Đại Cách mạng Văn hóa vô sản ở Trung Quốc năm 1966-1976

 Đại Cách mạng Văn hóa vô sản ở Trung Quốc năm 1966-1976



Đại Cách mạng Văn hóa Giai cấp Vô sản gọi tắt là Đại Cách mạng Văn
hóa  là một phong trào chính trị xã hội tại Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa diễn ra trong 10 năm từ tháng 5 năm 1966 tới tháng 10 năm 1976, gây
tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của cuộc sống chính trị, văn hóa,
xã hội ở Hoa lục nên cũng được gọi là “10 năm hỗn loạn”, “10 năm thảm
họa”. Trong chiến dịch Bốn dọn dẹp và tiêu diệt Bốn cái cũ, nhiều danh
thắng và giá trị văn hóa truyền thống của Trung Hoa bị lực lượng này phá
hủy. Ngoài ra, cuộc cách mạng này đã làm thay đổi quan niệm xã hội, chính
trị và đạo đức của quốc gia này một cách sâu sắc và toàn diện.

Dù Mao Trạch Đông tự tuyên bố chính thức là Văn cách kết thúc năm 1969,
nhưng ngày nay người ta vẫn cho rằng cuộc cách mạng này còn bao gồm cả
giai đoạn từ 1969 đến 1976. Lâm Bưu đã bỏ trốn và chết trong một vụ tai
nạn máy bay vào năm 1972, ông bị cáo buộc là có âm mưu lật đổ Mao. Sau cái
chết của Mao và sự kiện bắt giữ các thành viên của nhóm Tứ nhân bang là
(Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên) vào năm
1976, Đặng Tiểu Bình dần dần dỡ bỏ các chính sách của Cách mạng Văn hóa.
Năm 1981, Đảng Cộng sản Trung Quốc tuyên bố rằng Cách mạng Văn hóa là một
“thất bại nặng nề nhất và tổn thất nặng nề nhất mà Đảng, nhà nước và nhân
dân phải gánh chịu kể từ khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân”. Tổng cộng
1,5 đến 1,8 triệu người Trung Quốc bị giết chết hay tự sát trong giai đoạn
này, khoảng 20 triệu người bị đưa về nông thôn lao động cưỡng bức trong
nhiều năm. Khoảng 200 triệu người bị thiếu ăn thường xuyên.

 Các ước tính về số người chết trong Cách mạng Văn hóa, bao gồm cả
dân thường và Hồng vệ binh, rất khác nhau, từ hàng trăm nghìn đến 20 triệu
người. Tuy nhiên, con số chính xác của những người bị bức hại hoặc chết
trong Cách mạng Văn hóa có thể không bao giờ được biết, vì nhiều trường
hợp tử vong không được báo cáo hoặc bị cảnh sát hoặc chính quyền địa
phương che đậy tích cực. Tình trạng hồ sơ nhân khẩu học của Trung Quốc
cũng rất đáng trách vào thời điểm đó, và CHND Trung Hoa đã do dự trong
việc cho phép nghiên cứu chính thức về thời kỳ này. Ngoài ra, sự cố vỡ đập
Bản Kiều, xảy ra ở vùng Trú Mã Điếmthuộc tỉnh Hà Nam vào tháng 8 năm 1975,
dẫn đến số người chết từ 85.600 đến 240.000 người.

Ước tính
bao gồm những ước tính được đưa ra bởi những điều sau đây:

Theo một cuốn sách được xuất bản bởi Báo Nhân dân Nhật báo năm 2011, cũng
như một số tài liệu khác, Ye Jianying, Phó Chủ tịch thứ nhất của Đảng Cộng
sản Trung Quốc và là một trong mười nguyên soái của Trung Quốc, tuyên bố
rằng “20 triệu người chết, 100 triệu người bị bức hại và 80 tỷ RMB đã bị
lãng phí trong Cách mạng Văn hóa” trong một hội nghị làm việc của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vào ngày 13 tháng 12 năm
1978. 

