Đặc trưng truyền thống văn hóa Việt Nam – Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU
Cũng giống như các địa vực khác được ghi danh trên bản đồ thế giới. Đông Nam Á là một khu vực có đầy đủ các yếu tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá và xã hội để hình thành, tồn tại và phát triển trong tiến trình chung của lịch sử. Đó cũng là cơ sở để tạo nên nét đặc trưng riêng, trong đó phải kể đến những đặc trưng truyền thống trong văn hoá của khu vực Đông Nam Á.
1. Lý do chọn đề tài.
Tiểu luận xin đi sâu phân tích những đặc trưng truyền thống Đông Nam Á trong văn hoá Việt Nam.Đây là vấn đề nhận được sự quan tâm của rất nhiều các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước khi lĩnh vực văn hoá đang chiếm giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của một quốc gia.
Đồng thời qua việc tìm hiểu sẽ giúp ích nhiều cho quá trình học tập bộ môn Văn hoá Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á cũng như giúp trang bị thêm kiến thức cho sinh viên, những nhà nghiên cứu hay những người có nhu cầu tìm hiểu đối với vấn đề gìn giữ và phát huy vốn văn hoá truyền thống của dân tộc và khu vực trước bối cảnh hội nhập toàn cầu như hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu được những đặc trưng văn hoá truyền thống của khu vực Đông Nam Á trong văn hoá Việt Nam trên mọi phương diện vừa khẳng định vai trò của Đông Nam Á trong từng quốc gia nói chung và đất nước Việt Nam nói riêng vừa tôn vinh những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Qua đó nâng cao nhận thức cho con người; sự quan tâm đầu tư hơn nữa từ phía Đảng và Nhà nước cho lĩnh vực văn hoá, đặc biệt là văn hoá truyền thống.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Tiến hành phân tích dựa trên cơ sở lý luận kết hợp với thực tiễn. Đẩy mạnh công tác lưu giữ và bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống của đất nước theo một hệ thống, phù hợp với bối cảnh của xã hội hiện đại.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp:Phân – Tổng – Hợp; So sánh; Thống kê; Nghiên cứu tài liệu.
MỤC LỤC
Trang
ãLỜI MỞ ĐẦU .1
ãNỘI DUNG
CHƯƠNG I : KHÁI QUÁT CHUNG 2
1, Khái niệm . .2
2, Khái quát chung về khu vực Đông Nam Á
và Việt Nam 3

CHƯƠNG II : ĐẶC TRƯNG TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ
ĐÔNG NAM Á TRONG VĂN HOÁ VIỆT NAM 6
1. Thuần dưỡng cây lúa .6
2. Thuần dưỡng trâu, bò, ngựa 8
3. Ăn .10
4. Mặc .12
5. Ở (Nhà sàn) 15
6. Phương tiện đi lại .16
7. Cộng đồng xã hội .17
8. Mẫu hệ 18
9. Tín ngưỡng tôn giáo .21
ãKẾT LUẬN 23
ãTÀI LIỆU THAM KHẢO.

doc

23 trang

|

Chia sẻ: lvcdongnoi

| Lượt xem: 9667

| Lượt tải: 3

download

Bạn đang xem trước

20 trang

tài liệu Đặc trưng truyền thống văn hóa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

LỜI MỞ ĐẦU
Cũng giống như các địa vực khác được ghi danh trên bản đồ thế giới. Đông Nam Á là một khu vực có đầy đủ các yếu tố về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hoá và xã hội để hình thành, tồn tại và phát triển trong tiến trình chung của lịch sử. Đó cũng là cơ sở để tạo nên nét đặc trưng riêng, trong đó phải kể đến những đặc trưng truyền thống trong văn hoá của khu vực Đông Nam Á.
Lý do chọn đề tài.
Tiểu luận xin đi sâu phân tích những đặc trưng truyền thống Đông Nam Á trong văn hoá Việt Nam.Đây là vấn đề nhận được sự quan tâm của rất nhiều các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước khi lĩnh vực văn hoá đang chiếm giữ một vị trí, vai trò quan trọng trong sự phát triển bền vững của một quốc gia.
Đồng thời qua việc tìm hiểu sẽ giúp ích nhiều cho quá trình học tập bộ môn Văn hoá Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á cũng như giúp trang bị thêm kiến thức cho sinh viên, những nhà nghiên cứu hay những người có nhu cầu tìm hiểu đối với vấn đề gìn giữ và phát huy vốn văn hoá truyền thống của dân tộc và khu vực trước bối cảnh hội nhập toàn cầu như hiện nay.
Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu được những đặc trưng văn hoá truyền thống của khu vực Đông Nam Á trong văn hoá Việt Nam trên mọi phương diện vừa khẳng định vai trò của Đông Nam Á trong từng quốc gia nói chung và đất nước Việt Nam nói riêng vừa tôn vinh những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Qua đó nâng cao nhận thức cho con người; sự quan tâm đầu tư hơn nữa từ phía Đảng và Nhà nước cho lĩnh vực văn hoá, đặc biệt là văn hoá truyền thống.
Nhiệm vụ nghiên cứu.
Tiến hành phân tích dựa trên cơ sở lý luận kết hợp với thực tiễn. Đẩy mạnh công tác lưu giữ và bảo tồn các giá trị văn hoá truyền thống của đất nước theo một hệ thống, phù hợp với bối cảnh của xã hội hiện đại.
Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp:Phân – Tổng – Hợp; So sánh; Thống kê; Nghiên cứu tài liệu.
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG
1. Khái niệm.
Văn hoá là một phạm trù rộng lớn đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, văn hoá đang ngày càng khẳng định được vị thế; nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện hơn nữa từ phía Đảng và Nhà nước, thu hút được đông đảo quần chúng nhân dân không chỉ tham gia vào quá trình thưởng thức mà còn sáng tạo văn hoá.
Ở tiểu luận này xin được trích dẫn khái niệm văn hoá của GS.Trần Ngọc Thêm : “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”
Hiện nay phù hợp với xu thế chung của thời đại, chúng ta đang tích cực xây dựng nền văn hoá vừa mang những giá trị truyền thống vừa mang nét hiện đại. Truyền thống ở đây chính là: những nét đặc trưng của một nền văn hoá, được công nhận và truyền lại qua nhiều thế hệ cho phép ta phân biệt một cộng đồng này với một cộng đồng khác, một dân tộc này với một dân tộc khác, một nền nghệ thuật này với một nền nghệ thuật khác…Tuy nhiên, truyền thống cũng không phải là những yếu tố bất di bất dịch, mà ngược lại nó luôn luôn biến động cùng với những thay đổi của xã hội và con người.
Như vậy, truyền thống không phải là di tích của quá khứ, hay là một hình thức biểu hiện nào đó chỉ đơn thuần do ý chí nghĩ ra, mà nó phải là cái đã được chúng ta sàng lọc, đúc kết và “chọn lựa” giữa những cái có liên quan tới cuộc sống và đã được thời gian thử thách. Những đặc trưng văn hoá truyền thống trở thành cơ sở cho việc phân biệt các nền văn hoá, là tấm gương phản chiếu vốn văn hoá truyền thống của dân tộc từ đó đưa đến nhận thức rõ về quá trình tồn tại lâu bền của các đặc trưng đó ra sao và vai trò của nó trước xu thế xã hội mới như thế nào.
2. Khái quát chung về khu vực Đông Nam Á và Việt Nam.
Đông Nam Á là khu vực nằm ở phía Đông Nam của Châu Á với diện tích 4,523,000 km² bao gồm có 11 quốc gia nằm ở phía Nam Trung Quốc, phía Đông Ấn Độ và phía Bắc của Úc.
