Cồ Việt Mobile – Tri thức Việt
Chùa Bà Thiên Hậu
quận Gò Vấp – thành phố Hồ Chí Minh
Chùa Bà Thiên Hậu tọa lạc ở số 2 đường Lý Thường Kiệt, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh, còn có tên gọi khác là Quần Tân Hội Quán. Chùa ở sát ngay chợ Gò Vấp và nằm sau lưng một miếu nhỏ, gọi là miếu Thất Phủ cũng của người Hoa. Đây là ngôi chùa riêng đặc biệt của người Hẹ (gốc Hán) làm ăn sinh sống ở Nam Bộ. Chùa thờ Bà Thiên Hậu và bà Kim Hoa, vị thần lo việc sinh đẻ và tượng thần tài.
Lịch sử
Theo nhiều tài liệu, người Hẹ có gốc ở miền Bắc Trung Quốc, thuộc dân tộc Hán. Vào giữa thế kỷ XIII, họ di dân từ từ về phía Nam. Đến miền Nam Trung Quốc, người Hẹ ở khắp nơi, xen kẽ với người các tỉnh khác. Sau đó, họ di cư sang Việt Nam. Hiện nay, người Hẹ ở Sài Gòn có nhiều gốc như Hẹ ở Quảng Đông, Hẹ ở Phước Kiến, Hẹ ở Triết Giang, Hẹ ở Quảng Tây. Thậm chí một số người Hẹ cũng không biết mình gốc ở tỉnh nào. Dân ca Hẹ thường mang màu sắc giống dân ca của những người ở vùng sơn nguyên. Có lẽ gốc của họ là cư dân chăn nuôi, vì vậy mà người Hẹ làm nghề thuộc da rất giỏi.
Kiến trúc
Chùa có quy mô không lớn, diện tích khoảng 30 x 20 m. Phía trong cùng của chính điện là 3 bàn thờ. Các bàn thờ này có trang thờ và bao lam được chạm trổ một số hình ảnh về cây, lá trúc được đặt làm ở Chợ Lớn vào khoảng cuối thế kỷ XIX.
– Chính giữa là bàn thờ Bà Thiên Hậu. Tượng Bà Thiên Hậu cao 1,2 m, làm bằng vôi trộn với đất, hiện nay còn khá tốt. Bên ngoài tượng được khoác áo thêu kim tuyến và được thay hàng năm.
– Bên phải Bà Thiên Hậu là bàn thờ Bà Kim Hoa. Tương truyền, Bà Kim Hoa là vị thần lo về việc sanh con đẻ cái. Tượng Bà Kim Hoa cao khoảng 0,80 m, cũng bằng đất trộn vôi và sơn màu.
– Bên trái Bà Thiên Hậu là bàn thờ Thần Tài. Tượng Thần Tài cao bằng tượng Bà Kim Hoa.
Lễ hội
– Hội Vía Bà diễn ra ngày 23 tháng 3 (âm lịch) là hội chính của chùa. Lễ Vía Bà Thiên Hậu ở chùa Hẹ cũng có nét khác hơn các chùa khác. Do số người Hẹ ở rải rác các nơi, nên đến ngày này, ở chùa tổ chức họp mặt ăn uống để người Hẹ có dịp gặp gỡ nhau. Về lễ nghi, ngày vía Bà ở chùa Hẹ hàng năm phải làm hình nộm ông Thiện, ông Ác cao 3 m để trưng bày cả ngày. Vào cuối ngày lễ thì đốt 2 hình nộm này để cúng. Người Hẹ ở các tỉnh lân cận như Sông Bé, Đồng Nai, các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long cũng thường đến cúng và đóng góp cho Quần Tân Hội Quán.
– Những ngày tết Nguyên Đán, Nguyên Tiêu cũng có đông người đến chùa dự hội. Vào dịp này, ba đội lân, rồng và sư tử của người Hẹ ở quận 11 là: sư tử Kiến Nghĩa, kỳ lân Hữu Nghị và rồng Ninh Giang cũng đến Quần Tân hội Quán cúng Bà.
– Ngày rằm tháng 7 là ngày lễ cúng cô hồn của người Hoa.
