Cơ sở dữ liệu là gì? – Giải thích về Cơ sở dữ liệu đám mây – AWS
Cơ sở dữ liệu ra đời sớm nhất là các băng từ với bản ghi dữ liệu được lưu trữ tuần tự. Cơ sở dữ liệu tiếp tục phát triển song hành với những tiến bộ trong công nghệ. Ngày nay, chúng đã trở thành những hệ thống phức tạp, có hiệu năng cao với lĩnh vực nghiên cứu chuyên dụng riêng. Hãy cùng tìm hiểu về cách các mô hình dữ liệu phát triển.
Mục lục bài viết
Cơ sở dữ liệu phân cấp
Cơ sở dữ liệu phân cấp trở nên phổ biến vào những năm 1970. Thay vì lưu trữ các bản ghi dữ liệu theo tuần tự, cơ sở dữ liệu phân cấp lưu giữ chúng trong một cấu trúc hình cây, trong đó thiết lập mối quan hệ cha-con giữa hai tệp. Ví dụ: để tạo hệ thống cơ sở dữ liệu cho một cửa hàng bán lẻ đồ nội thất, bạn có thể xác định phòng ngủ là bản ghi cha, trong đó bao gồm các bản ghi con: giường, bàn đầu giường và tủ đồ. Bản ghi giường có thể có thêm nhiều bản ghi con, chẳng hạn như giường đơn, giường đôi, giường đôi lớn, v.v.. Thật đáng tiếc khi hoạt động triển khai mô hình dữ liệu phân cấp rất phức tạp và không thể xử lý nhiều mối quan hệ cha-con nếu không có sự trùng lặp dữ liệu đáng kể.
Cơ sở dữ liệu mạng
Mô hình dữ liệu mạng là một loại cơ sở dữ liệu đời đầu khác, cho phép một bản ghi con có nhiều bản ghi cha và ngược lại. Vì vậy, trong ví dụ về cửa hàng đồ nội thất, nếu bạn có hai bản ghi cha là phòng ngủ và phòng trẻ em, cả hai bản ghi này đều có thể liên kết với bản ghi con tủ đồ.
Cơ sở dữ liệu quan hệ
Vào những năm 1980, cơ sở dữ liệu quan hệ xuất hiện như một mô hình doanh nghiệp phổ biến nhờ có năng suất, tính linh hoạt và khả năng tương thích với phần cứng nhanh hơn. Cơ sở dữ liệu quan hệ tổ chức các bản ghi thành một số bảng thay vì danh sách liên kết.
Trong mô hình cơ sở dữ liệu quan hệ, mỗi danh mục sẽ có một bảng, trong đó các thuộc tính của danh mục ở dạng cột và bản ghi dữ liệu ở dạng hàng. Ví dụ: bạn có thể lập mô hình cửa hàng bán lẻ đồ nội thất dưới dạng một tập hợp các bảng – Phòng và Đồ nội thất. Những bảng này được liên kết bằng các cột – Số phòng và Tên đồ nội thất. Cả hai cột này còn được gọi là khóa chính.
Số phòng
Tên phòng
1
Phòng ngủ
2
Phòng trẻ em
Tên đồ nội thất
Màu
Giường
Màu nâu
Tủ đồ
Màu trắng
Bàn đầu giường
Màu đen
Số phòng
Tên đồ nội thất
1
Giường
1
Tủ đồ
2
Tủ đồ
Cơ sở dữ liệu hướng đối tượng
Cơ sở dữ liệu hướng đối tượng phát triển vào những năm 1990 nhằm đáp ứng với sự xuất hiện của phương pháp lập trình hướng đối tượng. Các lập trình viên và nhà thiết kế bắt đầu coi dữ liệu trong cơ sở dữ liệu của họ là các đối tượng. Ví dụ: bạn có thể ánh xạ các thuộc tính của một cái ghế, chẳng hạn như màu sắc và kích thước, với một đối tượng dữ liệu ghế. Đối tượng này là một biểu diễn ảo cho chiếc ghế ngoài đời thực trong cơ sở dữ liệu hướng đối tượng.
Cơ sở dữ liệu NoSQL
SQL là ngôn ngữ truy vấn dùng để truy xuất, truy cập và chỉnh sửa dữ liệu trong cơ sở dữ liệu quan hệ. Ngược lại, NoSQL đại diện cho một cơ chế cơ sở dữ liệu không sử dụng các mối quan hệ dạng bảng trong quá trình lập mô hình dữ liệu. Cơ sở dữ liệu NoSQL được tạo ra vào đầu thế kỷ 21 khi các kiến trúc cơ sở dữ liệu phân tán và điện toán cụm xuất hiện. Kiến trúc phân tán lưu trữ một cơ sở dữ liệu lớn trên nhiều thiết bị lưu trữ cơ sở. Cách sắp xếp này được gọi là điều chỉnh quy mô theo chiều ngang. Cơ chế phần mềm được sử dụng trong NoSQL có tốc độ cao, không yêu cầu lược đồ bảng biểu cố định, sở hữu khả năng lưu trữ dữ liệu được nhóm lại hoặc trùng lặp cũng như có thể điều chỉnh quy mô theo chiều ngang.