Dân ca, dân vũ Đông Anh – Wikipedia tiếng Việt

Dân ca Đông Anh hay Dân ca, dân vũ Đông Anh hay ngũ trò Viên Khê là hệ thống các trò diễn xướng đi kèm các bài dân ca, lưu hành tại thôn Viên Khê, xã Đông Khê (trước đây thuộc xã Đông Anh cũ) và vùng phụ cận, thuộc huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Các trò diễn Đông Anh được xếp vào các hình thức diễn xướng dân gian tiêu biểu của xứ Thanh, cùng với tổ khúc hò sông Mã và trò Xuân Phả[1][2]. Các trò diễn Đông Anh phản ánh đời sống sinh hoạt và tâm tư tình cảm của người nông dân Việt Nam xưa. Những lời ca như: Lên chùa bẻ một cành sen/ Ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng… đã trở nên quen thuộc với nhiều người dân Việt Nam.

Ngũ trò Viên Khê đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nước Ta công nhận là di sản văn hóa truyền thống phi vật thể cấp vương quốc từ ngày 11 tháng 9 năm 2017. [ 3 ]
Các trò diễn ở Đông Anh hoàn toàn có thể có từ thời Bắc thuộc ( nhà Tùy ), do Chàng Cả Đại Vương, con trai của Lê Ngọc ( thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Lê Ngọc ) truyền cho dân chúng [ 1 ] [ 4 ] .

Cũng có ý kiến cho rằng lịch sử của trò ngũ quốc (gồm 5 trò diễn là trò Chiêm Thành, trò Hoa Lang, trò Lục Hồn Nhung, trò Ngô quốc, trò Ai Lao) có thể là lễ nhạc của nhà Hậu Lê, được các vị quan là Trịnh Quý Thuật và Nguyễn Mộng Tuân truyền lại cho làng Xuân Phả (quê của Trịnh Quý Thuật) và làng Viên Khê (quê của Nguyễn Mộng Tuân)[5]. Năm trò diễn nói trên cũng là toàn bộ các trò của trò Xuân Phả, riêng trò Ai Lao chưa thấy có trong hệ thống trò diễn Đông Anh. Mặt khác, số trò diễn ở Đông Anh không dừng lại ở con số 5 như tên gọi ngũ trò, các trò diễn có thể hình thành thêm trong quá trình hội lễ và lịch sử.

Khu vực lưu truyền dân ca, dân vũ Đông Anh (có 2 trong số 9 làng còn chưa rõ vị trí)( có 2 trong số 9 làng còn chưa rõ vị trí )Chàng Cả chúa thượng là con trai của Cao Hoàng, một người gốc Trung Quốc, được Cao Hoàng giao quản lý vùng đất mà cho đến thời Lê – Nguyễn là chín thôn xã : Viên Khê, Doãn Xá [ ct 1 ], Xuân Lưu, Cáo Thôn [ ct 2 ], Phúc Hậu, Phù Lưu, Viễn Dương, Mao Xá, Đại Nẫm thuộc ba tổng Tuyên Hóa, Quảng Chiếu [ ct 3 ], Thanh Khê [ 4 ], nay thuộc những xã Đông Khê, Đông Thịnh, Đông Minh, thị xã Rừng Thông, huyện Đông Sơn và xã Đông Tân, thành phố Thanh Hóa .

Vào cuối thời Nguyễn (đầu thế kỉ 20), các thôn xã nêu trên chủ yếu thuộc tổng Tuyên Hóa (đầu thời Nguyễn là một phần tổng Lê Nguyễn), trừ Phù Lưu thuộc tổng Quảng Chiếu, Mao Xá và Đại Nẫm thuộc tổng Thanh Khê và Viễn Dương chưa xác định rõ thuộc tổng nào. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), tổng Tuyên Hóa được đổi thành xã Tuyên Hóa và đến năm 1948, xã Tuyên Hóa được đổi thành xã Đông Anh, huyện Đông Sơn. Tên gọi dân ca Đông Anh được lấy theo tên xã Đông Anh[6].