– Ngày rằm tháng 11, được người Hẹ chọn làm ngày trả lễ cho Bà Thiên Hậu. Theo tục lệ chung của người Hoa, ngày rằm tháng giêng được chọn làm ngày đi vay tiền của Bà Thiên Hậu, hoặc của ông Quan Công để làm ăn trong suốt năm. Thực ra việc vay tiền chỉ là tượng trưng, nhưng đến cuối năm thì phải trả lễ và bắt buộc trả đúng lời hứa và thường là rất hậu hỉ. Đối với người Quảng Đông, Triều Châu, Quảng Tây, Phước Kiến, Hải Nam thì thường trả lễ cuối năm vào tháng chạp, riêng người Hẹ thì trả vào rằm tháng 11.
phường 2 – thành phố Cà Mau – tỉnh Cà MauGiới thiệu[Đóng]
Loại
Chùa
Địa chỉ hiện nay
quận Gò Vấp – thành phố Hồ Chí Minh
Loại
Chùa
Địa chỉ hiện nay
phường 2 – thành phố Cà Mau – tỉnh Cà Mau
Chùa tọa lạc tại phường 2, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Chùa do người Hoa tại đây xây dựng vào năm 1903, có tên chính thức là 天后宮 – Thiên Hậu Cung, thờ Bà Thiên Hậu, đồng thời cũng dùng làm Hội quán trong sinh hoạt cộng đồng. Người Hoa đến Cà Mau từ rất sớm, họ giỏi nghề buôn bán. Vào năm 1898, để thuận đường mua bán có hơn bảy trăm Hoa kiều từ khắp nơi tụ hội về sống cặp mé sông Cà Mau. Họ vừa buôn bán, vừa định cư. Năm 1903, chùa Bà được lập bên ngã ba sông Cà Mau, ở một vị thế giao long đắc địa.
Chùa Bà Thiên Hậu – Ảnh: Hoàng Chí Hùng
Theo truyền thuyết, Bà họ Lâm, tên Mặc, người làng My Châu, huyện Bồ Điền, phủ Hưng Hoá, tỉnh Phúc Kiến, sinh ngày 23-03 năm Canh Thân – năm đầu niên hiệu Kiến Long đời Tống Thái Tổ, tức năm Công nguyên 960. Cha là Lâm Nguyện, mẹ là Vương Thị. Bà là con út trong gia đình có 1 anh trai và 5 chị gái. Từ khi sinh ra đến lúc đầy tháng, không ai nghe thấy bà khóc bao giờ, vì thế có tên là Mặc Nương. Lúc 4 – 5 tuổi, Mặc Nương tỏ ra thông minh, đĩnh ngộ. Năm 8 tuổi theo thầy học chữ. Lớn lên bà quyết chí ở vậy, không lập gia đình, chỉ lo làm việc thiện cứu giúp dân chúng. Bà sinh trưởng ở vùng ven biển, nên am hiểu thiên văn khí tượng, có khả năng dự báo được những thay đổi của thời tiết, thuyền buôn và tàu đánh cá của ngư dân vùng này thường được bà chỉ dẫn và cứu trợ.
Năm bà 16 tuổi, một hôm, cha và anh ra biển đánh cá chưa về. Đột nhiên, cuồng phong nổi dậy, sóng biển gầm thét. Bà linh cảm có chuyện chẳng lành, rồi khóc nức nở, gió lặng sóng yên, bà chèo ghe ra biển đi tìm. Cuối cùng, trong biển cả mênh mông, bà cứu được cha trở về, rồi lại ra vớt xác anh mang về chôn cất.
Một buổi chiều ngày 09-09 năm Đinh Hợi, niên hiệu Ủng Hy, đời Tống Thái Tông, tức năm Công nguyên 987, bà lên núi My Sơn, xa xa có tiếng nhạc tiên nghênh đón. Bà thoát phàm bay về trời. Từ đó về sau, người đi biển thường thấy bà mặc áo bào đỏ, bay lượn trên biển cứu giúp người gặp nạn. Vì thế dân chài họa hình bà để thờ cúng, cầu xin bà phù hộ bình an, thuận lợi.
