Các vùng văn hóa Việt Nam

Ngày đăng: 22/12/2016, 00:30

CÁC VÙNG VĂN HÓA VIỆT NAM • Tác giả Ngô Đức Thịnh công trình văn hoá vùng phân vùng văn hoá Việt Nam chia thành 07 vùng văn hoá: Đồng Bắc Bộ Việt Bắc Tây Bắc miền núi Bắc Trung Bộ Đồng duyên hải Bắc Trung Bộ Duyên hải Trung Nam Trung Bộ Trường Sơn – Tây Nguyên Gia Định- Nam Bộ • Tác giả Trần Quốc Vượng phân chia thành vùng: Vùng văn hóa Tây Bắc Vùng văn hóa Việt Bắc Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ Vùng văn hóa Trung Bộ Vùng văn hóa Trường Sơn – Tây Nguyên Vùng văn hóa Nam Bộ • Tác giả Lê Văn Hảo cho Việt Nam chia thành 10 vùng văn hóa bao gồm: Thăng Long – Hà Nội Phú Xuân – Huế Sài Gòn – Gia Định Trung du đồng Bắc Bộ Đông Bắc Tây Bắc Trường Sơn Bắc Trường Sơn Nam – Tây Nguyên Đồng ven biển Bắc Trung Bộ Đồng ven biển Trung Nam Trung Bộ 10 Nam Bộ Theo phân thành vùng sau: Vùng văn hóa Tây Bắc Vùng văn hóa Đông Bắc Vùng văn hóa đồng Bắc Vùng văn hóa Trung Bộ Vùng văn hóa Trường Sơn – Tây Nguyên Vùng văn hóa Nam Bộ 3.1 Vùng văn hóa Tây Bắc 3.1.1 Đặc điểm tự nhiên xã hội Tây Bắc, vùng văn hoá, xứ sở hoa ban, quê hương xoè hoa, miền đất dịu thiên tình sử tiễn dặn người yêu đầy tiếng than thở thân phận người Tiếng hát làm dâu Tây Bắc miền núi cao hiểm trở Các dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, có dãy Hoàng Liên Sơn dài đến 180 km, rộng 30 km, cao từ 1500m trở lên, đỉnh cao Phanxipăng 3142m, Yam Phình 3096m, Pu Luông 2.983m Dãy Hoàng Liên Sơn, người Thái gọi “sừng trời” (Khau phạ), tường thành phía đông vùng Tây Bắc Nó nằm bên bờ phải sông Hồng, sông mà tổ tiên người Thái gọi Nậm Tao, nên ngày đoạn sông có tên tiếng Kinh sông Thao Dòng Nặm Tao chiếm vị trí quan trọng lịch sử thiên di người Thái đen vào Tây Bắc Theo sử huyền thoại Thái tổ tiên họ Tạo Xuông – Tạo Ngần bay từ trời xuống phải vượt qua sông rộng, sóng dữ, ghềnh thác Qua sông đến địa phận trần gian Khó khăn nên tên thần thoại dòng Nặm Tao dòng “Sông Đắng – sông Xối” (Nặm ta Khôm – Nặm Ta Khái) Còn theo nhà dân tộc học dòng sông đường mà theo tổ tiên người Thái thiên di vào Việt Nam từ kỉ XI đến kỉ XIV Từ dòng Nặm Tao, người Thái tạt vào bên phải, chiếm lấy đất Nghĩa Lộ làm bàn đạp để tiến đến tận Điện Biên Phủ, giáp Lào Đất ấy, tên Thái Mường Theng tức Mường Trời trở thành “cố đô” nhiều đời tù trưởng Vậy nên, dòng Nặm Tao hiển nhiên địa đầu phía Đông biên giới Lào địa đầu phía Tây vùng văn hóa Tây Bắc Giữa hai điểm sông Đà phát nguyên từ phía Bắc kẻ đường chéo Tây Bắc – Đông Nam, qua đất Hòa Bình hợp lưu với dòng Nặm Tao ngã ba Việt Trì để làm nên sông Cái – sông Hồng châu thổ phì nhiêu Trên đường đi, sông Đà – tên Thái Nặm Tè – tiếp nhận lượng nước suối nhỏ dòng sông Nặm Na hợp lưu với tỉnh lị Lai Châu Sát với biên giới Lào dòng sông Mã chảy từ Điện Biên xuống đến phía Tây tỉnh Sơn La quặt sang đất Lào trở miền Tây Thanh Hóa để xuôi biển Vậy nên, đất Tây Bắc đồng bào gọi đất “ba sông”, tạo nên ba dải “nước màu: trắng, xanh, đỏ” Bởi sông Mã thác ghềnh nên nhiều sóng bạc đầu Lại có truyền thuyết dòng sông nữ thần canh giữ mỏ bạc mà xưa người Thái – La Ha thường khai thác Dòng Nặm Tè (sông Đà) chảy triền núi đá grannít, sâu thẳm xanh đen màu Còn dòng Nặm Tao mang nặng phù sa người Kinh gọi sông Hồng Ba sông tự nhiên trở thành biểu tượng riêng vùng đất Chúng lại có ba màu nắng, đất Chúng biến thành tín hiệu văn hóa vùng mà người dân địa lấy làm tự hào, để phân biệt với người vùng muối (Kinh), người vùng sông Lô, sông Chảy (Tày, Nùng) v.v Từ xuôi lên phải qua đất tỉnh Hòa Bình, xưa phải vượt sông Đà bến chợ Bờ Suối Rút, phải leo gần 100km đèo đến cao nguyên Mộc Châu, cao 800-1000m Phải lên đến bước chân vào vùng Tây Bắc, nơi mà hoa ban nở trắng rừng, xen lẫn với thông reo vi vút rừng tre vầu ống lớn, cao Chẳng mà Mộc Châu có tên Thái Trảng Tre – Trảng Ban (Phiêng Xang – Phiêng Ban) Từ cao nguyên “Tre Ban” đổ xuống thung lũng hẹp Yên Châu để leo qua dãy Chiềng Đông lại đổ xuống Nà Sản mà Sơn La Từ Sơn La phải vượt dãy Pha đến (nơi ngăn cách Trời – Đất) đến ngã ba Tuần Giáo, rẽ trái vào Điện Biên, thẳng lên Lai Châu Từ ngược lên phía phải để đến đất Sìn Hồ dãy Hoàng Liên Sơn, men theo chân lên biên giới phía Bắc Nếu ngược lên phía trái đến Mường Tè có Mường Nhé, nơi gà gáy ba nước Việt – Lào – Trung nghe Hành trình vừa kể trục dọc vùng văn hoá Tây Bắc Dẫu nằm vòng đai nhiệt đới gió mùa, độ cao từ 800-3000m nên khí hậu ngả sang nhiệt đới nhiều nơi cao Sìn Hồ có khí hậu ôn đới Đã thế, địa hình lại chia cắt dãy núi, dòng sông, khe suối, tạo nên thung lũng, có nơi lớn thành lòng chảo vùng Nghĩa Lộ, Điện Biên Do vậy, Tây Bắc nơi có nhiều tiểu vùng khí hậu Trong lúc thung lũng Mường La, người ta mặc áo ngắn tay mùa đông Mộc Châu phải mặc áo dầy mà không khỏi rét Nhưng mà thiên nhiên Tây Bắc đa dạng, thổ nhưỡng nhiều loại hình Dân số thấp, năm 1978 có 59ng/km2 Với tỉ lệ tăng 3,5%/năm cộng với việc di dân, đến năm 1990 có 120 người/km2 Cư dân cổ truyền, chủ nhân từ xa xưa Tây Bắc, làm công nghiệp với hai loại hình : ruộng nước thung lũng, nương rẫy sườn núi Câu ngạn ngữ Thái nói : Xá ăn theo lửa Thái ăn theo nước H’mông ăn theo sương mù Người Thái, tộc người đa số vùng, làm ruộng nước thung lũng, vùng lòng chảo Người Mường phận người Dao Nhưng tộc người phải làm thêm nương rẫy đủ sống Người Xá, theo tên gọi miệt thị xưa, bao gồm nhiều tộc khác Khơmú, Laha, Kháng, Mảng, Xinhmun Họ làm nương theo phương pháp thô sơ : phát rừng, đốt lấy tro, chọc lỗ tra hạt Còn người H’mông thường núi cao, phát rừng, nhöng lại biết dọn gốc, cày xới làm nương thâm canh Ruộng nương giải lương thực phần rau xanh Thịt, cá, rau lương thực mùa, phải trông vào hái lượm, săn bắt Chẳng mà đồng bào có câu: Cơm, nước mặt đất Thức ăn rừng 3.1.2 Đặc điểm vùng văn hóa Tây Bắc Tây Bắc thực tên gọi theo phương vị, lấy Thủ đô Hà Nội làm điểm chuẩn, địa bàn gồm bốn tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Yên Bái Khi nói đến vùng văn hóa Tây Bắc phải kể phần tỉnh Hoà Bình Năm 1955 đổi thành khu tự trị Tây Bắc, tên cũ Khu Tự trị Thái Mèo không phản ánh hết tên gần hai chục dân tộc sinh sống Chỉ kể dân tộc tương đối đông dân ta có Thái (với ngành Đen, Trắng, Đỏ) H’mông với ngành Trắng, Xanh, Đen, Hoa, Dao (với ngành Quấn chẹt, Nga Hoàng, Dao đỏ), Mường, Khơmú, Laha, Xinhmun, Tày Ngoài ra, có phận người Kinh vốn cháu nghĩa binh Hoàng Công Chất sống lâu đời đây, phận người Hoa, vốn dòng dõi quân Lưu Vĩnh Phúc Mỗi dân tộc có văn hóa mang sắc riêng Quả khó muốn nói văn hoá vùng với quần thể cư dân đa dạng Nhưng tính chất vùng văn hóa Tây Bắc lồ lộ phủ định Cần phải ngược dòng lịch sử, xa chẳng lấy đâu chứng Vả chăng, cần phạm đến đầu công nguyên bắt gặp văn hóa tầng miền đất Thuở cư dân Tây Bắc phận văn minh đồng thau Đông Sơn với trống đồng công cụ đồng, thứ mà ngày trở thành vật thiêng, dùng nghi lễ thờ cúng tổ tiên Trong số cư dân ấy, người Kháng có tục uống nước mũi (Ta mui) Nước măng chua, hòa tỏi, rau thơm, gạn lấy nước, đổ vào vỏ bầu mận, cho chảy vào mũi, lúc miệng nhai cá hay thịt Cách uống thấy người Kháng sống ven sông Đà, phía bên Tà Xại, Sơn La Đặc biệt người Kháng giỏi làm thuyền độc mộc Người Thái phải công nhận “Thuyền tốt không thuyền Kháng” Còn người Laha đến ngày người Thái tôn sùng coi chủ nhân trống đồng Bởi người Laha lẫn người Thái có trống đồng làm vật thiêng, có thần trú ngụ Người Laha tiếng hội lễ “Mừng mùa măng mọc” với điệu múa thực khí sinh động, rộn ràng tiếng đệm đàn ống tre rỗng, gõ ván với cô gái nhún nhảy múa Đến năm 60 kỉ người Mảng bảo lưu xăm chấm, vòng tròn có chấm giữa, quanh miệng cằm Vì người Thái gọi họ “Xá cằm hoa” (Xả công Lái), tức người Xá cằm xăm hoa Tất nét đặc trưng trống đồng, thuyền độc mộc, nhạc cụ tre nứa, tục xăm mình, phảng phất sách chữ Hán truyền thuyết nói xứ sở vua Hùng “Vào khoảng kỉ XI-XII, phận tổ tiên ngành Thái đen Tạo Ngần thiên di xuống chiếm miền Mường Lò mà Người Kinh vậy, họ gọi Đông cổ thần cánh đồng Nghĩa Lộ trung tâm” Cháu Tạo Ngần Lạng Chượng cầm binh đánh thắng dần tộc Nam từ Nghĩa Lộ qua Sơn La tới Điện Biên , hành trình Lạng Chượng mở đầu “giai đoạn bọn thống trị Thái làm chủ miền Tây Bắc” Theo sách dã sử truyền thuyết người Thái, Lạng Chượng phải chật vật thắng quân Nam Truyền thuyết Thái kể : “Quân Xá” (tức Nam á) có tên làm đồng sắc