  • Rudolph J. Rummel (Đại học Hawaii): 7.731.000 người chết trong Cách
    mạng Văn hóa, hay 96 người trên mỗi 10.000 dân số.

  • Jung Chang và Jon Halliday: ít nhất 3 triệu người đã chết vì bạo lực
    của Cách mạng Văn hóa.

  • Chen Yung-fa (Đại học Quốc gia Đài Loan): ít nhất 1,72 triệu người chết
    trong Cách mạng Văn hóa.

  • Andrew G. Walder (Đại học Stanford) và Yang Su (Đại học California,
    Irvine): khoảng 36 triệu người đã bị bức hại chỉ riêng ở vùng nông thôn
    Trung Quốc; 0,75-1,5 triệu người chết, và khoảng tương đương số người bị
    tàn tật suốt đời

  • Daniel Chirot (Đại học Washington): ít nhất 1 triệu người chết, nhưng
    một số ước tính lên tới 20 triệu

  •     Maurice Meisner (Đại học Wisconsin – Madison): ước
    tính khoảng 400.000 ca tử vong là con số tối thiểu được chấp nhận rộng
    rãi

 

  

Cuộc cách mạng này được Mao Trạch Đông khởi xướng và lãnh đạo từ ngày 16
tháng 5 năm 1966, với mục tiêu chính thức là “đấu tranh với giai cấp tư sản trong lĩnh vực tư tưởng và sử dụng những
tư tưởng và lề thói mới của giai cấp vô sản để thay đổi diện mạo tinh
thần của toàn bộ xã hội
“. Mao tuyên bố rằng “các phần tử tư sản đã xâm nhập vào chính phủ và xã
hội”, chúng đang có âm mưu “khôi phục chủ nghĩa tư bản”.

 

Mao Trạch Đông bơi sông Dương Tử tại Vũ Hán để xua tan mọi tin đồn về sức
khỏe (hoặc cái chết) của ông. Sự kiện này được coi là một trong những sự
kiện báo hiệu sự khởi đầu của Cách mạng Văn hóa.

 

 

 

Tuy nhiên, mục đích chính của cách mạng này được một số người cho là một cách để Mao Trạch Đông lấy lại quyền kiểm soát Đảng Cộng sản Trung Quốc sau cuộc Đại nhảy vọt 1958-1962 bị thất bại dẫn đến sự tổn thất quyền lực đáng kể của Mao Trạch Đông so với đối thủ chính trị là Lưu Thiếu Kỳ và cũng để loại bỏ những người bất đồng ý kiến như Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài,…

 

 

 

Vào ngày Quốc khánh năm 1966, Mao Trạch Đông và Lâm Biêu đã gặp gỡ Hồng
vệ binh trên cổng Thiên An Môn.

 

 

 

 

Vào ngày 18 tháng 10 năm 1966, Mao Trạch Đông vẫy chào Hồng vệ binh tại
Quảng trường Thiên An Môn.

 

 

 

 


Quảng trường Thiên An Môn ngày 15 tháng 9 năm 1966, dịp Mao Chủ tịch tổ
chức lần thứ ba trong số tám cuộc tập hợp quần chúng với Hồng vệ binh năm
1966.  

 

 

 

 

 Lâm Bưu, người đứng đầu Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA), đã được
công nhận trong hiến pháp là người kế vị của Mao sau khi Mao qua đời; Lâm
Bưu biên soạn cuốn sách Hồng bảo thư.

 

 

 

 

Hồng bảo thư (ấn bản tiếng Anh) tuyển tập những câu nói của Mao, cuốn
sách này trở thành một văn bản mang tính thiêng liêng, gần giống như một
cuốn kinh thánh phục vụ cho sự sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông.

 

 

 

Hồng vệ binh cầm nhật ký của Chủ tịch Mao tại Quảng trường Thiên An Môn
năm 1967.

 

 

Hồng vệ binh Trung Quốc trong cuộc cách mạng văn hóa ở Trung Quốc năm
1966.

