Đề tài: Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở huyện Mỹ Đức, Hà Nội

  1. BỘ GIÁO DỤC

    VÀ ĐÀO TẠO
    TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
    HÀ THỊ THU THÙY
    XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ
    TRÊN ĐỊA BÀN XÃ ĐẠI HƯNG, HUYỆN MỸ
    ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
    LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA
    Khóa 3 (2015 -2017)
    Hà Nội, 2017

  2. BỘ GIÁO DỤC

    VÀ ĐÀO TẠO
    TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
    HÀ THỊ THU THÙY
    XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ
    TRÊN ĐỊA BÀN XÃ ĐẠI HƯNG, HUYỆN MỸ
    ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
    LUẬN VĂN THẠC SĨ
    Chuyên ngành: Quản lý văn hóa
    Mã số: 60.14.06.42
    Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Hữu Thức
    Hà Nội, 2017

  3. LỜI CAM ĐOAN
    Tôi

    xin cam đoan đề tài luận văn thạc sĩ “Xây dựng đời sống văn hóa
    cơ sở trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội” là
    công trình tổng hợp tư liệu và nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
    nêu trong luận văn là trung thực. Những ý kiến, nhận định, tư liệu khoa học
    của các tác giả được ghi chú xuất xứ đầy đủ.
    Hà Nội, ngày 11 tháng 10 năm 2017
    Tác giả luận văn
    Đã ký
    Hà Thị Thu Thùy

  4. DANH MỤC CHỮ

    VIẾT TẮT
    ATGT: An toàn giao thông
    BCĐ: Ban chỉ đạo
    CLB: Câu lạc bộ
    GĐVH: Gia đình văn hóa
    MTTQ: Mặt trận Tổ quốc
    TDTT: Thể dục thể thao
    TDĐKXDĐSVH: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa
    UBND: Ủy ban nhân dân
    VHTT: Văn hóa Thể thao

  5. MỤC LỤC
    MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………………………..

    1
    Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
    CƠ SỞ VÀTỔNG QUAN VỀ XÃ ĐẠI HƯNG ……………………………………..10
    1.1. Cơ sở lý luận ………………………………………………………………………………..10
    1.1.1. Một số khái niệm………………………………………………………………………..10
    1.1.2. Nội dung xây dựng đời sống văn hóa cơ sở……………………………………17
    1.2. Các văn bản của Đảng, Nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.20
    1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí minh về xây dựng đời sống văn hóa…………………….20
    1.2.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở……………24
    1.2.3. Chủ trương của Nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa………………..26
    1.3. Tổng quan về xã Đại Hưng…………………………………………………………….30
    1.3.1. Điều kiện địa lý tự nhiên……………………………………………………………..30
    1.3.2. Đặc điểm lịch sử văn hóa – xã hội…………………………………………………31
    1.4. Vai trò của việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở đối với phát triển kinh
    tế – xã hội xã Đại Hưng………………………………………………………………………..34
    1.4.1. Góp phần ổn định chính trị – xã hội ………………………………………………34
    1.4.2. Thúc đẩy sự phát triển kinh tế………………………………………………………35
    1.4.3. Xây dựng con người và môi trường văn hóa ………………………………….35
    Tiểu kết………………………………………………………………………………………………36
    Chương 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ
    TRÊN ĐỊA BÀN XÃ ĐẠI HƯNG………………………………………………………..38
    2.1. Các chủ thể quản lý xây dựng đời sống văn hóa…………………………………….38
    2.2. Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở xã Đại Hưng…………………39
    2.2. 1. Triển khai và ban hành các văn bản quản lý ……………………………………..39
    2.2.2. Tổ chức các phong trào văn hóa …………………………………………………..43
    2.2.3. Xây dựng nếp sống văn hóa, môi trường văn hóa …………………………..59
    2.2.4. Xây dựng và tổ chức hoạt động văn hóa ở các thiết chế văn hóa………66

  6. 2.2.5. Sự tham

    gia của cộng đồng ………………………………………………………….71
    2.3. Đánh giá chung …………………………………………………………………………….72
    2.3.1. Những thành tựu đã đạt được……………………………………………………….72
    2.3.2. Những hạn chế, yếu kém……………………………………………………………..74
    2.4. Những vấn đề đặt ra trong xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở xã
    Đại Hưng……………………………………………………………………………………………75
    Tiểu kết………………………………………………………………………………………………76
    Chương 3: NÂNG CAO HIỆU QUẢ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
    CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ ĐẠI HƯNG ……………………………………………78
    3.1. Một số nhân tố tác động đến xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở xã Đại
    Hưng………………………………………………………………………………………………….78
    3.1.1. Nhân tố tích cực …………………………………………………………………………78
    3.1.2. Nhân tố tiêu cực …………………………………………………………………………80
    3.2. Một số nhóm giải pháp…………………………………………………………………..81
    3.2.1 Nhóm giải pháp về nhận thức ……………………………………………………….81
    3.2.2. Nhóm giải pháp về quản lý nhà nước đối với các hoạt động văn hóa
    trên địa bàn xã …………………………………………………………………………………….85
    3.2.4. Nhóm giải pháp về xây dựng và hoàn thiện hệ thống thiết chế văn hóa
    thể thao cơ sở………………………………………………………………………………………94
    3.2.5. Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
    dựng đời sống văn hóa” gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới…………….95
    3.2.6. Phát huy vai trò của cộng đồng trong xây dựng đời sống văn hóa…….97
    Tiểu kết………………………………………………………………………………………………98
    KẾT LUẬN………………………………………………………………………………………100
    TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………………..103
    PHỤ LỤC…………………………………………………………………………………………111

  7. 1
    MỞ ĐẦU
    1. Lý

    do chọn đề tài
    Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là mối quan tâm của những người làm
    công tác văn hoá, nhất là cán bộ văn hoá ở cấp huyện và cơ sở xã, phường, bởi
    điều này quyết định sự phát triển bền vững và phát huy được truyền thống văn
    hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc ở mỗi vùng miền. Xây dựng đời sống văn hóa cơ
    sở là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta được đặt ra từ
    Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V (1981). Chủ trương này vừa có ý nghĩa
    chiến lược vừa có giá trị thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng văn hóa, lối sống
    và nhân cách con người phù hợp với đòi hỏi của đất nước trong thời kỳ đẩy
    mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
    Thực tế đã chứng minh, nơi nào cấp ủy, chính quyền quan tâm đến xây dựng
    đời sống văn hóa cơ sở thì nơi ấy tạo được môi trường văn hóa lành mạnh, con
    người sống với nhau gắn bó, nghĩa tình, góp phần nâng cao mức sống, tạo được
    cuộc sống vui tươi, hạnh phúc. Có thể thấy, đứng trước sự tác động của xu thế
    toàn cầu hóa, nước ta có thêm nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng xuất hiện
    nhiều thách thức đòi hỏi mỗi cá nhân nhìn nhận văn hóa với một tầm nhìn mới,
    phù hợp với xu thế toàn cầu hóa. Có thể nói, xã hội càng phát triển, vai trò của
    văn hóa càng giữ vị trí quan trọng. Sự tiến bộ hay lạc hậu của quốc gia, sự
    phát triển hay trì trệ của dân tộc, sự thành công hay thất bại của một chiến
    lược phát triển, sự hưng thịnh hay suy vong của một đất nước…đều phụ thuộc
    vào quan điểm văn hóa đã được nhận thức và vận dụng như thế nào trong phát
    triển mọi mặt của đời sống – xã hội. Nhận thức rõ vị trí, vai trò quan trọng của
    văn hóa, tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 5 khóa VIII, Đảng ta đã
    khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần, là mục tiêu và động lực của sự
    phát triển kinh tế – xã hội”.
    Những năm gần đây, bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận về sự
    chuyển biến kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân xã Đại Hưng, công tác xây

  8. 2
    dựng đời sống

    văn hóa cơ sở còn nhiều vấn đề bất cập gây bức xúc đối với dư
    luận. Sự gia tăng các tệ nạn xã hội, sự băng hoại đạo đức về lối sống của một
    bộ phận tầng lớp nhân dân, đặc biệt là lớp thanh niên trẻ. Một số người dân
    nhận thức về vấn đề xây dựng văn hóa ở cơ sở chưa đầy đủ, rõ ràng, dẫn đến
    các hành vi ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục của dân tộc…. Chính vì vậy,
    muốn khắc phục tình trạng trên cần có sự nghiên cứu sâu cả về lý luận và thực
    tiễn nhằm giúp cho công tác chỉ đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tại thị
    trấn Đại Hưng xuyên suốt và đạt hiệu quả cao.
    Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
    trên địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội” làm luận văn
    tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý văn hóa.
    2. Tình hình nghiên cứu
    Trong giai đoạn hiện nay, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở được xác
    định là nhiệm vụ quan trọng. Chính vì vậy, vấn đề này đã thu hút sự quan tâm
    và đi sâu nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu khoa học và quản lý văn hóa.
    2.1. Các cuốn sách đã xuất bản về văn hóa và đời sống văn hóa
    Cuốn sách Mấy vấn đề văn hóa Việt Nam hiện nay – thực tiễn và lý luận
    của GS.TS. Đinh Xuân Dũng xuất bản năm 2015 là một tập hợp các tiểu luận,
    chuyên đề, bài viết của tác giả được tuyển chọn từ năm 2012 đến nay. Tất cả
    các chuyên đề, bài viết đó đề cập đến thực trạng và công tác nghiên cứu lý
    luận văn hóa Việt Nam. Cuốn sách đã nêu lên được mối quan hệ biện chứng
    giữa văn hóa, đời sống văn hóa tinh thần với sự phát triển bền vững trong xã
    hội hiện đại; đưa ra một số giải pháp trong công tác vận động, thuyết phục
    của công tác tư tưởng đối với văn nghệ sĩ, trí thức. Đồng thời, tác giả đã bước
    đầu xây dựng những định hướng và nội dung cơ bản trong quá trình triển khai
    xây dựng hệ thống lý luận văn hóa – nghệ thuật ở Việt Nam; đề xuất các giải
    pháp mang tính chiến lược, khả thi để phát triển văn hóa là sức mạnh nội sinh
    của dân tộc [18].