nhọn, quân Thái có tên tre Lạng Chưng lập mưu thách bắn xem tên cắm vào đá thắng Quân Xá bắn tên đồng vào đá bật Quân Thái nạp cụm sáp ong vào đầu tên tre nên bắn vào đá dính Quân Xá” chịu thua, phải để quân Thái chiếm đất, quân Xá phải chạy vào rừng sâu mà ở.” Truyền thuyết kể quân Xá thua, đất mà phải dâng trống đồng cho quân Thái Từ dân tộc Nam suy thoái dần, văn hóa huy hoàng thuở bị mai nhiều Ngày nay, văn hóa họ có nhiều yếu tố Thái Chẳng hạn, họ hoàn toàn quên âm nhạc mà biết sử dụng điệu lí Thái để hát Ngược lại, người Thái lại học nhiều từ văn hóa người địa chiến bại, khiến cho văn hoá Thái (đặc biệt Thái Đen), Tây Bắc loại biệt hẳn với văn hoá người anh em chung cội nguồn họ nh người Tàu phía Đông người Lào phía Tây Chính trình hỗn dung tiếp biến văn hóa tạo nên sắc thái vùng văn hóa Tây Bắc, thông qua văn hóa Thái chủ thể Trước hết xin bắt đấu từ văn hóa “đời thường” Từ cao nguyên Mộc Châu xuôi xuống thung lũng Yên Châu phía Bắc bắt gặp nhà sàn ẩn dãy xoài, rặng chuối Nhà sàn Thái có mái đầu hồi khum khum hình mai rùa, đỉnh đầu hồi có hai vật trang trí, người Thái gọi “Sừng cuộn” (Khau cút) đầu phía thường thao tác thành vòng tròn xoáy trôn ốc, giống rau đớn (Phắc cút), thứ rau rừng đồng bào ưa chuộng Bản Thái thờng nằm ven đồi, chân núi, nhìn cánh đồng có dòng suối to nhỏ tùy nơi Bản chân núi đá hay dùng mạch nước ngầm làm nước ăn, gọi “Mỏ nước” (Bó nặm) Văn hóa nông nghiệp thung lũng Thái tiếng hệ thống tưới tiêu, gói gọn dốc dòng chảy, người ta lấy đá ngăn suối làm nước dâng cao, “phai” Phía “phai” xẻ đường chảy lên dẫn vào cánh đồng, “mương” Từ “mương” xẻ rãnh chảy vào ruộng, “lái” Còn “lịn” cách lấy nước từ nguồn núi cao, dẫn ruộng, nhà, tre đục rừng đục mấu, nối tiếp nhau, có dài hàng số Người Kinh vùng núi Phú Thọ (cũ) học theo cách làm gọi chệch “lần nước” Do chủ động tưới tiêu nên người Thái nuôi cá mực nước ruộng lúa Gặt lúa xong tháo nước bắt cá Cá nuôi ruộng vừa ăn sâu bọ cỏ dại, vừa sục bùn cho tốt lúa Cho nên, dâng cúng lễ cơm có xôi cá nướng Và cá biểu lòng hiếu khách : Đi ăn cá, nhà uống rượu ngủ đệm, đắp chăn ấm Những dòng suối đóng vai trò quan trọng tâm linh người Suối coi vật nữ tính : “con suối” (Me nặm) Suối lại nơi trú ngụ thần nước, thường đoạn nước thành vực (Vắng năm) Hàng năm, làm lễ cúng (Xên bản) vào mùa xuân, người ta tổ chức bờ vực nước Có tâm thức tín ngưỡng với nước đặc điểm chung tộc người làm nông nghiệp người Thái, tâm thức thể chế hóa hình tượng thần nước dạng thuồng luồng lễ cụ thể Con suối cánh đồng, sản phẩm sáng tạo chiếm lĩnh người vào thơ ca, âm nhạc hình tượng đẹp cảm xúc thẩm mĩ lời dân ca sau : Đêm trăng sáng Tâm hồn em muốn phiêu diêu Chơi tha thẩn bên bờ cát trắng Bờ cát trắng lấp lánh ánh trăng Chờ tiếng sáo anh Luồn qua sương, luồn qua chân núi Đến với em ánh trăng ngời ngài Nương rẫy phận bổ sung thiếu với nơng, đồng bào có lúa, rau bầu bí, rau cải, đậu, đu đủ, vừng, kê, ớt,.v v Bông chàm trồng nương Và rừng, rừng bạt ngàn nơi người hái rau rừng, lấy thuốc chữa bệnh, thuốc nhuộm, săn bắt thú rừng thất bát mùa màng rừng, với củ mài, bột báng cứu họ khỏi chết đói Bản làng có thái độ kính trọng với rừng Chẳng phải rừng có ma thiêng, mà rừng nơi người nương tựa để tồn Luật Thái có hàng chục điều quy định việc khai thác rừng, săn bắn thú, đặc biệt định bảo vệ rừng đầu nguồn Người Thái bảo vệ rừng ban không biểu tượng văn hóa quê hương họ, mà có ban mọc nơi đất cằn nhờ có ban giữ lại mùn tự cao chảy xuống, mà đất cằn tái sinh, mà mùn rác không lấp ruộng, nghẽn suối, mà nước mưa ngấm vào lòng đất ngăn lũ ống Chỉ riêng cách ứng xử với ban đủ thấy đặc trưng văn hóa Thái nói riêng, Tây Bắc nói chung có trình độ khoa học nào, có tính nhân văn nhìn sinh thái học Chẳng riêng ngời Thái, người H’mông núi cao, người Khơmú, người Dao, người Kháng, Laha v.v , rừng sâu tự nguyện tuân theo luật Thái Điều không đơn giai cấp thống trị Tây Bắc trước thuộc tộc Thái, mà điều quan trọng chỗ, quyền lợi lâu dài tất dân tộc vùng Cũng hầu hết dân tộc vùng, người Thái sống chân thật, giản dị hòa thuận Trong gia đình, không thấy người ta to tiếng với Đặc biệt không trẻ bị mắng mỏ nặng lời, không nói đến việc bị đánh đòn Trẻ hiểu nhiệm vụ chúng tự giác thực Chúng có sai sót gì, người lớn nhắc nhẹ Trẻ em ngoan, chúng chơi đùa với thân Gặp lúc khó khăn, đói người ta đến họ hàng xin lương thực Người hỏi xin sẵn sàng chia sẻ số lương thực lại, dù biết sau họ lâm vào cảnh thiếu đói phải lên rừng đào củ mài, củ bới thay cơm Ngay bây giờ, kinh tế thị trờng có tác động vào đời sống cư dân Tây Bắc, phong tục thực với lòng vị tha tình nghĩa sâu đậm Nhân cần nói nếp sống hòa thuận, tôn trọng người già, thương yêu trẻ giúp đỡ vô tư đặc điểm chung dân tộc vùng Những kì thị dân tộc không có, phần nhiều cách đánh giá giới quý tộc Thái, người lao động Cho nên, đói kém, anh em H’mông núi cao xuống, bà Khơmú, Mảng rừng sâu ra, Thái sẵn sàng chia sẻ Ngược lại, có năm, Thái lượt kéo lên núi cao để kĩu kịt tặng phẩm bà người H’mông Vào năm tháng kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đồng bào Thái lại đợc anh em dân tộc Nam giúp đỡ tận tình nơi sơ tán Nhìn nhận tượng này, nhà kinh tế học cho hệ xã hội chưa biết đến thương nghiệp với vật ngang giá đồng tiền Cũng Nwng tiếp cận từ góc nhìn văn hóa phải công nhận phong mĩ tục quan hệ người dân tộc với Nếu không giải thích được, ngày chế kinh tế thị trường, phong tục truyền thống giữ vững không hiểu tồn suốt chục năm “quán tự giác” khắp nẻo đường Tây Bắc Đồng bào treo chuối, mía, trứng, để giá tiền vào loại, khách qua đường tự lấy ăn bỏ tiền vào túi vải treo cạnh Khách có tiền lớn đổ tiền túi ra, tự lấy tiền thừa bỏ tiền số tiền sẵn có quán hàng trở lại vào túi Chủ quán mặt, chẳng dám gan ăn cắp – kể lái xe người Kinh thích đùa qua đường Các dân tộc vùng có tín ngưỡng “mọi vật có linh hồn” (animisme), loại tín ngưỡng mà dân tộc hành tinh trải qua Có đủ loại “hồn” loại thần sông núi, suối khe, đá, cây, súc vật, lực lượng thiên nhiên sấm, chớp, mưa, gió Các phận thân thể người có hồn Người Kinh cho có ba hồn bảy vía (nam) ba hồn chín vía (nữ) Người Thái có đến 80 hồn (Xam xếp khoăn mang nả Hả xếp khoăn mang lăng), hồn tóc, hồn lông mày, lông mi, tai, mũi, trán v.v Người chết không biến mà trở sống tổ tiên Do chỗ vật có hồn, nên cần phải cư xử với chúng quan hệ với người Vậy có hồn tốt, hồn xấu, hồn ác, hồn lành tùy thuộc vào cách đối xử người với chúng Vào hoàn cảnh xã hội cổ truyền cách chiếm lĩnh thiên nhiên thực đồng bào, với hi vọng nói chuyện”, “thương lượng chí cần cầu xin chúng Bằng cách đó, đồng bào thiết lập mối quan hệ với vật với tổ tiên, đặt người vào tống thể môi trường không gian thời gian, tạo nên cân tâm thức Con người hội tụ vào sống hữu miền thời gian : khứ, tại, tương lai; chiều không gian, thiên nhiên, môi trường, người, xã hội Đó mối quan hệ đa diện, đa phương đảm bảo cho tính hợp lí ổn định tất yếu sống người Thiết tưởng, với trình độ khoa học kĩ thuật chưa phát triển cách nhận thức giới theo phương pháp huyền thoại, tín ngưỡng tác dụng tích cực cho tốn cộng đồng người Văn hóa nghệ thuật, lĩnh vực văn hóa thể nhìn thẩm mỹ nhân dân Tây Bắc có nhiều nét độc đáo trở thành dấu hiệu làm nên đặc trưng văn hóa vùng Riêng lĩnh vực phải cần đến công trình lớn trình bày cho cặn kẽ Cho nên, vài điều nêu may mắn nét chấm phá vào toàn cảnh lớn lao, hoành tráng mang đậm tính dân gian Trong xã hội cổ truyền Tây Bắc, văn hóa chuyên nghiệp, bác học chưa xuất người Thái có vài nghệ nhân giỏi sáng tác thơ ca tiếng dân tộc có chữ viết cổ, tác phẩm họ lưu truyền chủ yếu phương thức truyền miệng Mỗi dân tộc vùng có kho vốn sáng tác ngôn từ giàu có đủ thể loại từ tục ngữ, thành ngữ, đồng dao, giao duyên, lời khấn, lời bùa chú, văn lễ tang, lễ hội, văn vần dạy bảo đạo đức cho dâu rể đám cưới, thần thoại, đồng thoại, cổ tích, truyện cười v.v số dân tộc có truyện thơ dài hàng ngàn câu Tiễn dặn người yêu (Thái), Tiếng hát làm dâu (H’mông), Vườn hoa núi Cối (Mường) v.v Người Thái có truyện thơ lịch sử, kể lại trình thiên di họ vào Tây Bắc sử ca Dõi theo bước đường chinh chiến ông cha (Táy pú Xớc) hay Lịch sử mường (Quán tố mướng) đến lời hát Mo-then lễ cúng người ốm du kí ca đầy hình tượng đẹp diễn tả văn phong trau chuốt Bộ phận người Mường Tây Bắc có thiên sử thi