Du lịch về nguồn tại Việt Nam – thực trạng và giải pháp | Tạp chí Quản lý nhà nước

Mục lục bài viết

(Quanlynhanuoc.vn) – Du lịch về nguồn là một hành trình văn hóa hết sức thiết thực đối với mỗi người, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đến những di tích lịch sử cách mạng, văn hóa không chỉ đơn giản tham quan hay vui chơi mà còn là cơ hội để mỗi người lắng lòng lại, nghĩ về thế hệ cha ông đã hy sinh, cống hiến cả đời mình cho đất nước. Du lịch về nguồn mang một ý nghĩa sâu sắc trong việc giáo dục truyền thống cho thế hệ tương lai. Hiểu thực trạng du lịch về nguồn ở Việt Nam để có những giải pháp thỏa đáng là việc làm cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

Ngày nay, du lịch được nhiều quốc gia trên thế giới xem là một ngành kinh tế mũi nhọn, trong đó có Việt Nam. Hai yếu tố quan trọng hình thành nên một loại hình du lịch, đó là: yếu tố về  “cung trong du lịch” (về tài nguyên du lịch hay còn gọi là điểm đến du lịch, về chính sách của Chính phủ, về việc phát triển du lịch, yếu tố thị trường du lịch, yếu tố khai thác du lịch từ các doanh nghiệp…); yếu tố “cầu trong du lịch” (yếu tố du khách). Có nhiều loại hình du lịch đã và đang được khai thác, như: du lịch nghỉ dưỡng, du lịch thám hiểm, du lịch sinh thái, du lịch về nguồn (DLVN)… Trong đó, DLVN là một hành trình văn hóa hết sức thiết thực đối với mỗi người, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đến những di tích lịch sử cách mạng, văn hóa không chỉ đơn giản tham quan hay vui chơi, mà còn là cơ hội để mỗi người lắng lòng lại, nghĩ về thế hệ cha ông đã hy sinh, cống hiến cả đời mình cho đất nước. Có thể nói, DLVN mang một ý nghĩa sâu sắc trong việc giáo dục truyền thống cho thế hệ tương lai.

Đặc điểm, vai trò và ý nghĩa của du lịch về nguồn

DLVN phù hợp với tất cả các đối tượng vì nó mang nhiều giá trị và mục đích khác nhau. Đối tượng của DLVN rất đa dạng, phong phú: lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, các tổ chức của Đảng, đoàn viên Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan và ban, ngành; Hội Cựu chiến binh và những người cao tuổi đã về hưu; công nhân viên thuộc các công ty, xí nghiệp tư nhân và cổ phần; thành phần nằm trong hệ thống giáo dục, bao gồm giảng viên của các trường từ trung cấp đến đại học, các giáo viên từ bậc mầm non đến trung học phổ thông cũng như các em học sinh và sinh viên. Đồng thời, còn có sự tham gia đông đảo của người dân Việt Nam trên khắp cả nước.

Tài nguyên của DLVN được hình thành từ các cuộc kháng chiến: chống thực dân Pháp (1858 – 1954); Đế quốc Mỹ (1954 – 1975); các cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và Tây Bắc (1978 – 1979); xung đột Việt – Trung (1979 – 1991)… của dân tộc Việt Nam. Các di tích lịch sử cách mạng và kháng chiến được phân bố trên khắp đất nước Việt Nam. Tính đến năm 2020, Việt Nam có hơn 41.000 di tích, danh lam, thắng cảnh, trong đó có hơn 4.000 di tích được xếp hạng di tích quốc gia và hơn 9.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Mật độ và số lượng di tích nhiều nhất ở 10 tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng (chiếm 56% số di tích quốc gia và 46% tổng số di tích). Trong số di tích quốc gia, có 112 di tích quốc gia đặc biệt và trong đó có 8 di sản thế giới1.

