CA DAO XUÂN, TỤC NGỮ TẾT
Dân gian “đúc kết” kinh nghiệm cuộc đời thành hai điều đơn giản: “Sống Tết, chết giỗ”. Hai điều đó có vẻ đơn giản thôi, thế nhưng cũng nhiêu khê lắm.
Theo sách “Le Khmer”, trước kia dân Việt ăn Tết theo Trung Quốc, nhưng cũng có thời gian dân Việt ăn Tết theo Chiêm Thành. Tết này bắt đầu vào tháng Hai âm lịch, có đủ lễ lạc, vui chơi, hát xướng, rượu chè,… trong ba ngày liên tiếp, nhưng người ta cũng đi thăm viếng nhau, và cũng có nhiều điều kiêng cữ. Trong mấy ngày ấy, dù gặp kẻ thù thì người ta cũng chào và chúc mừng nhau. Theo tục lệ người Chiêm, ngày ấy là ngày “xóa bỏ hờn giận”. Ý nghĩa Tết như vậy rất nhân bản, tốt lành và cao thượng.
Trẻ em còn vô tư nên háo hức mong Tết mau đến. Người lớn có những người cũng mong Tết, nhưng sự mong chờ của họ mang “ý nghĩa” khác hẳn so với trẻ em, thậm chí có người thực dụng, họ mong Tết để có lợi về vật chất.
Tuy nhiên, có những người không hề mong Tết, họ nghèo khổ quá nên họ sợ Tết, nếu có thể thì họ chỉ mong “đừng có Tết”. Buồn lắm thôi! Nhưng thời gian cứ luân phiên, tứ thời bát tiết tuần tự theo quy luật tự nhiên của đất trời. Cứ đến cuối năm thì những người nghèo lại “giật mình” như điện giật, như chớp bể mưa nguồn. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Tết đến sau lưng, ông vải thì mừng, con cháu thì lo”. Cái lo ngày thường đã khiến họ rối trí rồi, cái lo ngày Tết làm họ càng nhức đầu hơn. Nỗi niềm không biết tỏ cùng ai. Nỗi khổ cứ chồng chất, làm sao vui được!
Cả năm đầu tắt mặt tối, bán lưng cho trời bán mặt cho đất, từ sớm tới khuya không ngơi tay, thế mà vẫn chẳng thấy chút niềm vui: “Đi cày ba vụ, không đủ ăn ba ngày Tết”. Nghe người ta chúc giàu sang phú quý mà thêm mủi lòng, cũng đành cười gượng để gọi là Xuân. Người nghèo đáng thương biết bao!
Ngày Tết là dịp vui Xuân, bù đắp những ngày tháng cực nhọc vất vả suốt năm, có lợi cho cả tinh thần và thể lý. Nhưng thương thay, có những người “gọi là” nghỉ ngơi ăn Tết mà lòng vẫn lo ngay ngáy:
Bây giờ tư Tết đến nơi
Tiền thì không có sao nguôi tấm lòng
Nghĩ mình vất vả long đong
Xa nghe lại thấy Quảng Đông kéo còi
Về nhà công nợ nó đòi
Mà lòng bối rối đứng ngồi không yên.
Khổ quá! Bình thường thì chẳng ai biết ai thế nào, nhìn thấy họ vất vả nhưng chưa chắc khổ, hoặc nhìn thấy họ nhàn hạ nhưng chưa chắc sướng. Có “cháy nhà mới lòi mặt chuột”. Kinh nghiệm dân gian cũng cho biết: “Khôn ngoan đến cửa quan mới biết, giàu có Ba mươi Tết mới hay”. Hoặc như ca dao phân tích:
Có, không: đến mùa Đông mới biết
Giàu, nghèo: ba mươi Tết mới hay.
Chuyện giàu – nghèo đã vậy, như một quy luật muôn thuở, như “phần cứng” đã được “cài đặt” mặc định rồi, chẳng ai dám nhận mình hiểu hết ngọn nguồn.
Chuyện tình cảm đôi lứa cũng rắc rối, phiền toái. Bảo là yêu nhau nhưng hành động lại không thể hiện tình yêu đó. Cô nàng trách anh chàng: “Chiều Ba mươi anh không đi Tết, rạng ngày Mồng Một anh không đi lạy bàn thờ, hiếu trung mô nữa mà bảo em chờ uổng công”. Và rồi anh chàng cố gắng phân bua, biện minh cho sự “lỡ hẹn” của mình, mong cô nàng cảm thông: “Hôm Ba mươi anh mắc lo việc họ, sáng mồng Một anh bận việc làng, ông bà bên anh cũng bỏ huống chi bên nàng, nàng ơi!”. Nhiêu khê quá! Ai bày Tết nhất làm chi không biết!