Hòa Bình, Thanh Hóa Ngoài ra, tách từ kỉ sống cộng đồng tộc người khác, nên người Mường Tây Bắc có văn thấy vùng Mường “vườn hoa – Núi cối” chẳng hạn Các truyền thuyết dân tộc, mặt khẳng định nguồn gốc họ với nhóm đồng tộc cư trú vùng văn hóa khác ; mặt khác lại gắn bó với vùng đất trình diễn lịch sử họ đất miền này, góp phần làm nên dấu hiệu đặc trưng vùng văn hóa Tây Bắc Có thể gặp truyền thuyết bước chân Đây nơi chúa Thái chúa Xá bắn xem tên xuyên vào đá, nơi Nàng Han (một Gianđa Thái) tắm (Suối Nàng Han) Dãy núi ba chỏm thi hài hóa đá ba dũng tướng quên bảo vệ quê hương v.v Và đặc biệt truyền thuyết hoa ban, dân tộc có thắm đượm tình người “Xòe” đặc sản nghệ thuật múa Thái trở thành biểu tượng văn hóa Tây Bắc Người Thái có Xòe vòng quanh đốm lửa, quanh hũ rượu cần với tham gia đông đảo già trẻ, gái trai tiếng chiêng trống rộn ràng Nhưng có Xòe điệu người Thái trắng ven sông Đà suốt từ Ngọc Chiến, Quỳnh Nhai lên đến Lai Châu, Phong Thổ Tương truyền có đến 32 điệu xòe cô nữ múa tiếng tính tang dịu dàng hai chàng trai Xoè vòng sôi xòe điệu nhẹ nhàng, tinh tế nhiêu Người H’mông tiếng điệu múa khèn, đá châm hùng dũng nam giới Người Khơmú Xinhmun lại độc quyền điệu múa lắc mông, lượn eo Còn điệu Tăng bu (dỗ ống) sở hữu người Laha Và đến với người Mường phải xem múa Riêng điệu múa Xạp, trừ người H’mông dân tộc vùng có, nơi vẻ riêng Có thể xem nghệ thuật múa dân tộc nét đặc trưng vùng Tây Bắc Dường có sở thích âm nhạc chung cho hầu hết dân tộc Tây Bắc, sở thích không thấy thấy vùng khác Đó hệ nhạc cụ có lưỡi gà tre, đồng hay bạc Nếu sưu tầm gộp chung lại có đến vài chục loai hình thuộc hệ nhạc cụ Nhiều loại nước biết đến Pí pặp, khèn bè Thái, sáo khèn H’mông Ngoài ra, dân tộc có sắc riêng Tính Tảu Thái, đống ôi Mường, chưn may Khơmú, đàn tròn đàn ba dây Hà nhì v.v nhiều dân tộc khác, thơ ca Tây Bắc sáng tác để hát, để đọc Những truyện thơ, sử thi trình diễn liên khúc âm nhạc mà nhiều trích từ nước biết đến “inh lả ơi” chẳng hạn Nét chung văn hóa Tây Bắc sở thích trang trí trang phục, chăn màn, đồ dùng với sắc độ gam màu nóng ; nhiều màu đỏ, xen vào với vàng tươi, vàng đất, vàng rơm, da cam, tím có xanh phải xanh da trời tươi Phải mênh mông xanh cây, màu ánh lên điểm sáng, khẳng định có mặt người ? Còn họa tiết, bố cục, phối màu trang trí nhiều phong phú, khăn piêu Thái, nữ phục H’mông, Lô Lô, Dao đỏ, mặt chăn Mường, điểm Kháng đủ tầm cỡ để phải làm riêng chuyên khảo Những nét chung vùng không làm tính riêng văn hóa dân tộc Thậm chí, cốt truyện, dân tộc tìm thấy riêng Lấy chuyện bi tình sử có nhiều dân tộc Tây Bắc làm ví dụ : “một đôi trai gái yêu lý họ không lấy tự tử chết” Truyền thuyết dân tộc khác nhau, đương nhiên kết thúc khác Hẳn nét phác họa nhiều gợi mở vùng văn hóa đa dạng độc đáo hi vọng dẫn dắt chút cho muốn tìm hiểu sâu thêm vùng văn hóa Tây Bắc 3.2 Vùng văn hóa Đông Bắc 3.2.1 Đặc điểm tự nhiên xã hội Trong tâm thức người dân Việt Nam, Việt Bắc tên gọi vùng đất gắn bó với thời gian khổ mà oanh liệt quân dân ta lãnh đạo Đảng: quê hương cách mạng, chiến khu, nơi ghi dấu bao chiến công anh hùng quân dân ta v.v , thơ Việt Bắc nhà thơ Tố Hữu mô tả Năm 1947, danh từ Việt Bắc xuất để chung vùng cách mạng, tháng 10-1954, danh từ lại dùng để chung toàn địa kháng chiến chống thực dân Pháp Năm 1956, khu tự trị Việt Bắc thành lập gồm tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên Sau này, khu tự trị Việt Bắc giải thể, danh từ tồn Hiện nay, nói tới Việt Bắc nói tới địa bàn sáu tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang Thực tế vùng Việt Bắc, nằm vị trí địa đầu đất nước phía Đông Bắc, nay, phân định vùng văn hóa, đa phần nhà nghiên cứu thống gọi vùng văn hóa vùng văn hóa Đông Bắc Ngoài địa bàn tỉnh kể trên, ranh giới vùng văn hóa Đông Bắc bao gồm phần đồi núi tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang tỉnh Quảng Ninh Trên đồ, vùng đất nằm vĩ độ cao nhất, vĩ tuyến từ 21 độ đến 23 độ vĩ bắc, thế, vùng có môi trường tự nhiên với dấu hiệu chuyển tiếp từ tự nhiên nhiệt đới sang nhiệt đới Đây vùng đón nhận gió mùa đông bắc chịu ảnh hưởng sâu sắc nó.Địa hình Đông Bắc có cấu trúc theo kiểu cánh cung tụ lại Tam Đảo, cánh cung mở phía Bắc đông Bắc phần hướng lồi quay biển, thứ tự từ biển cánh cung : sông Gâm, Ngân Sơn, Yên Lạc, Bắc Sơn Đông Triều Các dãy núi thuộc loại có độ cao trung bình thấp Một số núi có độ cao Tây Côn Lĩnh (2431m), Kiều Liên Ti (2403m) Pu Ta Ca (2274m).Toàn vùng có hệ thống sông chính: sông Thao, sông Lô, hệ thống sông Cầu, sông Thương, Lục Nam; hệ thống sông chảy vào Tây Giang sông miền duyên hải Nét đặc trưng hệ thống sông độ dốc lòng sông lớn, mùa lũ thời gian dòng chảy mạnh Mặt khác, vùng có nhiều hồ hồ Ba Bể, hố Thang Hen v.v Cư dân chủ yếu vùng Đông Bắc người Tày Nùng Ngoài có số dân tộc người khác Dao, H’mông, Lô Lô, Sán Chay Người Tày người Nùng, thực xưa tộc người có chung nguồn gốc lịch sử, thuộc khối Bách Việt Tên gọi Tày xuất vào nửa cuối thiên niên kỉ thứ sau công nguyên Thời vua Hùng, liên minh người Âu Việt – tổ tiên người Tày với người Việt – cư dân Lạc Việt cổ có thực Thời nước Âu Lạc, liên minh bền chặt Sự phát triển liên minh sau gắn bó chặt chẽ với phát triển nhà nước Đại Việt Và người dân vùng Đông Bắc: Tày Nùng, có vai trò quan trọng việc gìn giữ biên cương Khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đầu công nguyên, người Tày, Nùng có tham gia vào khởi nghĩa Truyền thuyết kí ức cư dân Đông Bắc ghi kĩ tổ tiên họ tham gia khởi nghĩa Hai Bà Trưng Năm 548, cư dân Đông Bắc lại ủng hộ khởi nghĩa Lý Bôn chống quân nhà Lương Trong thời tự chủ, vai trò cư dân Đông Bắc chống xâm lược nhà Tống quan trọng Các đội quân thủ lĩnh địa phương tham gia đánh quân xâm lược Tống Trong ba lần kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, nhân dân vùng Đông Bắc lại tích cực tham gia sức người sức của, góp phần vào đại thắng quân dân Đại Việt Trong 10 năm kháng chiến chống quân Minh, nhân dân Tày Nùng tham gia đông đảo lãnh đạo thủ lĩnh Nông Văn Lịch, Hoàng Thiên Hữu, Nguyễn Văn Hách, Dương Thế Châu v v Nhà Mạc giành nhà Lê, thất thủ đống bằng, kéo quân lên miền núi xây thành, đắp lũy để chống lại nhà Lê Một số tù trưởng đứng phía nhà Lê chống lại nhà Mạc Khi vua Quang Trung chống quân xâm lược Thanh, người dân Tày – Nùng hưởng ứng lời kêu gọi Quang Trung đứng lên đánh giặc.Người Pháp thiết lập ách cai trị đất nước ta, đồng bào Tày – Nùng có vận động, tổ chức đánh giặc Từ phong trào Cần Vương đến phong trào Việt Nam Quang Phục Hội, người dân tham gia tích cực Từ sau năm 1940, sau khởi nghĩa Bắc Sơn, Đông Bắc trở thành khu địa cách mạng Việt Nam Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, Đông Bắc lại trở thành địa kháng chiến chống Pháp nước.Những năm nước chống giặc Mỹ, người Tày – Nùng lại có đóng góp lớn Như vậy, diễn trình lịch sử, cư dân Đông Bắc, chủ yếu cư dân Tày – Nùng gắn bó số phận với dân tộc vùng xuôi Thời phong kiến, vương triều có ý thức vun đắp cho gắn bó này.Dù hai dân tộc, người Tày người Nùng lại có nét gần gũi, gần gũi họ tương đối Trong quan hệ với văn hóa Hán, người Nùng chịu nhiều ảnh hưởng Hán tộc nhiều người Tày, người Tày chịu ảnh hưởng văn hóa Việt nhiều Về phương diện tổ chức xã hội, cư dân Tày – Nùng chủ yếu sống ven đường, cạnh sông suối hay thung lũng Bản đơn vị sở nhỏ Các gia đình thành viên hợp lại thành cộng đồng dân cư có tổ chức Nói cách khác, công xã nông thôn độc lập, lấy đơn vị nhà làm sở Nét đáng ý, người Tày – Nùng không làm chức đơn vị sản xuất, mà cộng đồng mặt xã hội Sự gắn bó người người sống kinh tế, đời sống văn hóa v.v tồn ranh giới Mọi tổ chức xã hội cao Từ lâu rồi, thiết chế xã hội xã, tổng, châu hay huyện, thiết chế thay đổi theo thể chế trị, không thay đổi Thành tố cấu thành người Tày hay người Nùng gia đình phụ quyền thuộc dòng họ khác nhau, có gồm 2,3 họ, có 10 họ Thiết chế dòng họ, với tư cách lực vận hành xã hội, có nơi chặt chẽ, có nơi lại lỏng lẻo, quan hệ người họ đậm nét Trong đó, quan hệ cộng đồng lại có vai trò quan trọng Các bản, dù lập hay có từ lâu có miếu thờ thổ công, mà nhiều nơi gọi thổ địa (thổ tị), thành hoàng (thâm trong) Tổ chức xã hội coi chặt chẽ người Tày hay người Nùng phường, đám ma mà họ gọi phe.