DLVN ra đời để phục vụ nhu cầu thực tế của du khách nên tùy vào mỗi đối tượng có những mục đích khác nhau. Đối với du khách là cựu chiến binh, họ tham gia “tour” là để tìm lại những ký ức chiến tranh một thời mà họ đã đi qua, tiêu biểu nhất là thăm lại chiến trường xưa, nơi họ từng tham gia chiến đấu; tưởng nhớ một thời khói lửa; tưởng nhớ các đồng đội đã hy sinh… Bên cạnh đó, còn là dịp để các cựu chiến binh nhìn ngắm quê hương, đất nước đổi mới sau bao nhiêu năm hòa bình và được tham quan, trải nghiệm tại các danh lam, thắng cảnh khác của Việt Nam.

Tại các điểm di tích có nhiều hoạt động được diễn ra và đó cũng là mục đích mà du khách tìm đến. Đối với du khách là học sinh, sinh viên, công nhân viên chức cho tới du khách là người dân, họ cũng tìm đến chiến trường xưa, mục đích chính là để trải nghiệm và tìm hiểu thực tế về những cuộc chiến mà họ chỉ được nghe, được xem qua báo chí, sách, truyền hình. Họ cũng tìm đến các tượng đài, nghĩa trang để thắp hương, dâng hoa và làm lễ tạ ơn đối với những anh hùng đã hy sinh cho cuộc sống hòa bình của dân tộc. Đây là một hoạt động mang ý nghĩa nhân văn cao cả của người dân Việt Nam với ý niệm “uống nước nhớ nguồn” và “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Tại các điểm di tích là đài tưởng niệm, nghĩa trang liệt sỹ hay lăng mộ các nhà yêu nước, anh hùng dân tộc… thường diễn ra các hoạt động kết nạp Đảng và kết nạp Đoàn cho những thanh niên ưu tú. Các hoạt động với mục đích báo công về những thành tích đã đạt được của cá nhân, tập thể trong những năm tháng không ngừng học tập và lao động nhằm khích lệ đối với cá nhân hoặc tập thể để họ phấn đấu tốt hơn  trong tương lai.

Đáng nói hơn, nếu như trước đây, “tour” DLVN chủ yếu dành cho các cựu chiến binh, gia đình cách mạng, thân nhân liệt sỹ… thì những năm gần đây, loại hình du lịch này bước đầu thu hút cả giới trẻ. Chuyến DLVN sẽ cung cấp cho du khách một lượng kiến thức sống động về lịch sử, con người, những địa danh và giúp du khách thấu hiểu, thấm thía hơn giá trị của hòa bình, tự do. Đến với những di tích lịch sử cách mạng, du khách không chỉ đơn thuần là tham quan, tìm hiểu mà còn là cơ hội để thành tâm tưởng nhớ về thế hệ cha ông đã hy sinh, cống hiến cho đất nước. DLVN cũng là dịp tốt để tìm hiểu lịch sử cũng như khơi dậy lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ. DLVN, vì thế còn là một hành trình văn hóa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, nhắc nhở đến những địa danh, những con người và những dấu ấn đã từng làm nên lịch sử hào hùng của dân tộc. Qua đó, góp phần quan trọng trong việc giáo dục các giá trị truyền thống cho thế hệ tương lai.

Tình hình hoạt động thực tế một số điểm du lịch về nguồn tại Việt Nam

Dựa trên cơ sở chính sách và định hướng phát triển du lịch chung của cả nước, từng tỉnh cũng có kế hoạch và định hướng phát triển du lịch tại các điểm DLVN của địa phương. Thực tế cho thấy, những tỉnh, thành phố sở hữu các di tích lịch sử cách mạng đã và đang đón tiếp du khách với số lượng tăng dần theo từng năm.