Do điều kiện địa lí của mình, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng chủ yếu của gió mùa, tạo nên hai mùa tương đối rõ rệt: mùa khô lạnh, mát và mùa mưa tương đối nóng và ẩm. Vì thế, Đông Nam Á còn được gọi là khu vực “Châu Á gió mùa”. Chính gió mùa và khí hậu biển làm cho khí hậu vùng Đông Nam Á đáng lẽ có thể trở nên khô cằn như một số khi vực lục địa khác có cùng vĩ độ. Gió mùa kèm theo những cơn mưa nhiệt đới đã cung cấp đủ nước cho con người dùng trong đời sống và sản xuất hằng năm, tạo nên những cánh rừng nhiệt đới phong phú về thảo mộc và chim muông. Đông Nam Á từ lâu đã trở thành quê hương của những cây gia vị, cây hương liệu đặc trưng như hồ tiêu, sa nhân, đậu khấu, hồi, quế, trầm hương… và cây lương thực đặc trưng là lúa nước.
Theo một số nhà nghiên cứu thì cư dân Đông Nam Á có những nét chung thống nhất về mặt văn hóa, vì cư dân ở đây có chung một nền tảng văn hóa Đông Nam Á, lấy sản xuất nông nghiệp lúa nước làm phương thức hoạt động kinh tế chính. Đông Nam Á được coi là “cái nôi” của cây lúa nước và là một trong 5 trung tâm cây trồng lớn trên thế giới. Văn hóa Hòa Bình đã chứng minh cư dân ở đây đã thuần hóa nhiều giống lúa, thực vật khác nhau, xuất hiện nền nông nghiệp sơ khai với các loại cây trồng, đặc biệt là các loại cây có củ và bầu bí, các cây họ đậu ở vùng thung lũng chân núi. Có nhà nghiên cứu còn cho rằng chủ nhân văn hóa Hoà Bình là người biết trồng trọt đầu tiên trên thế giới niên đại nông nghiệp ở đây có thể lên đến hơn 1 vạn năm TCN. Vì thế, Đông Nam Á đã là một trong những nơi có cuộc cách mạng nông nghiệp sớm nhất trên thế giới. Đến thời đại đồ đồng, trong điều kiện của vùng nhiệt đới, cư dân Đông Nam Á đã bước sang kinh tế trồng lúa khô ở nương rẫy và lúa nước ở vùng thung lũng hẹp châu thổ. Cây lúa đầu tiên được thuần dưỡng ở vùng vùng thung lũng theo chân núi dần dần được chuyển xuống vùng châu thổ thích nghi với vùng ngập nước. Cùng với việc trồng lúa nước, người ta đã thuần dưỡng trâu bò làm sức kéo, xuất hiện các nghề thủ công, đặc biệt là nghề sông biển. Từ đó, nông nghiệp lúa nước đã trở thành một cơ sở quan trọng của nền văn minh khi vực. Đó là một nền văn minh mang đủ các sắc thái của những nền văn minh đồng bằng, biển, nửa đồi núi, nửa rừng với đủ các dạng kết cấu đan xen phức tạp… cơ sở chung của nền văn minh này là nông nghiệp trồng lúa nước, văn hóa xóm làng.
Có thể nói, Đông Nam Á là khu vục văn hóa lâu đời, có nguồn gốc và bản sắc riêng của mỗi dân tộc, bên cạnh những nét chung do mối quan hệ từ lâu đời trên nhiều lĩnh vực. Dù có chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, văn hóa Ấn Độ, nền văn hóa Đông Nam Á vẫn mang tính riêng biệt độc đáo.
Trước thập niên 1960, thế giới nói chung vẫn xem Đông Nam Á là một vùng “nước đọng” của lịch sử nhân loại, “nơi mà các cơn lốc văn minh và văn hoá Trung Hoa và Ấn Độ hay thậm chí Đông Âu đi qua và thỉnh thoảng để lại dấu tích chứ bản thân Đông Nam Á chẳng có phát kiến gì đáng kể”. Tuy nhiên qua việc nghiên cứu đã cho thấy những kết quả ngược lại, với những nét văn hoá riêng mang đặc trưng gốc nông nghiệp phương Đông, đã tạo thành không gian văn hoá vùng Đông Nam Á. Đông Nam Á được xác định là một khu vực văn hóa lúa nước với một phức thể gồm 3 yếu tố: Văn hóa Núi, văn hóa Đồng bằng và văn hóa Biển, yếu tố đồng bằng tuy có sau nhưng đóng vai trò chủ đạo. Một đặc trưng nổi bật của văn hóa Đông Nam Á là “Thống nhất trong đa dạng” và quá trình hội tụ bắt nguồn từ nhiều trung tâm khác nhau cho nên chúng không mang tính đơn tuyến trong sự biệt lập mà là đa tuyến trong sự tiếp xúc đan xen nhiều chiều, tạo nên những đường đồng quy, những cấu trúc văn hóa – tộc người đa thành phần được vận hành theo những cơ chế linh hoạt mà đồng nhất.
* Đất nước Việt Nam.
Việt Nam là một quốc gia nằm ở phía Đông bán đảo Đông dương thuộc khu vực Đông Nam Á. diện tích 331.212 km², bao gồm khoảng 327.480 km² đất liền và hơn 4.200 km² . Phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp Lào và Campuchia, phía Tây Nam giáp Vịnh Thái Lan, phía Đông và Phía Nam giáp biển Đông. Do có vị trí địa lí nằm án ngữ trên con đường hàng hải nối liền giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, Đông Nam Á từ lâu vẫn được coi là cầu nối giữa Trung Quốc, Nhật Bản với Ấn Độ, Tây Á và Địa Trung Hải, thậm chí đến gần đây, một số nhà nghiên cứu vẫn gọi khu vực này là “ống thông gió” hay “ngã tư đường”.
Về điều kiện tự nhiên và xã hội, địa hình Việt Nam rất đa dạng theo từng vùng tự nhiên, với ¾ là diện tích đồi núi với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú. Khí hậu nhiệt đới gió mùa ở miền Nam với hai mùa (mùa mưa, từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 9, và mùa khô, từ giữa tháng 10 đến giữa tháng 4) và khí hậu gió mùa ở miền Bắc với bốn mùa rõ rệt (mùa xuân, mùa hè, mùa thu và mùa đông).Hàng năm, Việt Nam luôn phải phòng chống bão và lụt lội với 5 đến 10 cơn bão/năm. Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, chiếm khoảng 14% tổng số dân của cả nước. Dân tộc Việt (còn gọi là người Kinh) chiếm gần 86%, tập trung ở những miền châu thổ và đồng bằng ven biển. Những dân tộc thiểu số, trừ người Hoa, người Chăm và người Khmer phần lớn đều tập trung ở các vùng cao nguyên. Trong số các sắc dân thiểu số, đông dân nhất là các dân tộc Tày, Thái, Mường, Hoa, Khmer, Nùng…, mỗi dân tộc có dân số khoảng một triệu người. Các dân tộc Brâu, Rơ Măm, Ơ Đu có số dân ít nhất, với khoảng vài trăm cho mỗi nhóm. Có một số dân tộc thiểu số đã định cư trên lãnh thổ Việt Nam từ rất lâu đời, nhưng cũng có các dân tộc chỉ mới di cư vào Việt Nam trong vài trăm năm trở lại đây như người Hoa ở miền Nam. Việt Nam là một nước đông dân, tuy diện tích đứng hạng 65 nhưng lại xếp thứ 13 trên thế giới về dân số.
Nằm trong hệ thống văn hoá Đông Nam Á, Văn hóa Việt Nam là văn hóa 54 tộc người Việt hay nói cách khác là văn hóa của dân tộc Kinh, đại đa số đã có nguồn gốc tại miền bắc Việt Nam và là một trong những nền văn hóa lâu đời nhất ở trong khu vực Thái Bình Dương. Mặc dù ảnh hưởng Trung Hoa được coi là ảnh hưởng lớn nhất của văn hóa ngoại lai trên nền văn hóa cổ truyền Việt Nam, dân tộc Kinh vẫn giữ gìn được rất nhiều nét văn hóa riêng của mình, mà cho tới ngày hôm nay những phong tục riêng đó vẫn quan trọng vô cùng trong đời sống của người Việt.
CHƯƠNG II
ĐẶC TRƯNG TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ ĐÔNG NAM Á TRONG VĂN HOÁ VIỆT NAM
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về văn hoá Đông Nam Á, trong đó có đi sâu tìm hiểu về văn hoá Việt Nam đã đưa ra được các đặc trưng văn hoá truyền thống như sau:
1, Thuần dưỡng cây lúa.
