10 Di sản văn hóa Thế giới của Việt Nam — 1000 Years Thang Long (VietNamPlus)

|

16:08:00

10 Di sản văn hóa Thế giới của Việt Nam

Cố đô Huế. (Nguồn: Internet)

Ngày 1/8, kỳ họp lần thứ 34 của Ủy ban Di sản Thế giới UNESCO họp tại thủ đô
Brasilia của Brazil đã biểu quyết thông qua nghị quyết công nhận khu Trung tâm
Hoàng thành Thăng Long là Di sản văn hóa thế giới.

Đây là sự kiện hết sức có ý nghĩa đối với Thủ đô Hà Nội nói riêng và Việt Nam
nói chung trước thềm Đại lễ kỷ niệm 1.000 Thăng Long-Hà Nội.

Việt Nam có 10 di sản thế giới được UNESCO công nhận từ trước tới nay.



1. Quần thể di tích Cố đô Huế

Cố đô Huế là kinh đô một thời của Việt Nam, nổi tiếng với một hệ thống những
đền, chùa, thành quách, lăng tẩm, kiến trúc nguy nga tráng lệ gắn liền với cảnh
quan thiên nhiên núi sông thơ mộng. Nằm ở bờ Bắc sông Hương, tổng thể kiến trúc
của cố đô Huế được xây dựng trên một mặt bằng với diện tích hơn 500ha và được
giới hạn bởi ba vòng thành theo thứ tự ngoài lớn, trong nhỏ: Kinh Thành, Hoàng
Thành và Tử Cấm Thành.

Ba tòa thành này được đặt lồng vào nhau, bố trí đăng đối trên một trục dọc xuyên
suốt từ mặt Nam ra mặt Bắc. Hệ thống thành quách ở đây là một mẫu mực của sự kết
hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tinh hoa kiến trúc Đông và Tây, được đặt trong một
khung cảnh thiên nhiên kỳ thú với nhiều yếu tố biểu tượng sẵn có tự nhiên.

Cố đô Huế còn là nơi lưu giữ rất nhiều những di sản văn hóa vật thể và phi vật
thể, chứa đựng nhiều giá trị biểu trưng cho trí tuệ và tâm hồn của dân tộc Việt
Nam.

Năm 1993, quần thể di tích Cố đô Huế đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa
thế giới.

2. Vịnh Hạ Long

Vịnh Hạ Long là một di sản độc đáo vì nó chứa đựng những dấu tích quan trọng
trong quá trình hình thành và phát triển lịch sử trái đất, là cái nôi cư trú của
người Việt cổ, đồng thời là tác phẩm nghệ thuật tạo hình vĩ đại của thiên nhiên
với sự hiện diện của hàng nghìn đảo đá muôn hình vạn trạng; nhiều hang động kỳ
thú quần tụ thành một thế giới vừa sinh động vừa huyền bí.

Bên cạnh đó, vịnh Hạ
Long còn là nơi tập trung đa dạng sinh học cao với những hệ sinh thái điển hình
như hệ sinh thái rừng ngập mặn, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái rừng cây
nhiệt đới… cùng với hàng nghìn loài động thực vật vô cùng phong phú, đa dạng.

Năm 1994, UNESCO đã chính thức công nhận vịnh Hạ Long là Di sản thiên nhiên thế
giới bởi giá trị ngoại hạng về mặt cảnh quan. Năm 2000, vịnh Hạ Long
tiếp tục được UNESCO công nhận lần thứ hai là Di sản địa chất thế giới vì
những giá trị độc đáo về địa chất, địa mạo.

3. Khu di tích Mỹ Sơn

Khu di tích Mỹ Sơn là khu vực đền tháp của người Chăm cổ, được học giả người
Pháp M.C.Paris tìm thấy trong chuyến thám hiểm vùng Đông Nam Á vào năm 1898.
Toàn bộ khu di tích nằm lọt trong thung lũng Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy
Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng 68km về hướng Tây-Tây Nam.

