Cổng làng – Di sản văn hóa cần được giữ gìn – Tạp chí Kiến Trúc

Làng Việt – Hồn vọng ngàn năm

Làng Việt hình thành từ thời Văn Lang tức là trước thời Hùng Vương thứ 18 đã biết làm bánh trưng bánh giày dâng vua cha. Làng hình thành từ 3 yếu tố của một thực thể không thể tách rời đó là: Người trồng lúa, nghề trồng lúa, và làng trồng lúa mà ta gọi là “Tam nông”. Đến triều nhà Lý, làng Việt đã phát triển mạnh, đạo Phật trở thành quốc đạo. Mỗi làng đã là một đơn vị hành chính hoàn chỉnh, việc xây dựng những công trình trong quần thể văn hóa như chùa chiền, đền đài, miếu mạo diễn ra khắp làng quê, trong đó cổng làng cũng đã được phát triển nhiều nơi. Vào triều Trần, đơn vị làng hoàn thiện hơn, mỗi làng được coi như một đơn vị chiến đấu độc lập, có đủ điều kiện để chống “thủy hỏa đạo tặc”. Kết cấu làng theo lối “ngoài hào trong lũy”, hoặc có khi “trong hào ngoài lũy”. Việc người vào ra đều được kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo bình an thôn xóm. Muốn vậy, ngoài việc hình thành và phát triển khu dân cư, xây dựng các công trình tâm linh chung của làng, cũng cần phải xây dựng cổng làng. Cổng làng ra đời từ đây và ngày càng phát triển hoàn thiện hơn.

Cổng làng Hà Nội

Thủ đô Hà Nội được biết đến miền đất trăm nghề. Cả nước có trên 800 làng nghề mang đậm nét truyền thống đặc biệt thì Hà Nội có 359 làng nghề chiếm trên 30%. Những làng nghề tiêu biểu như: Khảm trai Chuyên Mỹ (Phú Xuyên), thêu ren Quất Động (Thường Tín), mây tre đan Phú Vinh (Chương Mỹ), may comple Đại Xuyên (Phú Xuyên), may áo dài Trạch Xá và làm đàn Đào Xá (Ứng Hòa), gốm sứ Bát Tràng, hoa Ngọc Hà, đào Nhật Tân, sản xuất giấy dó, giấy phiến chỉ Cầu Giấy, làm giấy trang kim Kiêu Kỵ, lò rèn Đa Sỹ, giả kim hoàn Hàng Bạc, đúc đồng Ngũ Xã… Tất cả những cái đó làm nên một Kẻ Chợ hào hoa, phồn thịnh và đô hội. Nơi ấy xứng danh mảnh đất “Thứ nhất Kinh kỳ”.

Theo các nhà tổ chức du lịch cho biết, trên toàn cõi non sông Đất Việt có 4 làng đẹp nhất nước thì Hà Nội chiếm 3 đó là: Làng Đường Lâm đã có từ hàng nghìn năm, có hàng trăm ngôi nhà cổ chiếm vị thế hàng đầu trên cả nước.

Làng Cự Đà – Thanh Oai ra đời cách đây khoảng 500 năm. Ngay từ khi ra đời quy hoạch làng đã rất hoàn chỉnh. Làng có cấu trúc hình “răng bừa”. Tuyến đường chính của làng chạy dọc bên sông, các tuyến đường xóm nằm vuông góc với đường chính như chiếc răng bừa. Hai bên đường nhánh là các ngôi nhà được bố trí song song và ngoảnh mặt vào nhau. Làng Cự Đà là nơi rất nhiều nhà tư bản Việt được mang danh những ông “vua” như Vua Điền địa (có đến 500 mẫu ruộng) trải dọc theo 2 bên bờ sông Nhuệ, vua ô tô tàu thủy, vua dệt. Những tên như Cự Doanh, Cự Đạt, Cự Đồng, Cự Bổng… đã nổi tiếng đất Kinh kỳ và cả ra ngoài thế giới. Làng Cự Đà có rất nhiều nhà cổ và nhà biệt thự kiểu Pháp. Từ cuối những năm 30, nhà đã đánh số, có điện chiếu sáng dọc đường với cột đèn kiểu cách như Châu Âu có sân bóng đá…Làng Cự Đà trở thành một gương mặt hưng thịnh của cả nước.