Tết là thế đó. Tết vừa minh nhiên vừa mặc nhiên. Tết cũng có biết bao phong tục, nghi thức, lễ nghĩa,… mà người ta phải thực hiện – dù muốn hay không. Một trong các nghi thức chứng tỏ lễ nghĩa là nhớ ơn người khác: “Mồng một tết Cha, mồng hai tết Chú, mồng ba tết Thầy”. Đó là “công thức” chung. Riêng nam giới hoặc quý ông đã có vợ thì có “kiểu” lễ nghĩa khác một chút, nhưng cũng không ngoài chuyện nhớ ơn. Ca dao nói:
Mồng một thì ở nhà cha
Mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy.
Tết còn là dịp nhắc nhở người ta phải sống chân thật, không được lọc lừa, giả dối, ăn không nói có,…
Hễ ai mà nói dối ai
Thì mồng một Tết, Ba Giai đến nhà.
Đó là câu ca thể lục bát đã có từ khi Ba Giai và Tú Xuất còn sinh thời. Ba Giai là một biệt danh của một danh sĩ Việt Nam nổi tiếng hồi cuối thế kỷ XIX. Ông được biết nhiều bởi tài làm thơ châm biếm, với “đối tượng” chính là các quan lại tham nhũng, các trọc phú. Trong giai thoại dân gian, ông được biết đến là người trong cặp bài trùng với Tú Xuất. Tuy nhiên, theo lời truyền tụng trong dân gian và ý kiến của một số nhà nghiên cứu, Ba Giai còn có thể là tác giả của một thi phẩm chính luận “Hà Thành Chính Khí Ca”, gồm 140 câu thơ lục bát, được cho là sáng tác ngay sau khi Hà Nội bị quân Pháp xâm chiếm ngày 25-4-1882.
Ba Giai có tên thật là Nguyễn Văn Giai, không rõ năm sinh và năm mất. Có thể ông sống vào khoảng thời gian triều đại các vua Thiệu Trị (1841-1847) và Tự Đức (1848-1883), người làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ, TP Hà Nội). Ông là con thứ ba trong gia đình nên người ta gọi là Ba Giai. Gia cảnh nghèo khó, cha mẹ mất sớm, ông đi làm thuê để có tiền ăn học. Ông học giỏi, nhưng gặp lúc nước nhà lâm cảnh loạn lạc, nên ông không được đi thi. Không rõ Ba Giai gặp và kết bạn với Tú Xuất thế nào và lúc nào, có thể hai ông thường gặp nhau vào thời gian giữa hai lần quân Pháp đánh chiếm Hà Nội (1872 và 1882). Có lẽ cùng từ quan hệ học hành thi cử mà hai ông kết thân với nhau.
Tục ngữ có câu: “Mồng chín vía Trời, mồng mười vía Đất”. Có những thứ con người muốn mà không làm già được, thế nên người ta vẫn tin vào thần linh vô hình. Ngoài ra người ta còn có nhiều kiểu vui chơi trong mùa Xuân. Riêng vùng đất Nam Định có những câu ca dao giới thiệu những phiên chợ của họ một cách thú vị:
Mồng một chơi cửa, chơi nhà
Mồng hai chơi xóm, mồng ba chơi đình
Mông bốn chơi chợ Quả linh
Mồng năm chợ Trình, mồng sáu non Côi
Qua ngày mồng bảy nghỉ ngơi
Bước sang mồng tám đi chơi chợ Viềng
Chợ Viềng một năm mới có một phiên
Cái nón em đội cũng tiền anh mua.
Ngày xưa, dân chúng chủ yếu là nông dân, công việc đồng áng theo mùa, có lúc vất vả nhưng có lúc lại nông nhàn. Vì thế, người ta ăn Tết không chỉ mấy ngày đầu Xuân mà người ta vui vẻ suốt tháng Giêng, rồi còn “lai rai” cả những tháng ngày kế tiếp:
Tháng Giêng là tháng ăn chơi
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba rượu chè.
Ca dao và tục ngữ là kho tàng văn chương quý giá, tuy bình dân nhưng vẫn sâu sắc và chứa nhiều bài học sống giá trị. Ngày Xuân có dịp đọc lại và ngẫm nghĩ về ca dao và tục ngữ thì thật là thú vị.