Đơn vị xã hội nhỏ người Tày – Nùng gia đình, lại gia đình phụ hệ, chủ gia đình thường người cha hay người chồng, làm chủ toàn tài sản định công việc nhà, làng Do vậy, ý thức trọng nam khinh nữ đậm cộng đồng, phân biệt đối xử thấy rõ việc phân chia mặt sinh hoạt nhà Nhà dành riêng cho đàn ông Trừ bà già, phụ nữ không nhà 3.2.2 Đặc điểm vùng văn hoá Đông Bắc Tất đặc điểm điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội vùng Đông Bắc tác động đến văn hoá vùng Trước tiên văn hoá vật chất Người Tày- Nùng có hai loại nhà chính: nhà sàn nhà đất Nhà sàn dạng nhà phổ biến, có hai loại nhà sàn, sàn hai mái sàn bốn mái Nêú nhà sàn bốn mái, hai mái đầu hồi thấp hai mái Cửa mở mặt trước đầu hồi, cầu thang lên xuống tre, gỗ, số bực lẻ, không dùng bậc chẵn Nhà đất loại nhà xuất ngày nhiều, có nhiều thay đổi so với nhà sàn quy mô, kết cấu, bố cục bên số vùng có loại nhà nửa sàn nửa đất, loại nhà đặc biệt, vừa mang tính chất nhà đất vừa mang tính chất nhà sàn Trang phục người Tày- Nùng có tính thống nhất, phân biệt theo giới tính, địa vị, lứa tuổi, theo nhóm địa phương Y phục nam giới người Tày theo kiểu, gồm có áo cánh thân, áo dài thân, khăn đội đầu giày vải Chiếc áo thân cắt may theo kiểu xẻ cao, có hàng cúc vải trước ngực, hai túi Hàng cúc áo Quần nam giới may theo kiểu đũng chéo, quần lẫn áo nam giới Tày may vải chàm Về đồ trang sức, họ dùng đồ trang sức Vì vậy, trang phục người đàn ông Tày giản dị, trang trí hoa văn Giữa nam giới Tày nam giới Nùng khác đôi chút kích thước trang phục Trong đó, trang phục nữ giới lại đa dạng phong phú Người phụ nữ Nùng mặc màu chàm, khác với người phụ nữ Tày mặc áo lót màu trắng Y phục nữ Tày – Nùng gồm có áo cánh, áo dài thân, quấn, thắt lưng, khăn đội đấu, hài vải Đồ trang sức đơn giản, ngày trước chị em thường đeo vòng cổ, vòng tay, vòng chân xà tích bạc Chiếc khăn phụ nữ Tày khăn vuông, lễ tết, họ buộc thêm đỏ, xanh quanh vành khăn thắt nút phía sau Phụ nữ người Nùng có khác đôi chút họ thường bịt vàng, ưa thích đồ trang sức bạc vòng chân, vòng tay, vòng cổ, khuyên tai, hoa tai v.v Về mặt ăn uống, tùy theo tộc người mà cách thức chế biến thức ăn vị cư dân Đông Bắc có hương vị riêng Việc chế biến ăn cư dân Tày – Nùng, mặt có sáng tạo, mặt tiếp thu kĩ thuật chế biến tộc lân cận Hoa, Việt v.v Họ chế biến ngô cách tinh tế, ngô giã, hay xay nhỏ để nấu với cơm, làm loại bánh Thức ăn gạo tẻ, việc chế biến ăn từ gạo nếp lại trọng Trong ngày tết, cốm đặc biệt hấp dẫn Các loại xôi màu hấp dẫn thường có mặt ngày lễ tết cư dân Tày – Nùng Thịt lợn, thịt vịt quay thường làm cầu kì thịt lợn quay Lạng Sơn, vịt quay Thất Khê Bữa ăn cư dân Đông Bắc, mang tính bình đẳng, nhân Tất thành viên nhà ăn chung mâm, khách đến nhà ưu ái, nể trọng Điều đáng ý tầng lớp trí thức Tày – Nùng hình thành từ sớm Đầu tiên trí thức dân gian lớp vỏ nghề nghiệp thày Mo, Then, Tào, Pụt Trong thời kì tự chủ, triều đình có quan tâm đến việc học hành cư dân Đông Bắc Nhà Mạc chạy lên đóng đô Cao Bằng sức đào tạo tầng lớp nho sĩ, quan lại người Việt chạy lên bị Tày hóa Do tầng lớp trí thức nho học hình thành, có số đạt tới trình độ học vấn cao Bế Văn Phúng, Nông Quỳnh Văn, Hoàng Đức Hậu Khi thực dân Pháp đặt ách cai trị lên toàn quốc, sau khai thác thuộc địa lần 1, lần 2, tầng lớp trí thức nho học dần, tầng lớp trí thức đào tạo nhà trường thực dân ông thông, kí, thầu phán, giáo học Một số có lòng yêu nước, người dân kính trọng sau theo ánh sáng Đảng để cứu nước Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Chi v.v Trong kháng chiến chống Pháp, sau ngày hòa bình lập lại, giáo dục Đông Bắc trọng phát triển Số trường học cấp có địa phương ngày nhiều Trong đào tạo, bên cạnh chữ Quốc ngữ, số tộc Tày, H’mông có chữ viết xây dựng sở mẫu chữ Latinh Đời sống văn hóa tinh thần cư dân Đông Bắc có nét giống với khu vực khác.Về tín ngưỡng tôn giáo, tín ngưỡng dân gian cư dân Tày – Nùng hướng niềm tin người tới thần mệnh, trời – đất, tổ tiên Các thần linh họ đa dạng, có khác nhiều thần thần núi, thần sông, thần đất Ngoài lại có vua, có Giàng Then, ý thức cộng đồng củng cố thông qua việc thờ thần mệnh mường hay ý thức gia đình, dòng họ được, củng cố thông qua việc thờ phụng tổ tiên Mỗi gia đình có bàn thờ tổ tiên đặt vị trí trạng trọng nhà Ngoài ra, nhà họ thờ vua bếp Diện mạo tôn giáo Đông Bắc có nét khác biệt Các tôn giáo Khổng giáo, Phật giáo, Đạo giáo có ảnh hưởng đến đời sống tâm linh người dân Đông Bắc, chùa thờ Phật đồng bằng, có chùa đáng lưu ý, chùa Hang, chùa úc Kỳ Bắc Thái, chùa Diên Khánh, chùa Vinh Quang, chùa Nhị Thanh, chùa Tam Thanh Lạng Sơn Tam giáo cư dân Tày tiếp thu gần giống với người Việt, mức độ thấp, kết hợp với tín ngưỡng vật linh vốn có từ lâu đời dân gian Về chữ viết, vùng Đông Bắc với người Tày – Nùng, chữ viết trải qua giai đoạn : giai đoạn cổ đại chữ viết, giai đoạn cận đại có chữ Nôm, giai đoạn đại, vừa có chữ Nôm, vừa có chữ Latinh Năm 1960, Đảng Nhà nước ta giúp người Tày – Nùng xây dựng hệ thống chữ viết theo lối chữ Quốc ngữ, chữ Latinh Cũng vậy, nét đáng ý cư dân Tày – Nùng Đông Bắc có nhà văn viết văn chữ viết dân tộc Đáng kể tác Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn v.v Trong đó, văn học dân gian Đông Bắc đa dạng thể loại, phong phú số lượng tác phẩm, thành ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích, nói ví, câu đố đồng dao, dân ca Riêng dân ca, loại phong phú loại riêng biệt viết giấy vải công phu Đặc biệt, lời ca giao duyên : lượn coi lượn lương, thể loại tiêu biểu hệ trẻ Tày Nùng ưa chuộng Lễ hội cư dân Tày – Nùng phong phú Ngày hội toàn cộng đồng hội Lồng tồng (hội xuống đồng), diễn gồm hai phần : Lễ hội Nghi lễ rước thần đình thần nông nơi mở hội đồng Một bữa ăn tổ chức Phần hội trò chơi đánh quay, đánh yến, tung còn, ảo thuật v.v Như vậy, chất, hội lồng tồng sinh hoạt văn hóa Nói đến sinh hoạt văn hóa cư dân vùng Đông Bắc, không nói đến sinh hoạt hội chợ nơi để trao đổi hàng hóa, lại nơi để nam nữ niên trao duyên, tỏ tình Người ta nói đến loại sinh hoạt văn hóa hội chợ vùng này, coi sinh hoạt vãn hóa đặc thù vùng Đông Bắc Tóm lại, Đông Bắc vùng văn hóa có nhiều đặc thù Tộc người chủ thể : Tày-Nùng với lịch sử văn hóa họ tạo nét đặc thù Tuy nhiên, đặc thù không phá vỡ tính thống văn hóa Đông Bắc văn hoá nước 3.3 Vùng văn hóa Đồng Bắc Bộ 3.3.1 Đặc điểm môi trường tự nhiên xã hội Lâu nay, xem xét văn hóa châu thổ Bắc Bộ, người ta thường đặt xứ Nghệ – Tĩnh xếp thành vùng riêng GS Đinh Gia Khánh Các vùng văn hóa Việt nam đặt riêng vùng văn hóa Nghệ – Tĩnh bên cạnh vùng văn hóa đồng miền Bắc, việc tách riêng vùng văn hóa Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội, PGS PTS Ngô Đức Thịnh không tách riêng vùng văn hóa Nghệ – Tĩnh, mà quan niệm đồng Bắc Bộ bao gồm lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình sông Mã Thực ra, tách vùng văn hóa Nghệ – Tĩnh khỏi vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ, có sở khoa học nó, nhập chung vào ý kiến PGS.PTS Ngô Đức Thịnh, có lí Chúng cho rằng, Nghệ – Tĩnh, Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội, rõ sắc thái riêng đặt chúng vào bối cảnh lớn vùng văn hóa lưu vực sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, nói cách khác, tiểu vùng văn hóa, mặt mang tính chất châu thổ Bắc Bộ, mặt có nét riêng Do vậy, nói vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ nói tới vùng văn hóa thuộc lãnh thồ tỉnh Hà Tây, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình; thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng; phần đồng tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh Cũng cần nói thêm Nghệ An, Hà Tĩnh, từ thời kì Văn Lang – Âu Lạc, chí ngược lên xa hơn, Nghệ An – Hà Tĩnh gắn bó với Bắc Bộ Hình việc tách theo địa giới hành để có khu Bốn, có thời chống Pháp, chống Mỹ mà thôi.Như vậy, vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ nằm lưu vực dòng sông Hồng, sông Mã Đây vùng văn hóa PGS, PTS Ngô Đức Thịnh nhận xét : “Trong sắc thái phong phú đa dạng văn hóa Việt Nam, đồng Bắc Bộ vùng văn hóa độc đáo đặc sắc.” Dẫn đến điều hệ quả, tổng hòa quan hệ nhiều vấn đề khác Trước hết đặc điểm môi trường tự nhiên Bắc Bộ Về vị trí địa lí vùng châu thổ Bắc Bộ tâm điểm đường giao lưu quốc tế theo hai trục : Tây-Đông Bắc-Nam Vị trí khiến cho trở thành vị trí tiền đồn để tiến tới vùng khác nước Đông Nam á, mục tiêu xâm lược tất bọn xâm lược