Theo một số nhà nghiên cứu thì cư dân Đông Nam Á có những nét chung thống nhất, vì cư dân ở đây có chung một nền tảng văn hoá Đông Nam Á lấy sản xuất nông nghiệp lúa nước làm phương thức hoạt động kinh tế chính. Đông Nam Á được coi là cái nôi của cây lúa nước và là một trong 5 trung tâm cây trồng lớn trên thế giới.
Với các yếu tố địa hình thuận lợi, khí hậu nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều và có gió mùa, hệ thống thuỷ lợi (Tại Việt Nam theo như một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng sáng tạo nhất của Việt Nam tìm ra được chính là hệ thống đê điều)… đã tạo cơ sở thuận lợi cho việc trồng lúa nước. Và cũng chính từ quá trình hình thành và phát triển mạnh mẽ của cây lúa đã trở thành yếu tố hạt nhân mang tính lịch sử đầu tiên tạo ra một khu vực văn hoá Đông Nam Ávới nền văn minh lúa nước có từ ngàn đời mang những đặc trưng : Tính bám đất, một yếu tố thiêng liêng sống còn chỉ có ở những cư dân nông nghiệp (truyền thống yêu nước cũng có cơ sở xuất phát từ đây); Yếu tố tự túc, chính là việc tự cung tự cấp, người dân làm ra của cải, lương thực thực thực phẩm để phục vụ cho chính nhu cầu sống, quá trình lao động và sinh hoạt của cá nhân và toàn xã hội; Yếu tố hướng nội, chỉ biết mình, riêng mình là nhất, thể hiện rõ nét trong tâm lý cư dân Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng, thêm vào đó là yếu tố đóng cửa khiến cho đời sống nhân dân và các mối quan hệ, thông thương rất dễ rơi vào tình trạng trì trệ, thiếu nhạy bén…Ngoài ra còn tạo ra một giá trị hành động trường cửu “Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà” giá trị ấy không chỉ đúng trong quá khứ mà còn phù hợp với hiện tại và trong cả tương lai.
Không phải ngẫu nhiên biểu tượng của hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á luôn là bó lúa – nó “thể hiện cái thống thất nhưng thống nhất trong đa dạng”. Cây lúa tuy nhỏ bé nhưng lại đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự sống và mang những giá trị văn hoá tốt đẹp:
Tính lựa chọn : Người ta trồng lúa để tạo ra nguồn lương thực, trồng lúa để mưu sinh cuộc sống. Ngoài ra lúa cũng trở thành nguồn cảm hứng mang đầy tính nghệ thuật trong ca dao, dân ca, thơ hoạ…
Tính lịch sử, cố kết cộng đồng : Cây lúa đã giúp gắn kết cộng đồng trong suốt quá trình lịch sử hình thành và phát triển của mỗi dân tộc. Những nền văn minh nông nghiệp lúa nước ở các quốc gia phương Đông đều gắn liền với lịch sử ra đời của cây lúa, Lịch sử phát triển của cây lúa gắn với lịch sử phát triển của cả dân tộc Việt Nam, in dấu trong từng thời kỳ thăng trần của đất nước.
Tính cần cù, ưa lao động: Nhắc đến cây lúa là nhắc đến hình ảnh của người nông dân lam lũ, vất vả chịu khó một nắng hai sương để làm ra hạt ngọc cho đời
Tính biểu trưng: Cây lúa trở thành hình ảnh biểu trưng tiêu biểu cho cuộc sống sung túc, no đủ. Mặt khác còn là hình ảnh của người nông dân, hình ảnh của bản làng, quê hương đất nước
Ngoài ra giá trị văn hoá của cây lúa còn được thể hiện thông qua tính hợp tác và tiết kiệm.
Đối với người Việt, cây lúa không chỉ là một loại lương thực quý mà còn là một biểu tượng trong văn chương ẩn dưới “bát cơm, hạt gạo”. Trong những năm gần đây, từ nước thiếu lương thực trầm trọng đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới. Không chỉ có giá trị đối với sự sống, cây lúa và hạt gạo còn đi vào thơ ca dân gian: “em xinh là xinh như cây lúa”…Qua hàng nghìn năm lịch sử, cây lúa cũng gắn bó mật thiết trong đời sống tinh thần của con người qua ngôn ngữ hàng ngày, cách nói, cách đặt tên, gọi tên từ cửa miệng của những người hai sương một nắng. Cây lúa gần gũi với người nông dân như bờ tre, khóm chuối, thấm đẫm tình người và hồn quê hoà quyện thân thương – cây lúa một văn hoá rất Việt Nam.
Nông nghiệp Việt Nam vốn mang dáng dấp một nước -nền công nghiệp lúa nước bao đời nay cho nên cây lúa gắn bó ,gần gũi với người Việt, với hồn Việt là lẽ dĩ nhiên. Cây lúa gần gũi với người nông dân cũng như bờ tre, khóm chuối. Bởi vậy thấm đẫm tình người và hồn quê. Càng nắng mưa, sương gió, càng nồng nàn hoà quyện thân thương.
Có thể nói, từ ngàn đời nay,cây lúa đã gắn bó với con người, làng quê Việt nam, và đồng thời cũng trở thành tên gọi cho một nền văn minh – nền văn minh lúa nước. Cây lúa không chỉ mang lại sự no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa và tinh thần hạt lúa và người nông dân cần cù, mộc mạc là mảng màu không thể thiếu trong bức tranh của đồng quê Việt nam hiện nay và mãi mãi về sau.
 Là cây trồng thuộc nhóm ngũ cốc, lúa cũng là cây lương thực chính của người dân Việt Nam nói riêng và người dân Châu Á nói chung. Cây lúa, hạt gạo đã trở nên thân thuộc gần gũi đến mức từ bao đời nay người dân Việt Nam coi đó là một phần không thể thiếu trong cuộc sống. Từ những bữa cơm đơn giản đến các bữa tiệc quan trọng không thể thiếu sự góp mặt của cây lúa, chỉ có điều nó được chế biến dưới dạng này hay dạng khác. Cây lúa không chỉ giữ vai trò to lớn trong đời sống kinh tế, xã hội mà còn có giá trị lịch sử, bởi lịch sử phát triển của cây lúa gắn với lịch sử phát triển của cả dân tộc Việt Nam, in dấu ấn trong từng thời kỳ thăng trầm của đất nước. Trước đây cây lúa hạt gạo chỉ đem lại no đủ cho con người, thì ngày nay nó còn có thể làm giàu cho người nông dân và cho cả đất nước nếu chúng ta biết biến nó thành thứ hàng hóa có giá trị.
Như vậy, Việt Nam là cái nôi của nền văn minh lúa nước, hạt gạo gắn liền với sự phát triển của dân tộc.
2, Thuần dưỡng trâu, bò, ngựa.
Những loài vật trên đều rất phổ biến và thích ứng tốt với địa hình, khí hậu cũng như là đặc điểm của một nền sản xuất nông nghiệp.
Ban đầu con người săn bắt lấy thịt, sau được thuần dưỡng vừa để lấy thịt, vừa làm công cụ cày bừa( theo lề lối canh tác “Thuỷ nậu”), vật tế thần. Hình ảnh hội đâm trâu của người việt cổ còn được trạm khắc trên trống đồng và vẫn còn sống động trong lễ hội mùa xuân ở Tây Nguyên.
Những con vật gắn bó gần gũi với con người, với người nông dân; đó còn là biểu tượng linh thiêng, vật tế thần. Ví dụ như : biểu tượng trâu vàng của Seagame. Tây Nguyên cũng lấy biểu tượng con trâu làm vật linh thiêng, trâu ở đây được nuôi không phải để giết thịt hay cày cấy mà được sử dụng vào mục đích duy nhất phục vụ trong các dịp tế thần, vật tế thay cho con người, nhằm xua đi những vận nạn, những điều không may.
Kể từ thời đại vua Hùng dựng nước, con Trâu trở nên một nhân tố cấu trúc hữu cơ của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước Việt Nam: “Con Trâu là đầu cơ nghiệp”.