Đến cuối năm 1953, xã Đông Anh được chia thành những xã Đông Anh ( mới ), Đông Xuân, Đông Thịnh. Trong số đó, hàng loạt bốn thôn của xã Đông Xuân ( gồm Xuân Lưu, Cáo Thôn, Phúc Hậu và Nhuệ Sâm – thuộc Doãn Xá ) thuộc chín thôn xã từng lưu truyền dân ca Đông Anh ( lúc bấy giờ những làng này là những thành phố thuộc thị xã Rừng Thông ). Tuy nhiên, đến cuối thế kỉ 20, chỉ có làng Viên Khê thuộc xã Đông Anh và một số ít làng thuộc xã Đông Thịnh ( xã Doãn Xá cũ ) bảo tồn được những điệu dân ca, dân vũ này .

Hệ thống trò diễn[sửa|sửa mã nguồn]

Các trò diễn Đông Anh được gọi là ngũ trò Đông Anh hay ngũ trò Viên Khê. Gọi là ngũ trò nhưng thực ra trò diễn Đông Anh gồm 12 trò là: trò Múa đèn, trò Tiên Cuội (hay Tiên phường), trò Tô Vũ, trò Trống Mõ, trò Thiếp, trò Vằn vương (hay trò Hùm), trò Thủy (hay Thủy phường), trò Leo dây, trò Xiêm Thành (hay Chiêm Thành/Sim Thành), trò Hà Lan (hay Hoa Lang), trò Tú Huần (hay Lục Hồn Nhung), trò Ngô quốc. Ngoài ra ở Đông Anh còn có một số tiết mục nữa như trò Đại Thánh, trò Nữ quan…[1]

So với các hình thức diễn xướng dân gian khác ở xứ Thanh, ngũ trò Viên Khê đã bắt đầu có “kịch bản” và kịch bản đã có tích[1]. Ngũ trò Viên Khê gắn liền trò diễn với lời ca, chính vì vậy thay cho cách gọi phổ biến là dân ca Đông Anh, hiện nay nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian đã dùng cụm từ dân ca, dân vũ Đông Anh.

Một số địa phương lân cận thuộc huyện Đông Sơn cũng có mạng lưới hệ thống ngũ trò : Ngũ trò Rủn [ ct 4 ] ở kẻ Rủn, nay thuộc xã Đông Khê, gồm những trò : Múa đèn, Trống Mõ, Tiên Cuội, Ngô quốc, Mí Mẩn [ 7 ] và Ngũ trò Bôn ở kẻ Bôn, nay thuộc xã Đông Thanh, gồm những trò : Ngô phường, Lan phường, Tiên phường, Thủy phường, Lăng ba khúc [ 8 ] ( những xã Đông Khê, Đông Thanh vào đầu thời Nguyễn thuộc tổng Thạch Khê, giáp giới tổng Lê Nguyễn và cùng thuộc huyện Đông Sơn ) .Trò Xuân Phả hay trò Láng ( xã Xuân Trường, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa ) cũng có những trò Chiêm Thành, trò Hoa Lang, trò Lục Hồn Nhung, trò Ngô quốc nhưng hình thức bộc lộ có khác nhiều .

Trò Múa đèn[sửa|sửa mã nguồn]

Trò Múa đèn hay còn gọi là tổ khúc Múa đèn, là trò diễn tiêu biểu vượt trội nhất của ngũ trò Viên Khê. Tổ khúc được chia thành nhiều bài, gồm [ 9 ] :

  • Thắp đèn
  • Luống bông, luống đậu
  • Vãi mạ
  • Chẻ lạt đan lừ
  • Nhổ mạ
  • Đi cấy
  • Kéo sợi
  • Dệt cửi
  • Vá may
  • Cửa đóng then cài
  • Dâng quạt
  • Đi gặt

Một số tài liệu không ghi nhận các bài Cửa đóng then càiDâng quạt mà thay bằng các bài Đánh gà luộc, Cúng cơm mớiDâng oản[10].

Các bài trong tổ khúc phản ánh chu trình sản xuất theo mùa vụ nông nghiệp. Khi biểu diễn, 12 con trò (là các cô gái) đội trên đầu đĩa đèn dầu lạc (ngày nay thay bằng đĩa nến), vừa hát vừa thực hiện các động tác múa rất uyển chuyển mà không làm đèn rơi xuống. Xen giữa 10 bài là đầu tiên là xướngđế, các bài cuối: Đánh gà luộc, Cúng cơm mớiDâng oản chỉ múa mà không hát.