Làng Cựu xã Vân Từ – Phú Xuyên ra đời cách đây vào khoảng 500 năm. Đây là một ngôi làng nhiều người giàu có do buôn bán và thợ thuyền. Cả làng rất nhiều nhà 2 tầng kiến trúc Phục Hưng Pháp theo lối Gotic rất giản dị nhưng sang trọng. Phong cảnh xóm làng vẫn giữ được vẻ mặt hoang sơ. Nhưng do thời gian và nhu cầu cuộc sống thay đổi, nhiều nhà hầu như đóng cửa. Hiện làng này chỉ còn khoảng 20 ngôi nhà theo lối biệt thự hai tầng.

Từ mảnh đất giàu truyền thống lịch sử, thịnh phú về kinh tế và giàu bản sắc văn hóa, nhiều bàn tay tài hoa của người thợ đã tạo nên rất nhiều những công trình kiến trúc cổng làng đẹp và độc đáo.

Thủ đô Hà Nội hiện nay có tất cả 1.350 làng, phố. Nếu mỗi làng có từ 1-2 cổng tức là cổng tiền và cổng hậu thì số cổng làng là rất lớn. Nhưng do một số làng nhỏ chưa kịp xây dựng cổng, một phần do chiến tranh phá hủy, do tiêu thổ kháng chiến, lại có phần do thiên tai và cả do con người nên thực tế số cổng còn lại cũng chỉ còn vào khoảng trên 350 cổng làng mà thôi. Cổng làng thường được xây dựng rất trang trọng bền vững nhưng đậm nét tinh xảo tài hoa. Mỗi cổng làng mang một bản sắc riêng tùy vào điều kiện về truyền thống văn hóa lịch sử của làng, khả năng kinh tế và điều kiện tay nghề địa phương. Hình dáng cổng có thể là 1 tầng với chính môn, 2 tầng là “Thượng gia hạ môn” hoặc “Vọng lâu”. Hầu hết các mái cổng đều được xây theo lối đình chùa: Nóc mái có “lưỡng long chầu nguyệt”, bốn góc mái có đao uốn cong trên đặt bộ Tứ linh hoặc hình lá cuốn.

Cổng làng nếu một cửa gọi là “nhất môn”, một số cổng đặt tới 3 cửa gọi là tam quan hay tam môn, cá biệt một số là ngũ môn. Trên trán cổng thường ghi chữ đại tự tên làng ví dụ cổng làng An Thọ Cầu Giấy gọi “An Thọ Môn”; cũng có khi ghi danh vị của làng như làng Thụy Hương – Chương Mỹ nơi thờ Bảng Nhãn Đặng Ma La ghi bốn chữ Linh Dương Cao Cái. Hai bên cổng thường có 2 bức “tường mang” đắp nổi những phong cảnh về hình ảnh quê hương. Cổng có thể có đôi cột đồng trụ hoặc 2 đôi tùy theo mỗi quy mô của cổng. Cột đồng trụ thường đắp quả dành dành hình bốn con chim phượng chúc xuống, đuôi vút lên trời xanh. Phần đế theo kiến trúc truyền thống cân đối giữa quả dành dành và thân trụ.

Kinh đô Thăng Long xưa có 21 tuyến đường ngoại vi vào kinh thành sau này quy hoạch lại còn 5 tuyến đường chính với 5 cửa ô như Ô Quan Chưởng (Đông Hà Môn), Ô Cầu Giấy, Ô Cầu Dền, Ô Đông Mác. Trước đây, mỗi tuyến đường nối với các làng quê và các cửa ô đều có cổng ra vào. Sau này, bởi nhiều lý do khác nhau mà các cổng này đã không còn để lại dấu vết. Chỉ riêng Ô Quan Chưởng là còn tồn tại đến ngày nay. Theo sử sách, Ô Quan Chưởng được xây dựng từ thời Lê Mạc (1527-1593). Đến năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749) thời Lê Trung Hưng được tu bổ lớn vào năm 1785. Năm Gia Long thứ 2 (1804) hoàn chỉnh lại và tồn tại cho đến ngày nay. Ô Quan Chưởng là một cổng quan rất uy nghiêm mang chất thành quách là dấu ấn đặc biệt về một kinh đô xưa.

