Ebook – Nguyễn Đức Cần – Nhà Văn Hóa Tâm Linh (2013) – PDFCOFFEE.COM

Mục lục bài viết

Citation preview

NGUYÊN PHÚC GIÁC HẢI – NGUYÊN TÀI ĐỨC

Xttn ầY ĐỨC CM MÀ V M IIÓA T in U M In lần thứ 4

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA – THÔNG TIN

m ục LỤC

LỜI NHÀ XUẤT BẢN……………… ………………………………………………….. 5 LỜI GIỚI THIỆU………………………………………………………………………….. 7

Phẩn I THÂN THẾ VÀ CUỘC Đ Ờ I…. ……………………………………………9 Phần II cúu NHÂN ĐỘ THẾ………………………………………………………. 95 Phẩn III KHOA HỌC NGOẠI CẢM Ở VIỆT NAM……………………… 137 Phần IV TRI ÂN……………….. ……………………………………………………… 210 PhầnV TỌA ĐÀM…………………………………………………………………….. 320 Phẩn VI NHŨNG BÀI HỌC TỪ c u ộ c ĐỜI………………………………… 354 Phần VII NHÀ VĂN HÓA TÂM LINH……………………………………….. 420 Phẩn VIII DI TÍCH LỊCH SỬVẢN HÓA…………………………………. …..457

487

LỞI NHÀ XUẤT BẲN

Trên th ế giới cũng như ỏ Việt Nam, hiện tượng những ììgười có khả nâng d ặc biệt, vượt qua những giới hạn thông thường như thần g iao cách cảm, sự tiên tri, hồi tưởng… ta gọi chung ỉà nhà ngoại cảm. Ngoại cảm thuộc về khoa học huyền b í (pseu doscience), vì vậy, tất cả hệ thông ìý thuyết cũng như phương pháp Ỉìgỉũên cứu khoa h ọc hiện dại không th ể áp dụng trong lĩnh vực này dược. Phương pháp dược áp dụng ỉù nghiên cứu bằng thực nghiệm, thông qua những s ố liệu thông kê d ể kết luận, đánh giá kết quả. Vào những thập niên 70 của th ể kỷ XX, ở Việt Nam có một hiện tượng dặc biệt dược các nhà khoa h ọc quan tâm, đó ìà cụ Nguyễn Đức câ n . Cụ có th ể chữa khỏi bệnh mà không dùng thuốc. Bệnh nhân, dù không trực tiếp đến gập cụ, h o ặ c ch ỉ người nhà đến gập, nếu cụ nỉìậìì ỉời thì bệnh cố th ể chữa khỏi. Ndm ỉ 974, ủy ban K hoa học Nhà nước d ã quan tâm đến vấn d ề nảy, và cụ ỉa hiện tượng dầu tiên dược nghiên cứu. Nhà nghiên cửu Nguyễỉỉ Phúc G iác Hải, người trực tiếp theo dổi việc chữa bệnh đặc biệt này, qua một quá trình, d ã .xác nhận có kết quả khả quan. Năm ỉ 997, Tru nạ tâm nghiên cửu tiềm ndng con người thuộc Liên hiệp các H ội K hoa học kỹ thuật Việt Nam dược thành

lập, trong dó bộ môn Nghiên cứu nũng lượng sinh học của những người có khả nâng dặc biệt, d ã tiếp tục nghiên cứu vé hiện tượng cụ Nguyễỉì Đức Cần, và vẩn d ề dó bước dầu dược sáng tỏ. Đ ặc biệt, dù cụ Nguyễn Đức Cần mất d ã dược gần 30 nam, nhưng theo nghiên cửu gần đây nhất về ngôi mộ của cụ, dược một s ố nhà cảm xạ đo đạc cho thấy có chỉ s ố “nâng ỉượng địa sin 1C rất cao, chỉ s ố Bôvits lên tới hơn ỉ ổ .000 dơn vị. Cúc nhủ khoa học dang quan tâm theo dõi hiện tượng này. Ngây 22 thúng 11 nam 2009, tại hội trường lớn H ọc viện Hành chính Quốc gia, Cáu lạc bộ thuộc Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người d ã tổ chức buổi toạ đàm, kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cụ Nguyễn Đức Cán. Ngày 27 thủng 8 năm 2011, tại Hội trường Bộ tư lệnh bdo vệ Lãng Chủ tịch H ồ Chí Minh, Bộ môn Thông tin dự báo, Bộ môn Cận tâm lý- Trung tâm nghiên cứu tiềm nâng con người cùng gia dinh cụ Nguyễn Đức Cần, tổ chức buổi tọa đàm chuyên dề: Nhà

chữa bệnh Nguyễn Đức Cần và những bước đi đẩu tiên của khoa học ngoại cảm ở nước ta. Lần này đ ã có thêm nhiều tư liệu, tủi liệu, những công trình nghiên cứu về khoa học ngoại cảm, giúp chúng ta hiểu và trân trọng hơn về cụ Nguyễn Đức Cần. Hiện tượng về những người có khả nâng dặc biệt vẫn cần dược nghiên cứu và cố những kết ỉuận trên cơ sở khoa học. Nhà xuất bản Vân hoá Thông tin giới thiệu tập sách về cụ Nguyễn Đức Cần, một hiện tượng đặc biệt d ã và dang dược các nhà khoa h ọc nghiên cứu, dù cụ mất d ã gần 30 năm. Nhà xuâ’t bản Văn hoá – Thông tin

6

LỜI GIỚI THIỆU

Nhân dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – H à Nộị, chúng tôi xin trán trọng giới thiệu một Người H à N ội, người đ ã cống hiển suốt dời mình với khả năng siêu thường ch o việc chữa bệnh vở mang lại hạnh phúc cho rất nhiều người, m ỏ ra nền khoa học ngoại cảm ở Việt Nam. Đố là nhà chữa bệnh Nguyễn Đức Cần ở Đ ại Yên – Hà Nội. Sinh trưởng trong một gia đình nhà nho có truyền thống yêu nước, bản thân cụ cũng tham gia cách mọng, từng là Đợi đội trưởng Đai dội Lam Sơn. Cụ Nguyễn Đức c ấ n là người đầu tiên vượt qua hùng rào vào chiếm B ắc Bộ phủ trong ngày cách mạng 19 tháng 8 năm 1945 tại Hủ Nội. Với một khả nâng dạc biệt: chữa bệnh không cần dùng thuốc, cụ Nguyễn Đức Cán d ã chữa cho không biết b ao nhiêu bệnh nhân, k ể cả những bệnh “thập tử nhất sinh ”, vô phương cứu chữa. Cách chữa bệnh của cụ d ã mang lợi cuộc sống cho rất nhiều bệnh nhân, mang lại nụ cười, hạnh phúc cho gia đình họ. Thật không có lờỉ nàq tả xiết. Nhưng trên hết, dó là cái tâm của nhà y đức, cụ chữa bệnh mà không lấy tiền, k ể cả quà cáp của bệnh nhân. Lẩjì nữa, qua việc chữa bệnh, cụ còn giúp người bệnh thấy được những lỗi lầm của họ mà sửa sang tính nết, “í/// ở, dối xử làm sao cho đúng nghĩa”. Thật là cái tâm của cụ cao dẹp làm sao, vừa chữa khỏi bệnh tật, vừa khuyên b ả o cái đức làm người.

7

Năm Ị 974, được phép của ủ y han K hoa h ọc Nhà nước, chúng tôi d ã trực tiếp đến gập CH và tiến hành nghi ân cùn việc chữa bệnh của cụ. Ngày 2ố tháng 4 ndni ỉ 974, trong buổi báo cáo tại Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ công an Trần Quốc Hoàn d ã phút biểu: ‘V iệc chữa bệnh của cụ Ịà có cơ sở khoa học, trước dây tôi cũng cố khả nùng này, nhưng do tham gia cách mạng, nếu không tôi cũng cố khả nâng chữa một s ố bệnh như cụ c â n ”. Ngày 30 tháng 4 năm 1974, cố th ể nói ỉà ngày đánh dấu sự ra dời của nền K hoa h ọc ngoại cảm ở nước ta, các c ơ quan chức nâng d ã tiến hành quay phim hai ca chữa bệnh của cụ, và các bác sỹ phản biện d ã công nhận việc chữa bệnh của cụ d ã cố kết quả ban dầu. Tuy nhiên, sau dó, do nhiều nguyên nhân, việc chữa bệnh của cụ đ ã gập một s ố khố khăn. Nãm 1983 cụ qua đời, đ ể Ịại sự tiếc thương cho biết bao người d ã từng biết đến cụ. Nâm 1997, Đảng và Nhà nước ta d ã cho phép thành lập Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các khoa học kỹ thuật Việt Nam, trong dó cố một Bộ môn nghiên năng lượng sinh học của những con người có khả năng đặc biệt CH, và vấn d ề chữa bệnh của cụ d ã dược làm sáng tỏ.

một Hội cứu như

Năm nay, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cụ Nguyễn Đức Cần (1909 – 2009), chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách Nguyễn Đức cầ n – Nhà vân hoá tâm linh nói về thân thế, cuộc dời, cùng một s ố tư liệu về cụ. Xin trân trọng giới thiệu cùng ban dọc. Mùa thu năm 2009 NGUYỄN PHÚC GIÁC HẢI Chủ nhiệm Bộ môn Thông tin dự báo Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người

8

Phần I THÂN THẾ VÀ CUỘC DỜI

“Ven đô Hà Nội, bên ngàn hoa thắm lừng hương. Đây làng Đại Yên xuất hiện một bậc danh nhân…” Làng Đại Yên trước đây là một làng trại thuộc Tổng Nội của kinh thành Thăng Long xưa, nay thuộc phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, thành phô” Hà Nội. Về mặt địa lý, phía bắc làng là con đường Hoàng Hoa Thám, nhưng dân làng vẫn quen gọi là đường Thành (thành Thăng Long). Phía đông giáp với làng Hữu Tiệp. Phía tây giáp với làng Liễu Giai và Vĩnh Phúc. Phía nam giáp với con đường Đội Cấn đến chân núi Trúc. Trước đây, làng có tên là trại Đại Bi, đến khoảng cuối thời Hậu Lê thì đổi tên là trại Đại Yên. cổng làng Đại Yên được xây dựng từ lâu đời, trông thật bề thế. Vào năm Đinh Tỵ, triều vua Khải Định, cổng làng được tu tạo lại do công đức của cụ Tổng Nhuận, thân phụ cụ Nguyễn Đức cầ n . Phía trên cổng ghi rõ ba chữ đại tự “Đại Yên môn”, có lẽ đây là chiếc cổng làng duy nhất còn

9

lại trong vùng Thập tam trại (mười ba làng trại thuộc Tổng Nội). Đình Đại Yên nằm ở giữa làng nhìn sang núi Cung và núi Cột Cờ, thờ Ngọc Hoa công chúa. Đó cũng là vị Thành hoàng làng. Theo truyền thuyết: Lý Thường Kiệt được vua nhà Lý cử đi chinh phạt Chiêm Thành, nhân dân quanh vùng kinh thành nô nức tòng quân. Một cô bé mới chín tuổi, người trại Đại Bi (sau là Đại Yên) cũng tha thiết xin theo việc quân cho bằng được, và tự nguyện cải trang làm em bé bán hàng vào trại giặc thám thính, nắm tình hình trại giặc. Nhờ đó quân ta đại thắng, nhưng cô bé đó đã hi sinh. Vua Lý phong cô là Ngọc Hoa công chúa. Lăng mộ cô được đặt ngay ỏ sau đình làng, được nhần dân đòi đời hương khói, thờ phụng. Trong đình có nhiều câu đối ca ngợi công trạng của cô. Hội làng mở vào ngày 14 tháng 3 (âm lịch) hàng năm. Xưa kia làng Đại Yên có một ngôi chùa trên núi Voi. Vào năm 1892, tên Tây thực dân Pháp là Hommel đã phá ngôi chùa để xây nhà máy bia, dân làng gọi là nhà máy bia 0 – mền. Người làng Đại Yên ngoài nghề làm ruộng, trồng hoa, còn có nghề trồng cây thuốc nam và đi hái thuôc nam, nhiều gia đình phải lặn lội đi rất xa, lên cẳ những vùng rừng núi để kiếm thuốc. Có nhiều người chuyên bán thuốc nam ở các chợ trong thành phố’. Dân làng Đại Yên có ít người là ngụ cư, phần lốn người trong làng có quan hệ họ hàng thân thuộc vối 10

nhau, do đó họ sống vói nhau trong cảnh hòa thuận đoàn kết, tình làng nghĩa xóm. Đó cũng là một nét đẹp văn hóa của làng quê đất Việt. Làng Đại Yên có nhiều dòng họ lớn: Họ Trương, họ Đỗ, họ Lưu, họ Nguyễn, họ Ngô, họ Trần và họ Hoàng. Riêng họ Hoàng lại có hai dòng là họ Hoàng Văn và họ Hoàng Hữu. Họ nào trong làng cũng có nhà thờ họ. Trong nhà thờ họ Nguyễn còn lưu giữ các văn bia quý giá từ bao đời trước, phía trên nhà thờ tổ có ghi bốn chữ “Hữu khai tất tiên”, dịch nghĩa là: C ó m ở m a n g h iể n đ ạ t là n h ờ p h ú c ấ m c ủ a t ổ tiê n . Theo gia phả dòng họ Nguyễn (chi thứ hái), tại làng Đại Yên – Hà Nội, thì thủy tổ phát tích tại xã Mai Viên, huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Vị cao cao tổ có sắc phong Đại tưống quân từ đời Lý. Đến khoảng thời hậu Lê, cụ Nguyễn Phúc Xuân dời đến làng Đại Yên, thành cũ Thăng Long, làm được nhiều việc tốt lành, là đời Nhất đại khởi di tổ (đời tổ thứ nhất tại Đại Yên – Hà Nội). Đến triều Vua Tự Đức, cụ Nguyễn Quý Khoan, tự Phúc Toàn là đời tổ thứ tư tại nơi đây (Đại Yên). Dân làng thường quen gọi Cụ Toàn là cụ Xã Nhiêu. Cụ là một nhà nho yêu nước đã mang kinh sách về truyền bá cho dân ở trong vùng thập tam trại. Vào khoảng đời vua Duy Tân năm thứ nhất, cụ Nguyễn Phúc Toàn tham gia hoạt động trong phong trào Đông Kinh nghĩa thục, mang những tư tưỏng tiến bộ, động 11