 

 

Hồng vệ binh hay là Vệ binh đỏ là danh xưng dùng để chỉ các thanh thiếu
niên
Trung Quốc
được giáo dục tôn sùng chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Mao Trạch Đông.
Trong Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc thập niên 1960, lực lượng này được
coi là xung kích trong việc đấu tranh, phá bỏ những tập tục hủ lậu trong
xã hội, nhưng dần dần lực lượng này đã trở nên quá khích, họ sử dụng bạo
lực tra tấn, phá hoại và cướp đoạt tài sản, nhà cửa, bức tử, giết hại
những cán bộ, đảng viên, tướng lĩnh và người dân bị họ cho là thiếu tin
tưởng hoặc bất đồng chính kiến với Mao Trạch Đông và Đảng Cộng sản Trung
Quốc. Nạn nhân của các Hồng vệ binh bao gồm cả các lãnh đạo cao cấp trong
Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân Giải phóng Nhân dân Trung
Quốc. 

 

 

“Mangoes, The Precious Gift” “Qủa xoài của Mao chủ tịch” là một món quà
vô giá khi Mao chủ tịch tặng

cho Đội Tuyên truyền Mao Trạch Đông của ông tại Đại học Thanh Hoa vào
ngày 5 tháng 8, sau khi ông được

được ngoại trưởng Pakistan, Syed Sharifuddin Pirzada, tặng khoảng 40
quả xoài trong một cử chỉ ngoại giao.

 

 

 

 


Hồng vệ binh tại trường trung học số 23 vẫy cuốn Sách đỏ nhỏ trong các
trích dẫn của Mao Chủ tịch trong một cuộc mít tinh cách mạng trong lớp
học. 

 

 

 

 


Các thành viên trẻ của Hồng vệ binh, sinh viên trung học và đại học, tuần
tra vào cuối năm 1966 trên đường phố Bắc Kinh để truyền bá tư tưởng của
Mao trong cuộc Đại cách mạng Văn hóa Vô sản.

 

 

 


Mao Trạch Đông và Lâm Bưu xung quanh Hồng vệ binh tập hợp ở Bắc
Kinh. 

 

 

 

 


Nhiều quan chức cấp cao, đáng chú ý nhất là Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu
Bình, đã bị thanh trừng hoặc bị lưu đày.

 


Một cuộc biểu tình rầm rộ chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ năm 1967.

 

 

 

Cách mạng Văn hóa.

Công nhân Trung Quốc hát những bài hát cách mạng bên ngoài nhà của
Mao.

 

 

 

 


Sinh viên Đại học Sư phạm Bắc Kinh viết áp phích chữ lớn tố cáo Lưu Thiếu
Kỳ.

 

 

 

Các nhân vật lớn được đăng trong khuôn viên trường Đại học Bắc Kinh



Phá trừ cựu tư tưởng, cựu văn hóa, cựu phong tục, cựu tập quán là khẩu
hiệu hành động của trào lưu Cách mạng văn hóa. Bốn điều cần tiêu diệt này
là tất cả “tư duy cũ”, tất cả “văn hóa cũ”, tất cả “thói quen”, tất cả
“phong tục cũ” tại Trung Quốc. Năm 1966, vào lúc bắt đầu của cuộc Cách
mạng Văn hóa, Mao Trạch Đông và Lâm Bưu đã phát động một chiến dịch chống
lại bốn cái cũ cùng lúc với Bốn dọn dẹp, với mục đích để thoát khỏi những
khuôn mẫu Trung Quốc cũ và tạo ra một nề nếp mới. Chiến dịch này được phát
triển và thực hiện bởi Hồng vệ binh. Những điều khoản này không được quy
định cụ thể và các Hồng vệ binh đã có thể hành động tương đối tự do cũng
như diễn giải quy định theo ý họ.