TRẦM THIÊN THU
Không hiểu vì sao người ta lại nói là “tết nhất”. Có thể do “vui nhất” – bởi vì người ta nói “vui như Tết” mà. Cũng có thể do “thảnh thơi nhất” và “ăn chơi nhiều nhất”. Dù sao thì Tết vẫn là nhất, nhưng cũng có cái mệt, có cái mệt nhưng lại cũng có cái “khác thường”. Xuân thật lạ, và đúng là “Tết nhất” thật!
Thế nên, dù mệt thì cũng đáng để mệt trong niềm vui ngày Tết. Cũng vì thế, nhân dịp Xuân Mậu Tuất, xin tản mạn đôi dòng để “tám chuyện” về Con Chó.
Chúng ta biết rằng Dụ Ngôn cũng được gọi là Ngụ Ngôn. Hai danh từ này có nghĩa tương đương nhưng cũng có nghĩa khác nhau.
– Ngụ ngôn (Anh: parable, fable; Pháp: parabole, fable) là một câu chuyện ngắn, đơn giản, bằng văn xuôi hoặc văn vần, mang tính hoang đường, truyền thuyết, hư cấu, “bịa” ra kiểu chuyện phiếm, nhưng vẫn có bài học luân lý, mang tính giáo dục để răn đời; các nhân vật thường là vật hoặc con vật được nhân cách hóa, các nhân vật cũng có thể là con người hoặc thần linh.
– Dụ ngôn (parable, parabole) cũng là một câu chuyện ngắn, đơn giản, bằng văn xuôi, nhưng khác là mang tính bí ẩn, mang tính tục ngữ, đặc biệt là mang chiều kích tâm linh. Chúa Giêsu thường sử dụng thể loại này, tức là Ngài dùng “dụ ngôn” chứ không dùng “ngụ ngôn”.
Chúa Giêsu sử dụng dụ ngôn để minh họa chân lý, dùng hình ảnh thực tế trên thế gian nhưng mang ý nghĩa trên trời. Ngài thích sử dụng dụ ngôn, có lẽ vì loại văn này độc đáo, như Kinh Thánh đã xác nhận: “Ngài không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (Mt 13:34; Mc 4:34). Có khoảng 35 dụ ngôn trong các Phúc Âm nhất lãm.
1. NGỤ NGÔN
Có câu chuyện ngụ ngôn “Con Chó và Con Lừa” kể rằng…
Ngày xưa, có một người đàn ông sống trong một ngôi nhà nhỏ ở nông trại. Ngôi nhà của ông có rất nhiều bàn ghế đẹp còn nông trại thì trồng rất nhiều loại rau củ ngon. Ông rất tự hào về ngôi nhà và nông trại của mình.
Ông có nuôi một con lừa và một con chó nhỏ. Cả hai con đều được chủ chăm lo theo cách riêng khác nhau.
Hàng ngày, con lừa làm việc ở nông trại. Nó làm việc rất siêng năng. Nó được chủ xây cho một cái chuồng để ở vào ban đêm. Đó là một cái chuồng ấm áp và rất thoải mái. Thế nhưng, con lừa lại không bằng lòng với điều đó. Nó luôn nghĩ về con chó nhỏ: “Mình phải kẻo xe và chở hàng cả ngày dài, còn con chó nhỏ ngu ngốc đó chỉ việc chơi đùa mà lại được mọi người quan tâm!”.
Mà quả thật, con chó nhỏ suốt ngày chơi đùa ở nhà. Nó rất thích chơi đùa và chơi đùa rất khéo. Chính vì thế, mọi người trong nhà đều thích nựng nó.
Sau một ngày nô đùa, tối đến, con chó nhỏ lại được ngủ trong căn phòng ấm áp ngay bên cạnh chủ nhân. Trong bữa ăn, con chó nhỏ thường làm những trò mà nó giỏi nhất. Nó ngồi trong lòng ông bà chủ và ăn những thức ăn thật ngon. Nó thật là một con chó may mắn!
Con lừa nhìn qua cửa sổ và cảm thấy rất ganh tỵ. Nó nghĩ: “Con chó đó phải rất khôn ngoan đế được ông bà chủ chú ý, cưng chiều và được ăn ngon mà chẳng phải làm gì cả như thế”. Nó thầm nghĩ: “Ước gì mình có thể giống con chó đó. Ông bà chủ sẽ cưng chiều mình và mình chẳng cần phải làm gì ngoài việc chơi đùa cả”.
Rồi một ngày nọ, nó chạy vào trong nhà và bắt đầu nô đùa giống như con chó nhỏ. Nó nhảy chồm khắp phòng. Nhưng vì quá to lớn và vụng về nên nó liên tục va vào đồ đạc, khiến căn phòng trở nên bề bộn vô cùng. Nó nghĩ “Không sao” và cố sủa giống như con chó nhỏ. Thế nhưng tất cả những gì nó phát ra được chỉ là tiếng “be be” mà thôi.