Cảnh sắc thường thấy trong môi trường sinh thái – nhân văn Việt Nam là cảnh:
Trên đồng cạn, dưới đồng sâu,
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa!
Trâu kéo cày dưới thung đồng. Trâu kéo gỗ trên ngàn, kéo lết không cần xe bánh… Những đoàn xe trâu đi trên đường Trường Sơn, từ Quảng Bình tới Quảng Nam, đã được Lê Quý Đôn (thế kỷ 18) mô tả kỹ lưỡng trong Kiến văn tiểu lục…
Và trâu còn được dùng trong chiến trận. Đinh Bộ Lĩnh và bầy trẻ mục đồng trong thung lũng Hoa Lư cưỡi trâu, rước cờ lau tập trận. Lê Đại Hành lùa trâu cùng quân sĩ đứng dày đặc trên hai bờ sông Hoàng Long để đón chào và dọa dẫm sứ thần nhà Tống. Trâu được cho uống rượu say và lùa xô vào húc phá đội hình quân địch. Và trâu còn được buộc mồi lửa sau đuôi, lùa sang trại giặc trong nhiều trận hỏa công…
Từ đời sống thực tại ấy, con trâu đã đi vào lĩnh vực tinh thần, tâm linh của người Việt chúng ta : Tượng trâu bằng đất nung hơn 3000 năm trước, vật trang sức bằng đầu trâu nửa đá quý( ở di chỉ Đình Chàng, Hà Nội), hình ảnh con trâu trong tranh dân gian xưa, huyền thoại trâu nước, tục lệ thi chọi trâu ( tổ chức hàng năm nhằm tái vận hành và tiếp sức sinh sôi nguồn xung lực, sinh lực của Trời – Đất – Con người), đi vào năm, tháng, ngày, giờ của lịch 12 con giáp.
Như vậy, con trâu có vai trò quan trọng trong nền văn hoá Việt Nam và Đông Nam Á cổ truyền. Tục ngữ ca dao ta có câu : Con trâu là đầu cơ nghiệp. Để nói lên sự sung túc, thành công của nhà nông: Ruộng sâu, trâu nái. Con trâu còn gắn liền với tuổi thơ của trẻ em nông thôn: Vui đùa với trâu, thả diều, phơi áo trên lưng trâu…
3, Ăn
Người Việt ta từ xưa đến nay rất quan tâm đến vấn đề ăn uống. phong tục ăn uống của người Việt tuân theo ngũ hành tương sinh tương khắc và dựa vào vốn văn hóa bản địa. Ăn trông nồi ngồi trông hướng. Lời chào cao hơn mâm cỗ. Câu nói ấy là cách ứng sử của người việt khi ngồi vào bàn ăn. Khi ăn người Việt không im lặng như người phương tây mà coi bữa ăn như một dịp để gia đình người thân có điều kiện trao đổi về công việc , hỏi thăm nhau và nói những chuyện vui. Người Việt dùng đũa khi ăn chứ không dùng thìa hay nĩa như người phương Tây. Cây tre khí hàn (khi gắp đồ nóng không bị nóng tay )biểu diẽn cho thuyết lấy âm trị dương, nếu ai chú ý sẽ thấy người việt ăn rầt nhiều gia vị , much đich ban đầu là làm cho món ăn thêm ngon nhưng sâu xa hơn cả là thuyết cân đối âm dương của món ăn và điều hòa âm dương trong cơ thể. Cá tanh có tính hàn (nhiệt) sẽ được nấu với những gia vị có tính âm như riềng, nghệ rau răm, ớt…. Khi ăn trứng vịt lộn (ăn món này hay lạnh bụng), ngưới ta thường ăn với rau răm và gừng tiêu….
Người Việt xưa thường dùng nồi đất (âm) để áp chế thủy (hàn). Những điều này có thể xuất phát từ phong tục thờ mẫu xa xưa của người việt. Trong tục thờ tứ linh của người Việt cũng có tục thờ mẫu (bà chúa thượng ngàn tức công chúa Liễu hạnh). Một chiếc bánh chưng người Viẹt vì thế phải có đủ âm dương, hình vuông của đất (âm ) thịt (dương) được khắc chế bằng hành. đỗ, hạt tiêu (âm)…. và nhiều món ăn độc đáo nữa của người việt là sự kết hợp khéo léo của Âm và dương…
Ăn uống là văn hoá hay đó là văn hoá tận dụng môi trường tự nhiên. Bởi vậy trong cơ cấu bữa ăn của người Việt Nam biểu hiện rất rõ dấu ấn truyền thống văn hoá nông nghiệp lúa nước: Cơ cấu ăn thiên về thực vật. Có người từng gọi xứ chúng ta là văn minh thực vật, thể hiện cho văn hoá lúa nước tính chất thực vật in đậm dấu nét trong cuộc sống hàng ngày. Tính chất thực vật còn được thể hiện rõ nét trong đời sống tâm linh mà điển hình là tục thờ cây
Bữa ăn chung thường có Cơm – rau – cá. Trong thực vật thì lúa gạo đứng đầu bảng, cùng với việc nằm trong khu vực của một trong những trung tâm trồng trọt, chúng ta có một danh mục rau quả vô cùng phong phú. Tuy nhiên nói đến rau trong bữa ăn của người Việt Nam không thể thiếu rau muống và dưa cà. Cá một loại thuỷ sản, sản phẩm đặc thù của vùng sông nước, sau cơm rau thì cơm cá là thông dụng nhất.
Các món ăn được chế biến công phu, theo nhiều kiểu khác nhau. Tại Việt Nam tuỳ theo từng vùng miền lại có những kiểu chế biến, món ăn khác nhau rất đặc trưng. Cách ăn với đũa trong tư thế ngồi thẳng người, gắp vừa ăn, vừa ăn uống vừa trò chuyện, làm nên văn hoá “mâm cơm” độc đáo. Bởi vậy đôi đũa đóng vai trò quan trọng trong văn hoá Á Đông; Có khi chỉ cần dựa vào cách cầm đũa cũng đoán biết được tính tình, khả năng của con người.
Qua ăn uống, người Việt Nam cũng biểu hiện quan hệ với cộng đồng, từ gia đình với bữa cơm gia đình đến họ hàng làng nước trong những dịp lễ tết, khao vọng, giỗ chạp, hội hè, yến tiệc. Trong cộng đồng gia đình, các thành viên thường quây quần xung quanh mâm cơm với những món ăn chung và chén nước măm chung. Trong bữa ăn của người Việt cũng đề cao tính tôn ti trật tự (mời cơm trước và sau khi ăn, hay những người gìa cả thì được ngồi mâm trên…).Ăn uống của người Việt còn mang tính hướng ngoại. Người ta có thể rất tiết kiệm, giản dị trong bữa ăn hàng ngày nhưng lại rất hào phóng đến mức hoang phí trong yến tiệc, hội hè, khao vọng bởi trong đó có vấn đề danh dự và sĩ diện
Ngoài ra ăn trầu cau cũng được xem là một phong tục cực kỳ lâu đời ở Việt Nam và cũng là phong tục phổ biến khắp vùng Nam Á và Đông Nam Á.Tục ăn trầu cau chứa đựng một triết lý tổng hợp hài hoà: Cây cau vươn cao – biểu tượng mặt trời (dương), vôi chất đá là biểu tượng của đất (âm), dây trầu mọc lên quấn quýt lấy thân cây biểu tượng cho vai trò trung gian hoà hợp. Miếng trầu có cái tươi ngọt từ hạt cau, vị cay của lá trầu, vị nồng của vôi, bùi của rễ… khiến môi đỏ má thắm. Cơi trầu thực sự đã trở thành một biểu tượng văn hoá đặc biệt : Được dùng khi tiếp khách (miếng trầu là đầu câu chuyện), là biểu tượng của tình cảm (miếng trầu ăn nặng bằng chì – ăn rồi em biết lấy gì đền ơn), biểu tượng của hôn nhân (nói cho ăn trầu có nghĩa là sẽ có đám cưới), biểu tượng của sự kính trọng (cơi trầu lên quan), của việc cám ơn (cơi trấu mời khách trong đám ma), của việc xin lỗi (cơi trầu tạ với làng khi nhà có con hư); cách têm trầu là thước đo tài khéo léo của người phụ nữ; ăn trầu phổ biến tới mức trở thành thước đo thời gian (thơ Nguyễn Bính : Láng giếng đã đỏ đèn đâu – Chờ em chừng giập bả trầu em sang)
4, Mặc.