viên dân ta chống các lề thói phong kiến lạc hậu, phát triển nền văn hóa dân tộc, đề cao tinh thần chông thực dân. Sau khi thực dân Pháp đàn áp phong trào và đóng cửa trường tháng 12 năm 1907, cụ đã cùng một sô” sỹ phu yêu nước lên Yên Thế, tham gia cuộc khỏi nghĩa chống Pháp do cụ Đề Thám lãnh đạo. Cụ là người cộng sự đắc lực và là mưu sỹ thứ hai của lãnh tụ Hoàng Hoa Thám. Khi cuộc khỏi nghĩa Yên Thế thất bại năm 1913, cụ Nguyễn Phúc Toàn đã anh dũng hy sinh, gia đình lấy ngày 23 tháng 3 âm lịch, là ngày cụ từ biệt nhà ra đi làm ngày giỗ của cụ. Cụ Nguyễn Phúc Toàn đẹp duyên cùng cụ Hoàng Thị Thêm là người cùng làng Đại Yên. Hai cụ sinh hạ được bảy người con, ba gái và bốn trai. Năm 1883, cụ Thêm sinh người con thứ tư là con trai, đặt tên là Nguyễn Đức Nhuận. Trong gia phả từ những đời trước dòng họ Nguyễn (chi thứ hai) thấy ghi chữ đệm là chữ Quý, có đôi ba người lại thấy ghi chữ đệm là chữ Văn. Khi cụ Thêm sinh người con thứ tư này thì chữ Quý được thay bằng chữ Đức. Theo gia phả, tính đến đời cụ Nguyễn Đức Nhuận, thì là đời tổ thứ năm tại đây (Đại Yên). Cụ Nhuận sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, nhưng có nền nếp, xưa gọi là con nhà cụ đồ. Từ lúc còn nhỏ cụ đã phải đi chăn trâu cắt cỏ, việc học cũng chỉ hết quyển T a m tự k in h . 12

Từ năm 17 tuổi, cụ đã đi làm thợ xây. Vốh tính cần cù và có chí, lại thông minh và biết tính toán giỏi như một kỹ sư, chang bao lâu cụ đã trỏ thành một nhà thầu có tiếng ỏ Hà Thành. Năm 1922, cụ Nhuận ra làm phó chánh tổng của Thập tam trại, cũng từ đó dân làng gọi cụ Nguyễn Đức Nhuận là cụ Tổng. Ngoài việc làm nhà thầu xây dựng, cụ còn mỏ các xưởng gỗ ở phô” Quan Thánh, xưỏng thủy tinh ở khu vực Yên Ninh, Hàng Bún. Có lần cụ đã gửi đồ thủy tinh đi dự hội chợ Á Châu tại Phnom Penh vạ được thưỏng Chương Mỹ bội tinh (giông như huy chương vàng hội chợ bây giờ). Tuy là một người có danh giá và giàu có thời bấy giò, nhưng cụ thường làm những việc công đức, từ thiện. Khi ở Nam Định bị lũ lụt, dân tình đói khổ, cụ đã giúp đổ chu cấp gạo tiền, quần áo cho những đồng bào nghèo gặp cảnh thiên tai. Ngày có nạn đói ỏ miền Bắc năm 1945, gia đình cụ hàng ngày nấu cháo để ỏ trưóc cửa nhà, hễ ai đói đi qua thì cho họ một bát, ăn cho đõ đói lòng. Cách mạng tháng Tám năm 1945 mới thành công, chính phủ mỏ đợt quyên góp tuần lễ vàng tại Hà Nội, cụ đã ủng hộ chiếc Chương Mỹ bội tinh đúc bằng vàng cho kháng chiến. Vào ngày 17 tháng 12 năm 1946 (24 tháng 11 năm Bính Tuất), giặc Pháp ở trong thành Hà Nội đem quân ra khu vực phô” Hàng Bún – Yên Ninh, vây bắt và giết 13

hại-, đồng bào, trong đó có xưởng thủy tinh của cụ Nhuận. Sau khi quân giặc rút vào trong thành, gia đình biết tin dữ, vội cho người đi tìm cụ. Nhưng phô” xá chỉ còn vương lại mùi khói súng và tro tàn, không tìm thấy dấu vết gì của cụ. Người ta bảo rằng những người dân lành bị giặc giết hại đều được mang đi chôn cất tập thể tại chỗ gần cửa tòa Hà Nội (nghĩa trang 19 tháng 12, nay là chợ Am phủ). Sau này thành phô” Hà Nội đã quy tập sô” hài cốt đồng bào đó lên nghĩa trang Yên Kỳ tại Bát Bạt, Sơn Tây. Từ ngày đó về sau, gia đình lấy ngày 24 tháng 11 âm lịch làm ngày giỗ của Cụ Nguyễn Đức Nhuận. Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên, cũng vào ngày đó hơn 20 năm về trước là ngày giỗ của cụ Nguyễn Quý Yêm, một người anh ruột của cụ Tổng Nhuận. Cụ Nguyễn Đức Nhuận đẹp duyên cùng cụ Hoàng Thị Khê”, người con gái thứ ba của một gia đình mang dòng họ Hoàng Văn ỗ-làng Đại Yên – Hà Nội. Cụ sinh năm Ất Dậu, đời vua Hàm Nghi năm thứ 2 (1885) và mat ngày 8 tháng 6 năm 1945 tức ngày 28 tháng 4 năm Ất Dậu đời vua Bảo Đại năm thứ 20. Làng Đại Yên xưa là một trại trồng cây thuốc nam và cũng trồng rất nhiều loại hoa hồng bạch ỏ phía tây thành cũ Hà Nội. Đây là nơi sinh sống của nhiều dòng họ. Riêng họ Hoàng lại có hai dòng là họ Hoàng Văn và họ Hoàng Hữu. Nhưng có lẽ dòng họ Hoàng Văn là dòng họ to nhất làng, chiếm non nửa sô” dân đinh trong làng. 14

Ngôi nhà thờ tổ họ Hoàng Văn, nay vẫn còn ỏ tại sô’ nhà 89 làng Đại Yên. Trong đó bức hoành phi có ghi bốn chữ đại tự “Tiên tổ họ Hoàng” và người trong họ Hoàng Văn vẫn tự hào là còn lưu giữ được bức chân dung của cụ tổ bằng khảm trai đã có từ hàng tràm năm, nay vẫn giữ nguyên được vẻ đẹp. Ngay từ thuỏ nhỏ, người con gái làng hoa ấy đã làm quen với công việc vườn tược, đồng áng. Ngày đó, quanh vùng thập tam trại hãy còn những ruộng lúa xanh rì bát ngát, những vườn tược mênh mông gió thổi, những ao hồ uốn lượn nước trong xanh. Khi đến tuổi trăng tròn, trên đôi vai bà đã tòng teng đôi quang gánh, những gánh hàng thuốc nam, cái nghề truyền thông lâu đời của dân làng, có từ khi vua Lý mỏ mang kinh thành. Hai cụ sinh hạ được năm người con. Người con gái đầu, là cô Nhuần hay còn gọi là cô Chín, vì cô mất lúc mới được chín tuổi. Dân làng kể rằng cô rất đẹp và nết na. Sau cô Chín là ba đốt con trai, nhưng các cậu đều bỏ đi từ sớm. Đêm 30 Tết Kỷ Dậu (1909), niên hiệu Duy Tân thứ 3, cụ Hoàng Thị Khế sinh lần thứ năm, là con trai, tên là Nguyễn Đức cần. Các cụ già trong làng kể lại rằng: Khi bà cụ Khế sinh ngưòi con trai thứ năm này vào đêm 30 Tết, thì đêm hôm ấy trời bỗng sáng trưng như có trăng rằm. Phải chăng đó là một điềm lành báo rằng, có một bậc kỳ tài xuất th ế để ra giúp đời.

15

Ngày bà về làm dâu nhà họ Nguyễn, tuy cùng là cảnh nghèo nhưng cũng được tiếng thơm là con dâu nhà cụ đồ. Bà một lòng một dạ gánh vác giang sơn nhà’ chồng, dể chồng chí thú làm ăn. Đến khi người chồng công đã thành, danh đã toại, ngày đêm xe ngựa dập dìu nơi kinh thành phồn hoa, bà vẫn mặc lòng ỏ lại làng xưa. Dù nghèo đói một mẹ một con dưa muối nuôi nhau. Suốt cả cuộc đời, bà đã tận tụy làm việc lao động, hy sinh vì con, và cũng chính bà đã khơi nguồn cho con đường đi sau này của người con trai mà bà hằng yêu dấu. Sử xưa thường nói nhiều về những danh nhân, những vị tướng oai hùng…, mà đôi khi lãng quên đi những người mẹ vĩ đại của họ. Người Mẹ Việt chân chất, giản dị như hạt lúa, củ khoai, như làn gió mát trưa hè, như ánh lửa ấm nồng trong đêm đông giá lạnh… Mẹ đã nuôi ta bao tháng ngày đắng cay vất vả. Thật đúng là: M ẹ ta ỉồng thành thực Thương con chẳng chút ngơi Nhả ngọt nùo có tiếc Ẩn dắng nói cùng ai Yên dấu như vàng ngọc Nâng niu tay chẳng rời Những mong con no ấm M ẹ đói rách cũng vui.

Bà cụ Khế cũng giông như bao bà mẹ nơi thôn quê đất Việt. Lòng mẹ thương con như nước nguồn chảy mãi. 16

Khi cậu bé Nguyễn Đức cần lên tám tuổi, bô” cậu lúc ấy đã là một nhà thầu có tiếng ở Hà thành, cho cậu đi học tại trường làng. Sau đó ông xin cho con vào học tại trường Albert Sarraut Hà Nội. Trường Anbe Xarô được xây dựng sau khi Phủ Toàn quyền hoàn thành. Mặt trước của trường là phô” Cộng Hòa (Rue de la Respublique), nay là phô” Hoàng Văn Thụ. Trường chủ yếu dành cho học sinh người Pháp, ngoài ra cũng dành chỗ cho các học sinh dòng quý tộc Luang Prabang (Lào), con cháu tổng đô”c Vân Nam và một sô” ít con quan lại như tổng đô”c, tuần phủ, hoặc gia đình tư sản người Việt Nam, nhưng sô”lượng cũng rất hạn chê”. Cậu học sinh Nguyễn Đức c ầ n theo học ỏ trường Xarô bôn năm. Đây là một ngôi trường nội trú, học sinh ăn học tại trường, một tháng mới được về thăm nhà một lần. Quần áo được may đồng phục, việc giáo dục học hành theo như hình mẫu ở Pháp quốc. Mùa thu năm 1919, cụ Nguyễn Đức Nhuận khỏi công xây dựng ngôi nhà 86 làng Đại Yên cho con trai, đến năm sau, ngôi nhà đã được hoàn thiện. Cụ muôn gây dựng cho con trai mình có một tài sản và muô”n hưống cho cậu kế tục công việc kinh doanh của mình. Nhưng ngay từ lúc còn nhỏ tuổi, cậu bé Nguyễn Đức Cần đã tỏ rõ thiên hướng của mình. Cậu không thiết gì đến ngôi nhà to rộng, cũng như sự giàu sang mà bao người khác đang mơ ưóc. Năm 1921, khi cậu mới lên 12 tuổi, gia đình đã làm lễ cưới cho cậu. Vào thời kỳ phong kiên lúc đó, ồ các làng quê, người ta thường cưới vợ gả 17

chồng rất sớm. Ông bà, cha mẹ dạm hỏi đám nào có môn đăng hộ đối, rồi nhờ thầy xem ngày lành tháng tốt là tiến hành hôn lễ. Cô dâu, chú rể nhiều khi chẳng biết mặt nhau. Sau này, cụ Nguyễn Đức c ầ n có kể lại rằng: Bô” mẹ sắp đặt cả. Bảo cưới là cưới, thế thôi. Cô dâu lúc đó 14 tuổi, là con gái nhà họ Lê ỏ làng bên Hữu Tiệp. Nhưng sau khi cưới được ít ngày, cô dâu chê chú rể trẻ con nên bỏ về sông ở nhà mẹ đẻ. Năm 1922, cụ Nguyễn Đức Nhuận ra làm Phó chánh tổng Thập tam trại (mười ba làng Trại trong Tổng Nội – thành Thăng Long xưa) và làm lễ khao làng rấ t lớn. Thế là một công đôi việc, khi trưốc là một nhà thầu giàu có, nay lại có thêm chức vị trong hàng quan lại, công việc kinh doanh của cụ ngày càng phát đạt. Cũng từ đâ”y dân làng gọi cụ Nguyễn Đức Nhuận là Cụ Tổng ông. Sau khi nhận chức Phó tổng thập tam trại ít lâu, Cụ Tổng tiến hành xây dựng thêm một ngôi nhà nữa tại Đại Yên. Ngôi nhà này trông bề th ế như một ngôi phủ tổng đốc, ngay gần cổng làng, trên con đường đi đến thôn Đông nước và núi Voi. Lúc đầu dân làng không hiểu tại sao cụ xây nhiều dinh cơ như vậy, nhưng rồi sau mới rõ là cụ chuẩn bị nhà riêng cho bà hai, bà ba. Lẽ đời như vậy, khi người ta đã có đầy đủ tiền của lẫn danh vọng thì đi tìm thú vui, vợ nọ con kia cũng là việc bình thường. 18

