Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân gian trong thời đại mới
Với những nét văn hóa dân gian đặc trưng, Việt Nam là nước có truyền thống văn hóa truyền miệng, khác với Trung Quốc và Ấn Độ là truyền thống văn hóa chữ viết.
Văn
hóa dân gian Việt Nam có truyền thống hình thành và phát triển từ rất lâu đời, bắt nguồn từ xã hội nguyên thủy. Đến thời kỳ phong kiến tự chủ, cùng với sự ra đời và phát triển của văn hóa bác học, chuyên nghiệp, cung đình thì văn hóa dân gian vẫn tồn tại và giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của văn hóa cũng như xã hội Việt Nam, đặc biệt là với quần chúng lao động.
Ảnh minh họa, nguồn Internet
Ảnh minh họa, nguồn Internet
Truyền
thống lịch sử và xã hội Việt Nam đã quy định những nét đặc trưng của văn hóa nước ta. Đó là văn hóa xóm làng trội hơn văn hóa đô thị, văn hóa truyền miệng lấn át văn hóa chữ nghĩa, ứng xử duy tình nặng hơn duy
lý,
chủ nghĩa yêu nước trở thành trung tâm của hệ ý thức, nơi sản sinh và tích hợp các giá trị văn hóa Việt Nam.
Ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu đã triển khai công tác sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian trên nhiều lĩnh vực, cụ thể như: Ngữ văn dân gian bao gồm:
Tự
sự dân gian (thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện cười, ngụ ngôn, vè, sử thi, truyện thơ…);
Trữ
tình dân gian (ca dao, dân ca); Thành ngữ, tục ngữ, câu đố dân gian;
Nghệ
thuật
dân
gian
bao
gồm:
Nghệ
thuật
tạo
hình
dân
gian
(kiến
trúc
dân
gian,
hội họa dân
gian,
trang
trí
dân gian…);
Nghệ
thuật
biểu
diễn
dân
gian
(âm
nhạc
dân
gian,
múa dân
gian,
sân khấu dân
gian,
trò
diễn…);
Tri
thức
dân
gian
bao
gồm:
Tri
thức
về
môi
trường
tự
nhiên
(địa
lý,
thời
tiết,
khí
hậu…);
Tri
thức
về
con
người
(bản
thân):
Y học dân
gian
và
dưỡng
sinh
dân
gian;
Tri
thức
ứng xử xã hội
(ứng
xử cá
nhân
và ứng xử
cộng
đồng);
tri
thức
sản xuất
(kỹ
thuật
và
công
cụ sản
xuất); Tín ngưỡng, phong
tục và lễ
hội. Các lĩnh
vực
nghiên
cứu
trên
của
văn hóa
dân
gian nảy sinh, tồn
tại và
phát triển với
tư
cách
là một
chỉnh
thể
nguyên
hợp,
thể
hiện tính chưa chia tách giữa
các bộ
phận
(ngữ
văn,
nghệ
thuật,
tri
thức,
tín
ngưỡng
phong
tục…),
giữa
hoạt
động
sáng
tạo và
hưởng
thụ trong
sinh
hoạt
văn
hóa,
giữa
sáng
tạo
văn
hóa
nghệ
thuật
và đời
sống
lao
động
của
nhân
dân.
Song song với việc triển khai nghiên cứu về văn hóa dân gian, ở Việt Nam, công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân gian, đặc biệt là văn hóa dân gian của các dân tộc thiểu số đã ngày càng được đẩy mạnh và quan tâm. Qua đó góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết các dân tộc, vì một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc. Bên cạnh đó, công tác sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn hóa, văn học nghệ thuật; phục dựng bảo tồn các lễ hội truyền thống đặc sắc có nguy cơ mai một, tạo môi trường văn hóa lành mạnh, xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, tạo điều kiện để phát triển mô hình văn hóa – du lịch cũng được triển khai và từng bước đi vào thực tế.