Đặc trưng văn hoá truyền thống trong trang phục của cư dân Đông Nam Á trước kia là cởi trần đóng khố. Lúc này con người chưa chú trọng đến việc mặc mà chủ yếu tìm cách kiếm nguồn thức ăn duy trì cuộc sống . Tiện những vật dụng có trong tự nhiên như cành lá, vỏ cây đan vào nhau để che thân. Dần Dần khi đời sống tiến bộ hơn, con người chú trọng hơn đến cách ăn mặc, trang phục thì lúc này mỗi quốc gia lại sáng tạo một loại trang phục, một cách ăn mặc sao cho phù hợp tuy nhiên đi theo đặc trưng chung nhất của khu vực Đông Nam Á là giữ nét kín đáo, trang nhã, tôn lên vẻ đẹp của con người Á Đông.
Nền văn hóa thực vật – sông nước của người Việt cổ, với cây lúa là chủ chốt, điều kiện rừng núi, cây cối rậm rạp, đàn ông thường cởi trần đóng khố còn đàn bà thường mặc váy và áo ngắn, sau này đã xuất hiện và lên ngôi một thứ cây thứ hai, nhằm giải quyết vấn đề mặc, đó là cây dâu. Cây dâu được trồng và chăm bón để làm thức ăn cho con tằm, tằm ăn lá dâu rồi nhả tơ cho người Việt cổ quay tơ, dệt lụa và trở thành cái mặc, để từ đó thành văn hóa mặc của người Việt qua các thời kỳ lịch sử. Sinh hoạt nông nghiệp cổ truyền phụ thuộc gần như hoàn toàn vào thiên nhiên. Việc ăn, mặc ở đây phải giản dị, thiết thực “ăn lấy chắc, mặc lấy bền”. Nếu đủ cơm, đủ áo thì chẳng sợ thế lực nào nữa: Cơm ba bát, áo ba manh, đói không xanh, rét không chết. Người Việt cổ đã phân biệt rất rõ, hai cử chỉ văn hóa khác nhau trong việc mặc khi đi làm đồng vất vả thì mặc trang phục khác và khi đi trẩy hội, lúc Tết lễ hội hè lại có cách mặc khác. Tơ tằm được người Việt dệt ra nhiều “biến tấu” rất phong phú, đó là: tơ, lụa, lượt, là, gấm, vóc, đũi, nái, thao the, vân, sồi, nhiễu, đoạn, lĩnh… Về sau người Việt còn sử dụng các chất liệu khác như tơ chuối, tơ đay, tơ gai, sợi bông… nhưng chất liệu đầu tiên cho may mặc cổ truyền vẫn là tơ tằm. Theo cách phân chia của người Việt cổ tùy theo chủng loại, chức năng, trang phục gồm có đồ mặc phía trên, phía dưới, đồ đội đầu, đồ đi chân và đồ trang sức. Cách phục sức của người Việt thường bị chi phối bởi khí hậu nhiệt đới gió mùa, mưa dầm, gió bấc, đặc biệt là sự nóng bức. Tuy nhiên, trong cách phục sức người Việt có sự phân biệt giới tính nam và nữ.
Trang phục Việt Nam cũng được thay đổi theo quá trình phát triển của lịch sử. Hai nét nổi bật trong trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam là áo dài và nón lá.
Thời phong kiến, trang phục của phụ nữ là: váy đen, yếm trắng, áo tứ thân, đầu chít khăn mỏ quạ, thắt lưng hoa lý. Bộ lễ phục gồm ba chiếc áo, ngoài cùng là áo dài tứ thân bằng the thâm hay màu nâu non, kế đến là chiếc áo màu mỡ gà và trong cùng là chiếc áo màu cánh sen. Khi mặc, cả ba chiếc áo chỉ cài khuy bên sườn, phần từ ngực đến cổ lật chéo để lộ ba màu áo. Bên trong là chiếc yếm thắm. Ðầu đội nón trông rất duyên dáng và kín đáo.
Tới nay, trang phục truyền thống của người Việt đã thay đổi. Bộ âu phục dần thay thế cho bộ đồ truyền thống của đàn ông. Chiếc áo dài của phụ nữ ngày càng được cải tiến và hoàn thiện hơn như ngày nay, mặt khác do yêu cầu của lao động, công việc, không phải lúc nào phụ nữ cũng mặc áo dài mà chỉ những ngày trang trọng, ngày vui… thì mới có dịp để “thể hiện mình”.
Ðối với nhiều dân tộc khác ở Việt Nam, trang phục truyền thống cũng đang dần dần mất đi nét riêng và thay thế bởi những hàng may sẵn, vừa tiện dụng, rẻ lại thêm rất nhiều ưu điểm khác trong cuộc sống hiện tại cho bản thân và gia đình họ.
Trang phục truyền thống Áo dài: Trải qua năm tháng, chiếc áo dài của phụ nữ Việt Nam ngày càng được thay đổi và hoàn thiện hơn. Ðó là chiếc áo dài có thân áo tương đối bó sát thân người, làm cho thân thể phụ nữ hiện lên được đường cong mềm mại, phù hợp với vóc người nhỏ nhắn của phụ nữ Việt Nam. Hai tà áo thả xuống ngang nửa ống chân, thướt tha bay trong gió, quấn quýt từng bước đi. Thân áo xẻ hơi cao, hơn cả quần để lộ một chút phần mình phía trên. Tay áo nới rộng vừa phải, có thể hơi loe, tay chỉ dài đến 3/4 cánh tay, nếu muốn tạo dáng khoẻ, trẻ trung.Gần đây, các mốt thời trang của nước ngoài được du nhập vào Việt Nam, nhưng bộ trang phục áo dài truyền thống vẫn được phụ nữ Việt Nam ưa chuộng.
Cùng với áo dài, phụ nữ Việt Nam còn có chiếc nón bài thơ duyên dáng. Chiếc nón bài thơ ngày nay cũng là kết quả của nhiều lần sàng lọc, qua thực tế sử dụng che mưa, nắng. Ðể làm ra những chiếc nón đẹp, người thợ làm nón phải chọn những lá non của cây cọ đem phơi khô, là phẳng để lợp nón. Bên trong lớp lá trắng ngần như lụa là hình ảnh con đò, bến nước quê hương và vần thơ quen thuộc. Trang phục của các dân tộc Việt Nam hết sức phong phú và đa dạng, và mỗi trang phục lại mang những nét độc đáo và đặc trưng riêng cho từng vùng, từng miền, chẳng hạn ở vùng thấp miền núi, các dân tộc sống trên những nếp nhà sàn thường mặc quần, váy, áo màu chàm với nhiều mô típ hoa văn mô phỏng hoa rừng, thú rừng. Ở vùng núi, cao nguyên phụ nữ thường mặc váy, nam giới đóng khố…Song nhìn chung trang phục của các dân tộc được trang trí hoa văn sặc sỡ hài hoà về màu sắc, đa dạng về mô típ, mềm mại về kiểu dáng, thuận cho lao động trên nương, tiện cho việc đi lại trên đường đèo dốc.
Cùng với những bộ váy áo do đôi bàn tay khéo léo và tâm hồn thẩm mỹ của các thiếu nữ dân tộc tạo ra thì những bộ đồ trang sức như các loại hoa tai, vòng tay, vòng cổ bằng đồng, bạc, dây cườm không thể thiếu được trong trang phục của người dân tộc. Về màu sắc, toàn bộ đều dùng màu trầm với hai màu chủ yếu là nâu, đen. Riêng yếm rất nhiều màu sắc với chủ yếu là đen và đỏ thắm. Cùng với thắt lưng, khăn, nón, mũ và đồ trang sức, trang phục người Việt cổ truyền đã tỏ ra linh hoạt, thích ứng với hoàn cảnh sống nông nghiệp.