Nhưng rồi chẳng ai học được chữ ngờ. Sau khi hoàn tất ngôi nhà trên thì Cụ Tổng gặp bao nhiêu việc rắc rôl thị phi. Cụ bị những người đồng liêu kiện vì đã xây nhà phạm lu ật phong kiến. Vụ kiện cứ kéo dài mãi, tuy CUỐI cùng có thắng, nhưng cũng làm cụ hao tốn biết bao nhiêu tiền bạc. Sau chuyện đó tưỏng rằng đã yên, không ngờ cụ lại bị lâm bệnh. Khi đi khám các quan đốc tò tây, người ta không tìm ra được đó là bệnh gì, chỉ thấy trong bụng cụ nổi lên một cái u to như quả trứng, có điều lạ là khi uống thuốc vào thì cái u đó nó chạy lung tung trong bụng và gây đau đón cho cụ. Người nhà thấy thuốc tây không đỡ bèn đổi sang cho cụ uống thuốc ta. Làng Đại Yên có truyền thống trồng cây thuốc nam từ lâu đời, người ta cắt cho cụ uống thuốc nam không khỏi, rồi thay sang thuốc bắc mà bệnh cũng không chuyển. Dân làng đồn rằng cụ bị ai đó hại chăng? Vì họ kể rằng, khi cụ xây nhà thường thấy những người lạ, có vẻ như là những thầy địa lý lảng vảng gần khu đất đang xây và làm phép gì đó để hại cụ. Thật là mọi việc cứ rốỉ cả lên. Người ta bảo, có bệnh thì vái tứ phương. Chẳng lẽ cứ để chồng nằm đó chờ chết, cụ Tổng bà quyết chí đi tìm thầy, tìm thuốc để cứu chồng. Sau bao ngày lặn lội ngược xuôi, cụ Tổng bà đã mời được một vị Thầy về làng. Người làng không hiểu ông thầy đó chữa bệnh như th ế nào, nhưng chỉ sau đo vài hôm thì cụ Tổng ông đã khỏi bệnh. T hật là một sự thần kỳ. Nhưng điều mà gia đình 19

cụ càng thêm khâm phục là vị Thầy đó không nhận tiền bạc thù lao chữa bệnh, mà chỉ nói là chữa bệnh làm phúc mà thôi. Lúc đó cậu học sinh Nguyễn Đức cầ n đã tốt nghiệp trường Anbe Xarô, đang ở nhà cùng mẹ chăm sóc bô”. Sau khi hỏi ý kiến con trai, cụ Tổng bà thưa chuyện vối Thầy và xin phép Thầy cho con trai mình được đi theo học, vì thấy ông thầy đó giỏi quá, lại là một người đạo cao đức trọng như vậy, gửi con cho Thầy vừa là để trả ơn Thầy, vừa là để cho con được theo học Thầy. Dĩ nhiên cụ Tổng ông cũng phải đồng ý, vì chính cụ cũng thấy rằng tiền của bao nhiêu cũng không khỏi được bệnh, không cứu được mạng sống của con người. Đây là lần thứ hai, cậu bé Nguyễn Đức c ầ n phải xa gia đình. Lần đầu là lúc cậu đi học tại trường Anbe Xarô, phải ỏ nội trú trong trường. Nhưng thời gian đi học đó th ậ t đầy đủ sung sướng, cậu được ăn ngon, mặc đẹp, và được vui chơi cùng các bạn học đồng trang lứa. Lần đi này là bước vào trường đời. Cậu chưa hình dung nổi con đường trước mặt sẽ như th ế nào, nhưng được ở bên cạnh một bậc minh sư, thì cậu cảm thấy yên lòng, vững dạ và hăm hỏ lên đường. Lúc hai thầy trò ra đi, mẹ cậu tiễn đến cổng làng, bà nói với người Thầy: – Trăm sự nhờ Thầy dạy bảo cho cháu. Người Thầy cũng râ”t kiệm lời, nói rằng: – Cơ Trời đã định, Đại An sẽ trỏ về.

20

Rồi hai thầy trò rảo bước lên đường. Trên con đường thiên lý, hai thầy trò ngày đi đêm nghỉ. Nơi họ dừng chân, có khi là một quán ven đường hay một nếp nhà đơn sơ ở một miền quê nào đó, nhưng cậu thấy ỏ’ bất kỳ nơi nào, thầy trò họ đều được đón tiếp thật ấm nồng, như những người khách quý. Qua câu chuyện của chủ nhà, cậu mới hiểu rõ, vị Thầy đây là ân nhân của họ, đã cứu bệnh chc gia đình họ. Nay được gặp lại Thầy thì ai nấy đều mừng rỡ. Tình cảm của người dân quê th ậ t mộc mạc, chân thành. Nhà nào cũng thiết tha mời thầy ỏ lại, nhưng hai thầy trò chỉ dừng chân một đôi ngày, rồi lại lên đường. Một buổi chiều kia, hai thầy trò dừng chân ỏ một miền quê vùng trung du, còn chưa biết đêm nay sẽ nghỉ ò đâu, thì bỗng thấy phía trưóc một ngôi cổ tự. Thật may, vị sư trụ trì ngôi chùa đó lại là một người bạn cũ của người thầy. Đúng là: “Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ”, có duyên thì vạn dặm cũng gặp nhau. Vị sư trưỏng mời hai thầy trò vào thư phòng dùng trà, căn phòng tuy nhỏ nhưng trang nhã, trên tường treo những bức tran h thủy mạc và những bức thư họa. Chủ khách cùng an tọa, vị Thầy giới thiệu cậu với sư trưởng. Vị trưỏng lão ngắm nhìn cậu, rồi bảo: – Cậu bé này th ân tưóng uy nghiêm, ngũ nhạc th ật đầy đặn, má đầy như má sư tử, ắt hẳn là người chủ của tương lai.

21

Vị Thầy đấp lại: – Hiền huynh quả là có cặp mắt thần quang- Và hai người cùng cười vang. Tôì hôm đó, Thầy hỏi cậu: – Con có nhớ câu “Nhân bất học, bất tri lý” không? Rồi Thầy giảng rằng- Học vối thầy đây là học ỗ trường đời và học để làm Người. Lý ỏ đây là cái lẽ tự nhiên của trời đất. Thầy lại hỏi đến câu: “Ngọc bất trác, bất thành khí”, và giảng nghĩa: Con người ta phải rèn luyện thì mối trong sáng và mổi giúp được đời, như hòn ngọc kia không đẽo gọt mài rũa thì không thành của quý. Sáng sớm hôm sau, hai thầy trò chào từ biệt vị sư trưỏng để tiếp tục cuộc hành trình. Vừa đi, Thầy vừa giảng giải cho cậu: Đạo là gì? “Đạo nhược lộ nhiên, đắc kỳ môn nhi nhập”. Đạo như con đường đó, hễ gặp được cửa thì vào. Đạo là đạo tự nhiên của trời đất. Đức là gì? Đức nằm trong Đạo. Đức là nhờ vật ấy mà thành hình… Cứ th ế mỗi ngày, lòi dạy của Thầy cứ như mưa dầm thấm lâu. Một buổi, thầy bảo với cậu: Ngày mai ta sẽ vào đên rừng. Rừng xanh, ôi rừng xanh, đó là những từ mà cậu chỉ được đọc trong những cuốn sách, nay sẽ được theo chân Thầy đến đó. Hẳn có bao điều lý thú… nhưng Thầy lại dặn rằng: Bây giờ sẽ là những ngày gian khổ. 22

Hôm ấy, khi hai thầy trò vưa mới đến cửa rừng, thì gặp một ngôi đền nhỏ. Thầy bảo cậu: Chúng ta hãy vào lễ Bà chúa rừng. Ngôi đền đó dân quanh vùng gọi là đền Đá Đen. “Đất có thổ công, sông có Hà bá, rừng cũng có chủ”, và Thầy chỉ cho cậu thấy ngọn núi cao vời phía xa kia, là nơi thầy trò ta sẽ tới. Khỏi phải nói đến bao nỗi vất vả khi băng rừng, vượt núi. Khi khát thì thầy trò uông nước lâm tuyền, bụng đói thì kiếm quả rừng. Một buổi chiều tối, hai người dừng chân ỏ một hang núi. Thầy bảo cậu đi kiếm củi khô để nấu ăn. Ngồi bên đống lửa bập bùng trong rừng khuya vắng lặng, cậu thấy cuộc đời mình đã chuyển sang một trang mới. Có một sức mạnh huyền bí nào đó đang thấm dần vào cậu… Bỗng thầy hỏi cậu: – Con có biết tại sao ta lại dưa con đến chốh này không? Người tu thân là rửa lòng nuôi đức, chứa nhóm tinh thần là cái tự lực bên trong. Giấu tích ẩn danh, bặt dứt ồn ào là cái trợ duyên bên ngoài. Trong tâm, ngoài cảnh được vắng lặng thì cái thể tính chân như sẽ tự bày- Rồi Thầy nói tiếp- Sớm mai ta sẽ đưa con lên đỉnh non Tản. Có bài thơ tả rằng: H oa rừng thắm biếc thêu tranh C ỏ non phơi thảm ngắt .xanh chân trời Dưới kỉìe nước chảy, hoa trôi Tổng trên hang núi lưng trời, dây Ị eo

23

Đường lên vách cỉá cheo leo Bụi trần không vướng,sương chiều nhẹ buông.

Không biết ngày ấy, vị Thầy đã đưa cậu lên bằng cách nào, nhưng sau này cụ Nguyễn Đức c ầ n có kể lại: Vào thời đó, chưa người nào có thể lên được đỉnh Mẫu, vì bên dưới là vách đá thẳng đứng. Mà lạ lắm, trên đỉnh có một bàn cờ tiên và có một giông cỏ mềm như tóc người. Cũng tại đó, Thầy đã truyền dạy cho cậu phép luyện thần nhãn. Phép hấp thụ dương quang này, với người bắt đầu học, tập nhìn không nheo mắt vào mặt trời lúc mới mọc, dần dần khổ công cho đến khi nhìn được mặt trời lúc chói chang, và khi thần nhãn trông thấy rõ th ế giới thanh khí, thì có thể gọi là thành công. Thầy bảo cậu: Con phải nhó, nơi đây chính là linh khí của nước Việt. Không biết có bao tháng ngày thầy trò họ sông cách biệt ỏ trên núi, nhưng đến một hôm, vị Thầy bảo cậu: Thôi thế là đủ, đã đến ngày thầy trò ta xuống núi. Họ ngược sông Đà để đến vùng Thác Bò , Hòa Bình. Sông Đà bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc), chảy qua Lai Châu, qua rấ t nhiều thác ghềnh, đến Sơn La thì sông uôh khúc, rồi lại chạy thẳng xuống Hòa Bình. Đến đây, lòng sông đã mở rộng và đỡ hung dữ hơn. Hai thầy trò dừng chân ỏ vùng Chợ Bờ, Hòa Bình. Nơi đây có rất nhiều hang động sâu, nhiều tầng, thạch nhũ muôn hình lung linh soi bóng nước. Họ sống trên sông cùng

24

những ngưòi đánh cá. ở đây cậu học cách chèo thuyền, chông mảng, làm quen vối cuộc đòi sông nước. Đúng là: Xcí quê, thân phận lênh đênh Cưỡi bề, vượt mọi thác ghềnh bao la D ốc lòng tu đạo phương xa Quyết tâm chẳng ngại nề hà khó khăn .

Đêm đêm, Thầy truyền cho cậu phép hấp thụ Tuệ quang. Thầy dạy: Trên trời có m ặt trời, m ặt trăng và muôn vàn tinh tú gọi là Văn. Dưới đất có núi, sông, gò, hổc gọi là Lý. Do vậy địa lý ứng với thiên văn. Cứ như thế, vào những đêm trời quang, thầy trò nằm kiểm đếm các vì sao. Thầy dạy: Có bảy vị sao thất chính là Thái dương, Thái âm, sao Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ, lại còn có nhị thập bát tú định vị ỏ bốn phương. Phương đông là chòm sao Thanh long có bảy vị: Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ. Phương nam là Chu tước có bảy vị: Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn. Phương tây là Bạch hổ cũng có bảy vị: Sâm, Chủy, Tất, Mão, Vị, Lâu, Khuê. Phương bắc là Huyền Vũ có bảy vị: Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Bích, Thất. Xem dải Ngân Hà, khi thấy có ngôi sao nào qua sông, ngôi sao nào mới mọc lên, ngôi nào sắp mất, thì ứng vói những điều gì xảy ra ở chốn nhân gian. Được Thầy tận lòng giảng giải như vậy, cậu càng

thấy vũ trụ th ậ t bao la, và tâm trí cậu cảm thấy như được bay bổng cùng với trời mây.

25

Một hôm, thầy lại bảo cậu rằng: – Chúng ta lại lên đường thôi. Đứng ở phía Chợ Bờ, nhìn về miền Tây Bắc, cậu không ngờ rằng trên đỉnh của những dãy núi xa kia lại có những vùng bằng phẳng, những cao nguyên rộng lốn. Họ đi qua suối Rút, từ giã bẳn cuối cùng của Hòa Bình rồi leo đèo để lên cao nguyên Mộc Châu, ngày ấy toàn thấy một vùng cỏ tranh hoang vu, nhưng khí trời nơi đây thật mát mẻ, dễ chịu. Năm 1895, tĩnh Vạn Bú được thành lập, tỉnh lỵ đặt tại Pá Giang bên bờ sông Đà. Đến năm 1904, người Pháp chuyển tỉnh lỵ về Sơn La và đổi tên tỉnh Vạn Bú thành tỉnh Sơn La. Đến Sơn La, thầy trò lại vượt đèo Pha Đin để sang Lai Châu. Có đến đây mới thấy cảnh núi non hùng vĩ, núi cao ngất trời, trùng trùng điệp điệp, các bản chiềng trỏ nên thưa thớt, xa xa thấp thoáng những nếp nhà sàn, cả ngày họ chẳng gặp một bóng người, ven đường những cây hoa trạng nguyên nở đầy hoa đỏ rực, những bông hoa lau màu trắng bạc đung đưa như đang reo trong gió núi, mây ngàn in lên nền trời xanh thẳm, vẽ lên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Thật là: Núi cao hùng v ĩ ngất trời Sườn non hoa nở đẹp tươi muôn phần.