Chùa có nét kiến trúc cuối đời Minh, với hình quả ấn nhìn từ chính điện. Mái chùa có những đầu đao cong vút. Bên trong lại có lối kiến trúc theo thế Thiên tỉnh (Giếng trời). Chùa cất bằng vật liệu bền vững với các bệ đá được chở từ cảng Hạ Môn – Phúc Châu (Phúc Kiến). Các bệ đá này ngày nay vẫn bền chắc, dù đã trải qua một thế kỷ tồn tại. Được dựng lên trong buổi đầu định cư nơi cuối trời này, nằm ở Phường 2 – thành phố Cà Mau, Chùa Bà Thiên Hậu là Hội Quán của đồng bào người Hoa Cà Mau – một di tích đáng được bảo tồn.
phường 10 – quận 5 – thành phố Hồ Chí Minh
Chùa Bà Thiên Hậu là một trong những ngôi chùa cổ của người Hoa tọa lạc tại số 710 đường Nguyễn Trãi, phường 10, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Chùa tên chữ Hán là 天 后 廟 Thiên Hậu miếu, người Việt Nam gọi là chùa Bà Thiên Hậu, người Hoa còn gọi là “Phò Miếu”. Đây là một trong các ngôi chùa lớn và đẹp nhất trong hơn 30 chùa Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng suy tôn
Chùa thờ bà Thiên Hậu, một vị thần biển của người Hoa Nam chuyên cứu giúp người dân Trung Quốc bị nạn trên biển. Bà được người Quảng Đông gọi là “A Phò” (Đức Bà). Theo tước phong của phong kiến Trung Quốc thì gọi bà là Thiên Hậu thánh Mẫu. Người Phúc Kiến và Hải Nam thích gọi bà là “Đạo Mẫu”. Bà được đại bộ phận người Hoa tôn thờ, sùng kính.
Theo nội dung văn bia tại chùa, Bà sinh vào thời Tống Kiến Long nguyên niên (Công nguyên 960), là con thứ 6 của gia đình họ Lâm ở huyện Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Khi mới lọt lòng mẹ, bà đã toả ánh hào quang và hương thơm. Lớn lên, Bà thường cỡi thảm bay lượn trên biển và du ngoạn nhiều nơi. Đến đời Tống Ung Hy tứ niên (Công nguyên 987), năm 27 tuổi Bà từ giã cõi trần và hiển linh. Đời Nguyên, Bà được phong là Thiên Phi, đến đời Thanh, vua Khang Hy gia phong làm Thiên Hậu, danh hiệu Thiên Hậu tồn tại mãi cho đến nay.
Ngoài ra, còn có nhiều truyền thuyết khác nhau kể về bà. Nhưng tựu chung lại vẫn là hình ảnh về một người phụ nữ Trung Hoa có lòng hiếu thảo, có đức hạnh…Thông qua những truyền thuyết này, người Hoa muốn giáo dục cho cộng đồng mình hãy noi gương, học tập theo lòng hiếu thuận đối với cha mẹ, xả thân vì mọi người của Bà. Riêng đối với cộng đồng người Hoa ở Việt Nam, bà còn là một vị thần cứu giúp họ. Khi sang nước ta, trên bước đường nguy nan, bị đe dọa bởi sóng gió, người Hoa cầu nguyện đến bà và giờ đây được an cư lạc nghiệp ở quê hương thứ hai này. Họ thờ bà để tỏ lòng biết ơn về sự phù trợ đó. Vì thế, chùa Bà có vị trí quan trọng đối với người Hoa Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu…
Lịch sử
Chùa được lập nên vào khoảng năm 1760, do nhóm người Hoa Quảng Ðông ở huyện Tuệ Thành (Trung Quốc) đã rời bỏ làng quê sang Việt Nam góp vốn và góp công xây dựng. Bên cạnh chùa còn có Tuệ Thành Hội Quán là nơi quy tụ của nhóm người Hoa Quảng Ðông. Từ tkhi thành lập đến nay, chùa trải qua 4 lần trùng tu lớn vào các năm 1800, 1842, 1890, 1916.
Sách Đại Nam Nhất Thống Chí có đoạn chép về chùa như sau: “Cách huyện Bình Dương 12 dặm, ở phía tả và phía hữu đường quan lộ. Nơi chợ có đường thông ra tứ phía đi liên lạc như hình chữ “điền”, nhà cửa phố xá liên tiếp thềm mái cùng nhau, người Hán, người Thổ ở chung lộn dài độ 3 dặm, đủ cả hàng hoá trăm thức, ở bên sông Nam và Bắc không thiếu món gì, đầu phía Bắc đường lớn có đền Quan Công, quán Tam Hội, xây cất đối nhau phía tả và phía hữu. Phía Tây đường lớn có chùa Thiên Hậu, gần phía Tây có Ôn Lăng Hội Quán”.