Nơi Phù Đổng Thiên Vương để lại nhiều dấu ấn. Cổng Ngũ Môn Quan được xây dựng đẹp, tôn nghiêm, hoành tráng và bề thế, xứng đáng dành cho vị Thánh hàng đầu trong Tứ Bất Tử của nước ta. Từ nơi đây, dọc tuyến đường sắt lên Việt Trì còn rất nhiều vết chân ngựa và bụi tre ngà trong hành trình ngài đánh tan giặc Ân.

Cổng làng Cổ Loa, nơi kinh đô xưa của An Dương Vương và Tiền Ngô Vương (Ngô Quyền). Để ghi nhớ công lao của các Ngài, người ta xây dựng một cổng tam quan với một vọng lâu 8 mái. Cổng rất trang trọng, thanh thoát và cổ kính được mệnh danh là “Đệ Nhất Thiên Cổ” môn.

Cổng làng Đường Lâm mới xây dựng khoảng đầu thế kỷ 19. Cổng làng mang phong cách kiến trúc dân gian truyền thống rõ nét: Một gian hai dĩ đơn sơ nhưng nó gắn liền với cảnh quan của làng, với lịch sử đặc biệt nơi có đền thờ và lăng Phùng Hưng, Ngô Quyền, đình Mông Phụ thờ Đức Thánh Tản Viên, và nhà thờ Giang Văn Minh. Cổng làng nằm trong một quần thể không gian đắc địa và hấp dẫn nên đã nổi tiếng khắp trong và ngoài nước. Làng cổ Đường Lâm vừa có truyền thống lâu đời, nhiều di tích lịch sử và nhiều ngôi nhà cổ. Hiện còn tới 150 ngôi nhà cổ trạm trổ tinh xảo với những bức tường đá ong cổ. Ngôi làng được nhiều nhà nghiên cứu và khách du lịch trong ngoài nước đến thăm.

Cổng làng Dương Xá Gia Lâm, làng Dương Xá nơi sinh Nguyên phi Ỷ Lan. Trong làng có chùa Dương Xá, nơi đặt ngai vị Nguyên phi. Đây là một cổng làng được xây dựng công phu, bề thế vững chắc và đẹp một cách tinh tế. Cổng làng Dương Xá với khối tam môn vuông vức, vững trãi. Vọng lâu thu nhỏ và trang trí theo lối đình chùa.

Cổng làng Đông Dư – Gia Lâm, nơi đây có đền thờ Huyền Trân Công Chúa. Hình dáng cổng làng rất mộc mạc đơn sơ nhưng vững chắc và nghiêm trang mang tính cổ xưa. Cổng có chính môn và vọng lâu không trang trí gì nhưng vẫn khẳng định vẻ đẹp giản dị, khiêm nhường và sự trường tồn.

Cổng làng Nhị Khê và cổng làng Dục Tú, cả hai nơi này đều có đền thờ Nguyễn Trãi, một danh thần thời Lê và đã bị án oan khiên ngút trời. Cổng làng Dục Tú là một tam quan, nhưng phần chính môn có vọng lâu có cổ trần cao làm cho công trình được vút lên. Hai bên cổng có cột đồng trụ với các câu đối mang nặng truyền thống văn hóa của làng. Đây là một cổng làng với hình thức thanh thoát cao sang.

Cổng làng Nhị Khê kết cấu và hình dáng kiến trúc cũng giống cổng làng Dục Tú nhưng nhỏ hơn và chỉ có một chính môn. Thế cổng đứng lẻ loi cô đơn như số phận của Vị Đại Thần.

Cổng làng Cưu xã – Vân Từ huyện Phú Xuyên được giới tổ chức du lịch đánh giá là cổng làng đẹp nhất nước. Làng Cưu là một trong 3 làng đẹp nhất Việt Nam của Thủ Đô Hà Nội. Cổng chỉ có một chính môn trên là vọng lâu, mái vọng lâu xếp thành 8 mái với 2 tầng “đao” uốn lượn giữa không gian xanh với đủ “lưỡng long chầu nguyệt” và “tứ linh”. Hai bên mang cổng là hai đôi cột đồng trụ một cao và một thấp có dáng hình khỏe mạnh và thanh thoát rất đẹp. Bên trên các đồng trụ là quả dành dành. Giữa đầu cột thân cột và đế cột tạo thành một chi tiết của cổng rất hoàn chỉnh.