Thầy trò họ cứ đi mãi, đi mãi, và sang đến vùng thượng Lào. 26

Sau này, cụ Nguyễn Đức c ầ n kể lại: Ngày ấy sang bên thượng Lào, trong rừng sâu, cụ có gặp một ngôi đền thiêng thờ Đức Lê Sơn thánh mẫu, và cụ đã ở lại nơi đó tu một thời gian. Không ai biết thầy trò họ còn đi tới những nơi đâu, và đã trải qua bao nhiêu mùa hoa ban, hoa mận… Đến một ngày kia, vị Thầy bảo cậu rằng, đã đến lúc con phải trỗ về nhà, mẹ con đang mong nhố từng ngày. Cuộc chia tay th ật là bịn rịn. Thầy dặn rằng: – Nay con đã đủ sức tự lập, nhưng lúc nào khó khăn, ta vẫn ở bên con. Sau những tháng năm gian khổ, đi rấ t nhiều nơi và sông ở những vùng núi cao rừng thẳm, cậu đã trỗ về làng Đại Yên. Ngày nào năm xưa khi ra đi còn là một cậu bé, nay trở về đã là một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Mẹ con cậu gặp lại, th ậ t là mừng mừng tủi tủi. Mùa xuân năm 1926, hội làng lại mỏ và cậu được chọn làm tướng cờ. Gia đình cậu mở tiệc khao làng rấ t lớn, và người vợ cũng từ làng bên Hữu Tiệp trỏ về. Lúc đó, bô” cậu đã ở cùng các bà vợ bé. Cậu bàn cùng mẹ xây một điện thờ Mẫu thượng thiên trong khu vườn nhà. Sau đó cụ Tổng bà bảo cậu đi mời một hội h át then về mở Hội then tại nhà trong ba ngày, ba đêm liền. Cụ Tống bà cũng bán chiếc xà tích năm dây và thuê thợ về xây hòn non bộ trong sân nhà. H át then là loại hình diễn xướng dân gian tổng hợp 27

có từ lâu đời và dặc biệt phổ biến ỏ vùng dân tộc TàyNùng. Đây là loại dân ca gắn với nghi lễ cúng tế, mang đậm màu sắc tín ngương. Then là tổng hoà các loại hình nghệ th u ật nhạc- hát- múa- mỹ th u ật và trò diễn, chịu nhiều ảnh hưỏng của các loại hình dân ca khác như: mo, sli, lượn, phong slư, tào… Then là thiên (trời), là tiên (bụt) tức là của nhà trời. Ngày xưa hát then được các bà then, ông then diễn xướng trong lễ cầu an, sinh nhật, giải hạn, bói toán, cầu mùa, tống tiễn, gọi hồn gọi vía, mãn tang, thậm chí cả chữa bệnh. Đốì vối những dịp trọng đại như cấp sắc cho người làm then hay hội then thì có khi phải kéo dài đến ba ngày ba đêm mới xong, gọi là lẩu then. Dân làng nói rằng bô” con cụ Tổng tính tình không hợp nhau. Có lẽ cũng đúng như vậy. Cụ Tổng Nhuận là người sắc sảo và có tài trong việc kinh doanh. Lúc đầu cụ chỉ có một xưởng thủy tinh thổi thông phong ỏ phô” Hàng Bột(1) – Hà Nội. Sau cụ lại mua được một xưỏng gỗ rộng ồ sô” 27 phô” Quan Thánh của một người Tây ở đảo Cooc- xơ. Chẳng bao lâu một người chủ xưỗng thủy tinh ồ khu Yên Ninh – Hàng Bún do bị thua lỗ, lại nợ tiền mua củi của cụ, nên thương lựợng và nhượng lại toàn bộ khu nhà xưỏng… Cụ lại tậu thêm nhà cho hai bà vợ bé vô”n là hai chị em ruột. Có lẽ do bà vợ hai không có con,

(1). Nay là phô”Tôn Đức Thắng.

28

nên bà mai mối cho em gái mình lấy cụ Tổng, cho có chị có em. Sau này, bà vợ ba sinh cho cụ Tổng được bảy người con. Cụ Tổng ông lên phô” sinh sông cùng các bà vợ bé, thỉnh thoảng mói về làng Đại Yên. Người con trai cả Nguyễn Đức c ầ n cùng cụ Tổng bà vẫn ỏ lại ngôi nhà xưa trong làng. Với bản tính khí khái, tự lập, cả hai mẹ con quyết không nhờ cậy gì cụ Tổng ông, mà tự lao động để kiếm sông nuôi nhau. Hai mẹ con bà không quản nắng mưa dãi dầu, cuốc đâ”t trồng rau trên những mảnh vườn của nhà để lấy tiền sinh sông nuôi nhau. Đã bưóc vào con đường tu thân thì còn màng chi sự giàu có cao sang với xe tay áo lụa. Tiền của vàng bạc trên đời chỉ là thứ phù vân. Lúc mới về nhà chồng, người vợ những tưởng rằng khi làm dâu của một gia đình có quyền th ế và giàu có vào bậc nh ất nhì trong hàng Tổng, thì sẽ được hưỏng một cuộc sống nhàn nhã sung túc, nhưng rồi sớm thây rằng cả chồng và mẹ chồng đều n h ất mực từ chối mọi chu câp của cụ Tổng ông. Đó không phải là những đồng tiền do công sức, mồ hôi của mình bỏ ra thì nhận làm chi. Sự khác biệt quan niệm về cuộc sông, giữa một người muôn được sông trong giàu sang phú quý với người vui lòng chịu cảnh nghèo khổ, kiếm sống bằng chính bàn tay lao động của mình, từ đó đã nảy sinh những mối bất hòa trong gia đình, giữa vợ với chồng, giữa mẹ chồng và nàng dâu. Đó là hai con đưòng không thể đi chung, nhưng mà vẫn phải sống vối nhau.

29

Năm 1927, vợ chồng anh Nguyễn Đức cầ n sinh người con trai đầu lòng, đặt tên là Nguyễn Đức Mẫn. Sau này hai vợ chồng cụ có thêm được ba người con gái nữa (Nguyễn Thị Chuyên, 1938, Nguyễn Thị Sinh, 1947, và Nguyễn Thị Lê, 1950). Đầu năm 1939, có một người quen của cụ, là một nhà thầu lớn, mời cụ trông nom giúp cho một toán thợ. Công việc xây dựng, làm đưồng buộc họ phải đi đến nhiều nơi, nhưng trọng tâm vẫn ở miền Đông Bắc, suốt một dải từ Hải Phòng cho đến Quảng Ninh. Cụ đã sông, lao động nhiều năm với những người nông dân lam lũ, bán mặt cho đất bán lưng cho giòi và gần gũi đồng bào dân tộc vùng rẻo cao. Nay lại có dịp sông gần gũi với những người phu hồ, phu lục lộ và anh em phu mỏ. Cuộc sông của họ cũng chẳng kham khá hơn gì những người làm ruộng. Tai nạn, ốm đau và sức lực của họ bị vắt kiệt trong những công trình, hầm lò sâu thẳm. Còn những người phu hồ mà cụ trông coi, có lẽ chưa bao giờ trong đời họ lại được gặp một người cai nhân đức như cụ. Cụ thương yêu và cùng xắn tay vào lao động cùng họ, từ sớm tinh mơ cho đến mờ tối. Cũng nhờ cụ mà người chủ thầu luôn hoàn thành sớm các công trình, ông ta đã rộng lòng trả thêm tiền công cho anh em thợ. Cả hai bên chủ thợ đều thấy mình có lợi, công việc nhanh chóng trôi chảy hơn, vật liệu không bị trộm cắp, hư hao, mà người thợ lại được tăng lương, tăng thưỏng.

30

Không những thế, cụ còn đứng ra bảo vệ, che chỏ cho anh em thợ khi họ bị cướp bóc tài sản bởi những toán thổ phỉ. Cụ Nguyễn Thị Lý (cụ Trưỏng Hưng) một người chị họ của cụ cần , kể lại: Lúc ông c ầ n làm cai ỏ dưới Quảng Ninh, Hải Phòng, có lần tôi và ông c ả ừ n g (một người anh họ) xuống thăm. Chúng tôi đến Hạ Lý, qua một cái đò chỗ cửa sông có nước mặn, thì đến chỗ ông ấy, ỏ gần chỗ xóm người Tàu bán hàng. Lâu ngày anh chị em mới gặp lại nhau, ông ấy cảm động lắm và làm cơm mời chúng tôi. Hai anh em tôi chỉ ở lại chơi vài ngày rồi về, vì ông ấy còn bận trông coi nhiều việc. Tại Thủy Nguyên, khi được biết đến danh cụ. c ả Tẩu, một tay anh chị trong giới giang hồ của vùng Hải Phòng, Quảng Ninh đã tìm tối và đòi tỷ th í với cụ. Cuộc đấu trí, đấu sức th ậ t quyết liệt, vì cả hai đều có võ nghệ cao cường. Cuối cùng cụ đã dùng th ế võ “Ngọc hoàn bộ uyên ương cước”, quay mình phi chân đá ngã c ả Tẩu, đó là một th ế võ tuyệt chiêu mà cụ đã được thầy dạy để hộ thân. Nhưng c ả Tẩu hiểu rõ rằng cú đá đó đã được cụ nương nhẹ đi nhiều, c ả Tẩu cùng đàn em vô cùng bái phục, và muốn nhường quyền cai quản trong giới giang hồ cho cụ. Cụ từ chối nói rằng, chỉ ỏ lại đây làm việc trông coi vài ba tháng rồi lại về làng cũ Đại Yên. Trước khi chia tay, cụ có nói: Mong anh em hãy vì nghĩa khí mà hành động.

31

Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới lần thứ hai bưổc vào giai đoạn kết thúc. Phát xít Đức đã bị quét sạch khỏi lãnh thổ Liên Xô (cũ). Tại mặt trận Thái Bình Dương, phát xít Nhật cũng rất khôn đôn. Mâu thuẫn đổì kháng giữa Nhật và Pháp ỏ Đông Dương ngày càng gay gắt. Đe độc chiếm Đông Dương và trừ nguy cơ bị quân Pháp đánh vào sau lưng, đêm mùng 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đã nổ súng lật đổ Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Nhân dân ta rên xiết dưới ách thông trị của bọn thực dân, phát xít. Nạn thu thóc, phá màu trồng đay, nạn đói vẫn kéo dài ngày thêm trầm trọng, nào nhà tù, nào trại giam, với biết bao nhục hình… Vận mệnh của dân tộc ta như ngàn cân treo trên sợi tóc. Đúng lúc đó M ặt trận Việt Minh đã ra lời kêu gọi quốc dân: Vai kề vai, không phân biệt trẻ trai hay gái, vác súng gươm, ta đi lên, ta tiến lên tiêu diệt quân thù. Sông trong cao trào cách mạng sục sôi đó, tại ngôi nhà 86 làng Đại Yên – Hà Nội, anh Nguyễn Đức c ầ n đã mau chóng tập hợp đông đảo quần chúng, những người lao động nghèo khổ, đêm đêm luyện tập quân sự, mua sắm vũ khí, may cờ đỏ sao vàng năm cánh để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa. Sau này trên bức tường trong ngôi nhà 86 Đại Yên vẫn còn thấy rõ dòng chữ đã ghi ngày ấy: “Vì Tổ Quốc, quyết hy sinh đến giọt máu cuối cung”. Ngày mùng 8 tháng 6 năm 1945 (tức ngày 28 tháng

32

4 năm Ât Dậu), một cái tang bất ngờ đã đổ xuống gia đình. Thân mẫu anh Nguyễn Đức c ầ n – Cụ Hoàng Thị Khế đã qua đời. Cụ nằm đó trên chiếc sập gụ trong nhà, nét mặt thanh thản như đang trong giấc ngủ trưa hè. Cả cuộc đời cụ đã sống vì chồng vì con, cụ đã sống một cuộc đời chân chính với tấ t cả tình thương yêu, giản dị của một người mẹ hiền thục. Cụ ra đi trong sự thanh thản, vì biết rằng người con trai yêu dấu của mình đã chọn một con đường đi đúng đắn, hợp vói lẽ Trời. Lúc đầu, anh Nguyễn Đức c ầ n dự định sẽ tự mình lo toan tang lễ cho mẹ. Nhưng sau anh cũng đồng ý để cụ Tổng ông đứng ra lo liệu. Sau khi chu tâ’t xong lễ tang mẹ, anh Nguyễn Đức cần nén nỗi đau thương, cùng các đồng chí lo toan việc nưóc. Sáng ngày 19 tháng 8 năm 1945, cả Hà Nội ngập tràn khí th ế cách mạng. Đồng bào rầm rộ kéo đến quảng trường Nhà h át lớn dự cuộc mít tinh lớn do M ặt trận Việt Minh tổ chức. Bài h át “Tiến quân ca” được vang lên, trong rừng cờ đỏ sao vàng năm cánh, giữa trời thu lộng gió. Cuộc mít tinh nhanh chóng chuyển thành biểu tình, đoàn người trùng điệp chia ra nhiều ngả đi chiếm phủ Khâm sai, tòa thị chính, trại lính bảo an… Anh Nguyễn Đức Cần lúc đó là Đại đội trưỏng Đại đội Lam Sơn cũng có m ặt trong ngày trọng đại của dân tộc, và anh là một trong những người đầu tiên vượt qua hàng rào vào chiếm Bắc Bộ phủ. Cuộc khỏi nghĩa ngày 19 tháng 8 33

năm 1945 tại Hà Nội đã mau chóng giành được thắng lợi. Chính quyền đã về tay nhân dân lao động. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bô” trước quốc dân đồng bào và th ế giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ra đời. Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập. Toàn th ể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượngy tính mạng và của cải đ ể giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người dân độc lập tự do. Một kỷ nguyên của lịch sử dân tộc đã được mỏ ra. Dù vẫn đang tham gia hoạt động cách mạng, nhưng anh Nguyễn Đức cầ n nói rằng: Nước nhà đã giành được độc lập, nhưng nhân dân còn chưa được hạnh phúc, muốn có hạnh phúc trước hết phải có sức khỏe, không ôm đau. Nay ta đi theo con đường khác, con đường mang lại sức khỏe cho nhân dân. Sau khi ra đòi, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đứng trước muôn vàn khó khăn, nguy hiểm, quân Pháp núp bóng quân Đồng minh, dã tâm quay lại xâm lược nước ta. Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, một bộ phận quân ta rú t về chiến khu Việt Bắc xây dựng lực lượng vũ trang. Đơn vị của Cụ Nguyễn Đức cần lúc đó đóng quân ở khu vực Đu Đuổm – Thái Nguyên. Trong những ngày tháng đó, trong núi cao rừng thẳm, cụ đã được gặp 34

