Dân tộc Kinh

NDO –

Người Kinh là tộc người có số dân đông nhất trong 54 dân tộc ở Việt Nam, cư trú tập trung ở vùng đồng bằng, có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế-xã hội nên họ chính là lực lượng chủ đạo tham gia lập nước.

1. Nguồn gốc lịch sử:

Người Kinh (cũng như người Mường, Thổ, Chứt) là tộc người bản địa, sở tại, sinh sống từ rất lâu đời trên dải đất Việt Nam, không phải có nguồn gốc từ lãnh thổ bên ngoài. Từ cái nôi ban đầu là vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, tập trung ở đồng bằng, người Kinh chuyển cư đến các vùng khác, trở thành tộc người đông đảo, có mặt trên mọi địa bàn, địa hình của Tổ quốc.

Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, người Kinh luôn là trung tâm thu hút và đoàn kết các dân tộc anh em xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Người Kinh còn có tên gọi khác là: Người Việt.

2. Dân số, ngôn ngữ:

– Dân số: Theo số liệu thống kê của Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2019, dân tộc Kinh hiện có 82.085.826 người (nam: 40.804.641 người, nữ: 41.281.185 người), chiếm 86,83% tổng dân số cả nước. Số dân sống ở thành thị là 31.168.839 người, sống ở nông thôn là 50.916.987 người.

Sau 10 năm, từ năm 2009 đến năm 2019, quy mô dân số của dân tộc Kinh đã tăng gần 8,5 triệu người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 2009-2019 của dân tộc Kinh là 1,09%, thấp hơn tỷ lệ tăng bình quân của các dân tộc thiểu số (1,42%) và tỷ lệ tăng bình quân của cả nước (1,14%).

Người Kinh có mặt tại khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước. Số người Việt cư trú tại vùng Trung du và miền núi phía bắc là 5.495.484 (chiếm 6,7%); đồng bằng sông Hồng: 22.074.819 người (26,9%); Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền trung: 18.111.079 người (22,1%); Tây Nguyên: 3.642.726 người (4,4%); Đông Nam Bộ: 16.798.500 người (20,4%); và đồng bằng sông Cửu Long: 15.963.218 người (19,5%).

– Ngôn ngữ: Tiếng Việt: nằm trong nhóm ngôn ngữ Việt-Mường, ngữ hệ Nam Á.

Chữ quốc ngữ: được xây dựng trên cơ sở dùng chữ cái Latinh (trực tiếp từ chữ cái Bồ Đào Nha) ghép lại, thêm 9 dấu phụ (4 dấu tạo ra các âm mới và 5 dấu để thể hiện thanh điệu của từ) để ghi âm địa danh và tên người Việt.

Cùng với tiếng Việt, chữ quốc ngữ hợp thành ngôn ngữ chính thức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Dân tộc Kinh ảnh 1

3. Phân bố địa lý:

Người Kinh là tộc người duy nhất trong 54 tộc người của quốc gia Việt Nam cư trú thành các cộng đồng ở tất cả các tỉnh, trên tất cả các dạng địa hình, địa bàn trong cả nước (đồng bằng, trung du, miền núi, cao nguyên, ven biển và hải đảo), song tập trung đông đúc ở đồng bằng. Đây là quy luật phổ biến, “như một hệ quả, trong từng quốc gia hoàn chỉnh ở Đông Nam Á, tộc người chủ thể bao giờ cũng là một tộc người chiếm lĩnh đồng bằng”.

Người Việt còn sinh sống tập trung dọc các trục đường giao thông lớn, là bộ phận cư dân chủ đạo ở tất cả các đô thị các cấp trong cả nước.

Với đặc điểm về dân số và tính chất cư trú trên, người Việt giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển của quốc gia-dân tộc Việt Nam kể từ buổi đầu dựng nước, qua các thời kỳ cổ, trung đại, cận đại và hiện đại ngày nay.

4. Đặc điểm chính:

Thiết chế xã hội truyền thống: Ðại bộ phận người Việt sinh sống thành từng làng, dăm ba làng họp lại thành một xã. Trong làng thường có nhiều xóm, có xóm lớn tương đương với thôn và thôn Bắc bộ gần tương tự như một ấp của Nam bộ. Lệ làng được quy định một cách tương đối toàn diện và chặt chẽ về các mặt hoạt động của làng buộc mọi người thừa nhận và tự giác thực hiện.

Gia đình của người Việt hầu hết và những gia đình nhỏ gồm 2 thế hệ theo chế độ phụ quyền nhưng phụ nữ vẫn giữ vai trò quan trọng, thường là người quản lý kinh tế trong gia đình.

Tôn giáo, tín ngưỡng: Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng quan trọng nhất của người Việt. Tục thờ thổ công, táo quân, ông địa phổ biến ở nhiều nơi; nhiều gia đình thờ Thành hoàng, chùa thờ Phật,… Một bộ phận cư dân ở nông thôn hay thành thị còn theo đạo Thiên chúa, Tin lành và các tôn giáo khác như Cao Đài, Hòa Hảo….