Kiến trúc
Được xây dựng tương đối sớm, trải qua nhiều lần trùng tu, nhưng chùa Bà Thiên Hậu vẫn giữ được phong cách của một chùa Hoa, từ cách bố trí mặt bằng, đường nét kiến trúc (cửa vào, mái ngói, nóc chùa) cho đến các tổ hợp điện thờ, hành lang, sân thiên tỉnh … cùng nghệ thuật trang trí bên trong.
Chùa xây theo hình ấn – kiểu kiến trúc đặc trưng cùa người Hoa – là tổ hợp 4 ngôi nhà liên kết nhau tạo thành mặt bằng giống hình chữ 口 – Khẩu. Trang trí bên trong và bên ngoài là những hình ảnh mang điển tích Trung Hoa với nhiều màu sắc rực rỡ. Vật liệu xây cất chùa chở từ Trung Quốc sang. Tường chùa được xây bằng gạch liền mí không hở mạch. Đặc biệt phù điêu và tượng bằng gốm tráng men trang trí ở ngoài trời và trên mái nhà hơn 2 thế kỷ vẫn sáng đẹp.
Chùa Bà Thiên Hậu – Ảnh: Hoàng Chí Hùng
– Tiền điện nằm phía ngoài, bên trong hai cánh cửa có hai bia đá đặt sát tường, ghi lại truyền thuyết về Bà bằng chữ Hán và chữ quốc ngữ. Bên phải có bệ thờ tượng Phúc Đức chánh thần (tức Ông Bổn), bên trái thờ Môn quan Vương Tả (thần giữ của). Trên cửa, một bức tranh cao gần sát nóc miêu tả Bà đang bay lướt trên sóng nước giữa trùng khơi.
Trung điện không đặt trang thờ mà đặt bộ lư phát lam niên hiệu Quang Tự thứ 12. Hai bên là kiệu sơn son thiếp vàng, bằng gỗ tốt, với chiếc thuyền rồng chạm hình nhân dành để rước bà vào ngày vía bà (23 tháng 3 âm lịch). Xưa kia, kiệu và thuyền được khiêng đi trong đám rước, nay tục này đã bị bỏ.
– Sân Thiên tỉnh (giếng trời) được bố trí hài hoà, vừa có đủ diện tích thoáng, rộng để thông gió, vừa đón nhận được ánh sáng tự nhiên đầy đủ, tạo cho bên trong chánh điện một không khí trang nghiêm, u nhã của một kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng.
– Chánh điện là công trình thợ tự chính của chùa. Trong chánh điện, trang thờ Bà được đặt uy nghi ở giữa. Bên trên trang thờ, 3 tượng Bà đặt theo thứ tự từ lớn đến nhỏ thành một hàng thẳng, hai bên có 4 quân hầu. Phía bên trên điện thờ có khắc dòng chữ Hán 天后宮 – Thiên Hậu Cung. Trước điện là một dãy bàn đá, nơi để vật cúng. Bên phải chánh điện là trang thờ bà Kim Huê, bên trái thờ bà Long Mẫu Nương Nương.
– Gian phụ nằm hai bên chính điện thờ Quan Thánh, Địa Tạng, Thần Tài. Trang trí ở điện là hình hoa lá, chim thú và hoành phi, câu đối, biển tự thường là màu đỏ, vàng tạo sự ấm áp, tin tưởng. Chùa còn có các bức tranh đắp nổi liên hoàn, các con vật thuộc “tứ linh”.
Kiến trúc chùa là sự phối hợp của nhiều bộ môn điêu khắc, trang trí, hội họa khá đa dạng và phong phú. Bên cạnh những tượng tròn được tạc bằng những nét tả thực chân phương, các phù điêu chiếm một vị trí quan trọng trong việc trang trí, từ các bao lơn, hoành phi, câu đối cho đến bậu cửa, vòm mái. Những bức chạm lộng và chạm nổi về đề tài chim muông, hoa trái xen lẫn với những đề tài huyền thoại vừa tạo nên không khí cổ kính trang nghiêm vừa hiện thực, thể hiện hoài bão ước vọng một cuộc sống thái bình thịnh vượng nơi mảnh đất mà những người Hoa di cư đã chọn làm quê hương thứ hai của họ.
