7 òa, 3 lo 7 triệu, 3 vành 7 vẻ, 3 vợ 7 nàng hầu; 3 vuông 7 tròn, 3 chìm 7 nổi 9 lênh đênh, 3hồn 9 vía, 3 bò 9 trâu, túm 5 tụm 3, 5 cha 3 mẹ, 5 lần 7 lượt, 5 lừa 7 lọc, 5 thê 7 thiếp… Các số 18 (18 chim bay khắc trên nhiều trống đồng: 18 đời Hùng vương, 18 ụ hỏa công ở thành Cổ Loa, 18 thôn Vườn Trầu ở Hóc Môn), 27 (đại tang 3 năm thực ra chỉ có 27 tháng): 36 (36 con chim cả bay và đứng trên mặt trống Ngọc Lũ, 36 phố phường Hà Nội…)… thực chất đều là những bội số của các con số 3 và 9 (9 x 2, 9 x 3, 9 x 4). Người Việt thích số lẻ, nhưng đồng thời cũng sợ số lẻ, nên rất kiêng các số 3, 5, 7 và các số có tổng bằng 5 (1+4 và 2+3): Chớ đi ngày 7 chớ về ngày 3, Mồng năm, mười bốn, hai ba. Đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn.
Mặc dù không qua trường lớp đào tạo nghiêm túc, nhưng nền học thuật nước nhà được khẳng định bởi một số trí thức tâm huyết. Một số ngành khoa học đạt thành tựu là:
Sử học và địa lý: Việt Nam là một quốc gia quân chủ tập quyền, có một chính sách nhà nước dân tộc mạnh, vì vậy việc ghi chép quốc sử và địa lý rất được coi trọng. Những bộ sử nổi tiếng thời Trần và thời Lê là Đại Việt sử ký (Lê Văn Hưu), Đại Việt sử lược (tức Việt sủ lược, khuyết danh), Đại Việt sử ký toàn thư (nhóm tác giả Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ…).
Thế kỷ XVII, một học giả nổi tiếng là Lê Quý Đôn đã viết rất nhiều sách, trong đó có những cuốn sử nổi tiếng là Kiến văn tiểu lục, Đại Việt thông sử và Phủ biên tạp lục.
Cũng ở thời Nguyễn, cơ quan biên soạn sử của nhà nước là Quốc sử quán đã khắc in những bộ sử nổi tiếng như Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện. Nội các triều Nguyễn biên soạn một bộ điển chế là bộ Đại Nam hội điển sự lệ.
Về các tác phẩm địa lý nổi tiếng, thời Lê có Dư địa chí (Nguyễn Trãi), tập Hồng Đức bản đồ (soạn vẽ thời Lê Thánh Tông), được bổ sung trong thế kỷ sau). Thời Nguyễn có Gia Định thành thông chí (Trịnh Hoài Đức), Phương đình địa chí (Nguyễn Văn Siêu) và bộ Đại Nam nhất thống chí.
Y học cổ truyền và khoa học kỹ thuật
Y học cổ truyền Việt Nam xuất phát từ quan điểm về sự tương ứng giữa vũ trụ và con người, tính thống nhất của cơ thể người cũng như sự liên hệ giữa các bộ phận thông qua các chức năng ngũ hành, hệ kinh lạc và các huyệt. Trong lịch sử các vương triều đều lập ra Thái y viện để chữa bệnh cho vua và thân tộc. Trong dân gian, có các thầy thuốc chữa bệnh thường xuất phát từ các nhà nho (nho, y, lý, số). Thời Trần, danh y Phạm Bân nổi tiếng về y đức, trách nhiệm đối với người bệnh. Danh y Tuệ Tĩnh là tác giả bộ Nam dược thần hiệu đề cao tác dụng của thuốc Nam. Lê Hữu Trác là một thầy thuốc kiêm toàn về nhân cách, y đức và tài năng, đã viết Hải thượng y tông tâm lĩnh, đây được coi là bộ sách có giá trị nhất của y học cổ truyền Việt Nam.
