Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam – Nơi lưu giữ bản sắc văn hóa cộng đồng dân tộc Việt
Cách Thủ đô Hà Nội khoảng 80km, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam nằm ở số 1 Đội Cấn, thành phố Thái Nguyên, được thành lập năm 1960 với tên gọi ban đầu là Bảo tàng Việt Bắc. Năm 1990 đổi tên thành Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam và trở thành 1 trong 5 Bảo tàng quốc gia Việt Nam.
Ấn tượng ngay trước mắt du khách khi đến thăm quan Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đó là một khuôn viên rộng lớn với diện tích 39.921,6m2 có nhiều cây cổ thụ, cây xanh, các loài hoa đua sắc màu. Đặc biệt vị trí của Bảo tàng nằm ngay tại trung tâm thành phố Thái Nguyên bên dòng sông Cầu thơ mộng, điểm giao nhau của các trục đường chính của thành phố: Đội Cấn, Hoàng Văn Thụ, Bắc Kạn và Cách Mạng tháng Tám nên rất thuận tiện cho việc đi lại, tham quan của du khách. Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là một công trình kiến trúc quy mô, tầm cỡ mang nhiều tính nghệ thuật, đã đạt giải thưởng Hồ Chí Minh về công trình kiến trúc đợt 1 năm 2006.
Ảnh: Đức Khang
Trải qua gần 60 năm hình thành và phát triển với hàng trăm cuộc nghiên cứu, sưu tầm, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam hiện đang quản lý gần 50.000 tài liệu, hiện vật có giá trị, là cơ sở để hoàn thiện hệ thống trưng bày trong nhà cũng như ngoài trời, phục vụ tốt nhu cầu tham quan của công chúng.
Qua cổng chính du khách sải bước qua các bậc đá tiến thẳng vào sảnh A gian long trọng của Bảo tàng là nơi đón khách. Tại đây du khách được thuyết minh viên của Bảo tàng giới thiệu những nét khái quát về văn hoá Việt Nam, được ngắm nhìn chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu cuả dân tộc Việt Nam. Người ôm ba em bé, đại diện cho ba miền Bắc – Trung – Nam. Bức tượng thể hiện tình yêu thương vô bờ bến của Bác với các cháu thiếu nhi ba miền, đồng thời thể hiện chính sách thống nhất, đa dạng và đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Sau tượng Bác Hồ là bức phù điêu lớn được tạc bằng gỗ mô phỏng các lễ hội tiêu biểu truyền thống các tộc người từ Bắc vào Nam: Múa khèn trong phiên chợ vùng cao, múa sư tử trong hội xuân vùng thung lũng, lễ hội Ka Tê của đồng bào Chăm, lễ hội đâm trâu của đồng bào Tây Nguyên và hội đua ghe ngo của đồng bào Nam Bộ.
Trình diễn văn nghệ đón khách. Ảnh: Quang Minh
Rời sảnh A, du khách sẽ lần lượt tham quan hệ thống 5 phòng trưng bày giới thiệu, thể hiện văn hóa tộc người, địa bàn cư trú, hoạt động kinh tế, văn hóa ẩm thực, trang phục, nhà ở, sinh hoạt văn hóa phi vật thể tộc người (các tập tục chu kỳ đời người, âm nhạc, văn học nghệ thuật dân gian…):
Phòng số 1 trưng bày và giới thiệu về văn hoá các tộc người nhóm ngôn ngữ Việt – Mường (Kinh, Mường, Thổ, Chứt). Đồng bào sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và đánh cá. Trong đời sống tâm linh có tục thờ cùng ông bà tổ tiên và các nghề thủ công truyền thống phát triển ở trình độ cao.
Trải nghiệm nét văn hóa tại phòng trưng bày và giới thiệu về văn hoá các tộc người nhóm ngôn ngữ Việt – Mường.
Ảnh: Quang Minh
Phòng số 2: Trưng bày và giới thiệu các tộc người nhóm ngôn ngữ Tày – Thái (Tày, Thái, Nùng, Giáy, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y). Đồng bào sống chủ yếu ở nhà sàn, trồng lúa trên các thung lũng, ven sông suối, với hệ thống dẫn nước bằng mương, phai, lái, lín, cọn nước. Các nghề thủ công rèn, dệt vải khá phát triển với các sản phẩm đẹp và tinh tế. Đặc biệt họ có đời sống tinh thần phong phú với nhiều điệu xoè và bài hát then độc đáo.
Phòng số 3: Trưng bày và giới thiệu văn hoá các tộc người thuộc 3 nhóm ngôn ngữ Hmông – Dao (Hmông, Dao, Pà Thẻn), Ka Đai (La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo) và Tạng Miến (Lô Lô, Phù Lá, Hà Nhì, La Hủ, Cống, Si La). Đồng bào giỏi canh tác trên nương rẫy và ruộng bậc thang. Chợ phiên là nơi thể hiện rõ bản sắc văn hoá vùng cao, văn hoá ẩm thực, văn hoá mặc, nghệ thuật thêu thùa, in hoa, biểu diễn âm nhạc, múa khèn…
Phòng số 4: Trưng bày giới thiệu văn hoá 21 tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ Me (Ba Na, Brâu, Bru – Vân Kiều, Chơ Ro, Co, Cơ Ho, Cơ Tu, Gié Triêng, Hrê, Kháng, Khơ Me, Khơ Mú, Mảng, Xinh Mun, Mnông, Ơ Đu, Mạ, Rơ Măm, Tà Ôi, Xơ Đăng, Xtiêng). Đồng bào cư trú rải rác ở khu vực Tây Bắc, Miền Trung – Tây Nguyên và Nam Bộ. Đời sống kinh tế chủ yếu canh tác nương rẫy, những nương rẫy có độ cao tương đối lớn, đồng canh tác theo phương pháp chọc lỗ tra hạt. Kiến trúc nhà rông Tây Nguyên, chùa của dân tộc Khơ Me; nghề thủ công đan lát và lễ hội văn hoá cộng đồng là những nét văn hoá độc đáo của cư dân Môn – Khơ Me.