Ngày 1/6/1966, trên Nhân dân Nhật báo có bài xã luận với tựa đề “Bài trừ
mọi tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ, tập quán cũ đầu độc nhân dân do
giai cấp bóc lột dựng nên” mở đầu Chiến dịch tiêu hủy Bốn cái cũ. Trong
chiến dịch này tất cả những gì liên quan đến các loại tôn giáo đều bị Hồng
vệ binh ngược đãi thẳng tay. Nhiều công trình tôn giáo như chùa chiền, nhà
thờ, tu viện Hồi giáo, và các nghĩa trang đều bị đóng cửa, đôi khi còn bị
cướp phá hoặc bị đập bỏ. Nhiều cổ vật, sách cổ, tranh ảnh, thư pháp… bị
phá hủy, đốt bỏ. Điều khủng khiếp nhất của chiến dịch là việc sử dụng bừa
bãi hình thức tra tấn, giết chóc dẫn đến các vụ tự tử do nạn nhân không
chịu được tra tấn và nhục nhã. Trong tháng 8 và tháng 9, chỉ riêng ở Bắc
Kinh đã có 1772 người bị sát hại. Tại Thượng Hải, trong tháng 12 có 704 vụ
tự tử và 534 ca tử vong liên quan đến Cách mạng Văn hóa. Trong thời gian
này ở Vũ Hán cũng chứng kiến 62 vụ tự sát và 32 vụ giết người.



Tượng Phật bị Hồng vệ binh đập phá trong Đại Cách mạng Văn hóa vô sản ở
Trung Quốc năm 1966-1976.

Khuôn mặt của chư Phật đã bị phá hủy trong Cách mạng Văn hóa.

 

 

 

 

Nghĩa trang của Khổng Tử bị Hồng vệ binh tấn công vào tháng 11 năm 1966.



Hài cốt của Hoàng đế Vạn Lịch nhà Minh bị Hồng vệ
binh kéo hài cốt của Hoàng đế và Hoàng hậu đến trước lăng mộ, nơi
họ được “tố cáo” và đốt cháy. 

 

 


Tượng Phật bị Hồng vệ binh đập phá trong Đại Cách mạng Văn hóa vô sản ở
Trung Quốc năm 1966-1976.

 

 

 
Nhiều thanh niên trí thức thành thị đã bị gửi đến các vùng nông thôn trong
cái gọi là phong trào Tiến về Nông thôn. 

 

 

 

Thiếu tướng người Tây Tạng Sampho Tsewang Rigzin và vợ trong Đại Cách
mạng Văn hóa vô sản ở Trung Quốc năm 1966-1976.

 


 

Hàng triệu người bị buộc tội là “phần tử cánh hữu”, họ bị bức hại hoặc
chịu sự sỉ nhục công khai, bị cầm tù, bị tra tấn, phải chịu lao động khổ
sai, bị tịch thu tài sản và thậm chí bị xử tử hoặc bị ép phải tự tử.

Tỉnh trưởng Hắc Long Giang bị buộc tội sau khi bị cáo buộc để tóc dài giống
Chủ tịch Mao.

 

 

 

Ban Thiền Lạt Ma Tây Tạng trong Đại Cách mạng Văn hóa vô sản ở Trung Quốc
năm 1966-1976.


Hồng vệ binh làm nhục một cánh hữu bị buộc tội trong Cách mạng văn
hóa.

Ouyang Xiang bị Hồng vệ binh đánh đập vào năm 1968. Sau đó anh ta bị sát
hại.

Cô Lâm Chiêu là một nạn nhân nổi bật trong Cách mạng Văn hóa. Cô bị xử tử
hình với tội danh ..phê phán Đảng Cộng sản vĩ đại của chúng ta và Chủ tịch
Mao Trạch Đông vĩ đại…

Trong hai năm, đến tận tháng 7 năm 1968 (ở vài nơi, thời gian có thể lâu
hơn), các nhóm hoạt động của Hội sinh viên như lực lượng Hồng vệ binh đã
mở rộng lĩnh vực quyền lực của mình, và gia tăng các nỗ lực tái thiết Xã
hội chủ nghĩa. Họ bắt đầu bằng cách phát tờ rơi giải thích cho hành động
phát triển và củng cố Chủ nghĩa xã hội của họ và đưa tên các nhân vật bị
khép tội “phản cách mạng” lên trên bảng tin của trường. Họ tập hợp lại
thành từng nhóm lớn, tổ chức các buổi tranh luận lớn, và viết các vở kịch
mang tính “giáo dục”. Họ tổ chức các cuộc họp công cộng để chỉ trích những
lời bào chữa của các bị cáo “phản cách mạng”. 