Cổng làng Ước Lễ được xây dựng vào đầu thế kỷ 19. Như đã biết, làng Ước Lễ được xây dựng rất chỉnh trang theo lối thành quách trong lũy ngoài hào. Đầu và cuối làng có 2 cổng nhưng quy mô và mức độ hơn kém nhau. Cổng trước xây theo lối kinh thành Huế. Khi xây xong đã bị triều đình cử người về kiểm tra. Nhờ có người làm quan trong triều và lễ lạt nên được cho qua. Đây là cổng đẹp tinh tế và bề thế. Chính môn là một vòm cuốn hai bên “mang cổng” là mảng tường rộng. Bên trên là thượng lâu bốn mái đủ lưỡng long chầu nguyệt và đao cuốn. Cổng được xây bằng gạch trần cổ Bát Tràng. Phía trước cổng là chiếc cầu cong vượt hào, tô thêm vẻ đẹp và tôn dáng vóc cho chiếc cổng đầy thẩm mỹ này. Trên “trán cổng” phía trước có 3 chữ đại tự Ước Lễ Môn. Trán cổng phía từ trong làng đi ra có 3 chữ đại tự Thiếu Cao Đại nghĩa là khuyên người làng khi ly hương, mỗi người hãy nâng tầm cao hơn một chút và mở tầm rộng hơn một chút. Nhận thức từ những lời dạy này, những người con Ước Lễ xa quê đã rất trưởng thành, nhiều nhà đầu bếp thành công trong sự nghiệp nổi tiếng khắp Bắc Nam vượt ra khỏi đất nước sang đến những phương trời xa xăm như Paris, London, NewYork… Làng Ước Lễ còn nổi tiếng với nghề làm giò chả. Chính nhờ lối kiến trúc riêng của làng và cái cổng đặc biệt này mà làng quê nơi đây thêm trù phú thịnh vượng.

Cổng làng Xuân Đỉnh – Từ Liêm có cấu trúc rất riêng, chỉ có chính môn, bên trên không có vọng lâu mà chỉ là bức cuốn thư vừa tôn độ cao cho cổng vừa trang trí làm cho cổng thêm thanh thoát hơn. Hai bên mang cổng là hai đôi cột đồng trụ tạo bề thế cho công trình. Thân trụ to khỏe được ngồi trên một đế thấp rất cân đối với cổng. Làng Xuân Đỉnh nổi tiếng với giống hồng xiêm vị ngọt ngào thanh khiết tình quê. Nơi đây thường tấp nập người bốn phương qua lại giao thương hàng ngày.

Cổng làng Phương Viên “ngồi” bên bờ đê Tả Đáy mang phong cách kiến trúc Chăm Pa rõ rệt. Nó được xây dựng sau triều Trần cách đây vào khoảng 500-600 năm. Khi Vua Trần gả Công chúa Huyền Trân cho Vua Chăm Pa, nhà vua xứ Chăm Pa đã hiến đất miền Trung cho Vua Việt, nhà Trần đã mang hàng vạn thợ người bản xứ ra rải khắp đôi bờ sông Đáy. Theo Dư Địa Chí của Tiên Sinh Nguyễn Trãi, nơi nào có địa danh mang tên “Sở” thì là nơi có người Chăm Pa sinh sống, ví dụ như: Yên Sở, Đắc Sở, Cổ Sở, So Sở… Với kỹ thuật và tay nghề cao, những người thợ đã xây rất nhiều công trình trên đất Hà Nội như: Đình Tây Đằng Ba Vì, cổng làng Phương Viên Hoài Đức… Cổng làng Phương Viên có 3 cửa tò vò, trên cửa và hai tường bên có 8 mái cong. Toàn cổng là khối đặc, khỏe mang hình tháp giật cấp. Nghe đâu trước đây trên đỉnh tháp là một bầu rượu. Nhưng do thời gian bào mòn, đỉnh tháp đã bị hư hỏng. Sau này, họ không dựng lại chiếc nậm cũ nữa mà tháp chỉ còn là một khối đế nậm vuông, bằng, không nhô cao.