được một vị Thầy. Và Thầy đã truyền thêm cho cụ phương pháp chữa bệnh đế về giúp dân. Cụ Lê Văn cảnh, pháp danh Tịnh Quang kể lại: Trước đây, trong kháng chiến chông Pháp, tôi có tham gia vào du kích chiến. Sau đó tôi gia nhập bộ đội ỏ trung đoàn Lưu Vân. Chúng tôi có dự mấy trận đánh ồ Khe Tang, Thạch Bích, rồi sau đó chuyển lên Việt Bắc, ở vùng Thái Nguyên. Sau tôi bị sốt rét không tham gia trong quân ngũ nữa. Ong cụ c ầ n với tôi học cùng một thầy ỏ trên núi. Do là tôi trên đường đi công tác, bị một cơn sốt rét, nằm một mình mê man ỏ bãi giành giành trong một khu rừng gianh hoang vắng, trong lúc tôi gặp hiểm nguy, thì có một bà cụ người dân tộc Tày thấy, cụ cứu tôi mang vể. Sau bà cụ đưa tôi lên núi. Tôi vẫn hình dung được chỗ đó cách Thái Nguyên vài chục cây sô”, gọi là Đu, Đuổm. Đi đến chỗ đó phải qua một khu rừng gianh, đến một khe suối thì phải leo lên một vách đá dựng đứng, đến lưng chừng có một con đường nhỏ, rồi lại đi xuống một thung lũng. Đến một con suổỉ thì bà cụ bảo tôi đứng chờ ở đây. Bà cụ lên trước xin phép thầy. Thầy dạy lên được, bà cụ mới đưa tôi lên. Khi nhận môn đồ, vị Thầy đó có lựa chọn. Người chỉ nhìn là Người thấy hết. Tôi thì Người chỉ hỏi qua là Người nhận. Cũng có người thì thầy không thu nhận, Người bảo: Anh cứ về đi, cứ làm hết sức mình, rồi lên đây thầy nhận. 35

Chỗ chúng tôi học là một hang đá, một cái hang lộ thiên, ỏ giữa có một khoảng không, mặt trời rọi xuống sáng trưng, phía ngoài có một hành lang đi thông sang hai bên, các cô nữ ồ một bên, còn chúng tôi ỏ một bên. Khi nào mưa thì chúng tôi lui vào bên trong, chỗ đó có một cái lưỡi đá (nhũ đá) rủ xuống. Chung quanh hang là núi, dưới có suối chảy róc rách. Bốn mùa thiên nhiên cây cỏ xanh tươi, cảnh vật rấ t đẹp. Có bài thơ làm chứng rằng: Xưa kia một góc cõi trời Thái Nguyên một dải là nơi trú dừng Bốn bề núi đá mọc xanh Có đường tiểu mạch nương mình ai hay Bốn mùa chim núi cỏ cây Trời xanh nước biếc hương bay ngạt ngào. Trong hang có một phiến đá, phía trên chỗ vách đá thấy đề mấy chữ nho. Chúng tôi ở cách xa dân, chỉ có mấy thầy trò thôi. Hàng ngày chúng tôi đi câu cá ỏ suối rồi vệ nấu nưóng, cá treo đầy ỏ bếp. Còn lúa gạo thì thầy trò tự gieo trồng, có cả gạo tẻ, gạo nếp. Rau thì nhiều vô kể. Trên vách có treo cả nỏ, nhưng Thầy không cho săn bắn. Từ tờ mờ sáng, chúng tôi dậy đi câu cá. Chỗ đó suối thì bao la, rất nhiều suổì. Ví dụ như hôm nay tôi trực thì phải đi câu, được độ mười sáu ,‘mười bảy con cá, xong mói về ngồi

36

học. Hôm sau lại đến phiên người khác. Cá câu được về nấu với lá méo thì nó đôn dốt chua, còn măng rừng thì là cái thường rồi, các loại hoa quả khác cũng nhiều lắm. Cũng có hôm chúng tôi được tập trung đông đủ, được thưởng thức, hưỏng của tiên, thầy trò ngồi cùng nhau, học vui lắm. Chúng tôi học có bảy người, bôn người nam và ba người nữ, nhưng ở riêng biệt. Thầy có đặt hiệu cho từng người, tôi tự là Phúc Tự. Tôi còn nhớ có một cô quê ở Bắc Giang tên Thanh thì hiệu là Huyền Vi. Thầy cho chúng tôi học luân chuyển, vì lúc bấy giờ chúng tôi còn tham gia cả công tác kháng chiến nữa. Việc học Đạo, đầu tiên thì gian khổ đấy, sau thì phải quen đi chứ, tức là mình phải rèn luyện. Nơi chúng tôi học, chung quanh là núi, lúc nào cũng thấy sương mù mịt, trời rất lạnh, cho nên phải đốt lửa suốt ngày để sưởi âm, không thì buốt lắm. Chúng tôi ngồi học trên các mô đá phang lì, giấy bút mua từ dưói xuôi lên. Trước khi học, Thầy cho thắp hương rồi mới bát đầu học. Vị Thầy, Người không ồ lại trong hang núi đó. Buổi sớm, không biết ông cụ đến lúc nào, cứ đúng giờ là cụ xuất hiện. Đến chiều tối, trước khi đi cụ nói với chúng tôi: Tình ngọa (tức là ngủ ngon), rồi cụ đi, không biết Người đi đâu. Còn chúng tôi ngủ lại trong hang đá. Chúng tôi lấy cây giành giành bỏ hết lá đi, chỉ còn lại cái cẳng, rồi lấy lá chít, bông của cây lau làm thành một cái đệm rất êm và ấm, tuy không có màn nhưng cũng không có muỗi vì ở đó rất sạch sẽ, khoáng đãng. Đèn thắp sáng thì chúng tôi lấy một ống 37

nứa rồi chọn cỏ bấc dài, sau đó lây nhựa trám rỏ vào ngòi bấc rồi châm lửa như ta đết nến, khi hết lại thay cái khác. Ông cụ, Thầy dạy chúng tôi, Người trông dọn lắm, tóc bạc phơ, ăn mặc giản dị, Người nói là Thiền Sư truyền đạo. Có bài thơ tả rằng: Tó c mây phủ trắng nun đầu Áo nâu giản dị pha mầu phong sương Ung dung phong dộ khác thường M ắt Người tươi sáng như ngàn sao sa.

Thầy tôi nói có th ất cửu môn, nghĩa là có 79 môn. Nhưng không phải thầy truyền cho cả. Vào đấy, Thầy đưa từng ấy môn, nhưng cảm hứng môn nào thì Thầy xả thân Thầy dạy. Môn đồ mỗi người học một môn. Ví dụ như tôi học về nghĩa đạo là thực đạo, chứ không có ảo tưỗng. Nhưng có người học về ảo tưởng. Thế cho nên trong bảy người chúng tôi, mỗi người học một môn, không ai giống ai. Tôi học về định sô”, nhưng trước tiên phải học về mệnh, cơ bản phải nắm vững ngũ hành. Có ba điều trong tam môn nghĩa đạo: N hất bần, nhị yểu, tam vô tự. Nếu giữ được tam môn ấy, thì một là tròn, hai là méo. Thí dụ, Nhất bần có khổ cực đấy, có chịu đựng được không? Nhị yểu có làm được cái nghề ấy không, có sợ chết không. Ba điều căn bản đó: một điều gian kho, một điều sợ sệt, một điều kinh hãi, đấy là học cho đủ. Buổi

38

sáng sốm thì chúng tôi học võ, nhưng chúng tôi học võ chỉ đế hộ mệnh thôi, chứ không phải để đi ra đường đấu đá, thí dụ như khi đi đường gặp con gì thì có thể giữ mình được, hoặc gặp cái hung thì cũng có thể giữ mình được. Chúng tôi tập như buổi sáng ta tập thể dục, vừa vận động cho cơ thể, rèn luyện cho thân thể có sức khoẻ và vừa đế giữ mình. Khi học vị, Thầy nói về nghĩa Phật là chính, mà làm đạo là nghĩa Phật, chứ không phải học về tà thuật. Khi hạ sơn thì Thầy có tập trung căn dặn chúng tôi. Tôi được đi trước. Khi đó Thầy viết chữ vào trong thân cây, không biết Ngưòi làm th ế nào mà khi tôi ra thì đã thấy có mấy dòng chữ viết ở đấy rồi. Thầy xem đạo đức của từng người, ai nhận chữ nào. Ớ đây vói Thầy đạm bạc như thế, thì sau khi học được có làm giàu, hay muốn sang trọng không, thì nhìn vào đấy Thầy đã biết tướng tinh của từng người, mảng cái gì rồi, về sau có khá hay không, có giữ được chân lý hay không. Thầy chỉ căn dặn chúng tôi mấy điều, Người nói: Tôi dạy tất cả các vị, về sau này các vị tự xử lý lấy. Các vị xuống là th ế hệ của các người ở xã hội này. Thầy chỉ dạy Đạo và chân lý, chứ không dạy phải theo môn phái nào cả. Những điều thiện hay ác tự ở trong lương tâm mình thấy. Điều thiện thì mình phải phát huy đế làm tròn bổn phận nghĩa đạo. Mình phải tự học, tự hấp thụ, học thì phải hành, học thiện thì hành thiện.

39

Cụ Nguyễn Đức cầ n có kể lại: Thời gian học đạo ỏ Thái Nguyên có bảy người cùng học, bôn nam và ba nữ. Học xong, Thầy có cho thi và cụ đã đỗ đầu. Trước khi xuống núi, Thầy có hỏi: Có sợ chết không, và cụ đã trả lòi: Thưa Thầy, con không sợ chết. Khi đoàn người đi xuống núi, cụ c ầ n đi cùng với ba người nữ, đến chỗ rừng gianh thì bất chợt thấy một con hổ lớn đang nằm trên con đường mòn phía trước. Những người đi cùng có vẻ chần chừ muôn lui, nhưng cụ nói: Không sợ, cứ đúng đường mà đi. Và cụ dẫn đầu đoàn người thẳng tiến. Lạ thay, con hổ bỗng nhiên đứng dậy và rẽ vào khu rừng gianh rồi biến mất. Đó là thử thách đầu tiên khi cụ Nguyễn Đức cầ n xuống núi làm việc giúp đời. Ngay sau cách mạng tháng 8 – 1945, nền kinh tế nước ta vẫn là một nền nông nghiệp lạc hậu, lại bị chiến tran h tàn phá nặng nề, nạn đói chưa hết, thiên tai lũ lụt liên tiếp, ngân sách trông rỗng. Chính phủ phải kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân. Hưởng ứng phong trào tuần lễ vàng tại Hà Nội, cụ Tổng Nhuận đã ủng hộ chiếc Chương Mỹ bội tinh đúc bằng vàng cho chính phủ cách mạng. Chỉ sau một thòi gian ngắn, đồng bào cả nước đã góp được 20 triệu bạc và 370 kg vàng… Sau khi hiệp định sơ bộ (6 tháng 3) và Tạm ước ngày 14 tháng 9 năm 1946, thực dân Pháp tăng thêm viện binh và ngày càng hành động khiêu khích. Ngày 17 tháng 12 năm 1946 chúng bắn đại bác, súng cốì và cho 40

quân lính ra giết hại đồng bào ta tại khu vực phô” Yên Ninh – Hàng Bún, trong đó có xưỏng thủy tinh của cụ Tổng Nhuận. Khi gia đình cụ biết tin dữ cho người ra tìm, thì phỗ cũ chỉ còn vương lại khói súng và xác những người dân bị cháy xém nằm ngổn ngang, không thể nhận biết được đâu là người th ân trong gia đình. Dân phô” bảo rằng những người dân lành bị giặc Pháp giết hại đã được đem đi chôn tại gần cửa tòa Hà Nội (nghĩa trang 19 tháng 12) chỗ phô” Lý Thường Kiệt, mà người dân Hà Nội vẫn quen gọi là chợ Am phủ. Sau này sô” hài cô”t đồng bào trên được mang đi chôn eâ”t tại nghĩa trang Yên Kỳ, Sơn Tây (khu D ll). Được gia đình báo tin lên chiến khu, khi cụ Nguyễn Đức Cần trỗ về Hà Nội thì cũng là lúc cuộc kháng chiến toàn quốc đã nô ra trong đêm 19 tháng 12 năm 1946. Việc gia đình đành phải gác lại để lo cho việc nước. Cụ Nguyễn Đức c ầ n đã ở lại chiến đâu trong suốt 60 ngày đêm chông giặc Pháp tại thủ đô Hà Nội. Đêm 17 tháng 2 năm 1947, cụ cùng đồng đội được lệnh rú t khỏi thành phô”, trỏ về chiến khu Việt Bắc để chuyến sang một giai đoạn mới. Cuối năm 1946, trong lúc cuộc chiến đấu đang diễn ra quyết liệt tại các thành phô” lớn, thực hiện chủ trương kháng chiến lâu dài, quân dân ta khẩn trương vận chuyến máy móc, nguyên liệu, gạo muốỉ… về các khu an toàn, tổ chức nhân dân tản cư. 41

