Dân tộc Tày
NDO –
Là một trong những chủ nhân đầu tiên của nước Việt cổ, dân tộc Tày có nhiều truyền thống lâu đời và bản sắc văn hóa đặc sắc.
1. Nguồn gốc lịch sử:
Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, từ cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên và là một trong những chủ nhân đầu tiên của nước Việt cổ.
2. Phân bố địa lý:
Người Tày cư trú chủ yếu ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc như: Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái.
3. Dân số, ngôn ngữ:
–Dân số: Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, dân tộc Tày có 1.845.492 người. Trong đó, có 918.155 nam và 927.337 nữ.
-Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái (ngữ hệ Thái – Kađai).
4. Đặc điểm chính:
– Tôn giáo, tín ngưỡng: Người Tày có nhiều hình thức tín ngưỡng dân gian khác nhau như trong phạm vi gia đình có thờ tổ tiên, thờ Bà mụ, Phật Bà Quan Âm, Táo quân, ngoài bản thì thờ thổ thần, một số bản có thờ thành hoàng, một số nơi còn xây chùa để thờ Phật. Các nghi lễ vòng đời cũng có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của người Tày.
– Nhà ở: Nhà ở truyền thống của người Tày bao gồm ba dạng cơ bản: nhà sàn, nhà nửa sàn nửa đất và nhà phòng thủ. Trong đó, nhà sàn là dạng nhà truyền thống phổ biến nhất với cấu trúc chung là loại nhà sàn năm gian, ba gian hoặc một gian, hai chái, mái chéo hình lưỡi rìu, thấp so với mặt sàn. Chung quanh sàn nhà bưng kín bằng tre, phên nứa hoặc ván gỗ, ít cửa sổ. Bộ vì kèo 3, 5, 7 cột kê hoặc những biến thể 2, 4, 6 cột. Mái được lợp bằng cỏ gianh, lá cọ, nứa hoặc ngói.
Nhà nửa sàn nửa đất là dạng nhà thích hợp với địa hình dốc, chỉ xuất hiện lẻ tẻ ở vài nơi, nhất là khu vực trung du gần rừng núi. Nhà phòng thủ là dạng nhà đất có chức năng phòng, chống trộm cướp, thú dữ, chỉ có ở vùng biên giới Việt – Trung. Tại Lạng Sơn, dạng nhà này sau chuyển thành dạng nhà đất hai tầng, trình tường đất dày, tầng hai làm bằng gỗ, mái lợp ngói âm dương.
– Trang phục: Chủ yếu được làm bằng vải chàm đen, ít trang trí hoa văn . Y phục của nam giới bao gồm áo cánh bốn thân, xẻ ngực, buộc khuy nút vải, cổ tròn, ống tay áo nhỏ và dài, có hai túi ở hai bên vạt áo. Quần may theo kiểu chân què, cạp lá tọa.
Bộ trang phục nữ thường có hai chiếc áo, một chiếc áo cánh ngắn và một chiếc áo dài; quần hoặc váy, thắt lưng; khăn vấn tóc và khăn vuông đội trên đầu. Áo cánh là loại áo ngắn, mỏng, may bằng vải trắng hoặc màu sáng, mặc bên trong áo dài. Áo có bốn thân, xẻ ngực, cổ tròn, ống tay nhỏ, có hai túi nhỏ ở vạt áo. Áo dài là loại áo năm thân, có năm cúc bằng nút vải hoặc bằng đồng cài bên nách phải; thắt lưng dài quấn quanh bụng rồi buộc phía sau, buông dài xuống ngang kheo chân; cổ áo tròn; ống tay dài và hẹp.
– Ẩm thực: Lương thực chính mà người Tày sử dụng để nấu ăn hằng ngày là gạo tẻ. Ngoài cơm tẻ ăn hằng ngày, người Tày còn sử dụng gạo tẻ và gạo nếp để nấu cháo, cơm lam, bún, cốm, rất nhiều món xôi và các loại bánh. Đặc biệt, ở người Tày món bánh trứng kiến được xem là một đặc sản bởi nhân của nó được chế biến từ trứng của một loài kiến đen xây tổ trên cành cây đem xào với mỡ, muối, kiệu hay hành lá.
– Nghệ thuật: Người Tày có rất nhiều các làn điệu dân ca như lượn, then, quan lang, hát ví, hát ru, hát đồng dao…
Lượn là làn điệu được sử dụng thường xuyên dưới hình thức hát giao duyên nam nữ, được hát trong nhà và những dịp lễ hội, đám cưới, mừng nhà mới, khi có khách lạ dừng chân qua đêm ở bản.
Then được coi là một làn điệu dân ca đặc biệt, trước kia hầu như chỉ sử dụng trong nghi lễ dưới hình thức hát xướng và khi hát có thể kết hợp với cả múa và nhạc.
Hát quan lang chỉ sử dụng trong đám cưới, là hình thức hát đối đáp giữa đại diện nhà trai và nhà gái.
Đàn tính là loại nhạc cụ có mặt trong tất cả những sinh hoạt văn hóa tinh thần của người Tày, như linh hồn trong nghệ thuật dân ca dân vũ Tày.
– Giáo dục: Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông là 94,9%; tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp tiểu học: 100,4%; ở cấp trung học cơ sở là 97,5%; ở cấp trung học phổ thông: 79,5%.Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, viết chữ dân tộc mình là 20,5%. Tỷ lệ trẻ em dân tộc Tày trên 5 tuổi được đi học chiếm 99,63%.
5. Điều kiện kinh tế:
Đồng bào Tày đã khai thác các thung lũng và đồi núi vùng cư trú của mình thành những cánh đồng, những triền ruộng bậc thang màu mỡ; thành những vườn rừng với cọ, hồi, cây ăn trái xanh tốt. Bà con dân tộc Tày ở nhiều nơi hiện nay đã biết đa dạng hóa cơ cấu cây trồng, kết hợp kỹ thuật canh tác truyền thống như xen canh, luân canh, gối vụ, sử dụng phân bón vi sinh và hóa học… Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm. Người Tày có khá nhiều nghề thủ công như đan lát, dệt vải, nhuộm chàm, làm ngói máng, chế tác gỗ….
Với vị trí địa lý thuận lợi, cận kề với đồng bằng Bắc Bộ và tiếp giáp với Trung Quốc, khu vực cư trú của người Tày ở Đông Bắc từ xưa đã diễn ra việc trao đổi buôn bán sầm uất với nhiều chợ phiên nổi tiếng như chợ Kỳ Lừa, chợ Đồng Đăng của tỉnh Lạng Sơn; chợ Quảng Uyên, chợ Trùng Khánh của tỉnh Cao Bằng hay chợ Chu, chợ Đu của tỉnh Thái Nguyên…