muốn bành trướng lực vào lãnh thổ Đông Nam Á Nhưng vị trí địa lí tạo điều kiện cho cư dân có thuận lợi giao lưu tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại Về mặt địa hình, châu thổ Bắc Bộ địa hình núi xen kẽ đồng thung lũng, thấp phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ độ cao 10 – 15m giảm dần đến độ cao mặt biển Toàn vùng vùng, địa hình cao thấp không đều, vùng có địa hình cao có nơi thấp úng Gia Lương (Bắc Ninh), có núi Thiên Thai, vùng trũng, Nam Định, Hà Nam vùng thấp có núi Chương Sơn, núi Đọi v.v Mặt khác, khí hậu vùng Bắc Bộ thật độc đáo, khác hẳn đồng khác Đây vùng Việt Nam có mùa đông thực với ba tháng có nhiệt độ trung bình 18 độ, mà có dạng khí hậu bốn mùa với mùa tương đối rõ nét, khiến vùng cấy vụ lúa vùng khác Hơn nữa, khí hậu vùng lại thất thường, gió mùa đông bắc vừa lạnh vừa ẩm, khó chịu, gió mùa hè nóng ẩm Một đặc điểm môi trường nước, đồng Bắc Bộ có mạng lưới sông ngòi dày, khoảng 0,5 – l,0km/km2, gồm dòng sông lớn sông Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, mương máng tưới tiêu dày đặc Do ảnh hưởng khí hậu gió mùa với hai mùa khô mưa nên thủy chế dòng sông, sông Hồng có hai mùa rõ rệt : mùa cạn, dòng chảy nhỏ, nước mùa lũ dòng chảy lớn, nước đục Ngoài khơi, thủy triều vịnh Bắc Bộ theo chế độ nhật triều, ngày có lần nước lên lần nước xuống Chính yếu tố nước tạo sắc thái riêng biệt tập quán canh tác, cư trú, tâm lí ứng xử sinh hoạt cộng đồng cư dân khu vực, tạo nên văn minh lúa nước, vừa có chung văn minh khu vực, vừa có riêng độc đáo Thứ hai môi trường xã hội Cư dân đồng Bắc Bộ cư dân sống với nghề trồng lúa nước, làm nông nghiệp cách túy Biển rừng bao bọc quanh đồng Bắc Bộ từ tâm thức, người nông dân Việt Bắc Bộ cư dân “xa rừng nhạt biển” – chữ dùng PGS, PTS Ngô Đức Thịnh- Nói khác là, người nông dân Việt Bắc Bộ người dân đồng đắp đê lấn biển trồng lúa, làm muối đánh cá ven biển Hàng ngàn năm lịch sử, người nông dân Việt việc đánh cá tổ chức cách quy mô lớn, đội tàu thuyền lớn Nghề khai thác hải sản không phát triển Các làng ven biển thực làng làm nông nghiệp, có đánh cá làm muối.Ngược lại, Bắc Bộ châu thổ có nhiều sông ngòi, mương máng, nên người dân chài trọng việc khai thác thủy sản Tận dụng ao, hồ đầm để khai thác thủy sản phương cách người nông dân trọng.Đã có lúc việc khai thác ao hồ thả cá tôm đưa lên hàng đầu câu ngạn ngữ : canh trì, nhì canh viên, ba canh điền (nhất thả cá ao, nhì làm vườn, ba làm ruộng) Dù sao, phương thức canh tác cư dân đồng sông Hồng trồng lúa nước (khoảng 82% diện tích trồng trọt lương thực) Tuy nhiên, lúa, diện mạo trồng Bắc Bộ nhiều loại khác phù hợp với chất đất vùng khí hậu mùa Trong đó, đất đai Bắc Bộ nhiều, dân cư lại đông Vì thế, để tận dụng thời gian nhàn rỗi vòng quay mùa vụ, người nông dân làm thêm nghề thủ công đồng sông Hồng, trước đây, người ta đếm hàng trăm nghề thủ công, có số làng phát triển thành chuyên nghiệp với người thợ có tay nghề cao Một số nghề phát triển, có lịch sử phát triển lâu đời nghề gốm, nghề dệt, luyện kim, đúc đồng v.v Mặt khác người nông dân lại sống quần tụ thành làng Làng đơn vị xã hội sở nông thôn Bắc Bộ, tế bào sống xã hội Việt Nó kết công xã thị tộc nguyên thủy sang công xã nông thôn Các vương triều phong kiến chụp xuống công xã nông thôn tổ chức hành trở thành làng quê Tiến trình lịch sử khiến cho làng Việt Bắc Bộ tiểu xã hội trồng lúa nước, xã hội tiểu nông, nói PGS Nguyễn Từ Chi biển tiểu nông tư hữu Về mặt sở hữu ruộng đất, suốt thời phong kiến, ruộng công, đất công nhiều đặc điểm làng Việt Bắc Bộ Do vậy, quan hệ giai cấp “nhạt nhòa” – chữ dùng PGS Nguyễn Từ Chi, chưa phá vỡ tính cộng đồng, tạo lối sống ngưng đọng kinh tế tư cấp tự túc, tâm lí bình quân, ảo tưởng “bằng vai”, “bằng vế” kiểu câu tục ngữ “giàu cơm ba bữa, khó đỏ lửa ba lần” Sự gắn bó người người cộng đồng làng quê, không quan hệ sở hữu đất làng, di sản hữu thể chung đình làng, chùa làng v.v , mà gắn bó quan hệ tâm linh, chuẩn mực xã hội, đạo đức Đảm bảo cho quan hệ hương ước, khoán ước làng xã Các hương ước, hay khoán ước quy định chặt chẽ phương diện làng từ lãnh thổ làng đến sử dụng đất đai, từ quy định sản xuất bảo vệ môi trờng đến quy định tổ chức làng xã, ý thức cộng đồng làng xã, trở thành sức mạnh tinh thần phủ nhận Nhưng mà cá nhân, vai trò cá nhân bị coi nhẹ Chính đặc điểm làng Việt Bắc Bộ góp phần tạo đặc điểm riêng vùng văn hóa Bắc Bộ 3.3.2 Đặc điểm vùng Đồng Bắc Bộ Như trình bày trên, Bắc Bộ nôi hình thành dân tộc Việt, thế, nơi sinh văn hóa lớn, phát triển nối tiếp lẫn : Văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đại Việt văn hóa Việt Nam Từ trung tâm này, văn hóa Việt lan truyền vào Trung Bộ Nam Bộ Sự lan truyền ấy, mặt chứng tỏ sức sống mãnh liệt văn hóa Việt, mặt chứng tỏ sáng tạo người dân Việt Trong tư cách ấy, văn hóa châu thổ vùng Bắc Bộ có nét đặc trưng văn hóa Việt, lại có nét riêng vùng Trước tiên ứng xử với thiên nhiên Hàng ngàn năm lịch sử, người dân Việt chinh phục thiên nhiên, tạo nên diện mạo, đồng ngày nay, việc đào mương, đắp bờ, đắp đê Biết bao số đê tạo dựng dọc triền sông thuộc hệ thống sông Hồng sông Thái Bình Nói cách khác, đồng châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình kết chinh phục thiên nhiên người Việt Trong văn hóa đời thường, khác biệt văn hóa Bắc Bộ vùng khác nước tạo từ thích nghi với thiên nhiên Nhà cư dân Việt Bắc Bộ thường loại nhà chái, hình thức nhà kèo phát triển PGS, PTS Nguyễn Khắc Tụng thống kê 10 loại nhà kèo khác nhau, sử dụng vật liệu nhẹ chủ yếu tiếp thu kĩ thuật sử dụng vật liệu bền xi măng, sắt thép Người nông dân Bắc Bộ thường muốn xây dựng nhà theo kiểu bền chắc, to đẹp, nhiên hòa hợp với cảnh quan Thường người Việt Bắc Bộ muốn trồng cối quanh nơi cư trú, tạo bóng mát cho nhà ăn uống cư dân Việt châu thổ Bắc Bộ mô hình bữa ăn người Việt vùng đất khác : cơm + rau + cá, thành phần cá chủ yếu hướng tới loại cá nước Hải sản đánh bắt biển chủ yếu giới hạn làng ven biển, làng sâu đồng bằng, hải sản chưa phải thức ăn chiếm ưu Cư dân đô thị, Hà Nội, dùng đồ biển cư dân đô thị phía Nam Huế, Nha Trang, Sài Gòn Thích ứng với khí hậu châu thổ Bắc Bộ, người Việt Bắc Bộ có ý tăng thành phần thịt mỡ, mùa đông lạnh, để giữ nhiệt cho thể Các gia vị có tính chất cay, chua, đắng, quen thuộc với cư dân Trung Bộ, Nam Bộ lại mặt bữa ăn người Việt Bắc Bộ nhiều Cách mặc người dân Bắc Bộ lựa chọn, thích ứng với thiên nhiên châu thổ Bắc Bộ màu nâu Đàn ông với y phục làm quần tọa, áo cánh màu nâu sống Đàn bà váy thâm, áo nâu, làm Ngày hội hè, lễ tết trang phục có khác : đàn bà với áo dài mớ ba mớ bảy, đàn ông với quần trắng, áo dài the, chít khăn đen Ngày y phục người Việt Bắc Bộ có thay đổi nhiều Mặt khác, nói tới văn hóa châu thổ Bắc Bộ nói tới vùng văn hóa có bề dày lịch sử mật độ dày đặc di tích văn hóa Các di tích khảo cổ, di sản văn hóa hữu thể tồn khắp địa phương Đền, đình, chùa, miếu v.v , có mặt hầu khắp địa bàn, tận làng quê Nhiều di tích tiếng không nước mà nước đền Hùng, khu vực Cổ Loa, Hoa Lư, Lam Sơn, phố Hiến, chùa Dâu, chùa Hương, chùa Tây Phương, đình Tây Đằng v.v Cùng với di sản văn hóa hữu thể, di sản văn hóa vô thể đồng Bắc Bộ đa dạng phong phú Kho tàng văn học dân gian Bắc Bộ coi loại mỏ với nhiều khoáng sản quý Từ thần thoại đến truyền thuyết, từ ca dao đến tục ngữ, từ truyện cười đến truyện trạng,mỗi thể loại có tầm dày dặn, mang nét riêng Bắc Bộ, chẳng hạn truyện trạng Bắc Bộ truyện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn v v sử dụng hình thức câu đố, câu đối, nói lái, chơi chữ nhiều truyện trạng vùng khác Có thể loại Bắc Bộ tồn tại, kiểu thần thoại Ca dao xứ Bắc trau chuốt, tỉa gọt ca dao Nam Bộ Các thể loại thuộc nghệ thuật biểu diễn dân gian đa dạng mang sắc thái vùng đậm nét Đó hát quan họ, hát xoan, hát trống quân, hát chầu văn, hát chèo, múa rối v.v Đáng kể sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng cư dân Việt Bắc Bộ Mọi tín ngưỡng cư dân trồng lúa nước thờ Thành hoàng, thờ Mẫu, thờ ông tổ nghề v.v , có mặt hầu khắp làng quê Bắc Bộ Các tín ngưỡng tiềm ẩn tâm thức người tồn lễ Hội – thành lễ hội mùa xuân, thành lễ hội mùa thu Dù thuộc loại nào, khởi nguyên, lễ hội hội làng cư dân nông nghiệp, nói khác lễ hội nông nghiệp Tiến trình lịch sử lắng đọng lớp văn hóa, khiến cho lát cắt đồng đại, khó nhận