Ngày ấy, dân Hà Nội chạy tản cư về các miền quê. Gia đình cụ Nguyễn Đức cần ly tán, mỗi người một nơi. Cụ vẫn ở lại trong vùng căn cứ Việt Bắc, ông Mẫn con trai cả đi theo Đoàn thanh niên xung phong, bà Chuyên (Tuyên) tản cư về Nam Định, còn cụ Lê Thị Tuyết, vợ cụ cần cùng một sô” dân làng chạy tản cư về mạn Thanh Oai – Hà Tây. Ai đã sông trong thòi loạn ly mới thấy hết được nỗi khổ của cuộc đời. Hoàn cảnh những người dân Hà Nội chạy tản cư lại càng cực khổ vô cùng. Lúc rời làng Đại Yên ra đi, bà Tuyết đang mang thai. Sô” tiền ít ỏi giắt lưng chẳng mây ngày đã tiêu hết cả, chồng con mỗi người một ngả, ăn bụi ngủ bờ không nơi nương tựa. Một ngày tháng 4 năm 1947, trong lúc đi trên đường chạy loạn, bà Tuyết đã đẻ rơi đứa con gái thứ hai tại bãi ngô trên cánh đồng làng Thanh Mai. Hai mẹ con bồng bế nhau vào ở nhò dưối hiên ngôi đình làng thôn My Hạ. Do kiệt sức trong những tháng ngày lang bạt cơ nhỡ, ăn uống thất thường thiếu thôn nên bà không có sữa để nuôi con. Ngày ấy, ỏ xóm thượng thôn My Hạ có gia đình ông Bùi Văn Hồ là một gia đình nông dân chất phác. Nhưng họ có nỗi khổ là đã mấy lần người vợ sinh con mà không nuôi được. Đi xem ông Thầy bảo rằng sô” họ phải có con nuôi thì mới nuôi được con đẻ. Năm ấy bà Hồ cũng vừa sinh một đứa bé được vài ngày nhưng nó đã bỏ đi. Không biết có sự run rủi thê” nào đó, hai bà mẹ lại gặp nhau trước cửa đình làng. Ngồi bên nhau mà mỗi người một cảnh éo le, người có con thì không có sữa mà người 42

đang căng bầu sữa thì lại vừa mất con. Bà Tuyết rụ t rè nói với người phụ nữ kia xin cho con mình được bú chực. Ôm đứa bé vào trong lòng và cho nó rúc vào bầu sữa của mình, bà Hồ bỗng dâng trào một cảm xúc của tình mẫu tử. Sau buổi đó, bà về nhà nói chuyện với chồng. Ngày hôm sau cả hai vợ chồng ra cửa đình gặp bà Tuyết để xin đứa trẻ về làm con nuôi. Thật là cực chẳng đã, chẳng bà mẹ nào lại muốn cho đi đứa con dứt ruột của mình. Nhưng nhìn lại hoàn cảnh của mình, bữa no bữa đói, một giọt sữa cũng chẳng có để nuôi con, sống chết cũng chẳng biết thế nào. Thôi cũng đành là nhắm m ắt mà phó thác con cho người ta. Biết đâu nó còn được sống làm người. Từ đình đến xóm thượng cũng không xa, ngày nào bà Tuyết cũng ghé thăm con. Đứa trẻ no tròn sữa bú, ngày càng thêm lớn. Những năm sau này bà Hồ sinh thêm được hai người con, một trai, một gái và ông bà đều nuôi được các con khôn lốn thành người. Từ Thái Nguyên, khi biết tin vợ sinh con gái, cụ Nguyễn Đức cầ n về làng Thanh Mai tìm gặp vợ con, thì được biết con gái mình đã là con nuôi của nhà họ Bùi được ba tháng rồi. Cũng chẳng trách gì được người vợ. Cụ đặt tên con là Nguyễn Thị Sinh đê cho con sau này nhớ về nguồn gốc gia đình. Từ Thanh Mai cụ xuôi Nam Định để đón người con gái lớn là bà Tuyên, lúc đó mới 9 tuổi về với gia đình. Ông Mẫn, người con trai trưởng của cụ cũng tìm về. 43

Thế là cả nhà sau mấy năm loạn lạc lại được gần nhau. Gửi lại người con gái thứ hai cho gia đình ông Bùi Văn Hồ, cả nhà từ biệt làng Thanh Mai chạy tản cư về mạn Vĩnh Yên. Bà Tuyên, người con gái lớn của cụ, nhớ lại: Ngày đi tản cư, thầy tôi và anh Mẫn, ai người ta thuê việc gì cũng nhận, lúc thì gánh thuê hạt thầu dầu, rồi gánh gạch thuê. Hàng ngày ninh một nồi ngô đỏ, thỉnh thoảng có thêm ít đậu đen. Tôi đi xin rơm rạ về quấn quanh nồi rồi đốt. Cả nhà ngồi ăn, nhai mỏi răng lắm mà chẳng thấy no gì cả. Khi không có ai thuê thì thầy tôi gánh hàng đi bán các con tò he (tò te), mà bán các con giống bằng bột này thì không được đi nhanh, nếu không nó xô vào nhau thì hỏng hết hàng. Một hôm, hai bô” con đi bán hàng qua chỗ chợ Lầm, thì gặp một ông thuốc lào quen. Mọi khi thầy tôi vẫn vào đấy ngồi hút điếu thuốc. Hôm đó lúc đi qua, ông hàng thuốc đó mời: “Hôm nay có thuốc ngon lắm, ông vào xơi một điếu”. Nhưng lần này thầy tôi bảo: “Thôi, hôm nay tôi bận, còn phải vội đi bán hàng”. Hai bô” con tôi vừa đi khỏi chợ độ một quãng, thì máy bay khu trục của giặc Pháp nó đến bỏ bom, bắn phá chỗ chợ, mà máy bay nó đến nhanh lắm, hai bô” con tôi nằm nấp ỏ vệ đê, tôi còn nom rõ cả thằng phi công, sợ chết khiếp. Lúc sau, khi đã yên ắng, hai bô” con tôi quay lại chỗ chợ thì thấy quang cảnh tan hoang, còn ông bán thuốc lào đã bị chết nằm gác chân lên cái khay thuốc. Thầy tôi bảo: “May quá, hôm nay thầy mà ngồi đấy hút thuốc thì chết cả hai bô” con rồi”. Vào khoảng CUỐI năm 1949 nhà tôi chẳng còn đồng 44

tiền nào, tôi với anh Mẫn hàng ngày đi mò cua, bắt ốc kiếm thức ăn. Quần áo chẳng có và rách nát hết, hai anh em đều ỗ trần, anh tôi chỉ đóng mỗi chiếc khô” đi mò cua, rồi xin người ta được một chiếc bao tải cắt ra khoác lên người thạy áo. Thầy tôi thấy các con khổ quá mới quyết định trồ về làng. Nhà tôi là vế muộn nhất. Khi về chỉ còn cái xác nhà. May có nhờ nhà ông Lang Phong cũng tốt, giúp cho gia đình tôi ít đồ dùng, quần áo. Năm 1950, bà cụ đẻ cô Lê, cô con gái thứ ba và cũng là cô gái út. Từ những năm 1940, cụ Nguyễn Đức c ầ n đã chữa bệnh giúp cho nhiều ngưòi. Lúc đầu cụ chữa trị bệnh cho những người trong họ tộc thân quen, nhưng sau đây do chiến tranh loạn lạc, cuộc sông của gia đình cũng bị cuôh trôi theo dòng thời cuộc. Kể từ sau khi hồi cư về Hà Nội năm 1950, khi công việc trong gia đình đã ổn định, cụ bắt đầu nhận chữa rộng rãi, nhiều người đã biết đến danh cụ, người bệnh từ nhiều nơi tìm đến cửa cụ để xin chữa bệnh. Phương pháp chữa bệnh của cụ rấ t đặc biệt: người bệnh hoặc người nhà bệnh nhân đến gặp cụ, nếu được cụ nhận lời, hoặc cụ cho một mảnh giây có chữ ký của cụ mang về, thì bệnh có thể khỏi. Cụ chữa bệnh không dùng thuốc và có thể chữa bệnh từ xa. Cụ chữa nhiều loại bệnh như điên, ung thư, đau dạ dày, sơ gan cổ trướng, máu trắng, thấp khớp, vẩy nến, phù thận, méo mồm, trĩ, uốn ván, áp huyết, tim, liệt tay, câm, điếc, hen, đẻ ngược, viêm não… 45

Bà An Thị Phú, sinh năm 1924, hiện ở tại làng Hữu Tiệp, Hà Nội, một người cháu gọi cụ Nguyễn Đức cần bằng chú, kể lại: Tôi còn nhớ lúc độ 15, 16 tuổi thì bị một trận sốt thương hàn, tôi bị sốt hơn hai mươi ngày, người gầy và mệt lắm. Chú tôi (cụ Nguyễn Đức cần) đến nhà chữa bệnh cho tôi. Lúc đó tôi ôrn nằm quay mặt vào trong, ông cụ đến chữa bệnh, không thấy cho thuốc gl cả, chỉ thấy ông cụ nói thứ tiếng gì đó. Sau đó thì tôi khỏi bệnh và đi bán hàng hoa ỏ chỗ trước cửa nhà Godart Bờ Hồ (nay là Tràng Tiền Plaza). Lần khác, tôi bị bệnh rức đầu, đau đầu không thể nào chịu được, tôi vào nhờ ông cụ chữa, cụ cho tôi một tờ giấy và dặn về để trên đầu. Từ đó, tôi khỏi bệnh ngay. Tôi thấy không có tý gì là mê tín dị đoan cả. Ông cụ không cúng lễ, không lấy tiền của ai, ngay như tôi khi khỏi bệnh cũng chẳng biếu thứ gì đâu. Nhưng không phải ai ông cụ cũng nhận chữa. Cụ có nói với tôi là: “Ai vào đến cổng nhà tôi, ai có đạo đức hay không có đạo đức là tôi biết hết”. Ông Nguyễn Văn Nhâm, ỏ xóm Hồng, xã Khương Đình, Hà Nội nhớ lại: Vào năm 1951, vợ tôi (bà Nguyễn Thị Sỏ) sau khi sinh đứa cháu gái đầu lòng bị chết thì nhà tôi bị điên, nói lăng lảm nhảm, rồi nhà tôi leo lên cây, lội cả xuống sông Tô Lịch. Gia đình đã chạy chữa hết cả mọi nơi, bác sỹ tây, bác sỹ ta, vào bệnh viện Phủ Doãn, bệnh viện Bạch Mai nhốt nhà tôi vào buồng riêng tiêm thuốc cũng không khỏi. Người ta mách ở đâu có ông thầy nào là đi hết, đến khi hết tiền và chẳng còn hy vọng nào có thể chữa được nữa. Thật may, lúc đó nhà tôi 46

có bà dì tu ỏ chùa Hàng Cót, những khách thập phương đến lễ, nói chuyện với nhau là ở làng Đại Yên có cụ Trưởng Cần chữa được nhiều bệnh, ôm đau nguy hiểm mà thuốc thang ở đâu cũng không chữa được, mà đến cụ lại chữa được. Bà sư ấy bảo: “Để dì đưa lên nói vói cụ, xem cụ có chữa được không?”. Lúc chúng tôi lên, thấy nhà cụ, người đến xin chữa bệnh đông như kiến cỏ. Tôi và bà dì vào nhà thưa với cụ, xin cụ giúp cho, lúc bấy giờ nhà tôi cứ xắn quần chạy vòng quanh sân nhà cụ như con ngựa lồng. Cụ bảo nhà tôi vào trong nhà ngồi. Cụ nói: “Nếu mà cô chú đã đi nhiều nơi mà tiền nong không còn nữa, thì để tôi giúp”. Cụ dạy, ỏ đây không phải cúng lễ, không phải thuốc thang, yên chí cứ về đi, cụ nhận, cụ chữa cho. Cụ cho một mảnh giấy để làm tin và dặn để trong người cho cô ấy, cho thần kinh cô ấy ổn định. Sau khi về thì nhà tôi không nói linh tinh nữa, tuy vậy người còn ngơ ngẩn, tôi lại lên xin cụ, khoảng bốn tháng sau thì nhà tôi tự đi lên xin cụ và chưa đến một năm thì nhà tôi khỏi hẳn. Tôi thấy cụ chữa bệnh rấ t kỳ lạ, không thây cụ cho thuốc, cũng không cúng lễ chiêng trống vàng mã tôn kém, th ế mà bệnh lại khỏi. Sau khi nhà tôi khỏi bệnh, chúng tôi lên cụ tạ ơn. Tôi đưa 20 đồng tiền Đông Dương, không dám nói là để trả ơn mà gọi là xin cụ tạ lễ. Cụ cười và nói: Thôi, tôi cho cô chú mang về làm vôn, để làm ăn sinh sông mà nuôi nhau, 47

không phải tạ lễ ai cả. Cụ dạy chúng tôi: Cụ chữa bệnh cho có sức khỏe thì về làm ăn lương thiện, chân chính, đừng làm các việc phi pháp, theo được như thế thì cụ mới công nhận cho lên cửa cụ. Chúng tôi nghe theo lời dạy của cụ, làm ăn lương thiện bằng sức lao động của mình. Sau này nhà tôi sinh được tám cháu đều nuôi được cả, mỗi khi ôm đau cứ lên xin cụ, th ế là mọi bệnh đều khỏi hết. Cụ chữa bệnh và còn bài trừ mê tín dị đoan, Cụ đã giải đồng cho biết bao người. Vì cụ cho đồng bóng là mê tín. Cụ dạy: Làm ngưồi phải ăn ỏ có đức thì mới được đẹp, sinh sông hàng ngày phải lao động cần cù, phong tục tập quán thì nưốc nào cũng có, còn mê tín dị đoan thì nên bỏ. Cụ hết lòng thương yêu cứu chữa bệnh nhân, có khi đêm khuya, cụ còn đi đến các làng như Thạch Bàn, Kim Quan, Văn Đức, Hoàng Mai… để cứu chữa bệnh nhân, thực hiện “cứu bệnh như cứu hỏa”. Chữa bệnh thì tận tâm vất vả như vậy, nhưng cụ không hề lấy của ai một xu nào. Bệnh nhân khỏi là cụ vui mừng. Cụ dạy: Người nghèo đã ốm thì tiền nuôi con cái cũng chẳng còn, vậy tiền đâu mà trả ông thầy, hơn nữa tôi chữa bệnh không cần thuốc, không m ất vốn, mà bản tâm không muốn bóc lột người bệnh, nên tôi không lấy tiền. Cụ còn đi quyên được hơn 400 chiếc áo rét cho người mù và ngưòi nghèo ỗ chợ Mơ, Hoàng Mai – Hà Nội. 48

Tháng 7 mùa thu năm Giáp Ngọ 1954, vào một ngày đẹp trời có một vị khách đến thăm cụ Nguyễn Đức cần. Ồng cụ này ăn vận thanh lịch, dáng vẻ thanh tao, như một bậc tiên phong đạo cốt. Người khách đó nói là người của thành Thăng Long xưa, với danh hiệu là Long thành Hoài quang cư sĩ, đến gặp cụ Nguyễn Đức c ầ n để tặng một bài thơ: Bái tặng Nguyễn chân nhân Đ ạ i Yên mở rộng (tạo chân truyền Che chở đêm ngày có thượng thiên Thánh chúa xét soi gương đao pháp Sơn nhớn gìn giữ vẻ thiên nhiên Bốn phương (tộ th ể ân vô tượng Ngàn dậm thành tâm khách hữu duyên San se7cho đời khang phúc thọ T rờ i Nam ỉ ưu mãi tiếng chân tiên. Đ ạo cả khơi nguồn chính từ đây T rờ i thương chúa độ ch ỉ đường ngay

Chốn tâm ngộ dao đưa duyên tại Chính đạo minh tâm hưởng phúc dầy Cứu th ế trừ tai trong đất nước Đ ộ nhân giải ách suốt đông túy

Muôn nhà an tạc ơn thiên thượng Dân nhớ ngàn xưa trọng đạo thây. Chính đạo trừ tai, tà khí tiêu tan non nước tặng

49

Chủ Ị ì nhân tác phúc, lương dân an lạc trúc mai tươi Hổng nhật chiểu an hương, sơn thủy thanh quang tiên chúa giáng. Chân nhân hành chính dạo, yêu ma tiêu tán phúc thần lâm.