  9. 3
    Trong công trình:

    Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở
    nước ta, GS.TS. Hoàng Vinh cho rằng:
    Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội. Đời sống
    xã hội là một phức thể những hoạt động sống của con người, nhằm
    đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của nó. Nhu cầu vật chất
    được đáp ứng làm cho con người tồn tại như một sinh thể, còn nhu
    cầu tinh thần thì giúp con người tồn tại như một sinh thể xã hội,
    tức là một nhân cách văn hóa [54, tr.262].
    Có thể hiểu: Đời sống văn hóa chính là tổng thể sống động các hoạt
    động văn hóa trong quá trình sáng tạo, bảo quản, phổ biến, tiêu dùng các sản
    phẩm văn hóa và sự giao lưu văn hóa nhằm thỏa mãn nhu cầu văn hóa của
    một cộng đồng.
    Bên cạnh đó còn có một số cuốn như: Về phát triển văn hóa và xây
    dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Phạm Minh Hạc,
    Nguyễn Khoa Điềm năm 2001; cuốn Về văn hóa và xây dựng đời sống văn
    hóa xuất bản năm 2005 và cuốn sách Về cuộc vận động Toàn dân đoàn kết
    xây dựng đời sống văn hóa xuất bản năm 2009 của tác giả Nguyễn Hữu Thức;
    Xây dựng tư tưởng, đạo đức lối sống và đời sống văn hóa ở Thủ đô Hà Nội
    của Nguyễn Viết Chức và các tác giả do Viện Văn hóa xuất bản năm 2001 …
    Đồng thời, nghiên cứu về xây dựng đời sống văn hóa còn có các bài
    báo, tạp chí do các cơ quan quản lý về văn hóa trong cả nước đăng tải. Có thể
    kể đến các công trình như:
    – Vụ Văn hóa quần chúng – Viện Văn hóa (1991), Mấy vấn đề lý luận và
    thực tiễn xây dựng đời sống văn hóa ở nước ta, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
    Nội đã nhấn mạnh các quan điểm của Đảng và một số vấn đề thực tiễn về xây
    dựng đời sống văn hóa nước ta.
    – Vụ Văn hóa quần chúng – Viện Văn hóa (1991), Năm năm văn hóa cơ
    sở – thực trạng và những vấn đề cần giải quyết, Nxb Văn hóa thông tin, Hà

  10. 4
    Nội đã đánh

    giá thực trạng những kết quả đạt được, những mặt hạn chế trên
    cơ sở đó đưa ra hướng giải quyết để nâng cao đời sống văn hóa cơ sở.
    – Bộ Văn hóa – Thông tin, Cục Văn hóa cơ sở (1999), Hỏi đáp về xây
    dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống văn hóa và tổ chức lễ hội
    truyền thống, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội đã đưa ra những câu hỏi và câu
    trả lời xoay quanh vấn đề xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa, nếp sống
    văn hóa.
    – Trong các tạp chí Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, Cục Văn hóa
    thông tin cơ sở (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã đăng tải các bài viết về
    hiệu quả xây dựng đời sống văn hóa ở các địa phương, trong đó đánh giá thực
    trạng đưa ra nguyên nhân, giải pháp về xây dựng đời sống văn hóa.
    2.2. Các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài
    Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học tại Trường Đại học Văn hóa với đề tài
    Quản lý nhà nước về văn hóa tại phường Xuân La, quận Tây Hồ, thành phố
    Hà Nội của Đặng Xuân Minh, bảo vệ năm 2011. Luận văn đã hệ thống hóa
    những vấn đề lý luận chung về quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn hóa và
    quản lý văn hóa đối với hoạt động cấp xã/phường/thị trấn. Luận văn đã đánh
    giá được những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về văn hóa ở
    phường Xuân La, tìm nguyên nhân của những hạn chế đó. Trên cơ sở đánh
    giá được thực trạng yếu kém trong khâu quản lý, học viên đề xuất các phương
    hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa tại
    phường Xuân La.
    Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa Xây dựng đời sống văn hóa ở thị xã
    Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh của Hoàng Văn Vinh, bảo vệ năm 2016 tại
    Trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương. Luận văn đã khái quát
    được những vấn đề cơ bản về văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa, thiết chế
    văn hóa ở cơ sở. Đồng thời cũng trình bày cụ thể các hoạt động đặc trưng của

  11. 5
    quá trình xây

    dựng đời sống văn hóa ở xã Đông Triều cũng như kết quả đạt
    được của hoạt động ấy. Trên cơ sở đó, tác giả đã tiến hành nhận xét và đề
    xuất các nhóm giải pháp xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tại xã Đông Triều,
    tỉnh Quảng Ninh.
    Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý văn hóa của Trần Thị Thu
    Huyền với đề tài Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở phường Hùng Thắng,
    thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, bảo vệ năm 2016 tại Trường Đại học
    Sư phạm Nghệ thuật Trung ương. Luận văn đã làm rõ cơ sở lý luận của vấn
    đề quản lý hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở. Qua khảo sát thực
    trạng, tác giả đã đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong công tác quản lý hoạt
    động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở phường Hùng Thắng, tỉnh Quảng
    Ninh trong những năm qua. Luận văn bước đầu đề xuất phương hướng và một
    số giải pháp nhằm nâng cao hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
    trên địa bàn phường Hùng Thắng trong giai đoạn hiện nay.
    Luận văn Thạc sĩ Quản lý Văn hóa, Trường Đại học Văn hóa với đề tài
    Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn của
    Hoàng Văn Tầm, bảo vệ năm 2011. Luận văn đã phân tích, làm rõ các khái
    niệm xây dựng đời sống văn hóa cơ sở và tác động của nó đối với việc phát
    triển đời sống văn hóa cơ sở ở huyện Chi Lăng. Luận văn bước đầu có những
    tổng kết về thực trạng xây dựng đời sống văn hóa ở huyện Chi Lăng, tỉnh
    Lạng Sơn, từ đó đề ra những giải pháp thiết thực nhằm xây dựng và phát triển
    đời sống văn hóa của người dân nơi đây, góp phần nâng cao chất lượng công
    tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn.
    Nguyễn Phương Thủy trong luận văn Thạc sĩ Đảng bộ huyện Thanh
    Oai (Hà Nội), lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa cơ sở từ năm 2001 đến
    năm 2010 tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (2014). Tác giả
    đi sâu phân tích thực trạng đời sống văn hóa và làm rõ chủ trương của Đảng

  12. 6
    bộ huyện Thanh

    Oai trong lãnh đạo xây dựng đời sống văn hóa. Trên cơ sở
    đánh giá những thành tựu, tồn tại, hạn chế trong việc xây dựng đời sống văn
    hóa huyện Thanh Oai, luận văn đã rút ra một số bài học kinh nghiệm và giải
    pháp đối với việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở của huyện trong giai đoạn
    hiện nay.
    Nội dung các tác phẩm đề cập ở trên về văn hóa đã giúp cho tác giả đề
    tài nhận thức rõ về bản chất, vai trò của văn hóa, đồng thời cung cấp nguồn tư
    liệu làm cơ sở lý luận để thực hiện đề tài.
    Hầu hết những công trình nghiên cứu nói trên tập trung vào lý luận nói
    chung về quản lý các hoạt động văn hóa và gắn với một số địa phương.
    Một số công trình nghiên cứu đã làm rõ quan niệm về văn hóa và xây
    dựng đời sống văn hóa cả về lý luận và thực tiễn một cách hệ thống. Nhiều
    nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề chung về đời sống văn hóa cũng như việc
    xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở về diện mạo, nội dung, nhiệm vụ, nguyên
    tắc, phương châm, giải pháp… của xây dựng đời sống văn hóa. Nghiên cứu
    công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở không chỉ dừng lại ở phương diện
    lý luận, mà phải nghiên cứu gắn với tình hình, nhiệm vụ cụ thể của địa
    phương, đất nước trong thời kỳ đổi mới. Nhiều công trình đã đi sâu nghiên
    cứu đối với một không gian cụ thể hay một số lĩnh vực cụ thể của đời sống xã
    hội. Tuy nhiên mỗi địa phương lại có những đặc điểm khác nhau về tình hình
    phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đặc biệt là khác nhau trong việc triển khai
    thực hiện sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công tác quản lý đời sống văn
    hóa ở cơ sở.
    Trên thực tế, đã có nhiều công trình nghiên cứu về xây dựng đời sống
    văn hóa ở xã, phường nhưng phân tích quản lý hoạt động xây dựng đời sống
    văn hóa ở một địa bàn cụ thể là địa bàn xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành
    phố Hà Nội thì chưa có. Trong quá trình triển khai đề tài tác giả luận văn sẽ tiếp

  13. 7
    thu, kế thừa

    các thành tựu của các tác giả đi trước để thực hiện mục tiêu và nhiệm
    vụ của đề tài.
    3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
    3.1. Mục đích nghiên cứu
    Trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng quản lý, xây dựng đời sống
    văn hóa cơ sở ở xã Đại Hưng trong thời gian từ 2011 đến nay, luận văn đề
    xuất những giải pháp thiết thực, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả xây
    dựng đời sống văn hóa cơ sở trong những năm tiếp theo.
    3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
    – Làm rõ cơ sở lý luận về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trong bối
    cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
    – Giới thiệu đặc điểm địa lý, nhân văn xã Đại Hưng, làm rõ những tác
    động của kinh tế – xã hội đối với xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở xã Đại
    Hưng.
    – Khảo sát đánh giá những ưu điểm và hạn chế trong xây dựng đời sống
    văn hóa cơ sở ở xã Đại Hưng từ năm 2011 đến nay.
    – Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
    xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở xã Đại Hưng.
    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    4.1. Đối tượng nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu xây dựng đời sống văn hóa có rất nhiều công việc,
    luận văn tập trung vào công tác quản lý nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa
    và hoạt động tự quản của cộng đồng dân cư liên quan đến công tác xây dựng đời
    sống văn hóa cơ sở ở xã Đại Hưng, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội.
    4.2. Phạm vi nghiên cứu
    – Về không gian: Hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ở địa bàn xã
    Đại Hưng thuộc huyện Mỹ Đức làm điểm nghiên cứu.

  14. 8
    – Về thời

    gian: Nghiên cứu việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở xã
    Đại Hưng từ năm 2011 đến nay, vì năm 2011 đánh dấu mốc xã Đại Hưng
    thực hiện kế hoạch Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
    thành phố Hà Nội (giai đoạn 2011 – 2015).
    5. Phương pháp nghiên cứu
    Căn cứ vào mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài triển khai các
    phương pháp cụ thể sau:
    – Phương pháp tra cứu tài liệu: Để hoàn thiện công trình nghiên cứu này,
    tác giả đã tra cứu tài liệu và những công trình khoa học có liên quan. Phương pháp
    tra cứu tài liệu giúp tác giả luận văn tham khảo, đánh giá và so sánh trên bình diện
    chung về văn hóa, từ đó xử lý rút ra những kết luận cần thiết.
    – Phương pháp phân tích, tổng hợp: Là phương pháp đòi hỏi tác giả đề
    tài tìm hiểu và nghiên cứu các tài liệu có liên quan với hướng nghiên cứu, các
    cứ liệu liên quan đến địa bàn nghiên cứu nhằm chắt lọc những kiến thức
    chung nhất cho đề tài.
    – Phương pháp điền dã, thực địa: Để thực hiện đề tài, tác giả đã xuống
    địa bàn hơn 10 lần; gặp chủ tịch xã, các cán bộ văn hóa xã, khảo sát và tham
    quan bộ máy chính quyền xã cũng như một số thiết chế văn hóa trọng tâm;
    tiến hành chụp ảnh tư liệu, thực hiện công tác phỏng vấn, 150 phiếu hỏi và
    ghi âm cuộc phỏng vấn làm tài liệu cho đề tài. Điều đó giúp cho luận văn có
    được nguồn tài liệu phong phú. Trên cơ sở đó, đề xuất được những nhóm giải
    pháp khả thi có tính phù hợp với địa bàn nghiên cứu. Trong quá trình điều tra
    có sự đối chiếu, bổ sung nhiều thông tin cần thiết mà các nguồn cung cấp tư
    liệu hoặc có nhưng chưa đủ.
    – Phương pháp tiếp cận liên ngành: Tác giả vận dụng các phương pháp
    chuyên ngành sử học, dân tộc học, văn hóa dân gian vào nghiên cứu đối tượng.
    6. Những đóng góp của luận văn

  15. 9
    – Hệ thống

    những vấn đề lý luận về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở.
    Qua phân tích đánh giá thực trạng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở xã Đại
    Hưng, luận văn đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả xây
    dựng đời sống văn hóa cơ sở ở địa bàn xã Đại Hưng.
    – Kết quả của đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác quản lý
    của Phòng Văn hóa Thông tin huyện Mỹ Đức và cán bộ lãnh đạo, quản lý văn
    hóa ở xã Đại Hưng.
    7. Bố cục của luận văn
    Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
    gồm:
    Chương 1: Cơ sở lý luận về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở và tổng
    quan về xã Đại Hưng.
    Chương 2: Thực trạng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên đại bàn xã Đại
    Hưng.
    Chương 3: Nâng cao hiệu quả xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa
    bàn xã Đại Hưng.