gương mặt ban đầu lễ – hội nông nghiệp Tuy nhiên, trò diễn lễ hội gợi lại nghi lễ nông nghiệp Chẳng hạn lễ thức thờ Mẹ Lúa, cầu mưa, thờ thần mặt trời, trò diễn mang tính chất phồn thực múa gà phủ, múa vật biểu trưng âm vật, dương vật v.v Chính mà lễ hội đồng Bắc Bộ ví bảo tàng văn hóa tổng hợp lưu giữ nhiều sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng cư dân nông nghiệp Với cư dân làng quê Việt Bắc Bộ, lễ hội môi trường cộng cảm văn hóa, “công mệnh” chữ dùng PGS, PTS Ngô Đức Thịnh – mặt tâm linh Cùng với văn hoá dân gian, vùng châu thổ Bắc Bộ theo GS Đinh Gia Khánh “nơi phát sinh văn hóa bác học” Sự phát triển giáo dục, truyền thống trọng người có chữ trở thành nhân tố tác động tạo tầng lớp trí thức Bắc Bộ Thời tự chủ, Thăng Long với vai trò kinh đô đảm nhận vị trí trung tâm giáo dục Năm 1078, Văn Miếu xuất hiện, năm 1076 có Quốc Tử Giám, chế độ thi cử để kén chọn người hiền tài v.v tạo cho xứ Bắc đội ngũ trí thức đông đảo, có nhiều danh nhân văn hóa tầm cỡ nước, nớc GS Đinh Gia Khánh nhận xét : “Trong thời kì Đại Việt, số người học, thi đỗ vùng đồng miền Bắc tính theo tỉ lệ dân số cao nhiều so với nơi khác Trong lịch sử 850 năm (l065-1915) khoa cử triều vua, nước có 56 trạng nguyên 52 người vùng đồng miền Bắc”.(1) Thời thuộc Pháp, Hà Nội nơi có sở giáo dục, khoa học, thu hút trí thức vùng thời đại, PGS, PTS Ngô Đức Thịnh nhận xét : “Với đội ngũ trí thức mới, nơi đầu mối trung tâm đào tạo nghiên cứu khoa học (90% viện nghiên cứu 64% trường đại học), mà đội ngũ trí thức tập trung đông đảo nhất, chiếm 57% tổng số trí thức nước.!” Chính phát triển giáo dục tạo phát triển văn hóa bác học, chủ thể sáng tạo văn hóa bác học đội ngũ trí thức sinh từ giáo dục Đội ngũ này, tiếp nhận vốn văn hóa dân gian, vốn văn hóa bác học Trung Quốc, ấn Độ, phương Tây, tạo dòng văn hóa bác học Xin đơn cử, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ sản phẩm tạo từ trình sáng tạo trí thức, thể rõ đặc điểm nói đến văn hóa bác học, không kể đến văn học nghệ thuật Những tác Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương v.v trưởng thành gắn bó với vùng văn hóa Hơn nữa, nói tới vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ, nói tới vùng văn hóa mà trình tiếp biến văn hóa diễn lâu dài với nội dung phong phú Thực ra, trình tiếp biến văn hóa đặc điểm chung văn hóa Việt Nam, hay nói trây không chối từ, châu thổ Bắc Bộ, nhận xét GS Đinh Gia Khánh nhận xét Thời tiền sử sơ sử, thời tự chủ, việc tiếp thu văn hóa Trung Hoa, ấn Độ địa bàn Bắc Bộ, có nét riêng vị địa – văn hóa, địa trị định Thời thuộc Pháp, đồng Bắc Bộ vùng chịu ảnh hưởng văn hóa phương Tây đậm nét Có thể đơn cử tiếp nhận Phật giáo cư dân Việt Bắc Bộ Là tôn giáo sinh ấn Độ, vào Bắc Bộ, Phật giáo chịu ảnh hưởng tín ngưỡng dân gian địa, địa hóa thành Phật giáo dân gian Sự phát triển Phật giáo Bắc Bộ, khác với Phật giáo Nam Bộ Đồng thời với đặc điểm Bắc Bộ cội nguồn văn hóa vùng Trung Bộ, Nam Bộ, từ vùng đất cội nguồn này, văn hóa Việt phát triển vùng khác Vai trò “hướng đạo” vùng văn hóa Bắc Bộ rõ, đặt tơng quan với vùng văn hóa khác Cuối cùng, đề cập đến vùng văn hóa Bắc Bộ đề cập nét lớn, vùng văn hóa chia thành nhiều tiểu vùng văn hóa khác nhau, nhiên đặc thù tiểu vùng văn hóa không làm phá vỡ đặc điểm chung toàn vùng PTS, PGS Ngô Đức Thịnh chia tiểu vùng sau : + Tiểu vùng Đất Tổ – Phú Thọ, tiểu vùng Kinh Bắc – Bắc Ninh + Tiểu vùng Thăng Long – Hà Nội, tiểu vùng Hải Đông, + Tiểu vùng Hưng Yên – Hưng Nhân, tiểu vùng Hà – Nam – Ninh, + Tiểu vùng Duyên Hải, tiểu vùng lưu vực sông Mã + Ngoài tiểu vùng Nghệ – Tĩnh Tóm lại, vùng châu thổ Bắc Bộ vùng đất lịch sử lâu đời người Việt, nơi khai sinh vương triều Đại Việt, đống thời quê hương văn hóa Đông Sơn, Thăng long – Hà Nội Đây nôi hình thành văn hóa, văn minh Việt từ buổi ban đầu vùng văn hóa bảo lưu nhiều giá trị truyền thống Trên đường tới xây dựng văn hóa đại, đậm đà sắc dân tộc, vùng văn hóa có tiềm định 3.4 Vùng văn hóa Trung Bộ 3.4.1 Đặc điểm môi trường tự nhiên xã hội Nếu nhìn từ góc độ hành chính, lâu nay, người ta hay xếp Thanh – Nghệ – Tĩnh thuộc Trung Bộ, coi Bắc Trung Bộ Có nhà địa lí học nói rằng, ý nghĩa đó, châu thổ sông Mã, sông Cả “nối dài châu thổ Bắc Bộ” Nhưng, vùng văn hóa Trung Bộ vùng đất thuộc lãnh thổ tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận thành phố Đà Nẵng Nói đến miền Trung tổng thể hệ thống nằm tổng thể hệ thống Việt Nam, người ta thường ý đến đặc điểm sau : – Thứ nhất, địa hình miền Trung hẹp theo chiều ngang Đông Tây, quay mặt đông trước mặt người dân Trung Bộ Biển Đông, sau lưng dãy Trường Sơn – Thứ hai, địa hình miền Trung Bộ chia cắt theo chiều dọc Bắc Nam, đèo dãy núi đồi tách từ Trường Sơn đâm ngang biển Nếu tính từ Tam Điệp đèo Ba Dội thuộc xứ Thanh đèo, đèo lại đèo, lặp lặp lại qua đèo Hoàng Mai, đèo Ngang, đèo Hải Vân, đèo Cù Mông v.v Đây kể đèo con, thật nhiều đèo khác, chẳng hạn đèo Lý Hòa, núi Lễ Dễ (hay núi Ma Cô) Quảng Bình, đèo Bình Đê khoảng Quảng Ngãi Bình Định Dưới chân đèo sông lớn nhỏ, chảy ngang theo chiều Đông Tây biển, sông ngắn, nước biếc xanh, phù sa, châu thổ hẹp, nhiều cửa sông sâu tạo thành vịnh, cảng Vận động tạo sơn “ném” biển xa đảo quần đảo Chưa kể quần đảo san hô xa khơi Hoàng Sa, Trường Sa, nói đảo gần bờ Hòn Gió (Quảng Bình) ; Cồn Cỏ (Quảng Trị), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Phú Quý (Phú Yên), Hòn Tre (Khánh Hòa) v.v , tạo “bình phong” ngăn chặn bớt sóng gió Biển Đông Suốt dải đất miền Trung Bộ, đường bờ biển Việt Nam “ưỡn” cong, “lồi” phía sau Biển Đông, đành hướng gió bão, sóng thần, luồng cá biển chạy gần bờ hơn, so với miền Bắc Sát bờ biển, từ Quảng Bình trở vô Nam, Ngãi, Bình, Phú có dải cồn cát chạy dọc dài bắc Nam ghi dấu đường biển cũ dải cồn cát vùng trũng nối phân bố xóm làng ruộng lúa ngày Chân cồn bàu nước – Thứ ba khí hậu, miền Trung lại có mùa mưa lệch pha với hai đầu Bắc Nam đất nước, miền Trung, lại gặp gió Tây khô nóng, thổi từ Lào qua (xưa người gọi gió Lào tạo khô rang cho miền Trung Mặt khác, với Đại Việt, từ năm 1069, vùng Quảng Bình thuộc nhà Lý, năm 1336, Châu ô, Châu Lý (tức vùng Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế ngày nay) thuộc nhà Trần, năm 1470 vùng đất từ núi Thạch Bi (nay thuộc Phú Yên) trở thuộc nhà Lê Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn phủ xứ Thuận Hóa Từ đó, Nguyễn Hoàng bắt đầu “kinh doanh dải đất’ (chữ dùng GS Đinh Gia Khánh) miền Trung Nói khác nghiệp khai phá miền Trung đẩy lên bước Rồi hai trăm năm chiến tranh Đàng Trong Đàng Ngoài, miền Trung trở thành lãnh địa chúa Nguyễn tạo vô ý thức đối kháng với Đàng Ngoài Kinh đô vương triều vùng Phú Xuân.Phong trào nông dân khởi nghĩa kỉ XVIII làm lung lay chế độ phong kiến Năm 1788, Nguyễn Huệ lên vua Phú Xuân, đất nước thống Năm 1802, dựa vào lực phương Tây, Nguyễn ánh chiến thắng vương triều Tây Sơn, cai quản đất nước thống Từ 1802 đến 1945, nhà Nguyễn đặt kinh đô Huế Như miền Trung, có thời với ba vương triều : chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn, có xứ Huế, thủ phủ xứ Đàng Trong, kinh đô nước Trải qua tiến trình lịch sử, vùng Trung Bộ trạm trung chuyển, đất đứng chân để người Việt tiến phía Nam mở cõi, lại vùng biên viễn Đại Việt, nơi diễn giao lưu trực tiếp người Việt người Chăm Chính đặc điểm tự nhiên, xã hội, lịch sử Trung Bộ tạo cho vùng văn hóa Trung Bộ đặc điểm riêng, so với vùng văn hóa Việt Nam 3.4.2 Đặc điểm vùng văn hoá Trung Bộ Do vị địa trị, địa văn hóa đặc biệt xứ Huế, nên xứ Huế tiểu vùng có gương mặt văn hóa độc đáo, thế, trình bày đặc điểm chung vùng Trung Bộ, nhìn nhận riêng vùng văn hóa Huế * Đặc điểm chung vùng văn hóa Trung Bộ Khác với Nam Bộ khai phá muộn hơn, khác với Bắc Bộ địa bàn tụ cư khai thác lâu đời người Việt, vùng Trung Bộ thời kì dài thuộc tiểu quốc vương quốc Chăm-pa Đặc điểm thứ vùng văn hóa Trung Bộ phải vùng đất chứa nhiều dấu tích văn hóa chăm pa Dọc miền Trung, nhiều di sản văn hóa hữu thể tồn mặt đất Đó tháp Chăm phơi sương gió năm tháng Lịch sử qua bao nỗi thăng trầm, đời phải trải qua bao dâu bể, tháp Chăm sừng sững dấu ấn phai mờ Ở Huế, theo tác giả Trần Đại Vinh, tháp đôi Liễu, Cốc Thượng, tháp Núi Rùa; Quảng Nam, Đà Nẵng, Mỹ Sơn có tháp, “đại diện tiêu biểu cho tất giai đoạn phong cách nghệ thuật kiến trúc Chămpa, Bằng An có