Thiên văn, lịch pháp: trong lịch sử, việc chiêm nghiệm trời đất và soạn lịch pháp thuộc các cơ quan “Khâm thiên giám” và “Thái chúc ty”. Đời Trần, Đặng Lộ đã chế tạo ra “Lung linh nghi” (một dụng cụ chiêm nghiệm khí tượng rất chuẩn xác) và làm ra loại lịch Hiệp Kỷ mang tính dân tộc. Trần Nguyên Đán làm ra loại lịch mới “Thuận Thiên”, là tác gải cuốn “Bách thế thông kỷ thư” là một loại sách lịch thế kỷ với những dự đoán chính xác về thiên văn, nhật thực, nguyệt thực.
Lịch pháp Việt Nam là loại âm lịch, dựa theo chuyển động của mặt trăng. Thời gian được tính theo hệ can chi (10 thiên can, 12 địa chi). Trong năm có các tiết: Nguyên Đán, Thượng Nguyên, Hàn Thực, Đoan Ngọ, Trung Nguyên, Trung Thu…
Khoa học kỹ thuật: đã ghi lại một số thành tựu về toán pháp, Lương Thế Vinh là tác giả cuốn Đại thành toán pháp. Vũ Hữu là người giỏi tính toán trong các công trình xây dựng cửa Đại Hưng và cửa Đông Hoa hoàng thành Thăng Long. Nguyễn An là một thiếu niên Việt bị bắt sang Trung Quốc từ thời Hồ, sau trở nên một nhà kiến trúc giỏi, đã tham gai xây dựng quần thể cung điện ở Bắc Kinh đời Minh. Hồ Nguyên Trừng là người chế tạo loại thuyền chiến Cổ lâu hai tầng và súng lớn thần cơ. Thế kỷ XVII, Nguyễn Văn Tú ở đàng trong học tập kỹ thuật phương Tây đã chế ra đồng hồ chạy bằng dây cót, bánh xe. Thời Minh Mạng, các thợ giỏi đã chế được một số máy móc dùng trong đời sống như máy bơm nước, chữa cháy, máy cưa, máy giã…
HƢỚNG DẪN ÔN TẬP
CHƢƠNG 3. CÁC VÙNG VĂN HÓA VIỆT NAM
3.1. Khái niệm vùng văn hóa và phân vùng văn hóa
3.1.1. Khái niệm vùng văn hóa
Vùng văn hóa là khái niệm dùng để chỉ một vùng lãnh thổ, trên đó các cộng đồng cư dân có những nét tương đồng về văn hóa -thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống vật chất, tinh thần và được hình thành do những tương đồng về môi trường tự nhiên, điều kiện lịch sử, xã hội. Đặc biệt, với các mối quan hệ giao lưu văn hóa được diễn ra trong suốt quá trình lịch sử lâu dài đã hình thành nên những đặc trưng văn hóa chung.
Trong mỗi một vùng văn hoá, lại có thể chia làm nhiều tiểu vùng văn hoá. Khái niệm tiểu vùng văn hoá để chỉ những bộ phận hợp thành vùng văn hoá. Mỗi tiểu vùng được xác định với những nét đặc thù, tồn tại trong một không gian địa lí, khí hậu và lịch sử hình thành, phát triển của vùng. Việc phân loại tiểu vùng văn hoá hoàn toàn không phá vỡ tính thống nhất của tổng thể một vùng văn hoá.
3. .2. Tiêu chí phân vùng văn hóa
Mỗi vùng văn hóa có những nét đặc thù riêng làm nên bản sắc của mình trong tương quan với các vùng khác, để rồi từ những hình thái riêng ấy, tất cả cùng tạo nên tính thống nhất trong sự đa dạng của văn hóa Việt Nam.
3.2. Các vùng văn hóa Việt Nam
3.2.1. Vùng văn hóa Tâ Bắc
3.2.1. . Đặc điểm tự nhiên và xã hội
a. Đặc điểm tự nhiên
* Địa hình
Địa hình Tây Bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo hướng Tây Bắc -Đông Nam. Trong đó, dãy Hoàng Liên Sơn [người Thái gọi là Sừng trời (Khau phạ)] dài đến 180 km, rộng 30 Km, với một số đỉnh núi cao (Fansipan, Pu luông,…) xen kẽ với các núi thấp hơn đã gây không ít khó khăn cho việc giao thông giữa các vùng.