Ngoài những đường nét chạm khắc, ở chùa bà Thiên Hậu còn có nhiều tượng gốm nung với nghệ thuật thể hiện sắc sảo những đề tài lịch sử, trong các tiểu thuyết cổ Trung Quốc như Tam Quốc chí, Đông Chu liệt quốc v.v… Các nhóm tượng đất nung này thể hiện các đề tài cổ điển như: tứ linh (long, lân, quy, phụng), lưỡng long tranh châu, bái tổ vinh quy…được bố trí hài hoà, đặc sắc. Các mẫu vật trang trí bằng gốm màu được bố trí dọc trên các đường diềm mái ngói, trên nóc chùa rêu phong, tạo nên một vẻ đẹp đa dạng pha màu huyền thoại làm tăng thêm chất mỹ thuật cũng như nội dung tín ngưỡng của công trình.
Cổ vật
Chánh điện chùa còn 2 đại đồng chung niên hiệu Càn Long năm thứ 60 (1796) và Đạo Quang năm thứ 10 (1830). Trung điện có bộ lư phát lam lớn niên hiệu Quang Tự thứ 12 (1886). Trong tủ kính lớn ở chánh điện là tượng Bát Tiên và tướng lịnh của D’Ariès vào năm 1860 cấm các binh sĩ Pháp phá phách chùa. Bệ kiệu sơn son thiếp vàng, bằng gỗ tốt, dành rước Bà vào ngày vía Bà với chiếc thuyền rồng chạm hình nhân là những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Ngoài ra, chùa còn bảo lưu hàng trăm cổ vật khác có giá trị thẩm mỹ cao như: 7 pho tượng thần, 6 tượng đá, 9 bia đá, 2 chuông nhỏ, 4 lư hương đồng, 1 lư hương đá, 10 bức hoành phi, 23 câu đối và 41 tranh nổi… Tất cả đều được chế tác rất công phu, tỉ mỉ với những đường nét tinh tế.
Lễ hội
Hàng năm hội vía Bà được tổ chức long trọng vào ngày 23 tháng 3 âm lịch. Lễ hội không chỉ thu hút người Hoa, người Việt ở thành phố, mà còn có đông đảo người dân ở các tỉnh khác về dự. Trước đây, lễ vía Bà kéo dài hàng tuần, cúng kiến lễ vật linh đình, có khi đến 200 heo quay. Đêm đến có múa lân, hát Tiều, hát Quảng, đèn treo rực rỡ…Người ta đặt tượng vào kiệu sơn đỏ, khiêng qua các khu phố. Đi theo kiệu có rước thuyền và nghi trượng, ghi tên các vị thần thờ tại chùa. Ngày nay, nghi lễ chỉ còn tổ chức ở trong khuôn viên chùa.
Để chuẩn bị cho ngày lễ vía Bà, từ những ngày trước đó, ban quản trị nhà chùa đã tổ chức trang hoàng, sửa sang lại bên trong nội thất và treo đèn, kết hoa ở bên ngoài. Ngay từ chiều 22 tháng 3, ban quý tế tổ chức lễ vía Bà với thành phần dự gồm có ban quản trị, những thiện tín có nhiều đóng góp công sức, tiền của cho chùa, các quan khách địa phương và nhiều thiện nam tín nữ khác. Lễ vật dâng cúng gồm có heo quay, gà, ngỗng (nói chung là thức cúng mặn) cùng các loại hoa quả, bánh trái. (Xưa lễ vía Bà thường cúng đủ tam sanh – heo, gà, dê – làm thịt, mổ ruột và để sống). Nay thì tục lệ cũng như vật dâng cúng đã giản lược hơn.