Khu vực miền Bắc với trung tâm du lịch là Thủ đô Hà Nội, nơi đây sở hữu những di tích lịch sử cách mạng nổi tiếng và là điểm kết nối với toàn vùng nên tạo ra một sự liên kết chặt chẽ cho loại hình du lịch này. Từ đó, thúc đẩy DLVN phát triển một cách vượt bậc trong nhiều năm qua. Cụ thể: tham quan khu vực Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là một địa chỉ thu hút nhiều du khách. Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cho biết, đến thời điểm tháng 8/2019 đã đón tiếp 59.377.171 lượt người, trong đó có gần 11 triệu lượt khách quốc tế của hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế. Tại khu di tích Phủ Chủ tịch đã có hơn 80 triệu lượt người đến tham quan Khu di tích, trong đó có khách nước ngoài đến từ hơn 170 quốc gia. Mỗi năm, Khu di tích đón hơn hai triệu lượt khách. Trung bình mỗi năm có hơn 3.000 đoàn với hơn 100.000 lượt người được nghe thuyết minh, học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Bác Hồ2. Ngoài ra, tại tỉnh Cao Bằng, lượng khách đến tham quan di tích Pắc Pó đã tăng lên theo hằng năm (năm 2019, lượng khách du lịch đến Cao Bằng tăng 31,3% so với cùng kỳ năm 2018 với 736.018 lượt khách)3. Tỉnh Thái Nguyên với khu di tích ATK Định Hóa; tỉnh Tuyên Quang với khu di tích Quốc gia đặc biệt Tân Trào; tỉnh Điện Biên với những điểm di tích thuộc quần thể di tích lịch sử Điện Biên Phủ…

Khu vực miền Trung với các địa điểm DLVN thu hút lượng khách tham quan, như: Khu lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Kim Liên (huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An); di tích Ngã Ba Đồng Lộc (tỉnh Hà Tĩnh); khu mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Quảng Bình); khu tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng (tỉnh Quảng Nam). Tỉnh Quảng Trị được mệnh danh là “Bảo tàng” sinh động nhất về di tích chiến tranh và là địa phương duy nhất tại Việt Nam phát triển mô hình du lịch DMZ (Demilitarized Zone – du lịch vùng phi quân sự) với: sông Thạch Hãn, sông Bến Hải, cầu Hiền Lương, hàng rào điện tử McNamara, địa đạo Vịnh Mốc, sân bay Tà Cơn, nhà tù Lao Bảo, Dốc Miếu, đường mòn Hồ Chí Minh, đảo Cồn Cỏ… đã và đang trở thành “thương hiệu” du lịch của Quảng Trị. Mô hình du lịch độc đáo này ngày càng thu hút một lượng lớn du khách tới tham quan, khám phá, bao gồm cả du khách trong nước và quốc tế. Các tỉnh miền Trung khác cũng có những điểm di tích thu hút hàng vạn du khách đến viếng thăm.

Khu vực phía Nam, TP. Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Phước, Bình Dương và Đồng bằng sông Cửu Long… sở hữu nhiều di tích lịch sử cách mạng kháng chiến thu hút khách du lịch đến viếng thăm trong những năm vừa qua. Tại TP. Hồ Chí Minh có những di tích nổi tiếng, như: Hội trường Thống Nhất, Địa đạo Củ Chi, 18 Thôn Vườn Trầu, Khu Rừng Sát Cần Giờ, Bến Nhà Rồng và đặc biệt là Bảo tàng Chứng tích chiến tranh. Lượng khách tham gia DLVN tăng lên theo từng năm: tại TP. Hồ Chí Minh, trong 9 tháng đầu năm 2019, các di tích ở Trung ương Cục đã đón 43.000 lượt khách đến tham quan và tăng 6% so với năm trước4; tại Bà Rịa – Vũng Tàu, năm 2019 Côn Đảo đã đón 393.770 lượt khách du lịch, tăng 31% kế hoạch, tổng doanh thu từ dịch vụ du lịch đạt 1.555 tỷ đồng5.

Khu vực Tây Nguyên có 2 di tích được du khách đến thăm viếng nhiều nhất đó là di tích Nhà đày Buôn Ma Thuột tại thành phố Buôn Ma Thuột của tỉnh Đắk Lắk và khu di tích chiến thắng Đắk Tô – Tân Cảnh của tỉnh Kon Tum.