Một số lời ca tiêu biểu vượt trội :

Bài Thắp đèn:

Sau chín tiếng trống, 12 con trò đồng thanh hát :

Thấp thoáng bóng ngọn đèn quang
Còn không ta lấy, dở dang ta đừng

Trong nhà ta tứ ngày ràng rạng
Lòng em lại muốn chơi trăng ngoài thềm

Muốn cho trong ấm ngoài êm

Lời xướng: Bà con ơi! Giờ đến tháng giêng, tháng hai ta đi luống bông, luống đậu[ct 5] phải không?
Lời đế: Phải rồi. Sau đó chuyển sang bài tiếp theo (Luống bông, luống đậu).

Bài Vãi mạ:

Tay cầm nắm trấu tung ra
Trấu nát ra tro, thịt nát ra giò, đậu nát ra tương

Bài Chẻ lạt đan lờ (còn gọi là Đan lờ):

Tay cầm dao mác, nắm nan
Lên chùa thanh vắng ta đan cái lờ

Bắt cá thả lờ, còn nhớ hay đã quên?.

Những lời ca này có phần giống ca từ của làn điệu chèo tàu Lên chùa ở Đan Phượng, Hà Nội[11]:

Tay cầm dao mác, thanh nan
Lên chùa thanh vắng ta đan cái xời

Không may xời đổ toi rơi
Cho cua bò mất anh thời về không…

Bài Đi cấy[12]:

Lên chùa bẻ một cành sen
Ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng

Ba bốn cô có hẹn cùng chăng?
Thắp đèn ta sẽ chơi trăng ngoài thềm

Muốn cho trong ấm ngoài êm…

Một số biến thể được ghi nhận như :

Ba bốn o có “lệch” có “bợm”[ct 6] cùng chăng?

Hay :

Ba bốn cô có “lệch” có “bợm” cùng chăng?

Bài Xe chỉ, vá may:

Ngồi thềm xe chỉ, chỉ xe
Xỏ kim, kim xỏ ngồi hè vá may…

Một biến thể khác :

Ngồi buồn xe chỉ, chỉ xe
Xỏ kim, kim xỏ, ngồi thềm vá may

Lội sông khăn gói tay mang
Mồ hôi gió đượm thương chồng phải theo

Bài Cửa đóng then cài:

Khăng khăng cửa đóng then cài
Cửa trong mắc khóa, cửa ngoài cài then

Đôi ta còn lạ chưa quen
Tuy rằng cửa đóng mà then không cài.

Bài Đi gặt kết thúc cả tổ khúc với lời ca:

Bao giờ cho lúa bông vàng.
Để anh đi gặt cho nàng mang cơm.

Trò Tiên Cuội[sửa|sửa mã nguồn]

Con trò gồm chú Cuội và 12 tiên nữ. Sau khi gặp nhau bên hồ sen, Cuội yêu và lấy cô tiên đẹp nhất. Khi những cô tiên được Ngọc Hoàng gọi về trời, Cuội đau xót và chết. Các tiên nữ thương cảm liền quay lại làm phép cho Cuội hồi sinh. Tất cả cùng múa hát ngợi ca xóm làng .Trò này biểu lộ ước mong có một đời sống thanh thản no ấm [ 1 ]. Mở đầu là đoạn dâng hương hát chúc, sau đó là đoàn tiên trên trời xuống chơi và ca : [ 13 ]

…Xuân vừa gặp tiết thiều quang
Múa mừng dân xã thọ trường vinh hoa.

Sau đó là đoạn Tiên Cuội tỏ tình : [ 14 ]

…Ô Kiều, ô thước bắc sang
Chức Ngưu kia cũng một đoàn vầy vui.

Trò Tô Vũ[sửa|sửa mã nguồn]

Cùng với trò Xiêm Thành, trò Tô Vũ không có lời ca[15]. Các con trò gồm bốn ông bụt, một ông sư, một bà vãi đội nhang, một ông tô tượng đúc chuông. Các nhân vật múa các điệu chèo cạn, chèo sâuchèo đua.