Sau lời khấn khai mạc của vị chánh tế, người phụ tế đọc bản văn viết sẵn bằng tiếng Quảng Đông ca tụng công đức của Bà, nay nhân ngày vía Bà, mọi người xin biểu để tỏ lòng biết ơn chân thành và mong sao Bà phù hộ cho mọi người, mọi nhà sống yên vui, làm ăn phát đạt, đoàn kết tương thân tương ái với nhau … Sau bài văn tế, các thành viên trong ban quản trị tổ chức bốc thăm để chọn người cầm ấn (một chiếc ấn bằng đồng có khắc cổ tự) lên trước ngai thờ Bà, đóng lên tấm giấy đỏ mang dòng chữ nhỏ đậm viết bằng mực tàu, để dán lên hai bên các điện thờ trong chùa.
Sau nghi lễ dâng ba tuần rượu và ba tuần trà ở nơi chính điện, thì ở phía trước, nơi sân Thiên tỉnh bắt đầu đốt vàng mã. Mọi người làm lễ chào Bà lần cuối, một người trong ban quản trị đi thâu nhang tận tay của từng người dự lễ để đem đi cắm rải rác chung quanh chùa.
Bước sang ngày 23 – ngày chánh vía Bà – từ 4 giờ sáng, trong chùa, trên các điện thờ đèn nến sáng choang, nhang trầm được đốt lên thơm ngào ngạt. Sau một hồi chuông, cửa chùa từ từ mở rộng để đón các đoàn khách đến cúng Bà. Lễ vật dâng cúng thì tuỳ hoàn cảnh và lòng hảo tâm của từng người, riêng món nhang đèn, giấy vàng bạc, giấy tiền là những lễ vật không thể thiếu, vì người Hoa quan niệm đây là quà biếu dâng lên các thần. Ngoài phần lễ bái ở điện thờ Bà Thiên Hậu, khách còn mang lễ vật đến tiếp tục cúng bái ở các điện thờ nhân vật khác (tuỳ theo nhu cầu và ước vọng riêng của từng người, từ việc gia đạo đến tình duyên, con cái, từ việc cầu sức khoẻ đến chuyện buôn bán, làm ăn…). Sau khi cúng lễ xong, thân chủ thường để lại cho nhà chùa một phần, còn một phần thì mang về nhà, gọi là để hưởng lộc Thánh. Trong khi cúng lễ, khách có thể mua ngay lại chỗ những vòng nhang cầu an có đường kính trung bình từ 50 – 60 cm, có loại đường kính đến 1 m. Nhà chùa ghi tên người đó trên một miếng giấy đỏ dính kèm vòng nhang, rồi treo lên trần đốt. Mỗi vòng nhang cầu an như thế cứ cháy suốt ngày đêm trong vòng một tháng trời. Đây là một nét đặc trưng ở chùa Hoa, đặc biệt ở chùa Bà Thiên Hậu và chùa Ông (Nghĩa An hội quán). Người đi lễ, sau khi cúng bái, thường nhận của nhà chùa 3 tấm giấy đỏ (12 x 25 cm) trên có in dòng chữ Hán và đóng triện son: 聖母坐鎮, 合家平安, 保護安康 – Thánh mẫu tọa trấn, Hợp gia bình an, Bảo hộ an khang. Người Hoa gọi đây là “rước vía Bà” đưa về nơi bàn thờ ở gia đình.
Chiều ngày 24, lễ vía Bà kết thúc. Vào lúc đó, những đội lân cùng xuất hiện, trình diễn nơi sân chùa, rồi đi đến một số góc phố, như để báo hiệu với mọi người một hội lễ vía Bà diễn ra thuận lợi, tốt lành và hy vọng sẽ gặp nhau lại trong lễ hội năm sau.
Ngoài lễ Vía Bà, hằng năm, chùa còn có một số ngày thu hút đông đảo khách thập phương như rằm tháng Giêng, tháng Bảy, tháng Mười, Tết Đoan Ngọ, Tết Nguyên Đán. Đặc biệt, ngày 28 Tết, chùa tiến hành lễ cúng Bà và Lễ khai ấn, cầu mong Bà phò trợ cho “Hộ quốc an dân” và “Hợp cảnh bình an”. Ngày thường cũng có khách đến viếng chùa. Tiền công đức mà khách thập phương đóng góp cho chùa mỗi năm rất lớn. Số tiền này được dùng vào công ích như: giúp đỡ người già chữa bệnh, con trẻ học hành. Đặc biệt là học sinh ở trường Mạc Kiếm Hùng và bệnh nhân bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Đó là nét đẹp của văn hoá người Hoa trong môi trường sinh sống với cộng đồng người Việt.