Điểm mạnh của DLVN là sự phong phú và đa dạng của điểm đến. Ngoài số lượng di tích lớn, các di tích được phân bố rộng khắp Việt Nam, đây là lợi thế cũng như tiềm năng phát triển du lịch nói chung và DLVN nói riêng. DLVN với nhiều chủ đề, như: thăm lại chiến trường xưa, tham quan, học tập, trải nghiệm không gian lịch sử kháng chiến… ngoài ra, các sự kiện lớn cũng được tổ chức tại các di tích vào những ngày lễ, ngày kỷ niệm, ngày chiến thắng là hoạt động nổi bật tạo sự hấp dẫn với Nhân dân và du khách trên cả nước. Tính liên kết giữa các điểm DLVN và các danh thắng khác tạo thành một “tour”, tuyến du lịch hoàn thiện và tăng thêm thú vị cho du khách trong chuyến tham quan của mình. Bên cạnh đó, DLVN đang đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách: không chỉ dừng lại ở nhu cầu cơ bản như đi lại, ăn uống hay nghỉ ngơi mà du khách còn mong muốn thỏa mãn về mặt tâm lý và xã hội. DLVN là hình thức du lịch vừa có ý nghĩa vui chơi giải trí vừa có ý nghĩa học tập, giáo dục và nâng cao ý thức hệ của toàn dân và đây là loại hình giúp du khách thỏa mãn nhu cầu du lịch của mình.

Tuy vậy, DLVN cũng còn những hạn chế cần sớm được khắc phục, như: chưa đồng bộ trong việc trùng tu và tôn tạo di tích; nguồn nhân lực chưa đáp ứng với yêu cầu hiện tại (đội ngũ nhân viên mỏng, chưa chuyên nghiệp; đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý di tích và phục vụ du lịch còn thiếu kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng trong phục vụ du lịch); cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế; thiếu sự gắn kết giữa các cấp, địa phương và cư dân sở tại dẫn đến việc du lịch phát triển không kiểm soát, có thể ảnh hưởng đến đời sống và văn hóa xã hội của địa phương; khả năng của doanh nghiệp lữ hành trong tổ chức “tour” DLVN còn nhiều vấn đề cần phải xem xét. Bên cạnh đó, việc truyền thông còn cục bộ; chưa có chương trình truyền thông tổng thể DLVN của cả nước…

Những nguyên nhân có thể bắt nguồn từ việc đánh giá chưa đúng tiềm năng và giá trị của di tích mang lại trong du lịch của từng địa phương. Trình độ khai thác và phục vụ trong du lịch tại những địa phương có di tích chưa đáp ứng nhu cầu của du lịch. Nguồn tài chính dành cho tôn tạo, trùng tu và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Khả năng liên kết giữa các điểm du lịch, các vùng miền và gắn kết du lịch ở địa phương với các doanh nghiệp du lịch chưa cao. Ngoài ra, di tích chưa thu hút đông đảo khách du lịch là do thiếu các hoạt động du lịch hoặc dịch vụ bổ sung khác để tăng sự thích thú của du khách khi tham quan di tích.

Đề xuất giải pháp phát triển du lịch về nguồn tại Việt Nam

DLVN là một hành trình văn hóa hết sức thiết thực đối với mỗi người, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Để DLVN phát triển bền vững, đáp ứng yêu cầu trong chiến lược phát triển ngành Du lịch Việt Nam đúng định hướng của Đảng và Nhà nước cùng với nhu cầu của du khách và Nhân dân trong và ngoài nước, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:

Một là, đồng bộ hóa trong trùng tu và tôn tạo. Việc làm này là cần thiết để du khách cảm thấy sự cân bằng giữa các di tích và không có cảm giác thiếu sự quan tâm của chính quyền với các di tích. Việc đồng bộ hóa trong việc trùng tu và tôn tạo sẽ góp phần phát triển DLVN nói riêng và phát huy các giá trị tốt đẹp từ di tích nói chung. Ngoài ra, đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông và cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành Du lịch để khai thác một cách tối ưu các điểm di tích.

Hai là, tăng sự liên kết giữa các cấp, các ngành và doanh nghiệp du lịch mang tính bền vững cho sự phát triển DLVN. Với việc liên kết chặt chẽ giữa các bên có liên quan sẽ giúp thương hiệu của di tích được nhận dạng tốt hơn và đặc biệt là DLVN sẽ phát triển đúng hướng. Việc liên kết giữa các di tích và doanh nghiệp lữ hành sẽ bảo đảm được nguồn khách ổn định, tăng doanh thu và giảm được các hạn chế trong công tác phục vụ du khách.