  16. 10
    Chương 1
    CƠ SỞ

    LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ
    VÀTỔNG QUAN VỀ XÃ ĐẠI HƯNG
    1.1. Cơ sở lý luận
    1.1.1. Một số khái niệm
    1.1.1.1. Văn hóa
    Văn hóa là một khái niệm mang tính đa nghĩa, được sử dụng rộng rãi ở
    khắp các quốc gia trên thế giới, ở các thời đại và hoàn cảnh khác nhau. Đã có
    rất nhiều các nhà khoa học cùng nhiều tổ chức quốc tế đưa ra quan niệm khác
    nhau về văn hóa. Căn cứ vào điều kiện và cách tiếp cận lịch sử cụ thể mà đưa
    ra quan niệm, từ đó làm rõ vị trí, vai trò và ý nghĩa nghiên cứu phục vụ cho
    mục đích của mình.
    Văn hóa là sản phẩm do con người sáng tạo ra, có từ thủa sơ khai của
    xã hội loài người. Ở phương Đông, từ văn hóa đã có trong đời sống ngôn ngữ
    từ rất sớm. Người sử dụng từ văn hóa sớm nhất có thể là Lưu Hướng (năm 77
    – 6 TCN), thời Tây Hán với nghĩa như một phương thức giáo hóa con người –
    văn trị giáo hóa. Văn hóa ở đây được dùng đối lập với vũ lực (phàm dấy việc
    võ là vì không phục tùng, dùng văn hóa mà không sửa đổi, sau đó mới thêm
    chém giết). Ở phương Tây, để chỉ đối tượng nghiên cứu, người Pháp, người
    Nga có từ Kuitura. Những chữ này lại có chung gốc Latinh là chữ cultus
    anami là trồng trọt. Vậy chữ cultus là văn hóa với hai khía cạnh: trồng trọt,
    thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và giáo dục đào tạo cá thể hay cộng
    đồng để họ không còn mang tính con vật mà mang những đức tính và phẩm
    chất tốt đẹp.
    Tuy nhiên, theo thời gian việc xác định và sử dụng khái niệm văn hóa
    trở nên phức tạp và có nhiều thay đổi. Thuật ngữ văn hóa với nghĩa “canh tác
    tinh thần” được sử dụng vào thế kỷ XVII – XVIII bên cạnh nghĩa gốc là quản

  17. 11
    lý, canh tác

    nông nghiệp. Bước vào thế kỷ XX, thuật ngữ văn hóa đã thâm
    nhập vào đời sống xã hội một cách sâu rộng, làm thay đổi nhận thức của con
    người trong các hướng tiếp cận mới phù hợp với xu thế phát triển của khoa
    học công nghệ. Văn hóa đã và đang trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều
    ngành, để từ đó tạo ra bước ngoặt quan trọng trong việc hình thành khung lý
    thuyết mới trên nhiều lĩnh vực có liên quan đến văn hóa và xã hội.
    Đề cập trong công trình “Văn hóa nguyên thủy” (1871), quan niệm về
    văn hóa của B. Taylor trở thành định nghĩa đầu tiên về đối tượng nghiên cứu
    văn hóa. Theo ông, “văn hóa hay văn minh theo nghĩa rộng về tộc người học,
    nói chung bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập
    quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư
    cách là một thành viên của xã hội” [14, tr.13].
    Theo các nhà triết học: “Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất, tinh
    thần do con người sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn lịch sử xã hội và đặc
    trưng cho trình độ đạt được trong quá trình phát triển của lịch sử của xã hội”
    [38, tr.21].
    Tuyên ngôn của “Hội nghị quốc tế về chính sách văn hóa” do
    UNESCO tổ chức vào tháng 8 năm 1982 tại Mehicô được trích trong cuốn
    Thập kỷ Thế giới phát triển văn hóa xác định về văn hóa: “Là tổng thể các
    dấu hiệu tinh thần, vật chất, trí tuệ và tình cảm đặc biệt, xác định tính cách
    của một xã hội hay một nhóm xã hội. Nó bao hàm không chỉ cuộc sống nghệ
    thuật và khoa học, mà còn cả lối sống, các quyền cơ bản của sự tồn tại nhân
    sinh, những hệ thống giá trị, các truyền thống và các quan niệm” [7, tr.23].
    Theo chủ nghĩa Mác – Lênin, thì văn hóa chỉ gắn liền với con người và
    xã hội loài người. Cội nguồn của sự tồn tại phát triển văn hóa là ở hoạt động
    sáng tạo của con người. V.I.Lênin – người kế tục sự nghiệp của C. Mác và Ph.
    Ăngghen từ quan điểm xem xét văn hóa với tư cách là sự phát triển bản chất

  18. 12
    của con người

    đã nhấn mạnh, phân tích sâu thêm mặt xã hội của văn hóa với
    cách tiếp cận từ hình thái kinh tế. Người nhấn mạnh tính nhân loại, tính giai
    cấp, tính kế thừa của văn hóa, đặc biệt xem cách mạng văn hóa như một bộ
    phận hữu cơ của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
    Tại Việt Nam, quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa: “Vì lẽ
    sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
    minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
    nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
    phương thức sử dụng – Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn
    hóa” [34, tr. 431], đến nội hàm khái niệm văn hóa mà Hội nghị lần thứ 5 của
    Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh
    thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế
    – xã hội” [23, tr.10] là sự phát triển các quan niệm về văn hóa của Đảng ta
    nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
    dân tộc, để văn hóa thực sự trở thảnh nền tảng tinh thần của xã hội, là động
    lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời là mục tiêu cao cả của
    chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay.
    Qua những phân tích trên ta nhận thấy, quan điểm chung trong những
    quan niệm trên chính là xem lao động sáng tạo là khởi nguồn của văn hóa.
    Văn hóa giúp con người có khả năng suy xét về bản thân, mang tính nhân bản
    sâu sắc, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách có lý trí và tình cảm
    trong khát vọng vươn tới chân – thiện – mỹ. Cũng nhờ văn hóa mà con người
    thể hiện được phẩm chất, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương
    án “chưa hoàn thành”, đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi
    và sáng tạo nên những cái mới, cái hay, cái đẹp.
    Dưới góc độ tiếp cận xem lao động sáng tạo là cội nguồn, khởi điểm
    của văn hóa hướng về các giá trị nhân bản nhằm hoàn thiện con người, nhà
    nghiên cứu Hoàng Vinh có quan niệm rằng:

  19. 13
    Văn hóa là

    toàn bộ sáng tạo của con người, tích lũy lại trong quá
    trình hoạt động thực tiễn xã hội, được đúc kết thành hệ giá trị và
    chuẩn mực xã hội, biểu hiện thông qua vốn di sản văn hóa và hệ
    ứng xử văn hóa của cộng đồng người. Hệ giá trị xã hội là một thành
    tố cốt lõi làm nên bản sắc riêng của một cộng đồng xã hội, có khả
    năng chi phối đời sống tâm lý và một hoạt động của những con
    người sống trong cộng đồng xã hội ấy [54, tr.43].
    Sáng tạo văn hóa cả về vật chất và tinh thần được hiểu là tạo nên những
    giá trị văn hóa chuẩn mực, từ đó đúc rút kinh nghiệm, cố gắng phấn đấu để
    đạt được giá trị văn hóa cần thiết đối với mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Như
    vậy, có thể hiểu, văn hóa chính là thước đo năng lực sáng tạo của cá nhân và
    cộng đồng nhằm hoàn thiện nhân cách và chuẩn mực xã hội, đạt tới sự thống
    nhất cao giữa mỗi cá nhân – gia đình – cộng đồng làng xã và toàn xã hội. Từ
    đó, xây dựng và phát triển xã hội tiến bộ, đời sống con người nâng cao.
    1.1.1.2. Đời sống văn hóa
    Vì sự sinh tồn và phát triển của xã hội, con người đã sáng tạo những giá
    trị vật chất và tinh thần, đó là văn hóa. Vì một tổng thể hoàn chỉnh, quan niệm
    về văn hóa và đời sống văn hóa có mối liên quan mật thiết với nhau. Đời sống
    văn hóa là sự phản ánh cô đọng nhất về các mặt của văn hóa. Ở nước ta, khái
    niệm “đời sống văn hóa’ thường gắn với khái niệm “đời sống văn hóa cơ sở”,
    khái niệm này xuất hiện và đưa vào sử dụng trong ngành văn hóa từ năm
    1982. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tương đồng, giữa hai khái niệm cũng
    có những phân biệt nhất định.
    Khái niệm “đời sống văn hóa” được các nhà nghiên cứu tiếp cận trên
    nhiều phương diện khác nhau. Trong báo cáo của Viện Văn hóa có đề cập:
    Đời sống văn hóa nói chung là một tổng hợp những yếu tố vật thể
    văn hóa nằm trong những cảnh quan văn hóa, những yếu tố hoạt

  20. 14
    động văn hóa

    của con người, những sự tác động lẫn nhau trong đời
    sống xã hội để tạo ra những quan hệ có văn hóa trong cộng đồng
    người, trực tiếp làm hình thành lối sống của con người trong xã hội”
    [55, tr.12].
    Theo nghĩa hẹp, đời sống văn hóa chính là quá trình sản xuất, phân
    phối, lưu giữ và tiêu thụ những sản phẩm văn hóa. Nhờ có quá trình này mà
    các giá trị văn hóa đi vào đời sống hàng ngày của con người, trở thành một bộ
    phận hợp thành không thể tách rời và là thành tố thiết yếu của đời sống.
    Đối với tác giả Nguyễn Hữu Thức, quan niệm về đời sống văn hóa lại
    có một cách nhìn hoàn chỉnh hơn khi tiếp cận vấn đề trong toàn bộ đời sống
    xã hội. Cụ thể là:
    Đời sống văn hóa được hiểu một cách khái quát là hiện thực sinh
    động của các hoạt động của con người trong môi trường sống để
    duy trì, đồng thời tái tạo sản phẩm văn hóa vật chất, văn hóa tinh
    thần theo những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định nhằm không
    ngừng tác động biến đổi tự nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu đổi
    mới nâng cao chất lượng sống của chính con người [49, tr.2].
    Nếu như văn hóa là đời sống thì đời sống văn hóa chính là môi trường
    hoạt động sống của con người. Môi trường văn hóa là nơi diễn ra mọi hoạt
    động của văn hóa cá nhân và văn hóa cộng đồng, là tổng thể của văn hóa vật
    thể và phi vật thể. Tất cả những yếu tố đó tác động lẫn nhau, hình thành đạo
    đức cũng như lối sống của con người và xã hội. Như vậy, có thể thấy đời sống
    văn hóa được biểu hiện trong mọi hoạt động sống của con người, là khái niệm
    mang tính bao trùm, thể hiện cụ thể mặt giá trị của đời sống vật chất và đời
    sống tinh thần của con người. Qua kinh nghiệm và kiến thức trong đấu tranh,
    lao động sản xuất, sáng tạo, đời sống văn hóa đã được tổng hợp, chắt lọc và
    phát triển với những sắc thái riêng. Nhờ đó mà lối sống, đạo lý, tâm hồn, nét