* Khí hậu
-Vùng văn hoá Tây Bắc là một vùng núi non hiểm trở, trải rộng qua các tỉnh Sơn La, Hoà Bình, Điện Biên, Lai Châu,… Tây Bắc có một vị trí đặc biệt. Phía Tây giáp với Thượng Lào và phía Bắc giáp với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc).
b. Xã hội
3.2.1.2. Đặc điểm văn hoá
Từ thế kỷ XX trở lại đây, với vai trò là chủ thể trong lịch sử phát triển của vùng, văn hoá Thái (với những yếu tố tiếp biến từ văn hoá Đông Nam Á) nổi lên như một sắc thái văn hoá đại diện cho văn hoá Tây Bắc.
a. Văn hoá vật chất
*Ăn
Ngày nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính, gạo nếp vẫn được coi là lương thực truyền thống.
*Mặc
*Ở
b. Văn hoá tinh thần
*Tập quán – Tín ngƣỡng
Người Thái cũng có tín ngưỡng với nước, đó là đặc điểm chung của người làm nông nghiệp, tâm thức đó được “thể chế hoá” bằng hình tượng thần nước dưới dạng thuồng luồng và bằng các lễ cụ thể.
Văn hóa nông nghiệp thung lũng Thái nổi tiếng bởi hệ thống tưới tiêu thích hợp, được đúc kết như một thành ngữ: “Mương – Phai – Lái – Lịn”. Tức, lợi dụng độ dốc của dòng chảy, người ta lấy đá ngăn suối làm nước dâng cao – đó là cái phai. Phía trên phai xẻ một đường chảy lớn dẫn vào cánh đồng đó là mương. Từ mương xẻ những rãnh chảy vào ruộng đó là lái. Còn lịn là cách lấy nước từ nguồn trên núi cao, dẫn về ruộng, về nhà bằng các cây tre đục rỗng mấu, nối tiếp nhau có khi dài hàng cây số. Do chủ động tưới tiêu nên người Thái nuôi cá ngay trong mực nước của ruộng lúa. Gặt lúa xong là tháo nước bắt cá. Cho nên, món dân cúng trong lễ cơm mới bao giờ cũng có xôi và cá nướng.
* Văn hoá nghệ thuật
3.2.2. Vùng văn hóa Việt Bắc
3.2.2. . Đặc điểm tự nhiên và xã hội
a. Đặc điểm tự nhiên
Vùng văn hóa Việt Bắc bao gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang và cả phần đồi núi của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Quảng Ninh.
* Sông ngòi
b. Xã hội.
3.2.2.2. Đặc điểm văn hoá Việt Bắc
a.Văn hoá vật chất
* Nhà ở
* Trang phục
b. Văn hoá tinh thần
c. Văn hóa giáo dục
3.2.3. Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
3.2.3.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội
a. Đặc điểm tự nhiên
* Vị trí địa lý
* Địa hình
* Sông ngòi
Toàn vùng có địa hình cao thấp không đều. * Khí hậu Khí hậu vùng Châu thổ Bắc Bộ thật độc đáo. Đây là vùng duy nhất ở Việt Nam có mùa đông lạnh thực sự với ba tháng có nhiệt độ dưới 18o C, do đó mà dạng khí hậu bốn mùa với mỗi mùa mang đặc trưng tương đối rõ rệt.
b. Môi trường xã hội
3.2.3.2. Đặc điểm văn hóa
a. Văn hoá vật chất
* Mặc
b. Văn hoá tinh thần
c. Văn hoá giáo dục
3.2.4. Vùng văn hóa Trung Bộ
3.2.4. . Đặc điểm tự nhiên và xã hội
a. Đặc điểm tự nhiên
* Vị trí địa lý
* Địa hình
* Khí hậu
b. Xã hội
3.2.4.2. Đặc điểm văn hoá Trung Bộ
a. Đặc điểm chung của vùng văn hoá Trung Bộ
b. Tiểu vùng văn hoá xứ Huế
* Văn hoá vật chất
* Văn hoá tinh thần
Xứ Huế là một tiểu vùng văn hoá nằm trong vùng văn hoá Trung Bộ, nhưng có một sắc thái riêng, tiêu biểu cho văn hoá Việt Nam thế kỉ XIX.