Phan Rí Thành – Bắc Bình – Bình ThuậnGiới thiệu[Đóng]
Loại
Chùa
Địa chỉ hiện nay
quận Gò Vấp – thành phố Hồ Chí Minh
Loại
Chùa
Địa chỉ hiện nay
phường 2 – thành phố Cà Mau – tỉnh Cà Mau
Loại
Chùa
Thời kỳ
Năm 1760
Địa chỉ hiện nay
phường 10 – quận 5 – thành phố Hồ Chí Minh
Loại
Chùa
Thời kỳ
Thế kỷ XVIII
Địa chỉ hiện nay
Phan Rí Thành – Bắc Bình – Bình Thuận
Vị trí
Tam quan chùa
Chùa tọa lạc tại xã Phan Rí Thành, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận, cách thành phố Phan Thiết hơn 70 km về phía Bắc, nằm về phía hữu ngạn sông Cái.
Đối tượng suy tôn
Đây là ngôi đền do người Hoa xây dựng vào năm 1725, để thờ bà Thiên Hậu thánh mẫu. Tương truyền, bà là người huyện Tiêu Điều, tỉnh Phúc Kiến bên Tàu, họ Lâm là con gái thứ hai của Ôn Công, 8 tuổi học đạo tiên, 12 tuổi luyện đơn đã thành, kêu gió, gọi mưa được ứng nghiệm. Đời Tống có người đi biển gặp nạn gió, thuyền gần bị lật úp, thốt nhiên giữa không trung hiện ra một người tự nói “ Ta là con gái Ôn Công, giáng xuống để bảo hộ các người đây”. Rồi trong khoảnh khắc, gió lặng, thuyền được vô sự. Sau đó nhà Tống phong làm phu nhân, triều nhà Minh phong làm Thiên Phi, triều nhà Thanh phong làm Thiên Hậu Thánh mẫu”.
Có thuyết cho rằng bà Thiên Hậu biến thành khúc gỗ gió (cây lấy trầm) trôi từ ngoài biển vào, đến đoạn sông Cái, hạ nguồn sông Lũy trước lúc đổ ra biển thì không trôi được nữa. Thấy điều kỳ lạ người Hoa xưa đã xây đền tại nơi khúc gỗ dừng để thờ bà.
Mặt tiền toàn cành chùa
Kiến trúc
Chùa được xây dựng và trang trí theo lối kiến trúc cổ điển mang đậm phong cách đặc trưng của người Hoa về màu sắc và cách bài trí. Trong chùa còn lưu giữ nhiều di sản văn hoá Hán Nôm là 5 đạo sắc phong của các vua triều Nguyễn ban tặng cho Bà Thiên Hậu vì đã có công trong việc phù hộ giúp đỡ cho nhân dân trong vùng. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất Bình Thuận.
Ngày nay, chùa Bà Thiên Hậu là một trong những nơi thu hút khách du lịch tới viếng thăm không với lòng thành kính cầu mong được phù hộ và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của một nền văn hoá.
phường 2 – thị xã Sa Đéc – tỉnh Đồng Tháp
Tổng quan
Ngôi chùa có tên đầy đủ là 七府天后宮 – Thất Phủ Thiên Hậu Cung, tọa lạc tại số 143 đường Trần Hưng Đạo, phường 1, thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Chùa do nhóm người Hoa của tỉnh Phúc Kiến ở Sa Đéc xây dựng vào năm 1867. Chùa thờ bà Thiên Hậu Ngươn Quân, được sắc phong đời nhà Hán ở Trung Hoa, là Thiên Hậu Thánh Mẫu hộ quốc, tế dân. Bà có công cứu độ những người đi ghe, thuyền ngoài biển bị sóng gió đánh chìm.