Ba là, xây dựng nội dung theo chủ đề, phong phú và đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, sinh hoạt văn hóa của du khách nói riêng và Nhân dân nói chung, để di tích đúng nghĩa là trường học, là nơi giáo dục và là nơi phổ biến tri thức khoa học. Bên cạnh đó, việc quảng bá và xúc tiến phát triển DLVN phải đồng bộ, có chương trình cụ thể và mang tầm quốc gia. Khai thác lợi thế của nền tảng truyền thông du lịch có sẵn để quảng bá DLVN và ứng dụng với sự phổ biến của phương tiện truyền thông hiện nay. Hoạt động xúc tiến, quảng bá DLVN phải bắt kịp với xu hướng để thu hút được sự chú ý của du khách trong và ngoài nước.

Bốn là, đào tạo và xây dựng đội ngũ nhân viên làm du lịch tại các điểm DLVN có trình độ, năng lực và chuyên môn vững vàng để tạo nên giá trị cao hơn của di tích, từ đó, nâng cao tinh thần dân tộc và lòng yêu nước của Nhân dân. Đội ngũ này chính là lực lượng nòng cốt, đóng vai trò quyết định trong việc phát triển du lịch, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Năm là, giáo dục ý thức giữ gìn và bảo vệ di tích của cư dân sở tại. Giúp cư dân sở tại nhìn thấy được lợi ích từ du lịch mang lại và khuyến khích họ tham gia phục vụ du lịch để tăng thu nhập. Hỗ trợ vốn và kiến thức để người dân mở các hoạt động kinh doanh, các dịch vụ bổ sung, như: bán hàng lưu niệm, đặc sản địa phương và các dịch vụ khác có liên quan, tạo công ăn việc làm cho cư dân sở tại.

Chủ trương và chính sách của Nhà nước là giữ gìn, tôn tạo và phát huy giá trị của các di tích để khai thác phục vụ cho mục đích chính trị, xã hội và kinh tế. DLVN vừa là một hoạt động có ý nghĩa nhân văn lớn lao, vừa để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên, để phát huy giá trị đích thực của DLVN cần sớm khắc phục những tồn tại, hạn chế và thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để DLVN phát triển bền vững và đúng hướng.

Chú thích:
1. Di tích Việt Nam. Bách khoa toàn thư mở. https://vi.wikipedia.org, ngày 19/10/2021.
2. Nơi tụ hội, lan tỏa tư tưởng, tâm hồn, cốt cách Hồ Chí Minh. https://nhandan.vn, ngày 08/9/2019.
3. Cao Bằng: Tốc độ tăng trưởng ngành Du lịch đạt 34%. https://vietnamtourism.gov.vn, ngày 05/7/2019.
4. Du lịch về nguồn cuối dãy Trường Sơn. https://www.sggp.org.vn, ngày 29/01/2020.
5. Năm 2019, gần 400 ngàn lượt khách du lịch đến Côn Đảo. https://vietnamtourism.gov.vn, ngày 16/12/2019.
Tài liệu tham khảo:
1. Phát triển du lịch về nguồn. http://joumal.hcmue.edu.vn, ngày 28/8/2021.
2. Lê Quốc Khánh. Nghiên cứu phát triển du lịch thăm chiến trường xưa tại Quảng Trị. Luận văn thạc sỹ Du lịch, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, 2012.
3. Phát huy giá trị di tích cách mạng kháng chiến. https://hanoimoi.com.vn, ngày 30/6/2019.
4. Di tích cách mạng – Bằng chứng của sự thay đổi. dsvh.gov.vn, ngày 20/8/2021.
5. Đề tài nghiên cứu hoạt động du lịch về nguồn tại Việt Nam từ năm 2003 – 2018 của nhóm tác giả Mã số CS-35-18/2018.
ThS. Nguyễn Thành Nam
Đại học Hoa Sen