Trò Trống Mõ[sửa|sửa mã nguồn]

Trò Trống Mõ có hai nhân vật mạt hạng trong làng là Trống và Mõ cùng với cu Nhớn, mẹ Mõ. Cuộc sống của người nông dân trong xã hội phong kiến được phản ánh sinh động trải qua những đoạn đối thoại dí dỏm [ 16 ]. Nhạc đệm là trống và mõ, lời thoại xen với hát, đa phần mượn của ca dao, dân ca. [ 17 ]
Trò Thiếp được diễn tại nghè Sâm lần sau cuối vào năm 1944. Từ tên trò đến lề lối, giọng điệu đều dựa vào tục đánh đồng thiếp, một tập tục mê tín dị đoan xưa nhưng nội dung lại mang tính chế giễu tệ đồng cốt .

Các con trò gồm tín chủ, thầy cả và bốn phụ lễ, đều do nữ đóng, phục trang sặc sỡ. Các làn điệu được sử dụng: chúc, chầu văn, thỉnh.

Anh tài đủ mặt cùng nhau
Đánh loài quỷ đói cụt đầu, cụt tay

Đồng thời, trò Thiếp còn có những bài nói biểu lộ nội dung trữ tình [ 16 ] :

… Trăm hoa dầu dãi nắng sương
Hoa cam, hoa quýt, chàng thương hoa nào?

Chàng thương hoa mận hoa đào
Còn bông hoa cúc biết vào tay ai?…

Và :

Mình lấy được ta trăm hoa tươi tốt
Tuổi ta hăm mốt, tuổi mình hăm hai.

Trò Vằn vương[sửa|sửa mã nguồn]

Mười tám con trò gồm một con hổ, mười sáu thợ săn và một người xướng. Thợ săn đứng thành hình chữ U, bốn người đầu đeo súng còn lại cầm giáo, cùng vây hổ, bắt khênh về. Trò diễn kèm với lời ca .
Trò Thủy gồm sáu đoạn : khởi đầu, giáo thuyền, khai chèo, đi chèo, giậm mái, chèo bay, lời ca đi liền với những động tác múa. Mười sáu con trò cầm mái chèo, chia hai hàng. Nhạc cụ : trống, thanh la, sênh. Có hai người múa gươm vàng. Trang phục gồm quần trắng, áo đỏ, thắt lưng xanh. [ 18 ]Lời ca như sau : [ 19 ]Mở đầu :

Mở cửa cho thủy tôi vào
Đem trò trình lễ tiêu hao sự tình…

Giáo thuyền :

…Mừng nay khang thái
Vận mở dương hanh
Luyện tập thủy binh
Sử thuyền như sử mã…

Khai chèo :

Khen ai khéo mở
Gỗ dựng làm thuyền…

Đi chèo :

…Mạn thuyền nghiêng đôi bên êm ái
Mặc kẻ chèo người lái trước sau.

Giậm mái :

Chẳng giậm thì thuyền chẳng đi
Giậm ra ván nát thuyền thì long đanh…

Chèo bay :

…Ta chèo một mái sang sông
Rước lấy đô đốc quận công về đình…

Trò Xiêm Thành[sửa|sửa mã nguồn]

Trò này không có lời ca. Một người đứng giữa cầm trống, những con trò đeo mặt nạ và phục trang, múa theo nhịp trống. Các vai diễn gồm :

  • Hai anh Mõ, một áo đen, một áo xám, cả hai mang mặt nạ nhỏ, xương xương, cầm mõ đánh theo nhịp trống.
  • Thầy thuốc: mặt nạ trán dô, mũi to, miệng rộng, môi hở, lè lưỡi chìa 4 răng ra ngoài, áo kiểu tuồng cổ.
  • Mí Mẩn: Mặt nạ mũi gãy, miệng rộng, môi trên to, môi dưới mỏng, mặc áo thụng vàng.
  • Anh Mếu: mặt nạ miệng mếu, áo thụng đỏ.
  • Người chết: mặt nạ hiền, màu xanh, áo thụng xanh.