  21. 15
    đẹp được định

    hướng đúng đắn trong mối quan hệ giữa người với người, giữa
    người với môi trường xã hội.
    Tuy nhiên, khi nền văn hóa xã hội phát triển thì sự đáp ứng những nhu
    cầu của con người cũng đạt tới trình độ phát triển tương ứng. Chính vì lẽ đó,
    muốn xây dựng đời sống văn hóa cần phải được xây dựng một cách tổng thể,
    bao quát toàn bộ các mục tiêu, nhiệm vụ của đời sống xã hội. Đời sống văn
    hóa chuẩn mực của toàn thể xã hội được đánh giá tồn tại thông qua đời sống
    văn hóa cơ sở, đời sống văn hóa của từng cá nhân và cộng đồng trong xã hội.
    1.1.1.3. Đời sống văn hóa cơ sở
    Đời sống văn hóa ở cấp cơ sở là một yếu tố tiên quyết góp phần quan
    trọng trong công tác xây dựng đời sống văn hóa. Xây dựng đời sống văn hóa
    ở cơ sở từ lâu đã là một nhiệm vụ chiến lược, một chủ trương lớn của Đảng
    được xây dựng thành những chương trình phát triển văn hóa lâu dài cho cộng
    đồng dân cư ở cấp cơ sở. Đây không chỉ là một loại công tác cụ thể, một loại
    hoạt động của thiết chế văn hóa chuyên môn nào đó mà xây dựng đời sống
    văn hóa cơ sở còn là lĩnh vực hoạt động tổng hợp của nhiều chuyên ngành
    văn hóa, giáo dục, chính trị… hướng về cơ sở để xây dựng một đời sống văn
    hóa tốt đẹp cho người dân.
    Theo tinh thần của Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương
    khóa VIII, đơn vị cơ sở là nhà máy; công trường; nông trường; lâm trường;
    đơn vị lực lượng vũ trang; công an nhân dân; cơ quan; trường học; bệnh viện;
    cửa hàng; hợp tác xã; làng xã; phường; ấp; bản; vùng dân cư; gia đình; họ
    tộc… Về bản chất, những liệt kê trên là hình thái đầu tiên của sự quy tụ xã hội
    nằm trong tầng cấu trúc nền tảng của xã hội. Đồng thời, đó cũng là toàn bộ
    những hình thái liên kết xã hội về vật chất và tinh thần để các cá nhân sinh
    tồn. Như vậy, có thể thấy, đơn vị văn hóa cơ sở là những cộng đồng dân cư có
    địa bàn sinh sống ổn định với đơn vị cư trú là làng, xóm, ấp, bản, tổ dân phố;

  22. 16
    các đơn vị

    hành chính; đơn vị sự nghiệp… có bộ máy tổ chức hành chính,
    kinh tế – xã hội hoàn chỉnh.
    Đời sống văn hóa ở cơ sở là khái niệm bao gồm các điều kiện vật chất,
    các sản phẩm văn hóa, hoạt động văn hóa, các thiết chế văn hóa… ở đơn vị cơ
    sở được con người nhận thức và thực thi một cách tự giác, rõ ràng, có kế
    hoạch cụ thể nhằm xây dựng một đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng những
    nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của các tầng lớp nhân dân
    trên từng địa bàn dân cư cụ thể.
    1.1.1.4. Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
    Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở là công tác xây dựng, tổ chức và
    hoạt động văn hóa phù hợp với yêu cầu của từng cơ sở địa phương. Đây
    được coi là hoạt động xây dựng đời sống văn hóa ngay trong cuộc sống
    hàng ngày của nhân dân ở từng cấp đơn vị, nghĩa là từ tầng cấu trúc nền
    tảng của xã hội, hướng tới xây dựng đời sống văn hóa mà mục tiêu là
    những đơn vị ở cấp cơ sở.
    Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở cũng chính là xây dựng văn hóa ngay
    trong đời sống hàng ngày của người dân. Bởi vì cấp cơ sở là nơi gần dân nhất
    diễn ra các hoạt động kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội, là nơi có sự quản
    lý của bộ máy hành pháp, thể hiện sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và đề cao
    quyền làm chủ của nhân dân. Ở cấp cơ sở, quần chúng nhân dân cùng tham
    gia xây dựng đời sống văn hóa dưới sự chỉ đạo của cấp chính quyền đại diện
    cho Đảng, Nhà nước, đồng thời, hưởng thụ các giá trị văn hóa do mình sáng
    tạo ra.
    Đời sống văn hóa cơ sở được diễn ra ở cộng đồng nhỏ là gia đình, làng,
    xóm, ấp, hoặc cộng đồng lớn hơn là doanh nghiệp, cơ quan, bệnh viện, lực
    lượng vũ trang… Đặc điểm cơ bản của đời sống văn hóa cơ sở là các hoạt
    động văn hóa diễn ra gắn liền với sinh hoạt vật chất và tinh thần của cá nhân

  23. 17
    và cộng đồng

    trong các mối liên kết thường xuyên và trực tiếp với không gian
    địa lý nhất định cùng với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và các thiết chế văn
    hóa nhất định. Mỗi cộng đồng dân cư sống cố định và hình thành một tổ chức
    hành chính (xã, phường, trường học, bệnh viện) hay một cộng đồng nhỏ hơn
    (gia đình, chòm, xóm…). Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở là xây dựng văn
    hóa từ ngay trong gia đình và trong cộng đồng dân cư, cộng đồng nghề nghiệp
    của quần chúng nhân dân.
    Thực tế cho thấy, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở chính là điều kiện
    tiên quyết để bồi đắp nền tảng tinh thần cho xã hội; là bước đi căn bản, đầu
    tiên có tính trực tiếp để xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
    tộc. Đồng thời, xây dựng đời sống văn hóa góp phần tạo điều kiện thuận lợi
    cho nhân dân phát huy và thực hiện quyền làm chủ của mình trong sáng tạo
    cũng như hưởng thụ các giá trị văn hóa, xây dựng lối sống văn minh, nề nếp,
    có kỷ cương, trật tự; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
    nhân dân, tạo ra nền tảng vững chắc thúc đẩy sự phát triển kinh tế – văn hóa –
    xã hội và đảm bảo sự ổn định chính trị.
    1.1.2. Nội dung xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
    Kể từ Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về văn hóa (1998), xây
    dựng đời sống văn hóa là một nội dung được đánh giá có vai trò cốt lõi trong
    xây dựng môi trường văn hóa trên địa bàn cơ sở. Trong bản Kế hoạch triển
    khai phong trào do Ban Chỉ đạo Trung ương phong trào ban hành ngày
    12/4/2000 đã nêu rõ năm nội dung thiết thực để xây dựng đời sống văn hóa
    ngay trên địa bàn cơ sở, cho đến nay những nội dung đó vẫn giữ vai trò chỉ
    đạo trong thực tiễn. Gồm các nội dung:
    Một là, phát triển kinh tế, giúp nhau làm giàu chính đáng, xóa đói giảm
    nghèo. Nội dung này thể hiện rõ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Văn
    hóa, văn nghệ không thể đứng ngoài mà phải đứng trong kinh tế và chính trị”.

  24. 18
    Các sản phẩm

    văn hóa ra đời trong quá trình lao động, sáng tạo của con người
    và quay trở lại phục vụ nhu cầu sống của con người. Căn cứ vào chức năng,
    nhiệm vụ của từng đối tượng của mình mà văn hóa phải phục vụ nhiệm vụ
    phát triển kinh tế. Với mục tiêu giúp nhau làm giàu chính đáng, xóa đói giảm
    nghèo nên các nhân tố văn hóa cần thông qua các mối quan hệ giữa cá nhân
    với cá nhân, giữa cá nhân với tổ chức kinh tế – xã hội, giữa các hộ gia đình,
    các tổ chức chính trị, kinh tế – xã hội với nhau. Để đạt hiệu quả tốt nhất trong
    các hoạt động văn hóa, các nhân tố văn hóa có những tác động cổ vũ mọi
    người, mọi nhà, mọi tầng lớp xã hội cùng hưởng ứng tham gia lao động, sáng
    tạo bằng công sức, trí tuệ để tạo ra của cải vật chất.
    Hai là, xây dựng tư tưởng, chính trị lành mạnh. Với quan điểm “phát
    triển bền vững”, các nhà nghiên cứu cho rằng, song song với phát triển kinh tế
    cũng cần giữ vững môi trường chính trị, xã hội. Có nghĩa là, để ổn định môi
    trường chính trị, xã hội thì văn hóa cũng góp một phần quan trọng. Chế độ
    chính trị ở nước ta là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
    nhân dân làm chủ xây dựng đất nước theo con đường XHCN. Hoạt động văn
    hóa phải góp phần xây dựng nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng cầm quyền,
    bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong công tác tuyên
    truyền chính trị, văn hóa phải làm cho cán bộ, đảng viên, nhân dân thấm
    nhuần quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
    tin tưởng vào con đường phát triển đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước
    mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
    Ba là, xây dựng nếp sống văn minh, kỷ cương xã hội, sống và làm việc
    theo pháp luật. Văn hóa có vai trò là thước đo chuẩn mực giá trị đạo đức, lối
    sống văn hóa, nghệ thuật ứng xử của mỗi người. Nước ta chủ trương xây
    dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bởi vậy, văn hóa phải góp
    phần vào việc tạo ra nếp sống văn minh trong mỗi cá nhân, gia đình và cộng

  25. 19
    đồng, tiến kịp

    thời đại cũng như nhịp sống công nghiệp. Theo bản Kế hoạch
    của Ban chỉ đạo Trung ương nêu ra một số công việc cần làm trong nội dung
    này như sau:
    – Xây dựng tác phong công nghiệp, làm việc có kỷ luật, thực hiện tốt
    nội quy đơn vị, hương ước, quy ước của làng, xã, khu phố và quy định nơi
    công cộng. Sống và làm việc theo pháp luật;
    – Thực hiện giao tiếp văn minh, lịch sự, thái độ vui vẻ, trách nhiệm với
    công việc;
    – Xây dựng công sở văn minh, giảm thủ tục phiền hà, quan liêu, lãng phí;
    – Thực hiện tốt nếp sống văn minh – lành mạnh – tiết kiệm trong việc,
    việc tang, giỗ tết, lễ hội và các sinh hoạt xã hội khác;
    – Giữ gìn và phát huy thuần phong mĩ tục và đạo lý truyền thống tốt
    đẹp của dân tộc;
    – Không thực hiện các hành vi tín ngưỡng (như đặt bát hương, lập bệ
    thờ, cúng lễ…) ở bên ngoài khuôn viên nơi thờ tự đã được quy định;
    – Không hút thuốc lá trong nhà trẻ, bệnh viện, phòng họp, trong rạp
    chiếu bóng, rạp hát và những nơi tập chung đông người.
    Bốn là, xây dựng môi trường văn hóa sạch – đẹp – an toàn. Môi trường
    văn hóa là sự hiện diện các vật thể văn hóa và nhân cách trong môi trường
    sinh sống của con người. Nội dung này nhấn mạnh đến ba tiêu chuẩn quan
    trọng hàng đầu của việc xây dựng môi trường văn hóa là: Xây dựng môi
    trường văn hóa sạch; xây dựng môi trường văn hóa đẹp; xây dựng môi trường
    văn hóa an toàn. Đây được coi là mối quan hệ hữu cơ, gắn bó của con người
    với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
    Năm là, xây dựng các thiết chế văn hóa – thể thao và nâng cao chất
    lượng các hoạt động văn hóa – thể thao cơ sở. Nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ
    văn hóa của nhân dân gắn liền với các thiết chế văn hóa, thể thao. Bên cạnh