Được khởi công từ thế kỷ 4, Mỹ Sơn là một quần thể với hơn 70 ngôi đền tháp mang
nhiều phong cách kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu của dân tộc Chăm. Đây được coi
là một trong những trung tâm đền đài chính của đạo Hindu (Ấn Độ giáo) ở khu vực
Đông Nam Á và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam.

Năm 1999, khu di tích Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế
giới.

4. Phố cổ Hội An

Phố cổ Hội An thuộc thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam. Đây là một khu phố được hình
thành từ thế kỷ 16-17, trước đây là thương cảng của miền Trung. Đến nay khu phố
cổ Hội An vẫn bảo tồn gần như nguyên trạng quần thể di tích kiến trúc gồm nhiều
loại hình như nhà ở, hội quán, đình chùa, miếu, giếng, cầu, nhà thờ tộc, bến
cảng, chợ kết hợp với đường giao thông ngang dọc tạo thành các ô vuông kiểu bàn
cờ, mô hình phổ biến của các đô thị thương nghiệp phương Đông thời Trung đại.

Cuộc sống thường ngày của cư dân Hội An với những tập quán, sinh hoạt văn hóa
lâu đời đang được duy trì một cách khá bền vững, hiện là một bảo tàng sống về
kiến trúc và lối sống đô thị thời phong kiến.

Năm 1999, phố cổ Hội An đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới.

5. Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng

Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng là một khu bảo tồn thiên nhiên tại huyện Bố
Trạch, tỉnh Quảng Bình, có tổng diện tích 85.754ha. Đặc trưng của vườn quốc
gia này là các kiến tạo đá vôi, các loại hang động, sông ngầm và hệ động thực
vật quý hiếm nằm trong Sách Đỏ Việt Nam và thế giới. Đặc biệt, ngoài hệ thống
sinh cảnh thảm rừng và động vật hoang dã, vùng này chứa đựng trong lòng nó cả
một hệ thống trên 300 hang động lớn nhỏ được mệnh danh là “vương quốc hang
động.”

Hệ thống động Phong Nha đã được Hội nghiên cứu hang động hoàng gia Anh (BCRA)
đánh giá là hang động có giá trị hàng đầu thế giới với bốn điểm nhất có các sông
ngầm dài nhất, có cửa hang cao và rộng nhất, có những bờ cát rộng và đẹp nhất,
có những thạch nhũ đẹp nhất.

Năm 2003, Vườn quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng đã được UNESCO công nhận là Di sản
thiên nhiên thế giới.

6. Nhã nhạc cung đình Huế

Nhã nhạc cung đình Huế là di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên của Việt Nam được
thế giới công nhận. Trong phần nhận định về nhã nhạc, Hội đồng UNESCO đánh giá
Nhã nhạc Việt Nam mang ý nghĩa “âm nhạc tao nhã.”

Nhã nhạc đã đề cập đến âm nhạc cung đình Việt Nam được trình diễn tại các lễ
thường niên bao gồm các lễ kỷ niệm và những ngày lễ tôn giáo cũng như các sự
kiện đặc biệt như lễ đăng quang, lễ tang hay những dịp đón tiếp chính thức.

Năm 2003, nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác di sản văn
hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.

7. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên

Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trải dài trên năm tỉnh Tây Nguyên Kon
Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Chủ thể của không gian văn hóa này
gồm nhiều dân tộc khác nhau như Êđê, Bana, Mạ…

Văn hóa cồng chiêng là loại hình nghệ thuật gắn với lịch sử văn hóa của các dân
tộc thiểu số sống dọc Trường Sơn-Tây Nguyên. Mỗi dân tộc ở Tây Nguyên sử dụng
cồng chiêng theo cách thức riêng để chơi những bản nhạc của riêng dân tộc mình,
nhất là vào dịp lễ hội, chào đón năm mới, mừng nhà mới… Trải qua bao năm tháng,
cồng chiêng đã trở thành nét văn hóa đặc trưng, đầy sức quyến rũ và hấp dẫn của
vùng đất Tây Nguyên.

