Tìm hiểu Văn hóa Malaysia | GoldenTour

Mục lục bài viết

Tìm hiểu Văn hóa Malaysia

Malaysia là một xã hội đa sắc tộc, đa văn hóa và đa ngôn ngữ, gồm 52% người Malay và các bộ tộc bản xứ khác, 30% người Trung Quốc, 8% người Ấn Độ. Người Malay, là cộng đồng lớn nhất, được xác định là những tín đồ Hồi giáo trong Hiến pháp Malaysia. Người Malay đóng vai trò thống trị trong chính trị và được tính gộp trong một nhóm gọi là bumiputra. Tiếng mẹ đẻ của họ là tiếng Malay (Bahasa Melayu). Tiếng Malay là ngôn ngữ chính thức quốc gia.

Trong quá khứ, tiếng Malay thường được viết bằng ký tự Jawi, một ký tự dựa trên ngôn ngữ Ả rập. Cùng với thời gian, ký tự Latinh hoá dần chiếm vị trí của Jawi trở thành ký tự phổ biến. Điều này phần lớn vì sự ảnh hưởng của hệ thống giáo dục thuộc địa, vốn dạy trẻ em viết bằng ký tự Latinh chứ không phải ký tự Ả rập.

Nhóm bản xứ không Malay lớn nhất là người Iban tại Sarawak với số lượng hơn 600.000 người. Một số người Iban vẫn sống trong các ngôi nhà dài truyền thống trong rừng già dọc theo các con sông Rajang và Lupar và các phụ lưu của chúng, dù nhiều người đã tới sống tại các thành phố. Người Bidayuh, số lượng khoảng 170.000 người, sống tập trung ở vùng phía tây nam Sarawak.

Bộ tộc bản xứ lớn nhất tại Sabah là Kadazan. Họ chủ yếu là những nông dân theo Thiên chúa giáo. 140.000 người Orang Asli, hay những bộ tộc thổ dân, gồm một số cộng đồng sắc tộc khác nhau sống trên Bán đảo Malaysia. Đa số những người sinh sống bằng nông nghiệp hay săn bắn hái lượm du mục truyền thống, đã định cư và hòa nhập một phần vào xã hội hiện đại Malaysia. Tuy nhiên, họ vẫn là nhóm nghèo nhất trong nước.

Người Trung Quốc tại Malaysia chủ yếu theo Phật giáo (phái Đại Thừa), Đạo giáo hay Thiên chúa giáo. Người Trung Quốc tại Malaysia sử dụng nhiều loại tiếng địa phương Trung Quốc gồm tiếng phổ thông, Hokkien/Fujian, Quảng Đông, Hakka và Teochew. Nhiều người Trung Quốc tại Malaysia cũng sử dụng tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ. Người Trung Quốc từ lâu đã chiếm vị trí quan trọng trong cộng đồng thương mại Malaysia.

Người Ấn Độ tại Malaysia chủ yếu là người Hindu Tamil từ miền nam Ấn Độ nói tiếng Tamil, cũng có các cộng đồng Ấn Độ khác nói tiếng Telugu, Malayalam và Hindi, sống chủ yếu tại các thị trấn lớn ở ven biển phía tây bán đảo.

Nhiều người Ấn Độ thuộc tầng lớp trung lưu và thượng lưu sống tại Malaysia cũng dùng tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ. Cũng có một cộng đồng người Sikh khá lớn tại Malaysia với hơn 83.000 người. Đa số người Ấn Độ di cư tới đây đều là các thương nhân, giáo viên và những thợ thủ công có chuyên môn. Một số lượng lớn khác là những nhân công nhập cư từ Ấn Độ ở thời thuộc địa Anh làm việc trong ngành lâm nghiệp.

Người Âu Á, Campuchia, Việt Nam, và các bộ tộc bản xứ khác chiếm phần dân số còn lại. Một số lượng nhỏ người Âu Á, hậu duệ người lai Bồ Đào Nha và Malay, nói một thứ thổ ngữ dựa trên tiếng Bồ Đào Nha được gọi là Papiá Kristang.