  26. 20
    những thiết chế

    văn hóa cũ do ông cha ta để lại như đình; chùa; quán miếu;
    nhà thờ họ…, ngày nay quần chúng nhân dân ở cơ sở còn thiết lập thêm các
    thiết chế mới như nhà văn hóa xã, thôn; đài truyền thanh; thư viện; phòng
    truyền thống… Quan tâm xây dựng các thiết chế văn hóa tạo ra những tụ
    điểm sinh hoạt văn hóa tinh thần lành mạnh, đồng thời với việc không ngừng
    nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa, thể thao là đáp ứng nhu cầu văn
    hóa ngày càng cao của nhân dân.
    Năm nội dung trên thể hiện tư duy mới, xem xét văn hóa theo nghĩa
    rộng, là nền tảng tinh thần của xã hội. Đó là sự tác động có suy tính của con
    người trên các lĩnh vực văn hóa, chính trị, xã hội nhằm đáp ứng yêu cầu về
    vật chất và tinh thần của cá nhân và cộng đồng trong xã hội.
    Trong luận văn này, chúng tôi tiếp cận nội dung xây dựng đời sống văn
    hóa gồm: Công tác xây dựng Gia đình văn hóa; công tác xây dựng Làng văn
    hóa; công tác xây dựng công sở, doanh nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang có
    nếp sống văn hóá; xây dựng con người với tư tưởng và phẩm chất, đạo đức lối
    sống lành mạnh; xây dựng đời sống văn hóa trong các đoàn thể. Có thể quy
    vào một số nhóm vấn đề, đó là: Triển khai các văn bản chỉ đạo của huyện Mỹ
    Đức về xây dựng đời sống văn hóa; tổ chức các phong trào văn hóa; xây dựng
    nếp sống văn hóa, môi trường văn hóa; xây dựng và tổ chức hoạt động văn
    hóa ở các thiết chế văn hóa; sự tham gia của cộng đồng.
    1.2. Các văn bản của Đảng, Nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở
    1.2.1. Tư tưởng Hồ Chí minh về xây dựng đời sống văn hóa
    Là tiêu đề bài viết dưới dạng hỏi – đáp của tác giả Tân Sinh – một bút
    danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh được công bố năm 1947, cụm từ “đời sống
    mới” được biết đến là tiền thân của cụm từ “đời sống văn hóa”. Dưới sự lãnh
    đạo của Đảng, sau thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 khai
    sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, toàn dân ta đã bắt tay vào công

  27. 21
    cuộc diệt giặc

    đói, giặc dốt, tăng gia sản xuất. Đồng thời, nhiệm vụ cấp bách
    đối với văn hóa lúc đó cũng là cổ vũ tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại
    xâm, xây dựng đạo đức cách mạng, lối sống có kỉ cương đối với mỗi cá nhân,
    tập thể. So với các giai đoạn lịch sử trước đó, đây được coi là chiến lược hoàn
    toàn mới dưới sự lãnh đạo của Đảng nên được gọi là xây dựng đời sống mới.
    Với mục đích giúp người dân dễ hiểu về xây dựng đời sống văn hóa,
    Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng từ “mới” thay cho từ “ văn hóa”. Theo
    Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh:
    Có thể coi Đời sống mới là bài viết đầu tiên đặt cơ sở lý luận cho
    việc xây dựng đời sống văn hóa ra đời sau Cách mạng tháng Tám
    năm 1945. Điều này càng thấy rõ trong phong trào xây dựng Đời
    sống mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động vào tháng 1 năm
    1946 và đặc biệt tháng 4 năm 1946, Người đã ký Sắc lệnh thành lập
    Ủy ban Trung ương vận động Đời sống mới. Tháng 3 năm 1947,
    Người đã viết cuốn sách Đời sống mới để hướng dẫn việc xây dựng
    Đời sống mới trong các tầng lớp nhân dân, trong toàn xã hội. Đặc
    biệt, cuộc vận động ngay sau đó trở thành một phong trào quần
    chúng sôi nổi, rộng khắp ngay cả lúc cách mạng mới thành công và
    nhân ta phải đi ngay vào cuộc kháng chiến chống ngoại xâm hết sức
    khốc liệt, cuộc sống còn trăm bề thiếu thốn [40, tr.52].
    Đưa ra phương pháp luận về vấn đề xây dựng đời sống văn hóa và đời
    sống văn hóa cơ sở, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ:
    Đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, cái gì cũng làm mới.
    Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ… Cái gì cũ mà không xấu, nhưng
    phiền phức phải sửa đổi cho hợp lý… Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát
    triển thêm… Cái gì mới mà hay thì ta phải làm… Làm thế nào để
    đời sống của nhân dân ta được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh
    hơn. Đó là mục đích của đời sống mới [26, tr.440].

  28. 22
    Tư tưởng của

    Chủ tịch Hồ Chí Minh không dừng lại ở lý luận chung về
    phương pháp, về tính quy luật của việc xây dựng đời sống tinh thần mà còn
    xây dựng những giải pháp thực hiện: vừa định hướng vừa chỉ đạo thực tiễn
    hành động. Trong việc thực hiện nếp sống mới, Hồ Chí Minh luôn coi con
    người là trung tâm: “Người là gốc của làng nước, nên mọi người cố gắng làm
    đúng đời sống mới thì dân tộc nhất định phú cường” [34, tr.5]. Và Người đề
    ra phương châm của cuộc vận động đời sống mới đó là “Kiên trì thuyết phục,
    tránh phô trương và tự nguyện”. Một số nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ
    Chí Minh về xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, cụ thể là:
    – “Đổi mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm
    mới” [45, tr.10].
    Điều đó có nghĩa là: Xây dựng đời sống văn hóa mới trước hết là phải
    thay đổi đời sống văn hóa tinh thần kiểu cũ thành kiểu mới thắm đượm những
    giá trị nhân văn và mang tính phù hợp với thời đại. Thế nhưng, đời sống văn
    hóa mới không được cắt rời quá khứ, mà luôn thể hiện sự tiếp nối phát triển
    mang tính biện chứng những giá trị truyền thống tốt đẹp, làm nền tảng vững
    chắc cho sự ra đời của cái mới. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở về bản
    chất không có nghĩa phải làm cho nó thay thế hoàn toàn đời sống văn hóa
    truyền thống của dân tộc, mà quan trọng là phải biết cách kế thừa, phát triển
    nó sao cho phù hợp với sự tiến bộ văn hóa trong điều kiện mới.
    Trong thực tế, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở thời gian qua đã bộc lộ
    nhiều khiếm khuyết do không nắm vững phương pháp luận trên, đó là: phủ định
    cái cũ; cấm đoán, bài xích một số văn hóa truyền thống… dẫn đến tình trạng văn
    hóa bị “cào bằng”, quay lưng lại với các loại hình nghệ thuật cổ truyền…
    – “Cái gì cũ mà xấu thì phải bỏ. Cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền
    phức thì phải sửa đổi cho hợp lý, cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm cho
    phù hợp”.

  29. 23
    Có thể nói,

    đây là phương pháp được rút ra từ đặc trưng cơ bản của phủ
    định biện chứng mang tính ứng dựng trong thực tiễn hết sức khoa học. Trong
    sự phát triển của các sự vật, hiện tượng luôn có sự thống nhất biện chứng giữa
    sự sàng lọc và kế thừa, giữa phê phán và tiếp thu, giữa sự bảo tồn và phát huy
    các giá trị văn hóa. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cái cũ mà xấu thì cần xóa bỏ
    trong việc xây dựng đời sống văn hóa tinh thần. Đó là những tư tưởng phong
    kiến gia trưởng, trọng nam khinh nữ; những phong tục tập quán cổ hủ, lạc
    hậu, mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh… Biểu hiện rõ nhất cho việc thiếu
    nhận thức cũng như sự vận dụng các phương pháp luận của Hồ Chí Minh
    trong việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở chính là sự tồn tại phổ biến các
    quan niệm, hủ tục tại một số vùng dân tộc.
    Đối với cái cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì sửa đổi cho phù hợp,
    còn cái cũ mà tốt thì cần duy trì và phát triển thêm. Cái cũ mà tốt theo quan
    niệm của Hồ Chí Minh, đó là những giá trị văn hóa truyền thông của dân tộc
    và nhân loại tuy còn hạn chế xét về mặt lịch sử nhưng là cái hướng tới chân –
    thiện – mĩ. Đây là định hướng quan trọng trong xây dựng đời sống văn hóa
    tinh thần nên phát triển nhằm phù hợp với đòi hỏi của tiến bộ xã hội.
    – “Cái gì mới mà hay thì nên làm”.
    Cái mới là những thứ mang tính chất tiến bộ, mang xu hướng của thời
    đại cần được tạo điều kiện để hình thành và phát triển. Theo quan điểm của
    Hồ Chí Minh, cái mới mà hay thì ta cần làm, bởi đó là cái mới hướng tới chân
    – thiện – mĩ phù hợp với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hóa văn hóa
    của nhân loại. Nhưng các yếu tố mới tuy hay nhưng khi đưa vào vận dụng
    trong thực tế cần phải phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng của từng dân tộc.
    Như vậy, những quan điểm của Hồ Chí Minh mặc dù đã ra đời từ rất
    lâu, nhưng trong công cuộc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở hiện nay nó
    vẫn còn nguyên giá trị, có ý nghĩa cao. Đây cũng là những vấn đề nên có

  30. 24
    hướng nghiên cứu

    đúng đắn nhằm áp dụng vào thực tiễn quản lý và lãnh đạo
    xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
    1.2.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở
    Đảng ta xác định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (1981): “Một
    nhiệm vụ của cách mạng tư tưởng và văn hóa là đưa văn hóa thâm nhập vào
    cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Đặc biệt xây dựng đời sống văn hóa ở cơ
    sở”. Đây có thể coi là một chỉ đạo mang tính chiến lược lâu dài đối với sự
    nghiệp xây dựng văn hóa dân tộc phù hợp với yêu cầu xây dựng và phát triển
    chung của đất nước trong tình hình mới như hiện nay. Với đường lối lãnh đạo
    đúng đắn của Đảng, mọi nguồn lực tại chỗ được phát huy tốt, hầu hết ở các cơ
    sở đều có những tổ chức và hoặt động văn hóa liên quan; xây dựng nền văn
    hóa theo tiêu chí mới của thế giới, nhưng đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam;
    các giá trị văn hóa đều mang tinh thần cao đẹp, nội dung nhân đạo, dân chủ và
    tiến bộ. Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở nước ta vừa in đậm bản sắc
    văn hóa dân tộc, vừa phù hợp và đạt tới sự tiến bộ của các trào lưu tiên tiến
    của loài người trong xã hội hiện đại; là nền văn hóa thống nhất và đa dạng
    trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; nhân dân lao động Việt Nam vừa là
    chủ thể sáng tạo vừa là người hưởng thụ tất cả những giá trị văn hóa tinh thần
    của dân tộc và nhân loại, là đời sống văn hóa tinh thần cao đẹp luôn hướng tới
    giá trị chân – thiện – mỹ.
    Căn cứ vào tình hình thực tiễn nước nhà, Đảng ta nhận thức việc xây
    dựng đời sống văn hóa cơ sở phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
    Chí Minh làm hạt nhân, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động văn hóa tinh thần;
    là quan điểm nhất quán và xuyên suốt, là một trong những chủ trương lớn của
    Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, coi đó là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân,
    được thực thi theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý, nhân dân
    làm chủ. Quan điểm đó luôn được phát triển, bổ sung cho hoàn thiện, phù hợp