3.2.5. Vùng văn hóa Tâ Ngu ên
3.2.5.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội
a. Đặc điểm tự nhiên
* Vị trí địa lý
* Địa hình
Địa hình chủ yếu của Tây Nguyên là cao nguyên xếp tầng, với diện tích đất đỏ Ba zan là 1,4 triệu ha (chiếm 2/3 diện tích đất đỏ bazan của cả nước). Địa hình tương đối thuận lợi cho việc hình thành các vùng chuyên canh cây trồng theo qui mô lớn.
* Khí hậu
Khí hậu Tây Nguyên có tính chất cận xích đạo, một mùa mưa và một mùa khô kéo dài. Nhiệt độ thấp nhất là 180C, cao nhất là 250C.
b. Xã hội
3.2.5.2. Đặc điểm văn hoá Tâ Ngu ên
a.Văn hoá vật chất
* Ăn
b. Văn hoá tinh thần
* Lễ hội
* Văn học nghệ thuật
* Văn hoá cồng chiêng
Cồng chiêng có vai trò quan trọng trong đời sống các dân tộc Tây Nguyên.
3.2.6. Vùng văn hóa Nam Bộ
3.2.6. . Đặc điểm tự nhiên và xã hội
a. Đặc điểm tự nhiên
* Vị trí địa lý
Nam Bộ là vùng đất cuối cùng đất nước về phía Nam, nằm trong lưu vực hai con sông Đồng Nai và Cửu Long.
Nam Bộ là vùng đất thuộc địa bàn các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Bà Rịa -Vũng Tàu thuộc miền Đông Nam Bộ và các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau thuộc miền Tây Nam Bộ và thành phố Hồ Chí Minh.
* Địa hình
Nói đến Nam Bộ là người ta nghĩ đến những cánh đồng tít tắp tận chân trời, một khung cảnh thiên nhiên khoáng đạt và vùng đất với hệ thống kênh rạch chằng chịt.
* Khí hậu
Khí hậu một năm có hai mùa: mùa mưa, mùa khô. Sáu tháng mùa mưa và sáu tháng mùa khô tạo cho vòng quay của thiên nhiên, mùa vụ có vẻ khác biệt so với vùng Bắc Bộ.
b. Xã hội
3.2.6.2. Đặc Điểm văn hoá của Nam Bộ
Với sự tác động của những đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên, xã hội và giao lưu văn hóa đã khiến cho Nam Bộ tuy là một vùng văn hóa còn non trẻ, nhưng lại sớm định hình một diện mạo riêng, không thể lẫn với vùng văn hóa khác của Việt Nam. Những đặc trưng bản sắc của văn hóa Nam Bộ đã góp phần tô đậm thêm những gam màu đa sắc trong bức tranh toàn cảnh sinh động của văn hóa Việt Nam.
HƢỚNG DẪN ÔN TẬP
ĐỀ TRẮC NGHIỆM (MẪU)
Câu 1: Ai đƣợc xem là ngƣời mở đƣờng cho nghiên cứu văn hóa trên thế giới
Câu 2 oại hình nghệ thuật đƣợc sử dụng phổ biến trong tín ngƣỡng thờ Mẫu là gì
Câu 3: Theo nguyên lý ngũ hành tƣơng khắc, thì “Thủ ” tƣơng khắc với:
Câu 4 Nhận định của nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm: Văn hóa là sản phẩm do con ngƣời tích lũ qua quá trình hoạt động thực tiễn nhấn mạnh đặc trƣng gì của văn hóa
Câu 5: Tỉnh thành nào sau đâ thuộc vùng văn hóa Việt Bắc?
Câu 6 Kinh đô nƣớc ta thời nhà Đinh có tên gọi là gì?
Câu 7 Đại Việt là quốc hiệu nƣớc ta vào thời nhà nào?
Câu 8: Tam tạng kinh bao gồm Luật tạng, Luận tạng và
Câu 9 Cá lóc nƣớng trui là món ăn đặc sản của vùng nào?
Câu Văn hiến là khái niệm
TÀI LIỆU THAM KHẢO
.