Long thành Hoài quang cư sĩ

Bài thơ trên mang một khẩu khí rất lạ, nó như một sự giao thoa, đồng cảm giữa những con người cao thượng, không màng đến danh lợi của cuộc đời và mang theo hơi thồ của dạo lý Trời đất. Chúng ta thấy, ở khổ thơ thứ hai, những chữ đầu dòng đã được xếp đặt để nói lên chủ ý của bài thơ: Đạo Trời Chân Chính Cứu Độ Muôn Dân. Cụ Nguyễn Đức cầ n từng nói: Đời tôi sông hơn 70 năm trời, chịu bao nhiêu đau khổ, cay đắng, mà tôi vẫn chịu được để làm việc cứu đời. Thời kỳ những năm 1955 – 1956 là những năm cụ và gia đình gặp phải những nạn lớn. Sau khi cụ có đứa cháu nội đầu tiên được ít ngày thì người con trai trưởng của cụ là ông Nguyễn Văn Mẫn gặp nạn đột ngột qua đời. Cũng trong thời gian đó ở miền Bắc tiến hành cải cách ruộng đất, cụ bị mang ra đình làng đấu tô”. Lúc đầu cụ bị quy kết là địa chủ, nhưng ruộng đất nhà cụ không có nhiều, lại không bóc lột, thuê mưốn ai, vì chính cụ lao động một nắng hai sương, cày cuốc chăm lo vườn tược

50

rau màu. Sau lại bị quy là phản động thân Pháp, nhưng cụ không tham gia tổ chức phản động nào, ngoại trừ lúc tham gia cách mạng Tháng Tám. Cụ cũng không khai báo thành tích lúc kháng chiến, và những đồng chí cùng hoạt động lúc đó người thì hy sinh, ngưòi thì bận công tác ở xa. Bà Nguyễn Thị Chuyên, con gái lớn của cụ kể: Ngày địch tạm chiếm Hà Nội, thầy tôi vẫn hoạt động bí mật trong thành. Một hôm lính Pháp vây bắt mấy người Việt Minh chạy trôn vào nhà tôi, thầy tôi chỉ cho họ nấp sau vườn nhà và sai tôi đứng canh ỏ cửa bếp, còn ông cụ đừng ở cửa nhà trên. Khi tốp quân Pháp xộc vào nhà, cụ mời họ vào uổng rượu và nói chuyện. Trong toán lính Âu Phi đó có viên chỉ huy biết cụ, vì cụ đã chữa khỏi bệnh cho vợ anh ta. Toán lính uống rượu xong thì đi ra, không lục soát gì hết, th ế là mấy người cán bộ kia thoát chết. Thế mà khi cải cách, chính họ lại đứng ra tô” cáo cụ là phản động thân Pháp. T hật là làm ơn mắc oán. Cụ bị kết án bảy năm tù và bị đưa đi lao động tại trại Đá Bàn, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Bà Chuyên nhớ lại: Khi ông cụ bị đi trại, tôi mới 18 tuổi, tôi cùng đi vối hai bà vợ địa chủ lên thăm người nhà. Chúng tôi đi xe hỏa đến Yên Bái, rồi phải đi xe ngựa m ất một ngày mối đến trại. Hai bà đi cùng, khi đến thì được gặp ngay người nhà, còn tôi phải chờ, vì ông cụ phải đi lao động mãi tận trong rừng sâu. Được hai ngày thì hai bà kia đòi về, vì ỏ đây buồn quá, người 51

chết, người khóc vì tù đày nơi rừng thiêng nước độc. Tồi phải chắp tay xin, nói với họ chờ thêm một ngày nữa. Đến ngày thứ ba, mãi đến hai giờ chiều thì hai bô” con mới được gặp nhau, c ả hai bô” con đều khóc. Tôi thương ông cụ quá, người gầy và đen lắm, họ chỉ cho gặp 15 phút, thấy tôi mang theo nón, cụ bảo: Cho thầy chiếc nón để đội đi lao động. Đồ tiếp tê” thì có gì đâu, chỉ có vài cái bánh mỳ và một ít muối vừng thôi. Ông cụ chỉ hỏi qua vài câu, tôi thì nghĩ vẩn vơ, cụ bị tù bảy năm chắc gì còn sông mà trỏ về với gia đình, bao nhiêu người trẻ khỏe mới lên, mà đã chết ở nơi rừng thiêng nước độc này. Sau này vào năm Canh Thân 1980, có một gia đình bệnh nhân mang lên biếu cụ năm con khỉ vàng đang chắp tay lễ, bằng sứ, bé bằng ngón tay út, cụ cho gắn lên hòn non bộ trong sân nhà và cụ kể lại câu chuyện: Hồi ồ trại, lúc cụ ngồi ăn bánh mỳ ở bên một dòng suối trong rừng vắng thì có một lũ khỉ đứng chầu ỏ trước mặt, cụ dành một mẩu bánh mỳ bẻ cho chúng, kỳ lạ thay, trước khi nhận mẩu bánh, lũ khỉ đó lại biết chắp tay lễ cụ. Cụ bảo: À, con vật mà lại biết chắp tay là vậy. Sau khi sửa sai, gia đình cụ được giảm xuống thành phần trung nông, cụ đi trại mất bảy tháng thì được về. Nhưng ngay sau đó là phong trào bài trừ mê tín. Ớ nhiều nơi, các đình chùa biến thành kho của hợp tác xã, thậm chí có nơi các câu đối bị mang ra làm cầu ao, ngay cả việc thắp hương thờ cúng cũng bị coi là mê

52

tín. Cụ cũng buộc phải dỡ điện thờ Mẫu trong sân nhà. Cụ mang bát hương công đồng lên đặt tại Đền Và, Sơn Tây. Hôm đó lại là một ngày hội, lúc đầu những người trông coi ngôi đền không đồng ý, cụ nói: Thôi được, tùy các ông thôi. Nhưng khi cụ bước ra đến sân đền, thì một cơn giông bỗng kéo đến, mây đen phủ kín bầu trời và gió mạnh từng cơn làm rung chuyển ngôi đền, tròi đất như muốn nổi giận. Biết đó là một điềm trời, bảy ông từ trông đền, mặc áo thụng xanh, sợ hãi vội vã chạy ra và mời cụ trỏ lại. Khi bát hương cụ đặt tại chính điện đã yên vị, thì trời lại quang minh sáng tỏ, và lạ thay, bao nhiêu chim rừng từ đâu kéo đến đậu đầy trên những ngọn cây trong khu đền và líu lô hót mừng. Rồi cụ trở lại Đại Yên, nhưng chỉ ít ngày sau, cụ bỏ nhà ra đi vối bao điều trăn trở, băn khoăn: Sao làm việc phúc giúp đời mà lại gặp nhiều cay đắng đến thế. Có nên tiếp tục làm việc chữa bệnh giúp đời nữa hay không? Hay là đến nơi nào đó, thâm sơn cùng cốc, xa lánh cõi đời. Nhưng, rấ t nhiều người bệnh, những người từng chịu ơn đã không bỏ cụ trong những ngày vô cùng khó khăn đó. Họ đã đi theo cụ trong từng bước chân, xin cụ tiếp tục trỏ về chữa bệnh cứu đời. Những ân tình sâu nặng đó có lẽ cũng làm nguôi đi bao đau đớn trong lòng, làm cụ cấm động. Sau ba tháng, cụ trở lại Đại Yên. Lúc này đang có phong trào hợp tác xã, cụ tham gia vào làm xã viên. Hàng ngày cụ dậy từ 5 giò sáng đi làm vườn 53

tưới rau, lúc cuốc đất, lúc kéo xe bò, thậm chí ra tận bờ sông để vác nứa. Cụ gánh nước rấ t khỏe, một lúc bôn thùng, gấp đôi người khác, khi cuốc vườn vào chỗ đất rắn, bọn thanh niên toàn nhò cụ làm giúp, mà cụ toàn nhịn đói, không ăn sáng bao giò cả. Bà Tuyên, con gái cụ kể lại: Hồi thầy tôi làm xã viên, ông cụ đi làm từ sớm tinh mơ cho đến chiều tối, công việc làm vườn vất vả lắm. Tôi nhớ những lần hai bô” con phải đi- lấy phân bắc, thầy tôi kéo xe bò đằng trước, áo ướt đẫm mồ hôi, tôi cặm cụi đẩy xe đằng sau, mùi phân gio hôi hám lắm, th ế mà ông cụ chẳng nề hà gi, tôi thấy thương ông cụ quá… Mỗi khi bình bầu xã viên, cụ luôn luôn được bầu là lao động xuất sắc, sau giờ làm việc cụ lại trở về nhà, tiếp tục chữa bệnh cho mọi người. Hiện nay trong nhà cụ vẫn còn giữ được bức chân dung ngày ấy. Cụ mặc bộ quần áo nâu, vai vác cuốc như một lão nông chi điền. Năm 1958, cụ tổ chức đám cưới cho bà Chuyên (Tuyên), người con gái lớn. Đến làm rể cụ là ông Nguyễn Văn Tiến, một cán bộ đã tham gia cách mạng, công tác tại Ban Kinh tài Trung ương. Sau này hai ông bà sinh được ba người con gái. Tháng 2 năm 1958 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sang thăm An Độ, và một năm sau đó, vào tháng 3 năm 1959, Tông thống Ân Độ Rajendra Prasad sang thăm nưốc Việt Nam dân chủ cộng hòa.

54

Chúng ta biết rằng vào ngày 26-1-1950, nước Cộng hòa Ân Độ chính thức được khai sinh. Quốc hội đã bầu tiến sỹ Rajendra Prasad làm tổng thông đẩu tiên của nước Ân Độ độc lập. Trong phái đoàn Ân Độ sang thăm Việt Nam năm đó có một vị khách đặc biệt, đó là một vị đạo sư “Đạo cao đức trọng”. Ân Độ là một nước lớn, có nền văn hóa lâu đời chứa đựng kho tàng minh triết của nhân loại và vị tổng thông đầu tiên của nước Cộng hòa nhân dân Ân Độ, tiến sĩ Rajendra Prasad đã thiết lập khoa P hật học tại trường đại học NewDelhi vào năm 1957. Trong khi một cuộc m ít-tinh lón dược tổ chức tại Quảng trường Ba Đình để chào mừng chuyến thăm Việt Nam của tổng thông Ân Độ Rajendra Prasad, thì vị đạo sư lại muôn đến thăm một nơi đền đài (temples) của Việt nam. Và ông được hưống dẫn đến thăm ngôi đền Trấn Vũ của Hà Nội. Đền Quán Thánh, tên chữ là Trấn Vũ Quán, có từ đời Lý Thái Tổ (1010 – 1028), thò Huyền Thiên Trấn Vũ, là một trong bôn vị thần được lập đền thò để trấn giữ bốn cửa ngõ thành Thăng Long khi xưa (Thăng Long tứ trấn). Bôn ngôi đền đó là: Đền Bạch Mã (trấn giữ phía Đông kinh thành); Đền Linh Lang (trấn giữ phía Tây kinh thành); Đền Cao Sơn (trấn giữ phía Nam kinh thành); Đền Trấn Vũ (trân giữ phía Bắc kinh thành). Đền Quán Thánh nằm bên cạnh Hồ Tây, khi xưa cổng tam quan của ngôi đền nằm sát ngay ven Hồ Tây, 55

với những bậc đá đi sát xuống mép nước ven hồ, thoảng mùi hương sen thơm ngát. Theo như sự tích được ghi chép ỏ đền thì Huyền Thiên Trấn Vũ là thần trấn quản phương Bắc đã nhiều lần giúp nước Việt đánh đuổi ngoại xâm. Lần thứ nhất vào đời Hùng Vương thứ 6, đánh giặc từ vùng biển tràn vào, lần thứ hai vào đời Hùng Vương thứ 7 đánh giặc Thạch Linh… Trong bản ghi chép còn có chi tiết Huyền Thiên Tran Vũ giúp dân thành Thăng Long trừ tà ma và yêu quái, giúp An Dương Vương trừ tinh gà trắng xây thành cổ Loa, diệt Hồ ly tinh trên sông Hồng đời Lý Thánh Tông.. Trong đền hiện còn lưu giữ một pho tượng thần Huyền Thiên Trấn Vũ được đúc bằng đồng đen vào năm Vĩnh Trị thứ 2 (1677), đời Lê Hy Tông. Tượng cao 3,96m, chu vi 8m, nặng 4 tấn tọa trên tảng đá cẩm thạch cao l,2m. Tượng có khuôn m ặt vuông chữ điền nghiêm nghị nhưng bình thản, hiền hậu với đôi mát nhìn thẳng, râu dài, tóc xoã không đội mũ, mặc áo đạo sĩ ngồi trên bệ đá vối hai bàn chân để trần. Bàn tay trái của tượng đưa lên ngang ngực bắt ấn thuyết pháp, bàn tay phải úp lên đốc kiếm, lưỡi kiếm chông trên lưng rùa nằm giữa hai bàn chân, quanh lưỡi kiếm có con rắn quấn từ dưối lên trên. Rùa, rắn và kiếm là biểu trưng của Huyền Thiên Trấn Vũ. Pho tượng là một công trình nghệ th u ật độc đáo, đánh dấu kỹ th u ật đúc đồng và tài nghệ của các nghệ nhân Việt Nam cách đây ba th ế kỷ. 56