  31. 25
    với điều kiện

    lịch sử dân tộc. Chính vì vậy, đường lối lãnh đạo của Đảng ta là:
    “Xây dựng đời sống văn hóa của nhân dân ở cơ sở phải là một trọng tâm công
    tác của nhà nước ta trong những năm tới” [23, tr.85].
    Năm 2001, trong báo cáo Chính trị trình bày tại Đại hội đại biểu toàn
    quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Đẩy mạnh phong trào toàn dân
    đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” [24, tr.105], toàn Đảng, toàn dân, toàn
    quan triển khai phong trào mạnh hơn nữa; mở rộng và nâng cao hiệu quả vận
    động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng nếp sống văn
    minh và gia đình văn hóa, phong trào người tốt, việc tốt, làm cho văn hóa
    thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị
    người Việt Nam, kế thừa các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và tiếp
    thu tinh hoa văn hóa của loài người, tăng khả năng chống lại các văn hóa đồi
    trụy, độc hại.
    Tại Đại hội X, Đảng ta đề ra nhiệm vụ chăm lo phát triển văn hóa, đó là:
    Củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong
    phú, đa dạng; phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, bảo tồn,
    phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống, cách mạng; phát
    triển mạnh hệ thống thông tin đại chúng; mở rộng và nâng cao hiệu
    quả hợp tác quốc tế về văn hóa [26, tr.50].
    Ngày 9/6/2014, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 33 – NQ/TW về
    “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
    triển bền vững đất nước”. So với Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, tên của
    Nghị quyết số 33 – NQ/TW có sự thay đổi: Từ xây dựng và phát triển nền văn
    hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đến xây dựng và phát triển
    văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.
    Quan điểm của Đảng ta phát triển văn hóa mục đích vì sự hoàn thiện nhân
    cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Đối với việc

  32. 26
    xây dựng đời

    sống văn hóa thì trọng tâm là phải chăm lo xây dựng những con
    người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung
    thực, đoàn kết…
    Cùng với việc bảo vệ Tổ quốc, việc thực hiện xây dựng đời sống văn
    hóa tinh thần là điều kiện quan trọng để bồi đắp nền tảng tinh thần xã hội, tạo
    ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ mới.
    1.2.3. Chủ trương của Nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa
    Để Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa (1998) vào cuộc
    sống, một trong những giải pháp lớn của cuộc vận động là: “Toàn dân đoàn
    kết xây dựng đời sống văn hóa”. Đây được coi là giải pháp được xếp ở vị trí
    hàng đầu mang ý nghĩa quyết định tới sự thành công của cuộc vận động. Nghị
    quyết khẳng định “Phát động phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
    sống văn hóa, huy động mọi lực lượng nhân dân và cả hệ thống chính trị từ
    trên xuống, từ trong Đảng, cơ quan Nhà nước, các đoàn thể ra ngoài xã hội
    tích cực tham gia phong trào”.
    Tại thời điểm tháng 4 năm 2000, thực hiện Nghị quyết Trung ương 5
    khóa VIII, BCĐ phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
    đã xác định nội dung xây dựng đời sống văn hóa bao gồm 5 nội dung: Phát
    triển kinh tế, giúp nhau làm giàu chính đáng xóa đói, giảm nghèo; Xây dựng
    tư tưởng chính trị lành mạnh; Xây dựng nếp sống văn minh, kỷ cương xã hội,
    sống và làm việc theo pháp luật; Xây dựng môi trường văn hóa sạch đẹp, an
    toàn; Xây dựng các thiết chế văn hóa thể thao và nâng cao chất lượng các hoạt
    động văn hóa thể thao cơ sở.
    Nhằm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về
    “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
    tộc”, Nhà nước ta đã quan tâm ban hành hệ thống các văn bản chỉ đạo tạo
    hành lang pháp lý thuận lợi nhằm đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết

  33. 27
    xây dựng đời

    sống văn hóa” như: Chương trình hành động thực hiện Nghị
    quyết Hội Nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII số
    1109/CP-VX, ngày 17 tháng 9 năm 1998 về “Xây dựng và phát triển nền văn
    hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; “Quyết định số
    227/2006/QĐ-TTg ngày 11/10/2006 về việc ban hàn Quy chế về tổ chức và
    hành động của Ban Chỉ đạo cuộc vận động Phong trào “Toàn dân đoàn kết
    xây dựng đời sống văn hóa”; Quyết định 308/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng
    Chính phủ về thực hiện Nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội;
    Chỉ thị số 1869/CT-TTg ngày 10/10/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc
    tăng cường phối hợp với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đẩy
    mạnh Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
    dân cư” trong giai đoạn mới; Quyết định số 1610/QĐ-TT ngày 16/9/2011 của
    Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình thực hiện Phong trào “Toàn
    dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” giai đoạn 2011 – 2015, định hướng
    đến năm 2020; Quyết định 794/QĐ-TTg ngày 26/6/2012 của Thủ tướng
    Chính phủ về việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương Phong trào “Toàn dân
    đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” trên cơ sở hợp nhất Ban Chỉ đạo Trung
    ương Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và Ban Vận
    động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống ở khu dân cư”; Quyết định số
    159/QĐ-TTg ngày 15/10/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành
    Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương Phong trào “Toàn
    dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”… Năm 2010, Trưởng Ban chỉ đạo
    Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã ban hành Kế
    hoạch triển khai phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
    của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, một trong năm nội dung của phong trào
    là Xây dựng các thiết chế văn hóa – thể thao và nâng cao chất lượng các hoạt
    động văn hóa – thể thao cơ sở. Năm 2010, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch

  34. 28
    ban hành Thông

    tư số 12/TT-BVHTTDL ngày 22/12/2010 quy định mẫu về
    tổ chức hoạt động và tiêu chí của Trung tâm Văn hóa Thể thao xã. Năm 2011,
    Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Thông tư số 06/TT-BVHTTDL
    ngày 8/3/2011 quy định mẫu về tổ chức hoạt động và tiêu chí của Nhà văn
    hóa – khu thể thao thôn. Năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
    định số 2164/QĐ-TTg ngày 11/11/2013 về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể
    phát triển hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao cơ sở giai đoạn 2013 – 2020,
    định hướng 2030.
    Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch làm tốt vai trò thường trực, tham mưu
    giúp Ban chỉ đạo, thể chế hóa các văn bản của Đảng, Nhà nước; hướng dẫn và
    đúc kết kinh nghiệm thực tiễn kết hợp công tác quản lý với công tác nghiên
    cứu khoa học, nhanh chóng hình thành quan niệm chuẩn về đời sống văn hóa
    và bổ sung hoàn thiện nội dung cơ bản của công tác xây dựng đời sống văn
    hóa đáp ứng yêu cầu chỉ đạo của phong trào; trực tiếp theo dõi chỉ đạo phong
    trào xây dựng đời sống văn hóa, làng, bản, ấp, khu phố văn hóa. Những năm
    qua đã ban hành nhiều các văn bản chỉ đạo như: Thông tư 04/2011/TT-
    BVHTTDL ngày 21/01/2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định
    về việc cưới, việc tang, lễ hội; Thông tư 06/2011//TT/BVHTTDL ngày
    8/3/2011 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định mẫu về tổ chức, hoạt
    động và tiêu chí của Nhà văn hóa – Khu thể thao thôn; Thông tư 01/2012/TT-
    BVHTTDL ngày 18/01/2012 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quy định
    chi tiết tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xét và công nhận “Cơ quan đạt chuẩn văn
    hóa”, “Đơn vị đạt chuẩn văn hóa, “Doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa”; Thông
    tư 02/2013/TT-BVHTTDL ngày 24/01/2013 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
    lịch quy định chi tiết tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xét và công nhận “Phường
    đạt chuẩn văn minh đô thị”, “Thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị”; Thông tư

  35. 29
    08/2014/TT-BVHTTDL ngày 24/9/2014

    của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
    lịch quy định chi tiết tiêu chuẩn, trình tự, thủ tục xét và công nhận “Cơ
    quan đạt chuẩn văn hóa”, “Đơn vị đạt chuẩn văn hóa”, “Doanh nghiệp đạt
    chuẩn văn hóa”…
    Ban Chỉ đạo phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”
    được hình thành ở bốn cấp: Trung ương – Tỉnh – Huyện – Xã (Phường). Ủy
    ban Mặt trận Tổ quốc làm đầu mối liên kết các đoàn thể, các giới, các hội
    đồng thời chủ trì cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới
    ở khu dân cư”. Hội đồng Thi đua khen thưởng các cấp có trách nhiệm giúp
    các cấp chính quyền theo dõi và chỉ đạo thường xuyên phong trào, cùng Bộ
    Văn hóa, Thể thao và Du lịch xây dựng đề án về danh hiệu thi đua chung cho
    phong trào và phân cấp khen thưởng cho từng cấp, từng ngành cụ thể. Các cơ
    quan thông tấn báo, đài, thông tin đại chúng thường xuyên có các chuyên mục
    tuyên truyền giới thiệu những gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến,
    những kinh nghiệm và những mô hình làm tốt phong trào “Toàn dân đoàn kết
    xây dựng đời sống văn hóa”; phê phán những biểu hiện thiếu trách nhiệm của
    cá nhân và tập thể đối với phong trào. Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Dân
    vận Trung ương và các đoàn thể chính trị -xã hội phối hợp, chỉ đạo hệ thống
    tổ chức đoàn thể từ Trung ương đến địa phương cùng hành động và tổ chức
    các tổ, đội công tác bám sát địa bàn; căn cứ vào nội dung của phong trào
    “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” phát động nhân dân hưởng
    ứng thực hiện có hiệu quả, uốn nắn lệch lạc để phong trào phát triển bền
    vững. Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam theo dõi chỉ đạo phong trào này
    trong công nhân viên chức. Các Hội Văn học nghệ thuật tổ chức lực lượng đi
    thực tế, động viên các văn nghệ sĩ, các nhà khoa học sáng tạo nhiều tác phẩm,
    công trình khoa học về văn hóa, văn học, nghệ thuật phục vụ nhân dân, nhất
    là các đề tài yêu nước, cách mạng, dân tộc và miền núi.