Khách quốc tế tìm hiểu nét văn hoá độc đáo của cư dân Môn – Khơ Me.
Ảnh: Minh Đỗ
Phòng số 5: Trưng bày và giới thiệu văn hoá các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo (Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Raglai, Chu Ru) và ngôn ngữ Hán (Hoa, Ngái, Sán Dìu). Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Nam Đảo cư trú tập trung trên các cao nguyên đất đỏ Tây Nguyên và dải đất ven biển Miền Trung; Văn hoá Nam Đảo mang đậm nét mẫu hệ. Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Hán cư trú trên cả ba vùng Bắc, Trung, Nam; văn hoá Hán mang đậm nét phụ hệ.
Mỗi phòng trưng bày với hệ thống tài liệu và hiện vật phong phú, đa đạng đã tái hiện một cách chân thực cảnh quan cư trú và đời sống văn hoá của 54 dân tộc anh em, từ cực bắc Hà Giang đến vùng đất mũi Cà Mau với những hình ảnh gần gũi như: Các phiên chợ vùng cao, cảnh săn bắt voi rừng, hình ảnh chọc lỗ bỏ hạt của người dân tộc phía bắc, lễ hội cồng chiêng của người Ê đê, Ba Na ở Tây nguyên; sông nước của đồng bào Nam bộ; các nghề thủ công truyền thống, các hình thức sinh hoạt văn hóa trong trang phục, âm nhạc, ẩm thực, lễ hội trong sản xuất lao động….
Điểm nhấn đặc biệt của Bảo tàng là hệ thống trưng bày ngoài trời được hoàn thành và đưa vào sử dụng từ tháng 5 năm 2010, bao gồm 6 vùng văn hóa: Vùng Núi cao phía Bắc, Thung lũng, Trung du – Bắc Bộ, Miền Trung – Ven biển, Trường Sơn – Tây Nguyên và Đồng Bằng Nam Bộ sẽ mang lại những trải nghiệm hết sức thú vị cho du khách. Mỗi vùng văn hoá đều có không gian tổ chức lễ hội, có cấu trúc cảnh quan mang tính đặc trưng vùng miền và một ngôi nhà cụ thể, mang tính nguyên gốc làm điểm nhấn giới thiệu các giá trị văn hoá Việt Nam tới du khách. Tại đây, du khách cũng dễ dàng tận mắt nhìn thấy nhiều dụng cụ vốn rất quen thuộc từ xưa của dân tộc như cái cối xay lúa đan bằng nan tre, cái cày bằng cây thô sơ, những mái nhà lợp tranh, vách đất…
Trong giai đoạn hiện nay khi mà nhu cầu của khách thăm quan ngày càng cao, họ muốn được tìm hiểu kiến thức một cách đa chiều, được trải nghiệm, được giao tiếp và được đối thoại chứ không phải là hình thức thuyết minh một chiều từ Bảo tàng và “không được chạm vào hiện vật” . Xuất phát từ nhu cầu đó Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đã đổi mới phương pháp tiếp cận, tìm tòi tổ chức nhiều hoạt động giáo dục trải nghiệm và kết nối lữ hành tạo nên các sân chơi lành mạnh cho công chúng và đáp ứng được mọi đối tượng thăm quan khi đến Bảo tàng hiện nay.
Tái hiện nét văn hóa tại Bảo tàng. Ảnh: Quang Minh
Tùy theo nhu cầu của du khách, chương trình sẽ được tổ chức rất khoa học, thú vị với các chủ đề như: Qua miền di sản, em tập làm nông dân, khám phá ẩm thực vùng miền, nghề dệt và các trang phục Việt Nam, nghi lễ và tín ngưỡng tộc người… Chương trình đã nhận được nhiều sự đồng thuận, hoan nghênh cũng như những đóng góp ý kiến quý báu của khách tham quan, đặc biệt là khối trường học, các em học sinh, sinh viên với mong muốn Bảo tàng tiếp tục có những sáng tạo, đổi mới bổ sung thêm nhiều chương trình mới lạ từ chất liệu văn hóa các dân tộc nhằm đem đến với công chúng những giá trị đích thực khơi nguồn từ văn hóa Việt Nam.
Có thể nói, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam tại Thái Nguyên như “mái nhà chung” của cộng đồng 54 dân tộc anh em trên dải đất hình chữ S. Khách đến tham quan Bảo tàng không chỉ được chiêm ngưỡng một bức tranh toàn cảnh, tìm hiểu về cội nguồn, truyền thống, văn hóa các dân tộc trên khắp mọi miền đất nước mà còn được trải nghiệm các hoạt động để khám phá những kiến thức về văn hóa dân tộc, hiểu thêm những câu chuyện hiện vật đang trưng bày trong Bảo tàng khiến nó trở nên sống động và ý nghĩa hơn bao giờ hết. Cùng với Khu du lịch sinh thái Hồ Núi Cốc, Khu di tích quốc gia đặc biệt ATK Định Hóa…, Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam đã, đang và sẽ là điểm đến hấp dẫn cho mọi du khách trong và ngoài nước khi đến với Thái Nguyên.
Quang Minh