Cũng có những người Âu Á hậu duệ người lai Philippines và Tây Ban Nha, chủ yếu sống tại Sabah. Là hậu duệ của những người nhập cư từ Philippines, một số sử dụng tiếng Chavacano, thổ ngữ dựa trên tiếng Tây Ban Nha duy nhất tại Châu Á. Người Campuchia và người Việt Nam chủ yếu theo Phật giáo (người Campuchia theo Tiểu Thừa, người Việt Nam theo Đại Thừa).

Âm nhạc truyền thống Malaysia bị ảnh hưởng nhiều từ phong cách Trung Quốc và Hồi giáo. Âm nhạc chủ yếu dựa quanh gendang (trống), nhưng ồm cả các nhạc cụ gõ khác (một số làm bằng các loại vỏ và mai); rebab, một nhạc cụ dây hình cung; serunai, nhạc khí hai lưỡi như oboe; sáo, và trumpet. Nước này có truyền thống múa và kịch múa lâu đời, một số có nguồn gốc Thái, Ấn Độ, Bồ Đào Nha. Các hình thức nghệ thuật khác gồm wayang kulit (rối bóng), silat (một kiểu võ thuật cách điệu hoá) và đồ thủ công như batik, dệt, bạc và đồ đúc đồng.

Âm nhạc và khiêu vũ
Âm nhạc và khiêu vũ là hai hoạt động không thể tách rời nhau trong văn hóa Malaysia. Khi có thứ này thì thứ kia cũng phải lẩn khuất đâu đó. Trong di sản văn hóa của Malaysia, có nhiều vũ điệu khác nhau, và nếu không du nhập trực tiếp từ một nước nào đó thì cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm của một trong những thành tố văn hóa của Malaysia. Có nhiều điệu nhạc và điệu múa của Malyasia đã phát triển từ những nhu cầu cơ bản thành dạng thức phức tạp và quyến rũ ngày nay.

Âm nhạc truyền thống ở đây xoay quanh chiếc gamelan, một loại đàn dây bắt nguồn từ Indonesia với loại âm thanh nghèn nghẹn, nghe như từ thế giới bên kia vọng về. Tiếng trống của Malaysia du dương, thôi miên người nghe hòa cùng tiếng đàn gamelan, thường làm nền cho các điệu múa cung đình ở đây. Thực tế, những điệu trống đầu tiên của Malaysia phát sinh từ nhu cầu thực tế. Ở thời đại trước khi có điện thoại và fax, chiếc rebana ubi, một loại trống lớn, được sử dụng để giao tiếp giữa đồi này với đồi kia, cách nhau một đoạn đường dài. Thông báo đám cưới, tiếng kêu báo động nguy hiểm hay những mẩu thông tin khác được truyền đi bằng tiếng trống, mỗi loại có một nhịp riêng. Ngày nay chiếc rebana ubi được dùng chủ yếu như một nhạc cụ nghỉ lễ. Có một ngày hội gọi là Hội thi Đánh trống được tổ chức tại Kelantan vào tháng 5 hoặc tháng 6 hàng năm.

Múa đèn là một nghệ thuật văn hóa biểu diễn đẹp mê hồn của Malaysia. Đèn được thắp trong những chiếc (ra nhỏ, được cầm bởi một tay của người vũ công. Khi vũ công biểu diễn những đường múa cong mềm mại, ánh lửa đèn trở thành những dấu hiệu thôi miên người xem.Điệu múa Joget là điệu múa truyền thống phổ biến của Malaysia, với nhịp điệu nhẹ nhàng. Trong điệu múa này từng cặp múa với nhau theo những cử động duyên dáng và vui nhộn. Múa Joget bắt nguồn từ những điệu múa dân gian của Bồ Đào Nha, được du nhập vào Malacca trong thời kỳ mua bán gia vị.Trong số những loại hình văn nghệ truyền thống của Malay có kết hợp múa, kịch và âm nhạc, không có loại kịch múa nào thu hút bằng Mak Yong. Loại hình giải trí cung đình cổ xưa này là sự phối hợp những câu chuyện lãng mạn, những điệu hát ô pê ra và sự hài hước.