§éi kh¨n: kh¨n vu«ng chÝt h×nh má qu¹, ®éi vµo mïa l¹nh, kh¨n vu«ng chÝt h×nh ®ång tiÒn ®éi vµo mïa nãng.
Ng­êi Nam Bé th× ®éi kh¨n r»n. §µn «ng th× ®Ó tãc dµi bói tã, bã cñ hµnh. Khi lµm lông th× vÊn kh¨n ®Çu r×u, lóc sang träng th× ®éi kh¨n xÕp.
C¸c lo¹i nãn: Thay cho kh¨n lµ nãn che m­a n¾ng gåm cã nãn chãp nhän ®Çu, nãn thóng réng vµnh, nãn ba tÇm. C¸c lo¹i nãn nµy ®Òu ph¶i cã quai ®Ó gi÷.
Sau nµy xuÊt hiÖn mò.
Ng­êi ViÖt th­êng ®eo vßng, nhuém r¨ng ®en, ¨n trÇu, nhuém mãng tay, mãng ch©n b»ng th¶o méc, tôc x¨m m×nh. T¸c dông lµ ®Ó trõ tµ ma vµ lµm ®Ñp cho con ng­êi.
5, Ở (Nhà sàn).
Trong quan niệm về nhà cửa của người dân Việt, nhà là chỗ ở được đồng nhất với gia đình gồm mọi người sống trong gia đình. Đối với người nông nghiệp, ngôi nhà là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo cho họ một cuộc sống định cư ổn định, đối phó với các hiện tượng thời tiết “ Có an cư thì mới lạc nghiệp”
Về đặc điểm ngôi nhà của người Việt, do yếu tố địa hình thường gắn liền với sông nước. Những người sống bằng nghề sông nước ( chài,lưới, chèo đò) thường lấy ngay thuyền làm nhà ở. Đó là các thuyền, nhà bè. Nhiều gia đình quần tụ, lập lên các xóm chài, làng chài
Kiểu nhà sàn là loại hình nhà phổ biến của cư dân khu vực Đông Nam Á và Việt Nam thích ứng với cả vùng sông nước và miền núi. Do yếu tố địa hình nằm ở phía Đông Nam của Châu Á, con người dựa vào những nhu cầu sinh tồn và điều kiện sống để xây dựng những ngôi nhà sàn có sàn và mái cao, phía dưới có khoảng rộng để nhốt gia súc. Đây là loại hình nhà ở thoáng mát, sạch sẽ. Nguyên liệu làm bằng gỗ, vật liệu sẵn có thích hợp trong tự nhiên, dựng trên các sườn dốc dọc quanh các con sông vừa tránh xói mòn vừa thích hợp với khí hậu xứ ẩm ướt tránh các loài côn trùng, các loài thú dữ và chống ẩm rất tốt. Việc chất bếp phía trong nhà giúp ích rất nhiều trong việc hạn chế mối mọt, các loại côn trùng nhờ vào hơi bay lên. Nhà sàn cũng có nhiều loại: nhà sàn của người Tày, Thái, Mường, Dao… mang những nét khác nhau như mái có hình mai rùa hoặc chữ nhật… Nhà của một số dân tộc dọc Trường Sơn – Tây Nguyên là những nhà dài có mái hình chữ nhật, nhà rông với kiến trúc đồ sộ bởi những hàng cột lớn có mái hình lưỡi rìu cao vút… Nhà nền đất của các dân tộc ven biển, trung du cũng có những kiểu dáng khác nhau.
Cư dân người Việt Cũng cư trú trên các doi đất cao dọc hai bên những con sông hoặc quanh các đầm hồ, các cồn cát ven biển, thường là ngã ba sông nơi hội tụ nguồn thức ăn thuỷ sản và các đầu mối giao thông. Ở mỗi tiểu vùng lại có những trung tâm được xem là những điểm cư trú hạt nhân với quy mô vài ba héc ta, với vài chục hộ gia đình. Với những đơn vị cư trú như vậy thường bao gồm những ngôi nhà của mỗi gia đình và một ngôi nhà lớn dùng trong sinh hoạt cộng đồng.
Thường thì phương Đông rất coi trọng yếu tố tâm linh. Việc chọn hướng nhà hướng đất cũng rất được coi trọng. Tuỳ thuộc vào địa hình và địa vật xung quanh và sự có mặt của núi, sông, của con người mà ảnh hưởng của gió, nắng… sẽ khác nhau. Truyền thống nông nghiệp đã hình thành cả một nghề chọn đất làm ăn, đặt mộ theo phong thuỷ. Phong thuỷ cũng được xem là hai yếu tố quan trọng nhất tạo thành vị khí hậu cho một ngôi nhà ( Phong = gió, thuỷ = nước. Nhà phải nắm vững hướng gió, mặt trước nhà sẽ tạo nên sự cân bằng sinh thái cho ngôi nhà).
Đặc điểm truyền thống của ngôi nhà người Việt là rất động và linh hoạt, Hình thức và kiến trúc ngôi nhà Việt còn tuân thủ theo nguyên tắc coi trọng số lẻ của truyền thống văn hoá nông nghiệp.
6, Phương tiện đi lại .
Việc đi lại bằng thuyền ở Đông Nam Á đã có từ rất xưa, có thể nói cư dân Đông Nam Á đã biết đóng thuyền bè mảng và thuyền đi biển rất sớm. Những chiếc thuyền được cải tiến theo thời gian và đạt đến đỉnh cao vào khoảng thế kỷ 5 TCN với những chiếc tàu có hình dáng to lớn, kiểu cong mũi, cong lái được khắc trên nhiều trống đồng Đông Sơn, Kiểu dáng hoa văn trang trí trên thuyền đều mang dáng dấp đặc trưng của đời sống cư dân khu vực Đông Nam Á. Việc buôn bán thông thương qua đường biển trở nên khá thuận lợi, không phải ngẫu nhiên mà ở khu vực này đã xuất hiện những nhà địa lý hay du lịch, nhà truyền giáo hay ngoại giao của cả phương Đông và phương Tây… Những nhà thám hiểm đã tiến hành việc tìm hiểu, ghi chép dựa trên cuộc thám hiểm thông qua các đại dương bằng thuyền và họ đã đưa ra được nhận xét về khu vực Đông Nam Á – một bộ phận của hệ thống mậu dịch thế giới, nối liền hai thế giới Đông – Tây
Tại Việt Nam, do môi trường sống là môi trường sông, biển nên đường thuỷ là tuyến giao thông chủ yếu và con thuyền là phương tiện chuyên chở, đi lại phổ cập. Còn trên cạn, voi là động vật thích hợp tối ưu trong giao thông vận tải, có thể chở các đồ vật nặng, có thể vượt sông, vượt suối và sử dụng trong chiến đấu. Ngày nay với nét độc đáo của phương tiện Việt Nam, mặc dù trải qua các quá trình lịch sử thì phương tiện xe mô tô – xe máy, là loại phương tiện thông dụng nhất trong sinh hoạt, trong vận chuyển, trong việc đi lại trên cạn của người Việt Nam hiện nay.
7, Cộng đồng xã hội.
Là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, chịu ảnh hưởng lớn từ hệ thống những quy định, hệ tư tưởng phương đông, các mối quan hệ xã hội mang tính thống nhất, chặt chẽ, quy tụ lại trong một khoảng không gian nhất định điều đó tạo nên tính gắn kết cộng đồng cao, tình đoàn kết tương thân tương ái giữa người với người. Hiện nay cộng đồng xã hội cũng đã được mở rộng hơn, tuy nhiên yếu tố tư tưởng cốt lõi vẫn tiếp tục tồn tại và không ngừng phát triển.