Ban đầu, chùa được cất bằng tre lá đơn sơ, trên một khuôn viên chật hẹp. Năm 1886, chùa được trùng tu, mở rộng diện tích, xây gạch, ốp đá, trang trí nguy nga. Hầu hết các nguyên vật liệu để trùng tu ngôi chùa đều được chở từ Trung Quốc sang. Hiện nay, chùa có bốn bang Quảng Đông, Triều Châu, Hẹ, Phước Kiến thay phiên nhau bảo quản và lo khói hương cúng bái. Chùa đã được công nhận là di tích lịch sử – văn hoá cấp tỉnh theo Quyết định số 416/QĐ.UBHC, ngày 10-04-2003 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
Kiến trúc
Ngôi chùa có bố cục theo kiểu chữ Đinh – 丁, trước sau liền nhau, không có sân thiên tỉnh. Mái lợp ngói âm dương tạo gợn sóng. Trên mái nóc trang trí hình lưỡng long tranh châu cùng tượng các vị tiên, Phật trong truyện xưa tích cũ của Trung Hoa. Toàn bộ khung chùa không có kèo chỉ có đòn tay ráp mộng chịu lực trên những cột gỗ tròn. Có 16 hàng cột to dùng để đỡ mái, các cột đều trang trí liễn đối rực rỡ. Trên trần nhà có rất nhiều tranh vẽ về các câu chuyện truyền kỳ của Trung Quốc như: Tam quốc diễn nghĩa, Phong Thần, Đông Chu liệt quốc…
Mặt tiền chánh điện, hai bên cửa ra vào có dòng chữ Hán: 保國 – 安民 (Bảo Quốc – An Dân), bên trên là dòng chữ: 七府天后宮 – Thất Phủ Thiên Hậu Cung. Chánh điện được trang trí lộng lẫy với nhiều hoành phi nền đỏ chữ vàng. Chánh điện gồm ba gian: gian giữa thờ bà Thiên Hậu Ngươn Quân; gian bên phải thờ bà Kim Huê (bà mẹ sanh); gian bên trái thờ ông Địa và ông Hổ (Bạch Hổ Sơn Thần). Ngoài ra chùa còn thờ Phật Di Đà, Quan Âm Bồ Tát và Quan Thánh Đế Quân.
Lễ hội
Hằng năm, chùa tổ chức lễ lớn vào ngày 23-03 và ngày 09-09, tức ngày sinh và ngày hoá của bà Thiên Hậu. Lễ hội được tổ chức công phu với nhiều nghi thức như: tắm Bà, vía Bà, thỉnh Bà hàng cung.
– Lễ tắm Bà được tổ chức rất trang trọng, nơi Bà ngự được quét dọn sạch sẽ, căng màn che lại, hai cô gái được cử vào tắm rửa cho Bà. Người ta nấu nước sôi để nguội rồi đổ vào thau, hái lá bưởi để vào rồi dùng khăn tắm cho Bà. Sau khi tắm Bà xong, người ta lấy nước đó về tắm cho trẻ con để cầu mong nó được khỏe mạnh, nên người.
– Lễ vía là lễ quan trọng nhất, thu hút rất đông người đến dự. Người ta mang theo nhang đèn, trà, rượu, gà vịt đã làm sẵn để cúng bái. Cúng xong, có người mang lễ vật về, nhưng cũng có người để lại. Lễ bắt đầu cử hành vào lúc 9 giờ sáng của ngày chính lễ.
– Lễ thỉnh Bà hành cung: được cử hành sau lễ vía. Người ta khiêng tượng Bà đi du ngoạn quanh các đường phố. Trong buổi du ngoạn đó, có đại diện Ban trị sự Hội quán, đông đảo bà con người Hoa đi cùng; đoàn ngpời mặc lễ phục, có lọng che, cờ phướn, cờ lệnh, trống kèn… nô nức, nhộn nhịp. Mục đích của chuyến du ngoạn này là để cho Bà xem nhân tình thế thái, cảnh sắc quê hương… Trên đường Bà du ngoạn, có một vài gia đình người Hoa đặt bàn cúng trước nhà nơi Bà đi qua để hộ tống Bà và cũng cầu Bà ban cho phước lộc, tiền tài… Ngày nay, lễ này không được tổ chức nữa.
Trong các ngày lễ hội, khách thập phương cũng như dân làng xung quanh đổ về chùa rất đông. Tất cả đều thành tâm cúng bái, vui chơi, thưởng ngoạn. Ngày vía bà hằng năm thật sự là một ngày hội lớn, là một nét sinh hoạt văn hóa vui tươi không chỉ của cộng đồng người Hoa ở Sa Đéc mà còn là niềm vui chung của các dân tộc ở đây.