Theo Báo cáo của Bộ
Văn
hóa, Thể thao và Du lịch, đến nay ở nước ta có hơn 80 lễ hội truyền thống tiêu biểu của các dân tộc Mường, Thái,
Tày,
Cơ
Tu,
Mông, Nùng, Dao, Ba Na, Chứt, Khmer, XTiêng, Khơ Mú, Lào,
Giáy,
Lô
Lô,
Co,
Mạ, Bố
Y,
Pà
Thẻn, Ơ Đu,
Tà
Ôi, Hà Nhì, Cống, Shi La, Rơ Măm, Ê Đê, Bru-Vân Kiều… được phục dựng bảo tồn, phát triển đúng mục đích, phù hợp với từng dân tộc. Hơn 30 làng/bản/buôn của 25 dân tộc (S’tiêng, Chăm, Ba Na, K’ho, M’Nông, Ê Đê,
Vân
Kiều, Khơ mú, Mường, Thái, Mông, Lô
Lô,
Tày,
Dao, Khmer, Jrai, Ơ Đu, Chứt, Mạ, Bố
Y,
H’rê…)
được hỗ trợ đầu tư bảo tồn, phát huy giá trị các thiết chế văn hóa truyền thống, lễ hội, làn điệu dân ca, dân vũ, dân nhạc, trang phục truyền thống, nghề truyền thống, những nét đẹp trong phong tục tập quán của các dân tộc. Nhiều lớp truyền dạy văn hóa truyền thống phi vật thể của dân tộc thiểu số có số dân rất ít người (dưới 10 nghìn người) được mở ra tại các tỉnh Hà Giang, Lai Châu, Nghệ An, Kon
Tum,
Điện Biên, Lào Cai, Thái Nguyên, Quảng Bình… 134/271 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia là của các dân tộc thiểu số; 276/617 nghệ nhân ưu tú là người dân tộc thiểu số. Hiện
nay,
với sự du nhập văn hóa phương
Tây
và quá trình đô thị hóa nhanh chóng, ngoài những lợi ích đem lại cho con người thì cũng đang gây ra nhiều bất cập, trong đó có nguy cơ làm mai một không ít giá trị văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số như:
Trang
phục, kiến trúc, lối sống của giới trẻ, văn hóa ứng xử trong cộng đồng; việc phục dựng, tổ chức lễ hội còn bất cập; tình trạng thương mại hóa, biến tướng, lợi dụng tín ngưỡng để trục lợi có chiều hướng gia tăng… Điển hình như việc bảo vệ, phát huy các di sản văn hóa phi vật thể đã được UNESCO vinh danh đang gặp phải tình trạng “ngoài lề
hoá”,
“sân khấu, làm mới và thương mại hóa di
sản”,
cùng với đó là những bất cập trong thực hành, truyền dạy và công tác nghệ nhân.
Bên cạnh đó, lĩnh vực văn hóa nói chung, hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn hóa nói riêng có những đặc thù, khó
khăn do nguồn lực về con người và cũng bởi thực tế cho thấy, chúng ta thường ưu tiên hơn cho các mục tiêu phát triển kinh
tế,
xã
hội, đầu
tư
cơ
sở hạ
tầng, trong
khi
những
vấn
đề,
bất cập về văn hóa,
thường
chưa thể
khắc
phục
được
ngay,
phải mất
nhiều
thời
gian,
tâm
sức,
thậm chí
nhiều
chục năm
để khắc
phục.
Chính
vì
vậy,
Đảng, Chính phủ,
Nhà
nước
đã có
những
nỗ lực
tích
cực
trong
đào tạo
nhân lực,
hỗ
trợ hoạt động
bảo
tồn
di sản
văn hóa, đồng thời
tạo ra môi
trường,
mối
liên kết,
kết nối để
từng người dân, từng
cộng
đồng
và
toàn
xã hội có thể
tham gia công
tác
này.
Thông
qua
việc giao
lưu
văn
hóa từ các
vùng miền,
các
dân tộc
sẽ tạo
điều
kiện để
đồng
bào các dân
tộc
thiểu
số học
hỏi,
tăng
cường
hiểu
biết,
phát
huy
truyền
thống
tốt
đẹp và gắn kết
cộng đồng. Thời gian tới, Chính
phủ sẽ chỉ đạo các
bộ,
ngành hoàn thiện
hơn nữa
chính sách dành
cho các
nghệ
nhân,
nhất
là đối
với
những
di sản
vật
thể,
phi
vật
thể có
nguy
cơ
mất
đi.
Tôn
vinh
các
giá
trị
văn
hóa
tốt
đẹp,
khích lệ
sáng
tạo
giá
trị
văn
hóa
mới,
tiến
bộ,
bỏ
những
hủ tục lạc
hậu…
Văn
hóa dân gian là những giá trị vật chất và tinh thần do dân gian sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.
Việc
phát huy các di sản văn hóa dân gian trong thời đại mới không chỉ là bảo tồn cho đúng các giá trị nguyên bản, mà còn phải phát triển thêm các giá trị tốt đẹp để làm phong phú đời sống tinh thần của mỗi người dân
trong
cộng đồng dân
tộc.
Quá trình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân gian là một quá trình dài, không
đơn
giản, cần có thời gian và sự chung tay của các cấp quản lý và quần chúng nhân dân, như vậy mới có thể
bảo
tồn xứng tầm các giá trị và nâng cao đời sống tinh thần dân
tộc./.
Thu Hòa