tháp, đồng Dương có tháp, Chiên đản có tháp, Khương Mỹ có tháp Bình Dương có tháp Phước Lộc, tháp Cánh Tiên, tháp Bánh ít, tháp Bình Lâm, tháp Thủ Thiện, ba tháp Dương Long; hai tháp Hưng Thạnh tỉnh Phú yên có tháp Nhạn; Khánh Hòa có tháp Pô Nagar; Ninh thuận có cụm tháp Hòa Lai, cụm tháp Núi Trầm; Bình Thuận có tháp pô Đam (hay Pô Tấm), tháp Phú Hải Có thể nói khó có vùng văn hóa nước ta lại có nhiều tháp Chăm vùng văn hóa Trung Bộ Ngoài tháp, di vật văn hóa Chămpa mặt đất, lòng đất nhiều Đó tượng bà Pô Nagar, tượng Chó, đặc biệt tượng linga, yoni Đó phù điêu, trụ đá, bia đá v.v Cùng di sản văn hóa hữu thể, vùng Trung Bộ nhiều di sản văn hóa vô thể văn hóa chăm pa Đó địa danh Việt mà có quyền ngờ rằng, gốc tích phải địa danh Chăm, kiểu Cồn Ràng, Cồn Lồi, Cồn Mọi Đó tín ngưỡng dân gian người Chăm thờ bà mẹ xứ sở, thờ cá voi, thờ thần biển v.v Mặt khác, Trung Bộ vùng đất người Việt khai phá theo kiểu tiệm tiến Sự cộng cư với người Chăm, thái độ ứng xử với vốn văn hóa diện mặt đất tàng ẩn lòng đất theo chất hiền hòa người Việt, tạo cho giao lưu văn hóa có điểm khác biệt Trước hết, người Việt tiếp nhận di sản văn hóa người Chăm, Việt hóa biến thành di tích văn hóa Tháp Chăm, đền Chăm người Chăm người Việt thờ cúng, sử dụng Chẳng hạn Tháp Bà Nha Trang tỉnh Khánh Hòa, vốn tháp người Chăm, người Việt sử dụng, coi nơi thờ tự, linh thiêng tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng người Việt Tiêu biểu cho trình tiếp biến văn hóa Trung Bộ người Việt tiếp thu tín ngưỡng thờ bà mẹ xứ sở (Po yan Ina Nagar) người Chăm Với tín ngưỡng thờ Mẫu ẩn tâm thức, vào Trung Bộ người Việt gặp tín ngưỡng người Chăm, họ tiếp thu nữ thần Chăm chuyển hóa thành nữ thần Việt Nữ thần Mưjưk người Chăm biến thành bà Chúa Ngọc Câu chuyện mà Phan Thanh Giản ghi bia kí sau Tháp Bà, câu chuyện Việt hóa tích nữ thần chăm điện Chén, thánh mẫu Vân Hương (tức thánh Mẫu Liễu Hạnh) đưa vào điện thần với bà chúa ngọc Nói cách khác là, tiếp biến văn hóa khiến diện mạo tín ngưỡng người Việt Trung Bộ thay đổi, so với người Việt Bắc Bộ So với thiên nhiên Bắc Bộ Nam Bộ, Trung Bộ vùng đệm, mang tính chất trung gian Vì thế, phản ánh thiên nhiên đa dạng vùng đất đặc điểm thứ ba vùng văn hóa Yếu tố biển, sông, đầm, đồng bằng, núi non ánh xạ vào thành tố văn hóa, từ diện mạo đến phương diện khác Có thể thấy điều từ diện mạo loại hình văn hóa, với Trung Bộ, làng làm nông nghiệp tồn đan xen với làng ngư dân Bên cạnh lễ cúng đình làng nông nghiệp lễ cúng cá ông làng làm nghề đánh cá Điều đương nhiên, lẽ, đồng Trung Bộ thường đồng nhỏ hẹp, sát biển Trong văn hóa đời thường, bữa ăn cư dân Việt Trung Bộ bắt đầu có thay đổi, nghiêng hải sản, đồ biển Nói cách khác, yếu tố biển đậm đà cấu bữa ăn cư dân đây.Mặt khác, người dân Việt Trung Bộ, tính chất khí hậu, nói rộng điều kiện tự nhiên chi phối, nên sử dụng nhiều chất cay bữa ăn Tóm lại, vùng văn hóa Trung Bộ có đặc điểm riêng mình, đặt tương quan với vùng văn hóa khác ** Tiểu vùng văn hóa xứ Huế Thiên nhiên tạo cho xứ Huế có diện mạo riêng Đó vùng Huế núi đồi mà nhà Nguyễn sức muôn dân tạo khu lăng tẩm đế vương Đó vùng Huế cồn bãi đôi bờ Hương Giang nhánh sông Bạch Yến, An Cựu, Kim Long (nay bị lấp nhiều) Đi lại vùng Huế đầm phá với phá Tam Giang, Hà Trung, Cầu Hai Nói khác xứ Huế vùng thiên nhiên đa dạng : có rừng, có biển, có núi, lại có đồng Mặt khác, lịch sử lại đem đến cho vùng đất có số phận đặc biệt Từ chỗ phên giậu Đại Việt, nơi địa đầu giao lưu với Chăm-pa đến chỗ thành dinh chúa Nguyễn, kinh đô vương triều Tây Sơn, kinh sư, thượng kinh nhà Nguyễn Chính điều kiện tự nhiên biến đổi lịch sử in dấu vào đời sống văn hóa vật chất lẫn tinh thần xứ Huế, tạo cho gương mặt riêng Nói tới xứ Huế nói tới hệ kinh thành giữ tương đối hoàn chỉnh với hoàng thành, tử cấm thành, điện Thái Hòa, Long An, Ngọ Môn v.v , đồng thời nói tới hệ lăng tẩm với lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức v.v ., nói tới hệ chùa đền tháp Thiên Mụ, điện Hòn Chén, chùa Từ Đàm, Túy Vân, Diệu Đế Tất di sản văn hóa vật thể thể phong cách kiến trúc xứ Huế vừa đa dạng vừa giàu có, thích ứng cách kì lạ với thiên nhiên thơ mộng đây.Cùng với di sản văn hóa hữu thể, văn hóa vô thể xứ Huế kho tàng phong phú quý giá Trước hết nghệ thuật biểu diễn: điệu hò, điệu hát li, hát trò, hát sắc bùa, ca sông nước Hương Giang Nét độc đáo dân ca xứ Huế âm sắc, ngữ âm địa phương không lẫn với vùng đất nước ta, đồng thời ảnh hưởng dân ca, âm nhạc Chăm-pa dân ca xứ Huế điều phủ nhận.Sau nữa, lễ hội dân gian xứ Huế, vừa giống vừa khác với lễ hội dân gian đồng Bắc Bộ, lễ hội dân gian gắn với tục thờ cúng cá voi, tiếp thu tín ngưỡng thờ cá voi người Chăm rõ nét Lễ hội điện Hòn Chén, mang tính chất chung lễ hội gắn với tục thờ Mẫu, lại có nét riêng việc người Việt tiếp nhận tục thờ nữ thần bà mẹ xứ sở người Chăm.Trong văn hóa đời thường, không nhắc đến cách ăn, cách mặc người Huế, PGS Nguyễn Từ Chi ý đến tính chất vùng ngoại vi, biên xứ Huế, nên tìm gắn bó ăn Mường với ăn Việt đất Huế Bếp ăn truyền thống xứ Huế phong phú, sử dụng cách tổng hợp sản vật vùng đất có núi rừng lẫn đồng sông biển Trang phục xứ Huế có phong cách riêng, áo dài, nón Bài Thơ, màu tím Huế thành biểu trượng Huế, mà vùng văn hóa có được.Đặc biệt, cần thấy rằng, không tính từ thời chúa Nguyễn, tính riêng thời nhà Nguyễn 1802- 1945, Huế trung tâm thu hút nhân tài miền đất nước, trung tâm giáo dục nhà Nguyễn, trung tâm sinh hoạt văn hóa, văn học Những văn đàn, thi xã thi xã Mạc Vân, thi xã Hương Bình, Xóm vĩ Dạ v.v , kết quả, biểu trung tâm văn hoá Cũng trung tâm văn hóa, nhiều trí thức, ván sĩ, nhà thơ gắn bó với xứ Huế, trưởng thành từ xứ huế, thời nhà Nguyễn.Tựu trung, xứ Huế tiểu vùng văn hóa nằm vùng văn hóa Trung Bộ, có sắc thái riêng, tiêu biểu cho văn hóa Việt Nam kỉ XIX 3.5 Vùng văn hóa Trường Sơn – Tây Nguyên 3.5.1 Đặc điểm tự nhiên, xã hội Vùng văn hóa chia làm tiểu vùng: – Tiểu vùng Trường Sơn: vùng phía Tây gồm Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quãng Ngãi – Tiểu vùng Tây Nguyên: gồm tỉnh: Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Kon Tum, Lâm Đồng Vùng rừng núi gồm nhiều cao nguyên sơn nguyên → địa hình phức tạp trắc trở Thiên niên kỷ thứ I, thứ II có nhiều xung đột tiểu quốc vương quốc (Lâm Ấp Phù Nam, Chiêm Thành Chân Lạp ) Thế kỷ thứ XVII đến kỷ thứ XVIII Trường Sơn Tây Nguyên gắn bó mật thiết với triều đại quốc gia Đại Việt Từ kỷ thứ XX người Việt sinh lập nghiệp Tây Nguyên hòa nhập vào cộng dân tộc nơi → Trường Sơn Tây Nguyên dấu vết văn hóa nguyên thủy Dân cư: Hơn 20 tộc người cư trú lâu đời, hầu hết cư dân địa, chủ yếu thuộc ngôn ngữ Môn Khmer Bru, Kơ Tu, Tà Oi, Xơ Đăng – Tiểu vùng Tây Nguyên + Nhóm Nam Đảo: có tộc người Raglai, Êdê, Gialai, Chu Ru Chăm + Nhóm Môn Khmer: Bana, Mạ, Mnông, K’ho, Rơ măm, Brâu Về kinh Tế – Văn Hóa – Xã Hội: * Kinh tế: – Các hình thái kinh tế chiếm đoạt (săn bắt, hái lượm) chiếm vị trí chủ yếu Do làm xen canh gốc vụ đất rẫy, cư dân không trồng lúa mì mà trồng xen kẽ với loại: kê, cà, ớt công thêm rẫy đem đem đủ cho người dân nhu cầu yếu phẩm ngày Hiện nay, kinh tế dân tộc vùng Trường Sơn – Tây Nguyên vượt qua giai đoạn kinh tế chiếm đoạt tiến sâu vào giai đoạn kinh tế sản xuất với nông nghiệp lệ thuộc vào thiên nhiên Một số dân tộc Cơ ho, Xơ đăng, Giẻ Triêng, Hrê, BaNa, làm ruộng nước tiếp thu người Chăm, Khmer, người Việt – Chăn nuôi: Do điều kiện kinh tế phong phú trồng trọt nhiều sản phẩm thừa nên ngành chăn nuôi dân tộc phát triển (Trâu nuôi nhiều Bắc Bộ; Voi dưỡng chăn nuôi) – Nghề thủ công: dệt thổ cẩm, trao đổi hàng hóa + Những cư dân Bắc Tây Nguyên Tà Ôi, Giẻ Triêng, làm nghề gốm không dùng bàn xoay mà nặn đất thành băng dài, quấn chồng lên đáy thành hình trụ tùy theo nồi => Trước kinh tế mang tính tự cấp, tự túc buôn làng đời sống bước thay đổi Hiện nay, Trường Sơn Tây Nguyên có loại hình kinh tế trang trại, hoạt động dịch vụ chủ yếu người Việt * Tín Ngưỡng Của Các Dân Tộc Trường Sơn – Tây Nguyên – Thần linh tôn thờ: theo quan niệm đồng bào, hai giới tồn tại, giới người sống thực giới hư vô – Còn rơi rớt tín ngưỡng vật tổ thị tộc (Giarai mài trước) – Trong số lực lượng siêu nhiên đồng bào tin có nhiều loại ma quái vị thần (yang) – Thần lớn cư dân ông Trời – Vị thần quí trọng đồng bào thần lúa sau vị thần