  36. 30
    1.3. Tổng quan

    về xã Đại Hưng
    1.3.1. Điều kiện địa lý tự nhiên
    Theo cuốn sách của Trấn tổng xã danh bị lãm – nguồn tư liệu có giá trị
    để nghiên cứu địa danh thuần Việt biên soạn vào những năm 1810 – 1819 do
    Viện Hán Nôm xuất bản năm 1981, các thôn Hà Xá, Trinh Tiết, Thượng tiết
    hiện nay chính là ba xã của tổng Trinh tiết, huyện Hoài An, phủ Ứng Thiên,
    Trấn Sơn Nam Thượng. Thực dân Pháp xâm lược nước ta đã phân định địa
    giới hành chính thuộc hai huyện: Chương Đức, Hoài An được tách ra để
    thành lập huyện Mỹ Đức, các xã Hà Xá, Trinh Tiết, Thượng Tiết thuộc địa
    phận huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông.
    Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, thực hiện sắc lệnh 91/SL của Chính
    phủ về việc hợp nhất các xã nhỏ thành xã lớn. Tháng 4 năm 1948, ba xã Hà
    Xá, Trinh Tiết, Thượng Tiết được hợp nhất lấy tên là xã Trung Nghĩa. Hai
    năm sau, tháng 5 năm 1950 hai xã Đại Đồng và Trung Nghĩa lại được hợp
    nhất thành xã Đại Nghĩa. Giữa năm 1956 xã Đại Nghĩa được tách ra làm hai
    xã Đại Hưng và Đại Nghĩa.
    Xã Đại Hưng có ba thôn: Hà Xá, Trinh Tiết và Thượng Tiết với tổng
    diện tích đất tự nhiên là 691,07ha, đất nông nghiệp là 485,52 ha. Phía tây bắc
    giáp với thị trấn Đại Nghĩa; phía đông bắc giáp với sông Đáy, là ranh giới tự
    nhiên với huyện Ứng Hòa; phía đông nam giáp với thị xã Vạn Kim, xã Hưng
    Tiến; phía tây giáp với xã An Tiến. Với vị trí như trên, xã Đại Hưng có điều
    kiện phát triển kinh tế đa dạng theo hướng nông nghiệp, dịch vụ hàng hóa
    nông sản khá thuận lợi.
    Xã Đại Hưng thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, có địa hình tự nhiên
    bằng phẳng, độ dốc nền thấp. Độ cao tự nhiên trung bình 4 – 5,2m so với mặt
    biển. Thấp dần từ đông sang tây, thuận lợi cho việc tưới tiêu, tự chảy từ
    nguồn nước sông Đáy. Là xã thuộc đồng bằng sông Hồng nên Đại Hưng chịu

  37. 31
    ảnh hưởng của

    vùng khí hậu đông bắc, đây là khu vực nhiệt đới gió mùa,
    nóng ẩm, mưa nhiều, một năm có 4 mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình năm là
    23,10
    C (nhiệt độ tối cao là 38,60
    C, nhiệt độ tối thấp là 5,50
    C). Nhiệt độ thấp
    thường bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau, có những ngày giá lạnh dưới
    100
    C, nhiệt độ cao xuất hiện từ tháng 4 đến tháng 9 có ngày nóng đến 380
    C.
    Độ ẩm không khí tương đối cao, trung bình năm trên 80%, cao nhất vào tháng
    3 và tháng 4 đạt tới 88%, thấp nhất vào tháng 10 và tháng 11 đạt 76%. Là xã
    chịu ảnh hưởng của khí hậu đông bắc nên lượng mưa trung bình năm cao đạt
    1.786mm, năm cao nhất khoảng 2.852mm, năm thấp nhất khoảng 870mm,
    lượng mưa ở đây phân theo 2 mùa rõ rệt, mùa mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng
    9, tập trung chiếm từ 75-85% tổng lượng mưa hàng năm, mưa ít từ tháng 10
    đến tháng 4 năm sau, tổng lượng mưa chỉ đạt từ 15-25%. Có 2 loại gió chủ
    đạo thổi theo 2 mùa rõ rệt: Mùa hè gió thổi theo hướng đông nam và hướng
    nam từ tháng 5 đến tháng 9, gió thổi vào mang nhiều hơi nước gây ra mưa,
    tốc độ gió trung bình khoảng 3-3,4m/s tạo ra luồng không khí mát mẻ. Mùa
    đông gió thổi theo hướng bắc và đông bắc từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau,
    tốc độ gió trung bình khoảng 2,98m/s, đặc biệt gió mùa đông bắc tràn về
    thường lạnh, giá rét, thời tiết hanh khô ảnh hưởng đến sức khỏe con người và
    sản xuất nông nghiệp.
    1.3.2. Đặc điểm lịch sử văn hóa – xã hội
    Theo số liệu thống kê của Ban Văn hóa – UBND xã Đại Hưng, hiện nay
    toàn xã có 2.175 hộ, với 7.924 người. Là vùng đất có truyền thống lịch sử
    cách mạng, đấu tranh dựng nước và giữ nước, đến nay truyền thống ấy vẫn
    còn được lưu giữ, kế thừa cho thế hệ trẻ tiếp nối và phát huy. Chính vì lẽ đó,
    người dân xã Đại Hưng vẫn giữ trong mình tính chất phác, thuần nông, sự gần
    gũi, tính tương thân tương ái trong cộng đồng.
    Xã Đại Hưng có dân tộc Kinh chiếm 98,7% dân số, các dân tộc khác
    chiếm 1,3%; có các tôn giáo như: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Toàn xã có 3

  38. 32
    ngôi đình làng,

    3 ngôi chùa, 3 ngôi đền. Ngoài tín đồ các tôn giáo, đa số nhân
    dân trong xã có tín ngưỡng dân gian là thờ cúng ông bà, tổ tiên và người có
    công với nước; sinh hoạt nghi lễ tương đối đơn giản, mang đậm bản sắc văn
    hoá dân tộc. Bên cạnh đó là lễ hội dân gian mang nhiều sắc thái văn hóa đặc
    sắc và đa dạng, với phần “lễ” trang trọng và phần “hội” đậm đà truyền thống
    như: Lễ hội làng, Tết Nguyên đán, Tết Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5…. Hiện
    nay, trên toàn xã Đại Hưng có 27 công trình văn hóa và di tích lịch sử, trong
    đó có 6/27 di tích được xếp hạng. Các giá trị văn hóa ấy luôn được bảo lưu,
    trao truyền, bổ sung, sáng tạo qua các thế hệ theo chiều hướng tích cực, hòa
    chung trong “dòng chảy” của cộng đồng văn hóa của các dân tộc Việt
    Nam. Các di sản văn hóa của xã Đại Hưng không chỉ có giá trị trong việc giáo
    dục tri thức, hình thành nhân cách con người, nhiều di sản văn hóa vật thể đã
    và đang phát huy vai trò, tiềm năng, thế mạnh của mình trong việc quảng bá
    hình ảnh quê hương, thu hút con em quê hương trong và ngoài nước, các nhà
    đầu tư đến xã Đại Hưng tìm hiểu khám phá và lựa chọn cơ hội đầu tư.
    Sản xuất chủ yếu của người dân Đại là nông nghiệp, một số ít kinh
    doanh nhỏ lẻ hoặc ra ngoài làm kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển về
    kinh tế thì công tác phát triển văn hóa – xã hội trên địa bàn xã được quan tâm
    đạt được nhiều kết quả to lớn.
    Công tác giáo dục đào tạo được chính quyền xã và huyện quan tâm đầu
    tư, hàng năm luôn đảm bảo 100% trẻ em dưới 5 tuổi được hưởng chương
    trình giáo dục mầm non; thu hút 89% trẻ em trong độ tuổi vào mẫu giáo;
    100% trẻ tốt nghiệp tiểu học; từ 90% đến 99% tốt nghiệp trung học cơ sở. Hệ
    thống cơ sở vật chất của các trường học được đầu tư, mở rộng, nâng cấp. Hiện
    nay trường Mầm non và trường Tiểu học ở xã Đại Hưng được xây dựng
    khang trang. Chất lượng giáo viên thường xuyên được nâng lên, đảm bảo chất

  39. 33
    lượng giáo viên

    dạy các cấp học đều đạt chuẩn; riêng khối trung học cơ sở đạt
    55% giáo viên có trình độ trên chuẩn.
    Công tác chăm lo đời sống cho các đối tượng chính sách, người có
    công với nước, các đối tượng thương binh, gia đình liệt sĩ và các đối tượng trợ
    cấp xã hội thường xuyên được quan tâm. Thông qua các chương trình “Hành
    động vì trẻ em”, công tác chăm sóc bảo vệ trẻ em được quan tâm thường
    xuyên, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng ngày càng giảm. Công tác kế hoạch hóa
    gia đình cũng có nhiều khởi sắc tốt đẹp. Hoạt động thể dục thể thao, giải trí
    lành mạnh có điều kiện phát triển. đời sống tinh thần được cải thiện.
    Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn được đảm bảo.
    Phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc” được nhân rộng việc thực hiện
    có hiệu quả với sự đồng lòng của nhân dân, nâng cao được nhận thức của
    nguời dân trong đấu tranh chống lại mọi hoạt động của kẻ địch và phần tử phá
    hoại, nhất là khi truyền thông mạng phát triển. Các đối tượng có tiền án, tiền
    sự được quản lý chặt chẽ và giáo dục lại. Lực lượng công an, công an viên,
    dân phòng thường xuyên tuần tra bảo đảm cuộc sống bình yên cho nhân dân ở
    các thôn, làng. Tích cực tuyên truyền và nhắc nhở bà con nâng cao tinh thần
    cảnh giác đề phòng trộm cắp xâm nhập…
    Công tác quốc phòng quân sự địa phương được cấp ủy đảng, chính
    quyền được triển khai trên diện rộng. Các đợt tuyển quân sự hàng năm đạt
    gần 100% chỉ tiêu của huyện giao, thanh niên nhập ngũ chấp hành tốt nghĩa
    vụ của mình, không có trường hợp trả về địa phương.
    Công tác xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn xã thường xuyên
    được cấp ủy chính quyền quan tâm. Các cuộc vận động, quyên góp vì mục
    đích nhân đạo, từ thiện thu hút được sự tham gia đông đảo của các tầng lớp
    nhân dân và đạt kết quả cao. Vì lẽ đó, trong những năm qua, đời sống vật chất
    và tinh thần của nhân dân trên địa bàn xã ngày một nâng lên rõ rệt.