Bí thư tỉnh ủy Wang Yilun, bị Hồng vệ binh từ Đại học Công nghiệp chỉ
trích và buộc phải mang biểu tượng với cáo buộc phần tử xét lại phản
cách mạng, Cáp Nhĩ Tân, Trung Quốc, ngày 23 tháng 8 năm 1966.

 

Một người bị cáo buộc “phản cách mạng” trong Đại Cách mạng Văn hóa vô sản
ở Trung Quốc năm 1966-1976.

 

 

Những thành phần bị cáo buộc “phản cách mạng” trong Đại Cách mạng Văn hóa
vô sản ở Trung Quốc năm 1966-1976

Học sinh tham dự một bài học về Cách mạng Văn hóa gần bức chân dung Chủ
tịch Mao Trạch Đông ở Thượng Hải ngày 24 tháng 5 năm 1971

 

 

Một tấm áp phích được trưng bày vào cuối năm 1966 trên đường phố Bắc Kinh
có nội dung về cách đối phó với cái gọi là kẻ thù của nhân dân trong cuộc
Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản.

 

 

 


Mặt trước và mặt sau của tấm vé 1 Nhân dân tệ của Trung Quốc, được in hình
ảnh tuyên truyền tiêu biểu cho cuộc Cách mạng Văn hóa 1959 một nhóm thanh
niên Trung Quốc đang rời thành phố đi làm đồng, ngày 8 tháng 12 năm
1962.



Áp phích tuyên truyền Cách mạng Văn hóa. Nó mô tả Mao Trạch Đông, phía
trên một nhóm binh sĩ thuộc Quân đội Giải phóng Nhân dân. Chú thích viết,
“Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc là trường học vĩ đại của Tư tưởng Mao
Trạch Đông.”

 

 

Sau cái chết của Mao và sự kiện bắt giữ các thành viên của nhóm Tứ nhân
bang là (Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên)
vào năm 1976

 

 

 Tứ nhân bang  hay còn được gọi là “bè lũ bốn tên” theo các
phương tiện truyền thông của Việt Nam, là cụm từ để chỉ một nhóm lãnh đạo
Đảng Cộng sản Trung Quốc bị nhà cầm quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cho
là cấu kết với nhau lộng quyền và để sát hại những Đảng viên không theo
phe cánh từ Đại hội X của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng sau đó bị bắt và
xét xử năm 1976, sau khi Mao Trạch Đông mất.

 
“Bè lũ bốn tên” là những thành viên hoạt động tích cực nhất Cách mạng Văn
hóa ở Trung Quốc. Nhóm Tứ Nhân Bang gồm (từ trái sang): Trương Xuân Kiều,
Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và
, Giang Thanh (vợ thứ 4 của Mao Trạch Đông).

 

 

Năm 1978, Đặng Tiểu Bình trở thành nhà lãnh đạo tối cao mới của Trung
Quốc và bắt đầu chương trình “

Chuyển loạn thành chính

” nhằm dần dần phá bỏ các chính sách Maoist gắn liền với Cách mạng
Văn hóa, và đưa đất nước trở lại trật tự.

 

  

Vẫn là một poster với những khẩu hiệu cách mạng ở An Huy.

 


Nghĩa trang Cách mạng Văn hóa ở Trùng Khánh, Trung Quốc. Ít nhất 1.700
người đã thiệt mạng trong cuộc đụng độ của phe bạo lực, với 400-500 người
trong số họ được chôn cất tại nghĩa trang này.

Trích dẫn của Mao Trạch Đông trên một bức tường đường phố của huyện Vũ
Tuyên, một trong những trung tâm của thảm sát và ăn thịt người ở Quảng Tây
trong Cách mạng Văn hóa.

 

Xổ số miền Bắc