Năm 2005, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đã chính thức được UNESCO
công nhận là Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại.

8. Quan họ Bắc Ninh

Quan họ là một trong những làn điệu dân ca của vùng đồng bằng Bắc Bộ, Việt Nam;
tập trung chủ yếu ở vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang). Nghệ thuật dân ca
Quan họ được coi là đỉnh cao của nghệ thuật thi ca. Đến nay, Bắc Ninh còn gần 30
làng Quan họ gốc, với hơn 300 làn điệu dân ca Quan họ.

Hội đồng chuyên môn của UNESCO đánh giá cao giá trị văn hóa đặc biệt, tập quán
xã hội, nghệ thuật trình diễn, kỹ thuật hát, phong cách ứng xử văn hóa, bài bản,
ngôn từ và cả trang phục của loại hình nghệ thuật này.

Năm 2009, UNESCO chính thức công nhận Quan họ là Di sản văn hóa phi vật thể đại
diện của nhân loại.

9. Ca trù

Hát ca trù (hay hát “ả đào”, hát “cô đầu”) là bộ môn nghệ thuật truyền thống của
miền Bắc Việt Nam, rất phổ biến trong đời sống sinh hoạt văn hóa ở khu vực này
từ thế kỷ 15. Ca trù sử dụng ba nhạc khí đặc biệt (không chỉ về cấu tạo mà còn
về cách thức diễn tấu) là đàn đáy, phách và trống chầu. Về mặt văn học, ca trù
làm nảy sinh một thể loại văn học độc đáo là hát nói.

Hội đồng chuyên môn của UNESCO đánh giá về ca trù: Ca trù đã trải qua một quá
trình phát triển ít nhất từ thế kỷ 15 đến nay, được biểu diễn trong không gian
văn hóa đa dạng gắn liền ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Ca trù thể hiện
một ý thức về bản sắc và sự kế tục trong nghệ thuật biểu diễn, có tính sáng tạo,
được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua các tổ chức giáo
phường. Mặc dù trải qua nhiều biến động lịch sử, xã hội nhưng ca trù vẫn có một
sức sống riêng bởi giá trị của nghệ thuật đối với văn hóa Việt Nam.

Ngày 1/10/2009, ca trù của Việt Nam được UNESCO ghi danh vào Danh sách di sản
văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.

10. Hoàng thành Thăng Long-Hà Nội

Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long-Hà Nội bao gồm Khu di tích khảo cổ học 18
Hoàng Diệu với diện tích hơn 47.000m2 và Thành cổ Hà Nội với diện tích hơn
138.000m2, tạo thành một di sản thống nhất. Đây là minh chứng rõ nét về một di
sản có liên hệ trực tiếp với nhiều sự kiện trọng đại của lịch sử Việt Nam trong
mối quan hệ với khu vực và thế giới; là minh chứng duy nhất về truyền thống văn
hóa lâu đời của người Việt ở châu thổ sông Hồng trong suốt chiều dài lịch sử.

Những tầng văn hóa khảo cổ, di tích kiến trúc và nghệ thuật của di sản phản ánh
một chuỗi lịch sử nối tiếp nhau liên tục của các vương triều cai trị đất nước
Việt Nam trên các mặt tư tưởng, chính trị, hành chính, luật pháp, kinh tế và văn
hóa trong gần một nghìn năm.

Trên thế giới rất hiếm tìm thấy một di sản thể hiện được tính liên tục dài lâu
như vậy của sự phát triển chính trị, văn hóa như tại Khu Trung tâm Hoàng thành
Thăng Long-Hà Nội./.

Đình Trung (TTXVN/Vietnam+)