núi, thần rừng, thần đa, thần mệnh v.v – Ngoài thần linh làm điều lành có có siêu linh làm điều – Do sống phụ thuộc vào giới thần linh nên đồng bào có tục lệ cầu xin thần linh kết thân với để tăng thêm sức mạnh cho thân – Không có ý niệm thờ cúng tổ tiên mà chủ yếu cúng thần: gia đình buôn làng – Lễ đâm trâu đặc trưng vùng văn hóa Tây Nguyên – Dấu ấn chiến tranh lạc xưa – Nghi thức sát sinh nghi thức tế thần cầu mong sinh sôi nảy nở Tang Ma – Giống với dân tộc khác: lau rửa tử thi nước thơm, thay quần áo – Cắc cử người vào rừng đẳn gỗ làm quan tài, khiêng thằng mộ – Quàn tử thi nhà người đến viếng bón thức ăn cho người chết chia đồ dùng quần áo vào quan tài – Thời gian nuôi mả: mang cơm canh đến cho người chết ăn ngày 23 buổi bỏ mả Lễ Bỏ Mã – Thời gian: tháng 10 mùa nương rẫy thu hoạch xong, bước vào mùa Ning Nang – Lễ tiến hành ngày: chuẩn bị đủ trâu, bò lợn, gạo – Ngày đầu: giết gà, già làng rót rượu xuống đầu mộ khấn gạo, rỡ bỏ nhà mộ cũ – Ngày thứ 2: tạo tác phẩm nguyên thủy (tượng nhà mồ) – Ngày thứ 3: ngày lễ bỏ mã – Ngày thứ 4: ngày cúng bếp, cúng nhà 3.6 Vùng văn hóa Nam Bộ Trong văn hóa chung cộng đồng dân tộc Việt Nam dân tộc, vùng miền lại có nét văn hóa riêng độc đáo, đa dạng phong phú Nam vùng đất tổ tiên ta khai phá lập nghiệp 300 năm, văn hóa nông thôn Nam bắt nguồn từ văn hóa chung cộng đồng dân tộc Việt Nam có 4000 năm lịch sử Nam từ miền đất hoang vu rừng thẳm, nhiều sông rạch, đầm lầy “muỗi kêu sáo thổi, đỉa lộí bánh canh , rừng nhiều thú dữ, rắn độc động vật quý Dưới nước tôm cá bạt ngàn, có cá sấu, cá mập Người nông dân Nam lao động cần cù, dũng cảm Thế hệ sau tiếp nối hệ trước cải tạo tự nhiên, phòng chống thú rừng, nước để sản xuất bảo vệ sản xuất Ðể tồn phát triển giống nòi, sản xuất bảo vệ sản xuất tất yếu gia đình nông dân họ tộc, xóm làng liên kết lại (hợp tác) lao động đổi công phá rừng làm ruộng rẫy, đào sông rạch, làm đường giao thông: săn bắn thú dữ, cưu mang đùm bọc “thương nguời thể thương thân” giúp đỡ chén cơm manh áo, giống, hạt giống, với câu ca truyền miệng gần nông dân Nam thuộc lòng “một miếng đói gói no” sản xuất đời sống Tuy sống vô cực lao động đồng ruộng, nam nữ quây quần giã gạo, chài đôi, chải ba, ca hát hò đối đáp ánh trăng, tình quê mộc mạc thấm đậm nghĩa tình Những người nông dân có mặt vùng đất Nam 300 năm trước nông dân đến từ nhiều vùng miền Trung, miền Bắc Tuy buổi đầu lập nghiệp vùng đất hoang sơ trăm đắng ngàn cay bời rừng thiêng nước độc, thú dữ, người nông dân thiếu công cụ, phương tiện lao động… người kiên cường bám trụ “đến trăm năm bám rễ xanh không về” Bám rễ xanh nghĩa lao động sáng tạo cải vật chất nông nghiệp phì nhiêu trù phú, mà xanh bám rễ có nghĩa mối quan hệ người với người từ bốn phương tụ hội mảnh đất Nam ấm áp tình người Tấm lòng người nông dân Nam xưa đức độ bao dung, sẵn sàng tha thứ cho biết hối cải lỗi lầm, không tha thử kẻ gian ác, điêu ngoa Họ coi trọng nhân-nghĩa-trídũng-liêm, lòng thương người bao la vô tận, ghét bọn gian tà, tham nhũng, xu nịnh, kẻ “tham phú phụ bần” Nếu người lương thiện có đạo đức làm người, sống trung thực, nhân nghĩa từ đâu đến với xóm làng Nam nông dân đón tiếp thân tình theo nghĩa “tứ hải giai huynh đệ”, sẵn sàng cưu mang giúp đỡ người đói rét, bệnh tật “anh em thể tay chân” “Bầu thương lấy bí cùng, khác giống chung giàn” Nền kinh tế Nam Bộ ngày phát triển, đường giao thông ngày thuận lợi, giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội nông dân làng quê ngày mở rộng, phong tục, tập quán từ việc ăn, ở, giao tiếp, sinh hoạt văn hóa, lễ hội đến đám cưới, đám tang… nông dân Nam giống Nhưng nét riêng miền Ðông, miền Tây tỉnh, làng quê tính cách, tập quán, mỹ tục có khác Không phâi ngẫu nhiên mà có câu ca “Cà Mau dễ khó về, trai có vợ, gái có con” Trai có vợ, gái có “đất quê ta mênh mông” đường cách trở sơn khê mà đất lành chim đậu, lưu luyến vùng đất phì nhiêu dễ dàng sản xuất tạo cải, xây dựng sống, tình người nhân hậu thủy chung, “trai dễ mến mà gái dễ thương” Hay câu ca dao “Cần Thơ gạo trắng nước trong, đến lòng không muốn về” Cần Thơ có gạo trắng nước mà giao lưu văn hóa, xã hội hài hòa lịch thiệp, đa cảm đa tình Người Cần Thơ mến khách nên khách mến người Nếu đến bến Ninh Kiều từ xa xưa “ngựa xe nước áo quần nêm” thêm lộng lẫy, phố phường nhộn nhịp Ðêm đêm tàu thuyền san sát bên sông, có thuyền văn hóa lưu động, nhóm tài tử phục vụ đủ hạng người tao nhân mặc khách Chính phong cảnh hữu tình, quyến rũ làm chạnh lòng quân tử, thuyền quyên mà “đi không nỡ, đành” Nói hoạt động văn hóa, văn nghệ đờn ca tài tử không riêng bến Ninh Kiều, Cần Thơ mà gần khắp làng quê Nam bộ, anh nông dân cày chị nông dân cấy hát, hò ca vọng cổ Tinh thần yêu nước đỉnh cao văn hóa Lúc bình thường sống nông dân có vui, có buồn chí to tiếng với lý đó, đất nước có giặc ngoại xậm người nông dân đoàn kết lại sẵn sàng đánh giặc cứu nước Ðặc biệt từ có Ðảng, có Bác Hồ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nông dân Nam nông dân nước Ðảng, Hội Nông dân giáo dục, tổ chức hướng dẫn đấu tranh nông dân sục sôi lòng căm thù thực dân, đế quốc tay sai; lòng yêu nước khơi dậy phát huy, ý chí cách mạng mạnh mẽ, nên họ sẵn sàng tham gia cách mạng Ðiều minh chứng tổ chức Hội Nông dân (Nông hội đỏ) tỉnh Nam từ Cao Lãnh, Sa Ðéc, Cần Thơ, Vĩnh Long, Bến Tre, Mỹ Tho, Gia Ðịnh, Thủ Dầu Một, Cà Mau… đời cuối lăm hai mươi Suốt chặng đường dài 70 năm đấu tranh gian khổ chống thực dân Pháp, Ðế quốc Mỹ tay sai, nông dân Nam đóng góp to lớn sức người, sức cho nghiệp thắng lợi có ý nghĩa lịch sử dân tộc thời đại Hơn 25 năm sau giải phóng miền Nam, thống nước nhà, nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, nông dân Nam lòng theo Ðảng – theo tư tưởng Hồ Chí Minh, vượt qua bao khó khăn, thi đua lao động sản xuất nói đầu thời kỳ đổi nông nghiệp nông thôn, đóng góp xứng đáng vào nghiệp xây dựng đất nước bảo vệ tổ quốc Thực nghị Ðảng hướng dẫn Hội Nông dân, ngành, năm qua nông dân Nam Bộ phát huy văn hóa đậm đà sắc dân tộc mà bước xây dựng văn hóa tiên tiến xã hội chủ nghĩa Cuộc vận động Hội Nông dân xây dựng “gia đình tiêu chuẩn” trước vận động “xây dựng gia đình nông dân văn hóa”, tham gia xây dựng nông thôn, ấp làng văn hóa ngày có nhiều gia đình nông dân hưởng ứng đạt danh hiệu Cuối năm 2000 Hội Nông dân địa phương, sở mặt trận, ngành văn hóa Thông tin, cấp quyền bình xét hộ nông dân đại tiêu chuẩn gia đình văn hóa Kết tỉnh Nam Bộ nơi 5-7 vạn, có tỉnh 10 vạn hộ “gia đình nông dân văn hóa” Ðể đạt gia đình nông dân văn hóa, cán hội viên nông dân phải phấn đấu làm nhiều việc tốt ích nước lợi nhà, cụ thể thực tốt phong trào cách mạng theo hướng dẫn Hội Nông dân Việt Nam Và, Hội Nông dân địa phương, sở Nam phối hợp với ngành, nhà khoa học, doanh nghiệp, quan thông tin đại chúng, chung lo nâng cao dân trí, kiến thức khoa học, vốn, vật tư nông nghiệp cho nông dân để thi đua sản xuất làm giỏi làm giàu, tổ chức phong trào hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, tổ chức hội thi kiến thức nhà nông, hội trại nhà nông, nhà nông đua tài, liên hoan nghệ thuật nông dân, vận động nông dân tham gia kinh tế hợp tác hợp tác xã… Các phong trào cách mạng vận động xây dựng gia đình nông dân văn hóa nhằm bước khắc phục phong tục, tập quán lạc hậu sản xuất đời sống nông dân Ðồng thời, khắc phục tồn sở không ngừng nâng cao dân trí, kiến thức khoa học, phát triển kinh tế, tạo việc làm, nâng cao đời sống vật chất, đời sống văn hóa, làm cho hàng triệu nông dân làm cho mảnh đất Nam Bộ giàu truyền thống cách mạng, đằm thắm thủy chung, nghĩa tình mãi rực rỡ, ngát hương vườn hoa đậm đà sắc văn hóa Việt Nam … tiếp lẫn : Văn hóa Đông Sơn, văn hóa Đại Việt văn hóa Việt Nam Từ trung tâm này, văn hóa Việt lan truyền vào Trung Bộ Nam Bộ Sự lan truyền ấy, mặt chứng tỏ sức sống mãnh liệt văn hóa Việt, mặt… Huế tiểu vùng văn hóa nằm vùng văn hóa Trung Bộ, có sắc thái riêng, tiêu biểu cho văn hóa Việt Nam kỉ XIX 3.5 Vùng văn hóa Trường Sơn – Tây Nguyên 3.5.1 Đặc điểm tự nhiên, xã hội Vùng văn hóa chia… cho vùng văn hóa Trung Bộ đặc điểm riêng, so với vùng văn hóa Việt Nam 3.4.2 Đặc điểm vùng văn hoá Trung Bộ Do vị địa trị, địa văn hóa đặc biệt xứ Huế, nên xứ Huế tiểu vùng có gương mặt văn hóa

– Xem thêm –

Xem thêm: Các vùng văn hóa Việt Nam, Các vùng văn hóa Việt Nam,