Tổ chức sinh hoạt cổ truyền đặc trưng của người Việt chính là Làng, khi nói đến Làng chính là một đơn vị tụ cư nhỏ nhất nhưng hoàn chỉnh của người nông dân Việt, trong đó chứa đựng một hệ thống những quan hệ hết sức đa dạng, chặt chẽ nhưng không bảo thủ và đóng kín. Làng có một nền văn hóa riêng và tạo thành tiểu văn hóa. Đó là văn hóa dân gian( như tổ chức việc học hành, bình văn, thu góp xây dựng đình chùa, tổ chức hội hè đình đám…)
Làng – Nước trong thiết chế chính trị xã hội cổ truyền có một quan hệ gắn bó đặc biệt, hết sức chặt chẽ về nghĩa vụ nhưng tương đối lỏng lẻo về tổ chức khiến cho làng gần như được tự quản mà thực hiện trách nhiệm của mình đối với quốc gia. Tính tự quản của làng Việt Nam là kết quả của quá trình vận động và phát triển của làng xã. Mỗi thành viên trong xã hội đều có nghĩa vụ kép với làng với nước: ”Trong làng, ngoài nước”. Nghĩa vụ đói với Nhà nước được thể hiện ra thành sưu (thuế, đinh), thuế điền. Làng đảm bảo nghĩa vụ binh dịch cho Nhà nước.
Làng Việt Nam một hình thức độc đáo của hình thức tồn tại xã hội, một tế bào xã hội đặc trưng cho nông thôn Việt nam. Sự tồn tại của xã hội nông thôn trong hệ thống xã hội đều phụ thuộc vào sự hiện diện và biến đổi của làng xã. Nếu làng xã bị phá vỡ và quần cư làng xóm mất đi thì xã hội mất đi sự khác biệt giữa nông thôn và đô thị. Chính sự hiện diện của cộng làng với tư cách là một tổ chức xã họi hữu cơ, có một nền văn hóa đặc thù độc đáo, tạo ra một thiết chế xã họi chặt chẽ làm cho nông thôn Việt Nam luôn bị trì kéo trong sự vận động đi lên của nó. Nói chung làng Việt Nam luôn đóng vai trò chủ đạo trong sự vận động biến đổi của xã hội Việt Nam. Đoa chính là nét đặc thù của thiết chế xã hội kiểu Á đông này. Và phát triển kinh tế xã họi trong nọi bộ làng xã vừa là mực tiêu hàng đầu vừa là cái đích cuối cùng của chương trình phát triển xã hội. Do đó phải có sự cải tạo và thay đổi về chất những hoạt động sống của làng xã Việt nam.
8, Mẫu hệ.
Lịch sử quá trình tồn tại của con người luôn gồm hoạt động kinh tế (lao động) và duy trì nòi giống. Trong việc duy trì nòi giống người phụ nữ đóng vai trò rất quan trọng. Ở thời kỳ đầu tồn tại dạng quần hôn, lúc này người đàn ông giữ vai trò kiếm thức ăn thông qua việc săn bắn, chính việc đó đã làm người đàn ông vẫn như con thú hoang còn người phụ nữ đã hoàn thiện hơn đầy đủ như một con người. Người phụ nữ lúc này có vai trò vô cùng quan trọng trong việc thuần dưỡng mọi loại cây; là người phát minh ra lửa, gốm, quần áo… Đã có nhận xét con vật cuối cùng mà người phụ nữ thuần dưỡng được chính là người đàn ông.
Quá trình nghiên cứu cho thấy, hình thức gia đình lớn thuộc chế độ mẫu hệ tương đương với thời kỳ tiền cốc loại làm rẫy ở vùng núi hay cao nguyên trong các thị tộc. Khi chuyển sang làm lúa nước ở các vùng thung lũng và đồng bằng gia đình lớn bị vỡ vụn ra thành các gia đình hạt nhân,xã hội chuyển từ công xã thị tộc chuyển sang công xã nông thôn, chế độ phụ hệ dần thay thế chế độ mẫu hệ tuy nhiên vai trò của người phụ nữ Đông Nam Á còn rất lớn và được củng cố bởi chế độ tiểu nông.
Người phụ nữ Đông Nam Á được đề cao vì ngoài cái thiên chức “sinh con đẻ cái”, họ lao động không kém gì đàn ông trên ruộng lúa. Họ còn làm những công việc buôn bán, tiểu thương và là “tay hòm chìa khóa”; trong nhà họ là “nội tướng” lo toan đủ điều kể cả việc chăm lo thuốc thang và chăm lo đời sống tâm linh, thờ cúng tổ tiên, thờ thần lúa… Vì thế người Việt nói “phúc đức tại mẫu”. Từ “cái” trong “con dại cái mang” còn được dùng để gọi cái gì là lớn như sông cái, đường cái, trống cái… Mặc dù phận gái, nhưng phụ nữ Đông Nam Á đều tham gia bảo vệ đất nước “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” và mỗi quốc gia dân tộc đều có những nữ anh hùng. Vì vậy, ở Đông Nam Á có tục thờ Mẹ. Người Việt có “đạo mẫu”, người Chàm thờ “thần mẹ xứ sở”,… ở miền Bắc Việt Nam hầu như các chùa đều có cấu trúc “Tiền Phật, hậu Thánh” mà đa phần là Thánh Mẫu. Ngay đức Phật cũng được “mẫu hóa” thành Phật Bà Quan Âm; rất nhiều tượng Phật thời Lê đều có khuôn mặt nữ. Có nơi như chùa Tiên Sơn (Bắc Ninh) người ta còn hóa thân hai vị Phật và Thánh thành chùa “Quan Âm Thánh Mẫu”…
Trải qua quá trình tiếp nhận văn hoá Hán, văn hoá Ấn Độ và văn hoá phương Tây vấn đề về người phụ nữ đã có những thay đổi rõ rệt. Nhìn nhận lại vai trò của người phụ nữ Đông Nam Á trong gia đình và ngoài xã hội với 3 việc lớn: Sinh con nuôi dạy con cái, lao động sản xuất không kém nam giới, tham gia quản lý cộng đồng. Và nếu như gia đình Việt Nam gắn với cộng đồng xã hội, thì người phụ nữ như là cầu nối của sự gắn bó đó.
Trong xã hội lấy việc chăn nuôi là chính thì người đàn ông giữ vai trò chủ đạo, nhưng trong xã hội nông nghiệp thì vai trò của người phụ nữ rất lớn, bởi vậy với xuất phát điểm là một nước nông nghiệp, yếu tố nữ đã duy trì từ lâu đời. Ngay từ ban đầu, Việt Nam đã ở vào hệ văn minh coi trọng người phụ nữ nhất. Điều kiện sản xuất gắn liền với cây lúa và nước, đặc biệt thích ứng với sự đảm đang, khéo léo của người phụ nữ, vì thế, người Việt cổ tôn thờ nước, lúa, và người phụ nữ, trọng tính âm hơn tính dương. Thời xa xưa, từ “cái” vốn có nghĩa là “mẹ” (“Con dại cái mang”, Bố cái Đại vương). Về sau từ “cái” chuyển sang nghĩa “lớn, quan trọng, chủ yếu” như: đường cái, ngón cái, chữ cái, cột cái, máy cái…Người Việt ghi nhớ công cha nghĩa mẹ nhưng cha thì kính mà mẹ thì thờ, trong tâm thức dân gian thì vị trí, vai trò của người mẹ quan trọng hơn cả: “Con dại cái mang”, “Cha sinh không tày mẹ dưỡng”, “Phúc đức tại Mẫu”. Điều đó cho thấy vị trí, vai trò không thể thay thế của người mẹ đồng thời cho thấy lòng kính ngưỡng thiêng liêng, sâu sắc của tâm thức dân tộc ta dành cho người Mẹ. Người Việt thờ Mẫu trước hết là thờ người mang nặng đẻ đau, ôm ấp chăm bẵm và đến hết đời vẫn còn lo lắng cho con cái của mình, rộng ra là thờ người Mẹ của xứ sở, bảo hộ, bảo trợ cho con người.
Chúng ta chịu sức ép của mưu đồ Hán hóa nhưng cái gien văn hóa Hán gieo vào nước ta cũng bị Việt hóa. Ban đầu là nền văn hóa thuần tính nữ thì giờ đây là nền văn hóa mang tính trội của yếu tố nữ. Văn hóa phụ hệ không phải là tiến trình phát triển tự nhiên của người Việt cổ nên khi ghép vào văn hóa Việt không ăn được vào tầng sâu mặc dù nó chi phối đời sống chính trị xã hội và cả tư tưởng người dân. . Nền văn hóa mang thiên tính nữ và về sau trở thành nguyên lý tính Mẫu được bảo lưu và trở thành căn cốt trong sự tiếp biến văn hóa, nó chọn và bỏ, nó nhào nặn yếu tố văn hóa mới theo lối bản địa hóa văn hóa ngoại lai.