Sau một hồi trống dồn, người chết nằm xuống đất, chết. Mếu, Mõ, Mí Mẩn đi mời thầy thuốc. Mí Mẩn nói: Thầy ơi thầy, xin thầy ba lạng vàng, thầy thuốc lắc đầu. Mí Mẩn lại nói: Thầy ơi thầy, xin thầy ba nắm xôi[ct 7]. Thầy thuốc gật đầu, chữa bệnh, người chết sống lại. Tất cả con trò vái và vào.

Trò Hà Lan[sửa|sửa mã nguồn]

Con trò gồm một con kì lân, hai con ngựa, chúa và nhiều lính. Chúa cầm nhịp cho lính hát theo, âm điệu khỏe và uyển chuyển. Chúa múa cờ lụa trắng, múa siêu đao, múa quạt, quân cũng múa theo. Lời ca hầu hết chúc vua quan và mong đời sống yên bình .

Trò Tú Huần[sửa|sửa mã nguồn]

Con trò gồm một mẹ và bốn con, đeo mặt nạ và vừa diễn những động tác như cày bừa, kiếm củi, học tập, chơi đùa, vừa hát theo nhịp trống đệm .Lời ca như sau :

Túi anh những bạc cùng vàng
Mượn thợ kéo nhẫn cho nàng đeo tay…

Trò Ngô quốc[sửa|sửa mã nguồn]

Trò Ngô được chia làm ba cảnh, trình diễn trọn một đêm .

  • Cảnh 1: các con trò: thầy thuốc, thầy địa lý, thầy bói biểu diễn các động tác nghề nghiệp theo nhịp trống và sênh.
  • Cảnh 2: thêm một ông lão Ngô (ông già người Tàu) đi bán kẹo, một cô gái mại dâm ghẹo lão Ngô và ba người đi bẻ ngô phụ họa cùng cô. Khi lão Ngô chết, cô mời thầy thuốc đến chữa, thầy địa lý cũng đòi chữa bệnh và lão Ngô sống lại.
  • Cảnh 3: thêm bốn ông bụt đeo mặt nạ, một ông sãi, một bà vãi, một ông tô tượng đúc chuông. Các con trò hát các bài chèo cạn, tô tượng, đúc chuông và diễn như trong trò Tô Vũ.

Ngũ trò Viên Khê được tổ chức triển khai thành liên hoan quy mô lớn, vào thời Nguyễn có sự tham gia của 9 thôn xã : Viên Khê, Doãn Xá, Xuân Lưu, Cáo Thôn, Phúc Hậu, Phù Lưu, Viễn Dương, Mao Xá, Đại Nẫm. Lễ hội được tổ chức triển khai tại nghè Sâm [ ct 8 ]. Thông thường, tiệc tùng được mở 3 năm một kỳ, vào những năm : Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Ca dao trong vùng có câu :

Ba năm một khoá trò lề
Lấy chồng hàng tổng thì về mà coi.

Ba năm một khoá trò chơi
Đông tây nam bắc xin mời về quê.