Dân tộc Kinh ảnh 2

Nhà ở: Người Việt thường ở nhà trệt. Ngôi nhà chính thường có kết cấu 3 gian hoặc 5 gian và gian giữa là gia trang trọng nhất, đặt bàn thời gia tiên. Những gian bên là nơi nghỉ ngơi, sinh hoạt của các thành viên trong gia đình, gian buồng được bố trí ở chái nhà làm chỗ ở của phụ nữ và cũng là nơi cất trữ lương thực, của cải của gia đình. Nhà bếp thường được làm liền với chuồng nuôi gia súc. Ở nhiều tỉnh Nam Bộ, nhà bếp thường được làm sát kề hay nối kề với ngôi nhà chính. Sân để phơi và để sinh hoạt gia đình và cũng để tạo không gian thoáng mát, phù hợp điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm.

Ngày nay, nhiều làng đất chật người đông, do dân số tăng, khuôn viên nhà truyền thống với sân-vườn rộng của phần đông các gia đình phải chia thành nhiều khuôn viên nhỏ hơn, các ngôi nhà cấp bốn được thay thế bằng nhà mái bằng, nhà tầng hình ống hiện đại.

– Lễ tết: Tết Nguyên đán (Tết Âm lịch) là tết lớn nhất trong năm. Sau Tết Âm lịch là các hội mùa xuân. Ngoài ra còn có nhiều lễ tết truyền thống khác như Rằm Tháng giêng, Tết Thanh minh, lễ Hạ điền, lễ Thượng điều, Tết Ðoan Ngọ, Rằm Tháng bảy, Tết Trung thu, lễ cơm mới… Mỗi tết đều có ý nghĩa riêng và lễ thức tiến hành cũng khác nhau.

Dân tộc Kinh ảnh 3

Trang phục: Xưa kia, đàn ông người Kinh thường mặc quần chân què, áo cánh nâu (Bắc bộ), màu đen (Nam bộ), đi chân đất; ngày lễ tết mặc quần trắng, áo chùng lương đen, đội khăn xếp, đi guốc mộc. Ðàn bà mặc váy đen, yếm, áo cánh nâu, chít khăn mỏ quạ đen (Bắc bộ); áo bà ba, quấn khăn rằn, nón lá (Nam bộ). Phụ nữ ngày lễ hội hè mặc áo dài.

Ngày nay, cùng với sự du nhập của thời trang phương Tây và các nước khác cũng như phục vụ cho những hoàn cảnh và công việc khác nhau mà thường phục, trang phục của người Việt được thay bằng áo thun, áo sơ-mi trắng, váy dài, chân váy, quần dài, quần tây… Áo dài cũng đã được cách tân ít nhiều để phù hợp nhu cầu thời trang hiện đại nhưng vẫn giữ được nét truyền thống và tôn lên được vóc dáng cũng như vẻ đẹp dịu dàng của người phụ nữ Việt.

Hôn nhân: Người Việt rất coi trọng tình yêu trong trắng chung thủy. Dưới thời phong kiến thường là “cha mẹ đặt đâu còn ngồi đấy”, ngày nay nam nữ tự tìm hiểu. Nghi lễ cưới xin truyền thống ở người Việt phải trải qua 4 bước cơ bản: Dạm, hỏi, cưới và lại mặt.

Ẩm thực: “Cơm tẻ, nước chè” là đồ ăn, thức uống cơ bản hằng ngày của người Việt. Ðồ nếp chỉ gặp trong những ngày lễ tết. Trong bữa ăn hằng ngày thường có món canh rau hay canh cua, cá… Ðặc biệt người Việt rất ưa dùng các loại mắm (mắm tôm, cá, tép, cáy…) và các loại dưa (cải, hành, cà, kiệu).

Mâm cỗ ngày Tết truyền thống của người Kinh không thể thiếu được các món ngon quen thuộc như: bánh tét, bánh chưng, dưa hành, củ kiệu, thịt đông, nem, giò, xôi, gà luộc hay canh măng,… Rượu được dùng trong các dịp lễ tết, liên hoan… ăn trầu, hút thuốc lào trước kia chẳng những là nhu cầu, thói quen mà còn đi vào cả lễ nghi phong tục.

Dân tộc Kinh ảnh 4

5. Điều kiện kinh tế:

Đại đa số cư dân sống dựa vào nông nghiệp là chủ đạo, trong đó trồng trọt lúa nước là chính, kết hợp chăn nuôi, mở mang các nghề thủ công và trao đổi, buôn bán. Nông nghiệp lúa nước đã được hình thành và phát triển ở người Việt từ rất sớm. Chăn nuôi lợn, gia súc, gia cầm, thả cá… cũng rất phát triển. Người Việt nổi tiếng “có hoa tay” về nghề thủ công nghiệp, phát triển bách nghệ – trăm nghề mà nghề nào dường như cũng đạt đến đỉnh cao của sự khéo léo tài hoa. Không ít làng thủ công đã tách khỏi nông nghiệp. Chợ làng, chợ phiên, chợ huyện… rất sầm uất. Hiện nay, trong tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước các đô thị và các khu công nghiệp đang ngày càng phát triển, đời sống nhân dân ngày một khấm khá.