Tinh thần trọng Mẫu vẫn được vun đắp trong suốt chiều dài lịch sử. Các cuộc khởi nghĩa sớm thời Bắc thuộc chủ tướng lại chính là các bà chứ không phải là các ông. Công tích của người phụ nữ được ghi ở mọi lĩnh vực, không thua kém gì công tích của nam giới: tổ tiên nòi giống, tổ nghề, anh hùng chống giặc ngoại xâm, anh hùng lao động anh hùng văn hóa…, trên điện thần, Nữ thần được thờ ngang bằng với Nam thần. Trong xã hội, quan hệ của người phụ nữ được xác lập tương đối song hành với người đàn ông, theo kiểu “của chồng công vợ”, “đàn ông làm nhà, đàn bà bán lợn”. Người đàn ông lo việc ngoài làng ngoài nước, người phụ nữ là “tay hòm chìa khóa”, là nội tướng trong gia đình. Tư tưởng nam tôn nữ ty của chế độ phụ quyền khi áp vào nước ta đã bị nhân dân phản ứng kịch liệt.
Bộ luật Hồng Đức (1478), bộ luật của nhà nước phong kiến phụ quyền, độc tôn Nho giáo đã không thể cứng nhắc và độc đoán bảo vệ quyền lợi một chiều cho nam giới. Các quyền của nữ giới nhìn chung được bảo đảmNgười phụ nữ không tránh khỏi những ràng buộc của lễ giáo phong kiến khắt khe nhưng rõ ràng là “dễ thở” hơn so với ở Trung Quốc. Quyền được làm mẹ phải rất lâu sau mới được quy định trong bộ luật của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nhưng từ rất sớm dân gian ta đã ủng hộ quyền được làm mẹ rồi . Sự thắng thế của tín ngưỡng thờ Mẫu đã khẳng định chiến thắng tinh thần tuyệt đối của tinh thần trọng Mẫu Việt Nam, một tinh thần giàu tính nhân bản, nhân đạo và nhân văn.
Ở miền Nam Việt Nam, vừa là miền đất mới xa xôi, triều đình không đủ sức vươn dài sự áp chế của mình; vừa là vùng đất ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Mẫu hệ Chăm lâu đời đồng thời lại ở vào giai đoạn cuối của chế độ phong kiến phụ quyền nên văn hóa mang tính Mẫu được cộng hưởng và đậm nét lên nhiều lần. Hiển nhiên là văn hóa Việt Nam đậm tính Mẫu, nơi nhạt của ta vẫn là đậm so với thế giới và nơi đậm của ta thì “đặc” văn hóa Mẫu (Chẳng thế mà phương Tây gọi Đông Nam Á là “xứ sở Mẫu hệ”).
Từ tín ngưỡng thờ Nữ thần phát triển thành tín ngưỡng thờ Mẫu và “lên khuôn” thành  Đạo Mẫu là một con đường khác hẳn so với con đường từ thờ Nữ thần đến Nam thần và tôn giáo độc thần nam. Nhìn ngược trở lại, có thể thấy dân tộc ta tránh được cái xâm lấn đầy bản năng của nam tính đồng thời phát triển lên cao độ tính nhân văn của văn hóa trọng Mẫu. Người Việt Nam yêu Mẹ nước, yêu Mẹ của dân tộc, yêu người Mẹ sinh thành ra mình.
9, Tín ngưỡng, tôn giáo.
Cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới, ở giai đoạn phát triển đầu tiên của mình, các cư dân Đông Nam Á đã tôn sùng nhiều hình thức tín ngưỡng nguyên thuỷ trước khi Hindu giáo, Phật giáo và Kitô giáo được truyền bá tới khu vực này. Cùng với tục thờ cúng tổ tiên, người ta còn thờ các thần: thần Núi, thần Sông, thần Lửa, trong đó thần Đất – vị thần bảo hộ, phù trợ cho nông nghiệp, bao giờ cũng được đề cao. Gắn liền với nghề nông trồng lúa, tín ngưỡng phồn thực với những nghi thức cầu mong được mùa, cầu cho các giống loài sinh sôi, nảy nở… cũng rất phát triển ở Đông Nam Á. Các hình thức sinh thực khí nam, nữ được cách điệu hoá trên mặt trống đồng Đông Sơn, các cặp nam nữ, trên nắp thạp đồng Đào Thịnh, tục thờ Lin-ga và Y-ô-ni của người Chăm, người Khơ-me … ít nhiều đều phản ánh tín ngưỡng phồn thực của một xã hội nông nghiệp.
Đặc điểm của tín ngưỡng Việt Nam đều mang những đặc trưng của văn hoá nông nghiệp: Tôn trọng và gắn bó mật thiết với thiên nhiên ( tín ngưỡng sùng bái tổ tiên); hài hoà âm dương ( Trời – Đất, Tiên – Rồng…); đề cao phụ nữ( Mẫu Tam phủ, Mẫu Tứ phủ…); tính tổng hợp và linh hoạt, hệ quả tôn giáo đa thần chứ không phải độc thần như nhiều tôn giáo khác. Ở Việt Nam có các tín ngưỡng : tín ngưỡng phồn thực (Tín ngưỡng phồn thực được xem là tín ngưỡng rất quan trọng đối với cư dân nông nghiệp. Xứ nuôi bò, cừu, ngựa… về mặt hình thức bên ngoài nhìn thấy ý nghĩa phồn thực trước mắt là tín ngưỡng phồn thực.. Trong nông nghiệp trồng lúa, ngô… hầu như ta khó có thể nhận ra được.), tín ngưỡng sùng bái tổ tiên, tín ngưỡng sùng bái con người, tín ngưỡng sùng bái thần linh.
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Người dân Việt Nam có truyền thống sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng từ lâu đời. Các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn liền với đời sống kinh tế và tâm linh của mình.
KẾT LUẬN
Việt Nam là một quốc gia gần như nằm ở vị trí trung tâm của Đông Nam Á với đầy đủ các yếu tố địa lý, khí hậu, đặc điểm xã hội, nền nông nghiệp lúa nước… tiêu biểu của khu vực.
Bởi vậy, đã có nhận xét Việt Nam chính là một “Đông Nam Á thu nhỏ”. Các đặc trưng văn hoá truyền thống Đông Nam Á đã được thể hiện khá rõ nét và đa dạng trong văn hoá Việt Nam, tuy nhiên với những nét riêng trong đời sống, kinh tế – xã hội,… của dân tộc đã khiến cho những đặc trưng ấy trở nên phù hợp, gần gũi, gắn bó hơn tạo nên vốn văn hoá dân tộc với những giá trị truyền thống được lưu giữ tự ngàn đời.
Nhìn nhận lại quá trình phát triển của Việt Nam nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung, ta không thể phủ nhận đi các đặc trưng văn hoá truyền thống, đó chính là cơ sở, nền tảng vững chắc để cấu thành lên một xã hội bền vững. Đặc biệt trong xã hội hiện đại, các giá trị văn hoá mới được hình thành nhưng không vì thế mà truyền thống bị mai một, sức sống trường tồn của văn hoá truyền thống là những đặc trưng, những nét cố hữu đã được thừa nhận và có giá trị cao. Hướng tới xây dựng một nền văn hoá vừa dân tộc vừa hiện đại làm nổi bật bản sắc dân tộc đang trở thành mục tiêu hàng đầu của nhà nước ta.
Như vậy, làm thế nào để phát huy hơn nữa những giá trị truyền thống tốt đẹp, xoá bỏ những hủ tục, những thói hư tật xấu… là nhiệm vụ được đặt ra cho các nhà quản lý văn hoá. Phấn đấu phát triển đất nước Việt Nam nói riêng cũng như khu vực Đông Nam Á nói chung vừa mang những nét đặc trưng văn hoá truyền thống vừa đổi mới, tiến bộ sao cho phù hợp với yêu cầu của thời đại .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐặc trưng truyền thống văn hóa việt nam.doc