Điệu múa Datun Julud rất phổ biến ở Sarawak và minh họa cho truyền thống lâu đời về nghệ thuật kể chuyện trong múa. Điệu Datun Jalud kể về hạnh phúc của một hoàng thân khi cầu nguyện ban phúc với cháu trai của mình. Từ câu chuyện này điệu múa đã lan tràn trong các bộ lạc Kenyah ở Sarawak. Một loại nhạc cụ gọi là Sape làm nền cho điệu múa, cùng với tiếng hát và tiếng vỗ tay.

Dondang Sayang
Dondang Sayang là một dạng hát truyền thống của Malay vẫn tồn tại đến ngày nay và vẫn còn rất phổ biến. Đặc trưng của nó rất khác với loại hình hát truyền thống khác ở chỗ âm điệu dịu dàng, du dương như ru ngủ. Điệu hát này bắt nguồn ở Melaka nên những đặc điểm nghệ thuật của nó được sở hữu và lưu giữ bởi người Melaka. Dondang Sayang hiện nay không những chỉ phổ biến trong phạm vi người Malay, mà cả với người baba và nyonya ở Melaka, Penang và Singapore, cũng như với cả người Chetis và người Bồ Đào Nha ở Melaka.

Dongdang Sayang được coi là đã tồn tại rất lâu trong cộng đồng người Malay Melaka, mặc dù người ta không biết rõ từ năm tháng nào. Một số ý kiến cho rằng nó bắt đầu từ thời cai trị của vua Mansor Shah, một vị vua của Melaka được biết đến do ảnh hưởng và quan hệ đối ngoại xuất sắc. Một số ý kiến khác thì cho rằng Dondang Sayang có xuất xứ từ Bồ Đào Nha và du nhập vào Melaka. Trong khi đó những ý kiến khác nữa lại cho rằng nó bắt nguồn ở Sumatra và phát triển ở đây thành một điệu hát cộng đồng truyền thống sau khi được biểu diễn nhiều lần ở cung điện. Ở giai đoạn đầu, Dondang Sayang được hát không có nhạc cụ đệm.Dondang Sayang thường được hát trong nhiều trường hợp khác nhau như: vào buổi tối, khi mọi công việc hàng ngày đã hoàn tất, khi bà mẹ muốn ru con ngủ, vào các cuộc lễ nghi hay đám cưới và vào dịp hội hè.

Lời bài hát của điệu Dondang Sayang gồm các nhóm bốn câu. Những câu này khi được hát lên một cách thanh thoát và với giọng cao sẽ hút hồn người nghe. Thường thì một cặp hát hết bốn câu và nghĩ ra các câu trả lời đối đáp để hát tiếp, làm cho bài hát thêm phần sinh động.Một giàn nhạc Dondang Sayang thường có 6 người: một nhạc công vĩ cầm, hai người đánh trống rebana, một người đánh cồng và hai người hát. Tuy nhiên cũng có những giàn có số thành viên nhiều hơn, tùy theo số nhạc khí sử dụng. Số lượng ca sĩ cũng có khi là bốn người, hai nam và hai nữ. Nhóm ca sĩ có khi lại gồm ba nam và một nữ, nhưng dù sao thì cũng có ít nhất một nữ để làm cho không khí thêm phần vui tươi Còn nhạc sĩ vĩ cầm thì đôi khi có đến hai người nếu như buổi trình diễn kéo dài đến sáng; điều này là tất yếu vì vĩ cầm giữ giai điệu chính cho Dondang Sayang.

Trang phục cho các buổi biểu diễn Dodang Sayang là loại y phục biểu diễn truyền thống: nam thì mặc bộ Baju Melayu (bộ áo quần truyền thống của Malay), samping (mảnh vải trang điểm thắt quanh eo) và songkok (một loại khăn trùm đầu) còn đối với nữ thì mặc bộ baju kebaya (một loại váy áo truyền thống).

>>> Tham khảo Tour Du Lịch Malaysia – Văn Hóa Du Lịch Malaysia

Xổ số miền Bắc