Là một KTS đã đổ nhiều công sức nghiên cứu về cổng làng, nhân dịp Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội (1010-2010), từ trong bộ sưu tập ảnh Cổng làng Việt, tôi đã lựa chọn 4 bức ảnh cổng làng cổ kính, rêu phong và rất đặc trưng của kiến trúc Việt xưa, đó là: Cổng làng Văn Khê và My Dương (Thanh Oai), Yên Cốc (Chương Mỹ), Chi Quan (Thạch Thất) lập thành bộ tứ bình Xuân Hạ Thu Đông. Bên dưới mỗi bức tứ bình là một bài thơ lục bát 4 câu minh họa bốn mùa. Bộ tứ bình này đã được UBND thành phố Hà Nội trưng bày trong dịp lễ kỷ niệm, hiện vẫn được lưu giữ ở Bảo tàng Hà Nội.

Ngoài những cổng làng đặc biệt nêu trên, Hà Nội còn hàng trăm cổng làng khác nữa cũng rất đẹp và mang ý nghĩa lịch sử, văn hóa, bản sắc riêng mỗi làng quê, lối phố. Những cổng làng ấy đã làm nên một bộ mặt, hồn bóng mỗi quê hương trên đất Hà Thành làm ta thêm tự hào.

Kết luận

Tuy đã giảm nhiều so với thuở nguyên khai, nhưng cổng làng Hà Nội vẫn đứng đầu so với các tỉnh thành trong khắp cả nước, trong số đó, rất nhiều cổng đã tồn tại trên 100 năm, trở thành di sản văn hóa. Đề nghị Nhà nước sớm đánh giá và công nhận những cổng làng này.

Hiện nay, việc chỉnh trang, xây dựng nông thôn mới đang thực hiện trên phạm vi toàn TP, đã có một số cổng làng bị đập bỏ, nhường chỗ cho đường mới thay vào. Có cổng bị phạt vẹt đến 1 nửa đứng nép mình trên con đường mới mở thênh thang làm se sắt bao con tim của những người suốt đời nuôi dưỡng hồn quê yêu dấu!

Một vấn đề nổi cộm phổ biến lúc này là: Một số địa phương chẳng cần suy nghĩ sửa sang sơn đắp làm biến dị méo mó cổng làng. Cần phải chấn chỉnh ngay để đảm bảo thực hiện nghiêm luật bảo vệ di sản văn hóa đã được Nhà nước thông qua. Những công trình tồn tại trên 100 năm là di sản văn hóa cần được bảo vệ.

Đối với những công trình di sản văn hóa, khi tu sửa phải có kế hoạch, có nghiên cứu kỹ thiết kế. Bắt buộc khi xây dựng phải giữ nguyên hiện trạng công trình vốn có, không tạo ra những chi tiết và màu sắc mới. Nếu có hỏng phần nào thì chỉ phục hồi chi tiết đó, để đảm bảo tính lịch sử của nó.

Khi nghiên cứu quy hoạch phát triển đô thị, xây dựng nông thôn mới hoặc xây dựng bất kỳ cảnh quan nào đều phải có trách nhiệm bảo tồn công trình di sản. Không được phá hoặc có bất kỳ hành động xâm hại nào đến cổng làng. Nếu trong quy hoạch vì lý do nào đó, bắt buộc phải di dời công trình thì nhất thiết phải được cấp có thẩm quyền quyết định mới được thực hiện. Việc di dời công trình đến một vị trí xứng đáng và phải có biện pháp bảo tồn nguyên trạng.

Cổng làng cổ Hà Nội là công trình mang dấu ấn, bản sắc văn hóa, hồn thiêng và là niềm tự hào đối với mỗi người dân quê hương. Cổng làng, một công trình khắc ghi bao nét tài hoa, cao sang và thịnh vượng của làng mà biết bao thế hệ cha ông dày công tạo dựng để lại cho con cháu. Uống nước nhớ nguồn, các thế hệ cháu con hôm nay cần giữ gìn để cổng làng – một di sản văn hóa, một dấu ấn thiêng liêng, một hồn quê sâu nặng đã gắn bó bao đời làm cho mỗi quê hương được trường tồn và phát triển mãi mãi.

KTS Nguyễn Địch Long
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 02-2022)