  40. 34
    1.4. Vai trò

    của việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở đối với phát triển
    kinh tế – xã hội xã Đại Hưng
    1.4.1. Góp phần ổn định chính trị – xã hội
    Trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, Đảng và Nhà nước ta
    luôn coi trọng xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, coi đây là nhiệm vụ then
    chốt để nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, bởi nó tác động trực tiếp
    đến tư tưởng, nếp sống của mỗi người và cộng đồng dân cư. Chính vì vậy,
    lãnh đạo xã Đại Hưng xác định, sự ổn định kinh tế – xã hội là điều kiện cơ bản
    để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, đó
    cũng là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã
    hội trên địa bàn dân cư.
    Là một xã đang trong quá tình hội nhập và phát triển, là điển hình của
    vùng nông thôn mới, xã Đại Hưng cùng với việc thực hiện chính sách một
    cửa, hội nhập và phát triển kinh tế thị trường, thì đây cũng là thời điểm mà sự
    ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế mở tác động không nhỏ, gây ra nhiều hệ
    lụy tới tư tưởng và tinh thần trong đời sống nhân dân.
    Việc xây dựng đời sống văn hóa sẽ làm cho tư tưởng, nhận thức của
    người dân xã Đại Hưng được nâng lên, mọi người luôn có ý thức chấp hành
    tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, ứng xử văn
    hóa trở nên văn minh lịch sự. Đồng thời, xây dựng đời sống văn hóa làm hạn
    chế được các hiện tượng tiêu cực như lối sống thực dụng, vị kỷ, tệ nạn xã hội,
    tham nhũng, cửa quyền, mê tín dị đoan và các hủ tục, lạc hậu… Đây là nền
    tảng cơ bản tạo ra sự ổn định về chính trị và bền vững trong các mối quan
    hệ xã hội cũng như trong lao động sản xuất của một xã thuần nông như Đại
    Hưng. Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở sẽ thúc đẩy việc thực hiện quy chế
    dân chủ ở xã, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa vốn có của địa phương;
    chăm lo các lĩnh vực văn hóa – xã hội và xây dựng hệ thống chính trị ở cơ

  41. 35
    sở xã trong

    sạch, vững mạnh, góp phần ổn định chính trị – xã hội ở địa bàn
    dân cư.
    1.4.2. Thúc đẩy sự phát triển kinh tế
    Văn hóa đóng vai trò là nền móng cho sự phát triển cả về tinh thần cũng
    như thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, xã hội của cả nước nói chung và sự
    phát triển của xã Đại Hưng nói riêng. Chính vì vậy, chăm lo đời sống văn hóa
    của mỗi người dân chính là nâng cao đời sống tinh thần của xã hội, mà muốn
    làm được điều đó phải tăng cường các hoạt động kinh tế – xã hội để tạo ra vật
    chất phục vụ nhu cầu của người dân. Trong nền kinh tế thị trường định hướng
    xã hội chủ nghĩa như hiện nay, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở xã Đại
    Hưng cần dựa trên những chuẩn mực về chân, thiện, mỹ. Đây chính là nền
    tảng và động lực thúc đẩy người dân không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến
    kỹ thuật, nâng cao tay nghề, nâng cao năng xuất lao động, đáp ứng nhu cầu
    không ngừng phát triển của xã hội. Bên cạnh đó, sức mạnh của các giá trị
    truyền thống, đạo lý dân tộc sẽ có tác dụng to lớn trong việc hạn chế những
    mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Vì vậy, sự phát triển kinh tế – xã hội
    trên địa bàn xã cần được thiết lập trong khuôn mẫu những giá trị đạo đức, giá
    trị tinh thần, định hướng cho kinh tế – xã hội phát triển theo chuẩn mực.
    1.4.3. Xây dựng con người và môi trường văn hóa
    Không chỉ riêng đối với xã Đại Hưng mà đối với tất cả các địa phương
    trên cả nước, việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở có tác động to lớn đối với
    việc xây dựng con người và xây dựng môi trường văn hóa của địa bàn dân cư.
    Để việc xây dựng con người và phát triển văn hóa ở cơ sở xã đạt hiệu quả cao
    và lâu dài thì yếu tố quan trọng chính là đề cao tiêu chí xây dựng con người
    văn hóa, tập trung vào hành vi ứng xử, lối sống, thái độ làm việc trong các cơ
    quan đơn vị, trường học đóng trên địa bàn, các khu dân cư và trong mỗi gia
    đình. Điều này thể hiện qua các phong trào như: “Xây dựng người tốt, việc

  42. 36
    tốt”; “Ông bà

    mẫu mực, con cháu thảo hiên”; “Kỷ cương, tình thương, trách
    nhiệm”; Giỏi việc nước, đảm việc nhà”; “Dạy tốt, học tốt”. Tất cả các hoạt
    động xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tại xã Đại Hưng đều nhằm xây dựng
    con người phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, thể
    chất, năng lực sáng tạo, ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, nghĩa tình…
    Khi công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở tại xã Đại Hưng đạt hiệu
    quả cao sẽ tác động tích cực đến xây dựng con người, chống lại các tiêu cực
    và tệ nạn xã hội ở đây. Chính vì thế, đây là hoạt động được nhiều địa phương
    chứ không riêng gì xã Đại Hưng quan tâm, coi đây là bước đột phá quan
    trọng. Bởi phòng, chống tệ nạn xã hội phải đi từ khu dân cư, làng xóm và tệ
    nạn xã hội giảm thì môi trường mỗi khu dân cư mới lành mạnh. Đẩy mạnh
    công tác phòng chống tiêu cực và tệ nạn xã hội với mục tiêu “xây để chống”,
    thông qua nhiều mô hình, đặc biệt là mô hình câu lạc bộ của các tổ chức, đoàn
    thể, gắn trách nhiệm xã hội với vai trò giáo dục gia đình mình. Đồng thời,
    công tác xây dựng đời sống văn hóa cần thực hiện quy chế dân chủ, đấu tranh
    chống lãng phí, quan liêu, tham nhũng, góp phần tích cực vào xây dựng đời
    sống văn hóa ở cơ sở.
    Tiểu kết
    Công tác xây dựng đời sống văn hóa là một trong những chủ trương
    quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp văn hóa mới, lối sống
    mới, con người mới. Trong chương 1, luận văn đã hoàn thiện cơ bản hệ thống
    cơ sở lý luận liên quan đến xây dựng đời sống văn hóa, làm rõ được các khái
    niệm về văn hóa; đời sống văn hóa; đời sống văn hóa cơ sở. Đây là những
    khái niệm cơ bản có liên quan đến nội dung đề tài mà tác giả dùng làm cơ sở
    cho hướng nghiên cứu của mình trong việc đánh giá khi đi vào thực tiễn vấn
    đề. Bên cạnh đó, luận văn đưa ra những phân tích về hệ thống tư tưởng Hồ
    Chí Minh, quan điểm của Đảng và chủ trương của nhà nước liên quan đến

  43. 37
    dựng đời sống

    văn hóa cơ sở. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng,
    chủ trương của nhà nước là kim chỉ nam cho hoạt động xây dựng đời sống
    văn hóa cơ sở. Vai trò của xây dựng đời sống văn hóa được luận văn đề cập
    đến ở ba lĩnh vực: Ổn định chính trị – xã hội; thúc đẩy kinh tế phát triển; xây
    dựng con người và môi trường văn hóa. Để làm tốt việc nghiên cứu của đề tài,
    tác giả luận văn đã có những khảo sát và đánh giá khái quát về địa bàn nghiên
    cứu là xã Đại Hưng trên một số vấn đề về điều kiện địa lý tự nhiên, đặc điểm
    lịch sử văn hóa xã hội. Từ những giá trị văn hóa truyền thống tiêu biểu của xã
    Đại Hưng kết hợp với sự giao lưu, chọn lọc các nền văn hóa khác nhau, cùng
    với sự định hướng đúng đắn của Đảng và nhà nước trong những năm gần đây
    làm cơ sở cho đời sống văn hóa của người dân xã Đại Hưng được nâng cao,
    phát huy được những giá trị văn hóa truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc
    của địa phương.

  44. 38
    Chương 2
    THỰC TRẠNG

    XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ
    TRÊN ĐỊA BÀN XÃ ĐẠI HƯNG
    2.1. Các chủ thể quản lý xây dựng đời sống văn hóa
    Bộ máy quản lý nhà nước về xây dựng đời sống văn hóa của nước ta hiện
    nay được tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương: Cấp Trung ương
    có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trong đó Cục Văn hóa Cơ sở có chức năng
    tham mưu, quản lý các hoạt động văn hóa cơ sở trong cả nước; cấp tỉnh, thành phố
    có Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trong đó Phòng Nghiệp vụ Văn hóa và
    Gia đình có chức năng tham mưu quản lý các hoạt động văn hóa cơ sở; cấp huyện,
    thị xã, thành phố có Phòng Văn hóa và Thông tin; cấp xã, phường, thị trấn có Ban
    Văn hóa Xã hội.
    Ủy ban nhân dân xã Đại Hưng có Ban Văn hóa xã hội, do Phó chủ tịch ủy
    ban nhân dân phụ trách văn xã làm trưởng ban và 01 cán bộ chuyên trách văn hóa
    xã hội làm phó ban. Đơn vị trực thuộc: Ba Nhà văn hóa của ba thôn (Hà Xá, Trinh
    Tiết, Thượng Tiết). Ban Văn hóa xã hội của xã chịu sự quản lý trực tiếp của UBND
    xã và theo sự chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ của Phòng Văn hóa và Thông tin
    cùng Trung tâm Văn hóa và Thể thao huyện. Ban Văn hóa xã hội thực hiện công
    việc của mình theo cơ chế liên thông một cửa trên một số lĩnh vực để phối hợp thực
    thi các nhiệm vụ theo sự ủy nhiệm của UBND xã đối với lĩnh vực mà mình được
    phân công.
    Phòng Văn hóa và Thông tin huyện có trách nhiệm hướng dẫn chuyên môn
    nghiệp vụ về lĩnh vực văn hóa, thông tin, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch cho
    các cán bộ xã hội của xã; đôn đốc việc triển khai thực hiện công tác văn hóa, thông
    tin, gia đình, thể dục, thể thao theo kế hoạch chỉ đạo của UBND huyện, Sở Thông
    tin truyền thông, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; cung cấp cho các xã những tài
    liệu liên quan đến chuyên môn để triển khai thực hiện những nhiệm vụ của ngành

  45. 39
    tại địa phương;

    trực tiếp nghiên cứu giải quyết, tiếp nhận các vấn đề liên quan đến
    công tác văn hóa, thông tin, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch mà xã cung cấp.
    UBND và cán bộ văn hóa xã Đại Hưng có trách nhiệm báo cáo tình hình, kết
    quả hoạt động văn hóa trên địa bàn xã để phòng Văn hóa và Thông tin huyện Mỹ
    Đức nắm được, đồng thời để tổng hợp, báo cáo với UBND Thành phố Hà Nội và
    Sở Thông tin Truyền thông, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
    Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy, UBND huyện, các kế hoạch, hướng dẫn
    của BCĐ huyện, thành phố, xã, các đoàn thể và tổ chức quần chúng của xã Đại
    Hưng căn cứ chức năng nhiệm vụ được giao đã lồng ghép các hoạt động phối hợp
    thực hiện đúng quy chế hoạt động của BCĐ “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
    văn hóa”. Công tác phối hợp giữa các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban ngành,
    đoàn thể đóng vai trò rất quan trọng nhằm tăng cường trách nhiệm của các cấp ủy
    đảng, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức, thành viên BCĐ và phát huy sức mạnh
    của toàn dân nhằm nâng cao chất lượng phong trào.
    Thực hiện các văn bản chỉ đạo của huyện, thành phố, xã Đại Hưng đã thành
    lập Ban Chỉ đạo phong trào TDĐKXDĐSVH trên cơ sở sát nhập Cuộc vận động
    “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư” do Mặt trận Tổ quốc
    chủ trì với phong trào TDĐKXDĐSVH.
    2.2. Công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở xã Đại Hưng
    2.2. 1. Triển khai và ban hành các văn bản quản lý
    2.2.1.1. Các văn bản chỉ đạo của huyện Mỹ Đức về xây dựng đời sống văn hóa
    Từ năm 2011, đời sống văn hóa ở xã Đại Hưng đã có những bước phát
    triển. Công tác quản lý, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở đã được triển khai
    thực hiện trên diện rộng, tạo ra những chuyển biến tích cực trong đời sống xã
    hội, góp phần tạo động lực tinh thần, thúc đẩy phong trào thi đua lao động sản
    xuất, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã
    hội, quốc phòng an ninh trên địa bàn xã Đại Hưng.