Khi nhìn thấy những thức ăn thơm ngon trên bàn, nó bèn nhảy chồm lên lòng ông chủ giống như con chó nhỏ kia. Nó thầm nghĩ: “Đây có thể là bí quyết”. Giờ thì ông chủ sẽ đế ý đến mình, cưng chiều mình và cho mình ăn những thức ăn ngon giống như con chó nhỏ ranh mãnh kia”.
Thế nhưng người chủ lại tỏ ra rất tức giận. Ông nhảy lên và hét lớn: “Đồ con vật vụng về! Mày nghĩ mày đang làm gì hả? Mày là con lừa chứ không phải con chó nhỏ đâu!”. Nói rồi ông vớ lấy cây chổi và đuổi con lừa trở về chuồng. Bà vợ chạy sau, tay cầm cái chày cán bột còn con chó nhỏ chạy sau cùng!
Con lừa vừa kêu vừa chạy về chuồng của mình: “Be be… Be be…”. Nó tự nguyền rủa mình thật ngu ngốc khi giả bộ làm con chó nhỏ. Tốt hơn nhất cứ là con lừa, làm những việc mà một con lừa nên làm, ăn thức ăn dành cho lừa và ngủ trong cái chuồng của lừa.
Con lừa tự nhủ: “Mình không giỏi làm con chó nhỏ, từ nay mình sẽ chỉ là lừa thôi”. Kể từ đó, nó chỉ làm những việc của một con lừa.
2. SUY TƯ
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Chó đen giữ mực”. Ý nói về tính bảo thủ, cố chấp, không phục thiện. Người ta cũng có câu: “Giang sơn dễ đổi, bản tính khó dời”. Đó là nói về bản chất cố hữu của con người, không dễ gì thay đổi. Tự nhiên, khó thay đổi chứ không phải là không thể thay đổi, khó mà có thể thay đổi thì chắc chắn nên thánh.
Người này không thể là người khác. Chó đen không thể là chó trắng, chó vàng hoặc chó đốm. Chắc chắn như vậy. Nhưng người ta có thể “trở nên giống như người khác” bằng cách noi gương tốt của người khác. Ví dụ: Noi gương Chúa Giêsu, Đức Mẹ, các thánh,…
Mỗi người đều có một hoặc hai tặng phẩm. Không ai không có. Không ai bất tài, vô dụng. Thiên Chúa tạo dựng mỗi người đều có mục đích theo sự quan phòng và tiền định của Ngài. Chúng ta không thể kiêu hãnh về ơn riêng của mình mà chê trách người khác!
Ngày xưa, Thiên Chúa xác định với vua Ky-rô: “Ta đã gọi ngươi đích danh, đã ban cho ngươi một tước hiệu, dù ngươi không biết Ta” (Is 45:4). Và đó cũng là lời nhắn nhủ mà Thiên Chúa dành cho mỗi chúng ta vậy. Và hãy nghe lời Thiên Chúa giáo huấn chúng ta qua Kinh Thánh:
a. “Chúng ta có những đặc sủng khác nhau, tuỳ theo ân sủng Thiên Chúa ban cho MỖI NGƯỜI. Được ơn làm ngôn sứ thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ thì phải phục vụ. Ai dạy bảo thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn thì cứ khuyên răn. Ai phân phát thì phải chân thành. Ai chủ toạ thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì vui vẻ mà làm” (Rm 12:6-8).
b. “Ơn riêng Thiên Chúa đã ban, MỖI NGƯỜI trong anh em phải dùng mà phục vụ kẻ khác. Như vậy, anh em mới là những người khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa” (1 Pr 4:10).
Làm được bất cứ điều gì cũng là nhờ Hồng Ân của Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu đã minh định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5b). Thế thì có lý do gì để mà vênh vang tự đắc? Kiêu ngạo là ngu xuẩn và điên rồ. Tất cả đều nhờ bởi ơn Chúa. Thánh Vịnh gia đã cảm nhận và xác nhận: “Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Tạ ơn Chúa đã dựng nên con cách lạ lùng, công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi. Xương cốt con, Ngài không lạ lẫm gì, khi con được thành hình trong nơi bí ẩn, được thêu dệt trong lòng đất thẳm sâu. Con mới là bào thai, mắt Ngài đã thấy; mọi ngày đời được dành sẵn cho con đều thấy ghi trong sổ sách Ngài, trước khi ngày đầu của đời con khởi sự” (Tv 139:13-16).