Vào những năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu, những làng trong vùng mở hội riêng thờ thần hoàng của làng, chọn trò dự tiệc tùng. Trò nào được nhìn nhận cao nhất trong tổng thì được làm chủ hội nghè Sâm .Công việc tổ chức triển khai liên hoan được khởi đầu từ tháng chạp âm lịch trước năm có tiệc tùng nghè Sâm. Ăn Tết xong, những làng dựng áng ở khu vực trước nghè Sâm. Trước khi chính thức mở hội, những làng diễn 4 trò : Xiêm Thành, Hoa Lang, Tú Huần, Ngô quốc tại áng của làng mình, tiên phong là làng Viên Khê sau đó là những làng còn lại [ 1 ] .
Sau Cách mạng tháng Tám, những trò diễn Đông Anh không còn được tổ chức triển khai nữa. Chỉ có phần lời ca của 1 số ít trò là được lưu truyền trong phần đông nhân dân, còn những trò diễn gần bị quên béng .Những năm 1960, một nhóm những nhà văn hóa dân gian đã sưu tầm tại những làng Viên Khê ( xã Đông Anh ), Xuân Lưu và Nhuệ Sâm ( xã Đông Xuân, nay thuộc thị xã Rừng Thông ), Ngọc Lậu ( xã Đông Thịnh ) được 9 trò diễn, gồm Múa đèn, Tiên cuội, Hà Lan, Thủy, Trống mõ, Ngô, Tú huần, Văn vương và trò Thiếp. [ 20 ]Từ năm 2002, Viện Âm nhạc Nước Ta đã chủ trì dự án Bất Động Sản ” Khôi phục văn hóa truyền thống phi vật thể “, trong đó đã tổ chức triển khai Phục hồi lại một số ít trò diễn. Đến năm 2006, đã Phục hồi được hai trò là trò Trống Mõ và trò Thiếp, cùng với ba trò diễn đã được Phục hồi từ trước khi có dự án Bất Động Sản [ 16 ] .Đến năm 2009, đã Phục hồi được 10 trò diễn gồm : Múa đèn, Tiên Cuội, Nữ quan, Trống Mõ, Bắt cọp, Thiếp, Ngô, Hà Lan, Thủy, Thủy phường. Các trò Tú Huần, Sim Thành đang được liên tục Phục hồi [ 21 ] .Tính đến cuối năm 2011, đã sưu tầm, điều tra và nghiên cứu Phục hồi lại 12 trong số 13 trò diễn. Trong đó, trò Lăng Ba Khúc đang sưu tầm thêm tư liệu lời múa, điệu hát. Tại xã Đông Anh, đã có 10 câu lạc bộ được xây dựng ở những trường học, hội cựu chiến binh, đoàn người trẻ tuổi, hội phụ nữ … trong xã. [ 22 ]

  1. ^ Dân ca Thanh Hóa, Trong sách Vũ Ngọc Khánh thuộc nhóm Lam Sơn ghi là Đoàn-xá, nhưng địa thế căn cứ vào thời hạn sống sót của tổng Thanh Khê ( từ năm 1886 – 1887 đến 1928 ) thì khi đó huyện Đông Sơn chỉ có xã Doãn Xá .
  2. ^

    Trong sách Dân ca Thanh Hóa ghi là Cao-thôn, nhưng tại huyện Đông Sơn chỉ có Cáo Thôn.

  3. ^

    Trong sách Dân ca Thanh Hóa ghi là Quảng-nạp, nhưng thực ra Quảng Nạp là thôn thuộc tổng Quảng Chiếu.

  4. ^ Tài liệu gọi trò diễn Đông Anh là trò Rủn, có lẽ rằng có sự nhầm lẫn vì trong tài liệu này, tại trang 33 kẻ Rủn được chú là Đông Khê, tại trang 50 kẻ Rủn được chú là Đông Anh và Đông Khê, tại trang 56 kẻ Rủn được chú là những xã Đông Anh, Đông Xuân, Đông Thịnh ; nhưng thực ra kẻ Rủn nay thuộc xã Đông Khê cùng huyện Đông Sơn. Hiện nay dân gian vùng Đông Sơn vẫn gọi xã Đông Khê là làng Rủn .
  5. ^ Đánh luống đất để trồng hoa, trồng đậu .
  6. ^ bợm có nghĩa là táo tợn.Trong phương ngữ Thanh Hóa có nghĩa là
  7. ^

    Lời nói và cách thức diễn trò ở đoạn đi mời thầy thuốc gần giống với trò Rồng rắn lên mây mà trẻ con ở xã Đông Anh thường chơi.

  8. ^ Nay là khu vực Bệnh viện huyện Đông Sơn, thuộc làng Nhuệ Sâm ( còn gọi là làng Chợ Mới, xã Đông Xuân ), giáp ranh với làng Viên Khê ( xã Đông Anh ) .
  • Nhóm Lam Sơn (1965). Dân ca Thanh Hoá. Nhà xuất bản Văn học.
  • Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hoá (2001). Tên làng xã Thanh Hoá. tập II. Nhà xuất bản Thanh Hoá.

  • Vũ Ngọc Khánh; Phạm Minh Thảo (1997). Kho tàng diễn xướng dân gian Việt Nam. Văn hóa Thông tin.
  • Nguyễn Văn Nhật (chủ biên) (2006). Địa chí huyện Đông Sơn. Khoa học xã hội.

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: https://mix166.vn
Category: Hỏi Đáp

Xổ số miền Bắc