Con người dễ ảo tưởng nên dễ kiêu ngạo, thế nên Thánh Phaolô đã nhắc nhở: “Đừng đi quá mức khi đánh giá mình, nhưng hãy đánh giá mình cho đúng mức, mỗi người tuỳ theo lượng đức tin Thiên Chúa đã phân phát cho” (Rm 12:3). Mỗi người một việc, không việc nào hơn việc nào, không nghề nào trọng hơn nghề nào. Răng không thể chê môi yếu vì cứ phải dựa vào nó, nướu không thể ỷ lại mà chê răng không thể tự mình đứng vũng, lưỡi cũng không thể so bì với răng. Tất cả đều liên kết với nhau để thành cái miệng. Viên gạch nhỏ bé, nhưng mỗi viên gạch đều có công dụng để làm nên tòa nhà.
Con Lừa ảo tưởng nên sinh lòng ghen tỵ với con Chó, đến khi nó thử thể hiện vai trò của con Chó thì không thể. Chê và trách luôn đi đôi với nhau. Vì không vừa ý mình nên mới “chê” người khác, vì “chê” nên buông lời “trách” đủ thứ. Đó là lỗi đức ái.
Kinh Thánh cho biết: “Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành; thương mến nhau với tình huynh đệ, coi người khác trọng hơn mình; nhiệt thành, không trễ nải; lấy tinh thần sốt sắng mà phục vụ Chúa. Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện. Hãy chia sẻ với những người trong dân thánh đang lâm cảnh thiếu thốn, và ân cần tiếp đãi khách đến nhà” (Rm 12:9-13).
Chê trách cũng liên quan sự so sánh. Sự so sánh có thể sinh ra “tự tôn”, cảm thấy không ưa người khác, bởi vì thấy họ hơn mình về một phương diện nào đó, rồi sinh ra thâm độc, tìm cách “hạ bệ” người khác. Cũng vì so sánh mà có thể sinh ra “tự ti – mặc cảm”, hóa nhu nhược. Kiểu nào cũng cần chấn chỉnh. Tốt nhất cứ là chính mình, bình thường chứ không tầm thường, làm công việc bình thường nhưng làm một cách phi thường. Thánh Phaolô nói: “Mỗi người hãy xem xét việc làm của chính mình, và bấy giờ sẽ có lý do để hãnh diện vì chính mình, chứ không phải vì so sánh với người khác” (Gl 6:4).
Chính Thánh Phaolô cũng đã từng bị người ta trách là “đầy tham vọng”, và ông nói với họ: “Chúng tôi đâu dám cho mình ngang hàng hay so sánh mình với những kẻ tự cao tự đại kia. Nhưng khi họ lấy mình làm tiêu chuẩn để tự đánh giá và so sánh thì họ không được khôn” (2 Cr 10:12).
Cuối cùng, chúng ta có hai mệnh lệnh cách: [1] Mệnh lệnh cách phủ định “đừng” (không nên) – đừng hành động như con Lừa: So đo, kèn cựa, chỉ trích, chê bôi, ghen ghét,… rồi đến lượt mình làm lại chẳng ra gì – đúng là “già lừa ưa nặng”; và [2] Mệnh lệnh cách xác định “hãy” (nên) – hãy thể hiện tính đơn sơ như con Chó trong ngụ ngôn trên đây, và hãy thể hiện lòng yêu thương như con Chó trong dụ ngôn “ông nhà giàu và anh La-da-rô nghèo khó” (Lc 16:19-31) – con Chó thể hiện yêu thương bằng cách “liếm ghẻ chốc” cho con người nghèo khổ La-da-rô. Và hãy noi gương người đàn bà Ca-na-an luôn tin tưởng vào Thiên Chúa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng mà lũ chó con cũng được ăn những mảnh vụn trên bàn chủ rơi xuống” (Mt 15:21-28; Mc 7:24-30).
TRẦM THIÊN THU
Xuân Mậu Tuất – 2018
Với mục đích để Lời Chúa được loan truyền và thông tin Giáo hội được lan tỏa, Legio Mariæ sẵn lòng để các tổ chức và cá nhân sử dụng lại tin bài đã đăng trên báo giấy và báo mạng legiomariævn.com của mình.
Tuy nhiên, vì đức công bằng và sự bác ái, xin quý vị vui lòng ghi đầy đủ nguồn như sau: “Theo Đạo Binh Đức Mẹ, website: legiomariævn.com”.
Ngoài ra, nếu chia sẻ bài lên mạng xã hội (Facebook, Twitter…), đề nghị dùng đường dẫn gốc trên website của Đạo Binh Đức Mẹ.