Xung quanh ngôi đền, những cây muỗm cổ thụ đã có từ hàng trăm năm nay, tạo cho nơi đây một vẻ thâm u đầy linh thiêng. Sau khi thăm ngôi đền, và khi trỏ ra, vừa bưốc qua cổng thì vị đạo sư bỗng thấy một vầng hào quang sáng lòa phía trước, ông vội rảo bưỏc, làm người hướng dẫn cũng phải chạy theo. Ông Nguyễn Công Thịnh (Thanh), một người đã đi theo cụ Nguyễn Đức c ầ n từ những năm 1950, kể lại: Hôm đó, vào một ngày giữa mùa xuân năm 1959, tôi được đi theo cụ ra Hồ Tây (thi thoảng cụ vẫn ra Hồ Tây chơi, như sau này cụ thường nói vui là, tôi cũng phải đi nạp điện chứ). Lúc đó, cụ đang ngồi* tĩnh lặng ngắm cảnh sóng nước Tây hồ, còn tôi đứng ở phía sau, bỗng thấy một người Ân Độ đang bước tới. Ông ta chào tôi và hỏi có thể nói chuyện bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp. Tôi trả lời là chúng tôi có thể tiếp chuyện ngài bằng Pháp ngữ (ông Thịnh sinh ra ồ Hà Nội và thông thạo tiếng Pháp và Hán Nôm). Lúc này cụ cũng đã đứng lên để tiếp chuyện. Vị đạo sư đó tự giới thiệu là một người tu hành trong phái đoàn Ấn Độ sang thăm Việt Nam, và khi đứng trước cụ, ông ta mừng rỡ, nói như reo lên: J ‘ai déjà rencontré sauveur de rhum anité ici et (Tôi đã gặp vị cứu tinh đây rồi), và vị đạo sư kia định quỳ xuống thi lễ. Nhưng cụ đưa tay đõ lên và từ tôn nói: II ne le font pas, m aintenant, les

57

gens ne me comprennent pas (ông đừng làm như vậy, bây giờ người ta chưa hiểư tôi đâu). Rồi cụ chắp tay đáp lễ vị khách và nói: Eh bien, je dois y aller et il allait falloir trouver les bienvenus (Thôi, tôi phải về và ông sắp có người đến tìm đón rồi). Cụ còn nói thêm: Je predestine et il rencontrera également de retour (Tôi và ông có duyên sẽ còn gặp lại). Ông Thanh kể tiếp: Cụ và tôi vừa lên xe, đạp đi được một quãng ngắn, thì có mấy chiếc ô tổ con, đến đỗ xịch bên đường và người ta mời vị đạo sư kia lên xe trở về Phủ Chủ tịch. T hật là cuộc gặp gõ kỳ lạ bất ngờ và nhanh chóng quá, như trong một giấc mơ vậy. Năm 1967, cụ gả chồng cho người con gái thứ hai (bà Nguyễn Thị Sinh). Người con rể thứ hai của cụ là một chiến sỹ quân đội, ông Nguyễn Văn Ánh ỏ xóm Bến, làng Thanh Mai, huyện Thanh Oai, Hà Tây (cũ). Lấy nhau bốn năm mà vẫn chưa có con, hai vợ chồng ông Ánh lo lắng. Cụ dạy, có sức khỏe thì hãy xây dựng kinh tế cho tốt đi đã. Đến năm thứ sáu, hai vợ chồng ông Ánh đã có nhà cửa, vườn ao đàng hoàng, và sau đó họ sinh được bốn người con trai khỏe mạnh. Từ những năm 1970, khi đã hết tuổi lao động, cụ xin nghỉ không tham gia lao động trong hợp tác xã nữa, lúc này cụ dành nhiều thời gian để chữa bệnh giúp nhân dân, danh tiếng của cụ đã lan xa đến nhiều nơi, hàng ngày có đến hàng trăm người bệnh đến xin cụ chữa,

58

thậm chí có những ngày do quá đông khách, ban đêm người bệnh trải chiếu nằm ngoài cổng ngõ xóm để chờ xin cụ chữa bệnh. Tết Nhâm Tý 1972, có một bệnh nhân kính tặng cụ Nguyễn Đức c ầ n một bài thơ với một tấm lòng biết ơn sâu sắc: Tân xuân Nhâm T ỷ chúc hiền nhân Hưởng thọ cường khang t ế độ (lân Đ ạo đức thẩm nhuần bao kẻ tục Ngày ngày rộng mở mối thâm ân.

Một mùa xuân nữa lại đến, nhưng trong những năm tháng đó cuộc chiến tran h tại Việt Nam ngày càng thêm khốc liệt. Sau một thời gian tạm dừng, ngày 6 tháng 4 năm 1972, Mỹ tiếp tục cuộc chiến tran h phá hoại ỏ miền Bắc Việt Nam lần thứ 2. Tháng 10 năm 1972, máy bay Mỹ đánh phá ác liệt khu vực Hà Nội, Hải phòng. Sau khi Hội nghị Paris về Việt Nam bị bế tắc và đổ vỡ, từ 18 tháng 12 đến 30 tháng 12 năm 1972, Mỹ mỏ chiến dịch Linebacker II là chiến dịch quân sự CUỐI cùng của họ để chống lại nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hoa Kỳ tiến hành chiến dịch đánh bom lần cuối này với ý định “đưa miền Bắc trỏ về thời kỳ đồ đá”. Tại chiến dịch này, Mỹ đã sử dụng lực lượng không quân chiến lược với B52 làm nòng cốt, ném bom rải thảm huỷ diệt xuống Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên và các mục tiêu khác liên tục trong 12 ngày đêm. Đây là những cuộc ném bom dữ dội nhất trong chiến tranh Việt Nam. Trong 12 ngày, Mỹ đã 59

thả hơn 36.000 tấn bom, vượt quá khôi lượng bom đã ném trong toàn bộ thời kì từ 1969 đến 1971. Đêm 26 tháng 12 năm 1972, máy bay B52 đã bỏ bom rải thảm phô” Khâm Thiên, Hà Nội, làm chết 278 người, 2.000 ngôi nhà bị phá hủy. Ngôi nhà sô” 51 phô” Khâm Thiên chỉ còn là một hô” bom, bảy người ở trong ngôi nhà này không còn ai sông sót. Mảnh đất này trỏ thành một đài tưởng niệm với một tấm bia mang dòng chữ “Khâm Thiên khắc sâu căm thù giặc Mỹ” và một bức tượng bằng đồng tạc hình một phụ nữ bê” trên tay một đứa trẻ đã chết vì bom Mỹ, tượng được lây nguyên mẫu từ chính chủ nhân của ngôi nhà bị hủy diệt này. Cũng như nhiều người già và trẻ em của Hà Nội, trong thời gian chiến tranh phá hoại ác liệt năm đó, cụ đi sơ tán về các miền quê. Lúc đầu, cụ đến ỗ nhờ nhà ông bà Nguyễn Văn Nhâm (Sỏ) tại xóm Hồng, xã Khương Đình, ngoại thành Hà Nội. ô n g Nhâm kể lại: Ngày giặc Mỹ nó đang đánh phá Hà Nội lúc đó, cụ có về nhà tôi ỏ một thời gian. Bấy giờ hoàn cảnh nhà tôi vẫn còn nghèo, tuy vậy chúng tôi vẫn chu đáo cơm nước, chỗ ăn, chỗ ỏ của cụ. Ngày ấy, nhà tồi ở gần sông Tô, tôi có đào riêng cho cụ một cái hầm kiểu cồn cỏ, ỏ ngay gốc một bụi tre to, cứ báo động là tôi đưa cụ xuống hầm. Một thời gian sau, cụ lại sơ tán về làng Thanh Mai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (cũ). Ông Nguyễn Văn ảnh (chồng bà Sinh, con gái thứ hai của cụ) kể lại: Khi thầy tôi sơ tán về đây, lúc đó vợ chồng tôi mời cụ ở ngôi

60

nhà năm gian phía sau, trước nhà là một khu vườn rộng rãi trồng rau, phía sau nhà là con sông Đáy hiền hòa chảy qua. Nơi đây th ật’y ên tĩnh và an toàn. Biết tin cụ về nghỉ ỏ đây, nhiều người đã tìm đến thăm hỏi và xin cụ chữa bệnh. Khi nghe tin máy bay Mỹ bỏ bom rải thảm ở phô” Khâm Thiên, thì cụ lập tức trở ngay về nhà ở làng Đại Yên, Hà Nội. Cụ ra sân nhà xem tượng trời. Cụ nói: Thôi chết, nó định bỏ bom ỏ đây. Rồi cụ bảo, rồi mày sẽ rơi. Đêm 27 tháng 12 năm 1972, máy bay Mỹ tiếp tục điên cuồng bỏ bom bắn phá khu vực Hà Nội và một siêu pháo đài bay B52 của giặc Mỹ đã bị rơi. Chiếc B52D bùng cháy như một bó đuốc trên bầu trời khu vực làng Ngọc Hà, Đại Yên rồi rơi xuống, một phần của thân cánh của chiếc máy bay này rơi xuống đường Hoàng Hoa Thám và phần bụng của nó thì rơi xuống hồ Hữu Tiệp (nay vẫn còn là một di tích). Lạ thay, nhà dân trong làng san sát, nhưng các mảnh máy bay không rơi trúng vào nhà nào mà chỉ rơi xuống các ao hồ trong làng. Còn một điều th ậ t may mắn nữa là bao nhiêu quả bom rơi xuống khu vực làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp, không có một quả nào phát nổ. Chiến dịch ném bom trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 của Mỹ, tuy có gây những tổn th a t nặng nề cho phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhưng đã không làm thay đổi được lập trường của lãnh đạo nước ta về van đề cơ bản của hiệp định hoà bình, đồng thời nó gây một làn 61

sóng bất bình lớn của người Mỹ và dư luận các nước trên th ế giới, uy tín của chính phủ Hoa kỳ bị xuống thấp nghiêm trọng. Bị phản đốì trong nưốc, bị cô lập trên trường quốc tế, lực lượng không quân chiến lược của Mỹ bị thiệt hại lớn, tổng thống Richard Nixon đã phải ra lệnh chấm dứt chiến dịch vào ngày 30 tháng 12 năm 1972 và hội đàm lại để ký kết hiệp định. Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Paris đã được ký kết. Đó là hiệp định chấm dứt Chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam do 4 bên tham chiến: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, M ặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam và Việt Nam Cộng hòa. Ngày 29 tháng 3 năm 1973, quân nhân Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, chấm dứt mọi sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ đối với mảnh đất này. Đầu xuân năm Giáp Dần 1974, cụ đi du xuân Chùa Hương, cùng đi với cụ có hàng trăm người bệnh, những người chịu ơn và một sô” nhà khoa học. Chùa Hương hay Hương Sơn là một xã nằm ỏ phía nam huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây, nay thuộc Hà Nội, nằm ven bò phải sông Đáy và cách trung tâm Hà Nội chừng 70km về phía Tây Nam. Tại đây có nhiều dãy núi đá vôi kề bên những dòng suối uốn lượn quanh co. Trên núi và trong các hang động, người xưa đã xây dựng nhiều đền chùa mà trung tâm là chùa Hương trong động Hương Tích. Hệ thống chùa chiền, đền thờ và hang động nằm trong khu vực này dựa theo những ngọn núi 62

đá vôi và rừng nhiệt đới. Theo truyền thuyết, vùng núi có hang động này được tìm thấy cách đây hơn hai nghìn năm và đã được đặt tên Hương Sơn, lấy tên một ngọn núi ở phía Bắc Tuyết Sơn trong dãy Himalaya (Ân Độ), nơi đức P hật Thích Ca đã ngồi tu khổ hạnh suốt sáu năm ròng rã. Từ Bến Đục, khách đi bộ gần lkm sẽ đến bến Yến để lên thuyền xuôi theo một dòng suối có tên là suối Yến để đến bến Thiên Trù. Ngoài ra khách bộ hành có thể đi theo con đường bộ ven chân núi để vào chùa. Trên đường từ bến Yến vào bến Trò, khách thập phương thường xuống đò, vào lễ tại đền Trình có nghĩa là nơi “trình diện” với thần linh trước khi đến cõi Phật, trên núi Ngũ Nhạc. Đây là đền thờ một vị thần núi. Đền còn có tên Quan Lớn, thờ một bộ tướng của vua Hùng. Một điều làm mọi người cùng đi với cụ ngạc nhiên, khi một bác trong đoàn thưa với cụ cho đò dừng lại, để vào đền Trình thì cụ bảo: Cứ đi, không phải trình. Người ta thường nói, vui như đi trẩy hội. Thật đúng với khung cảnh ở nơi đất Phật này. Từng đoàn thuyền tấp nập ra vào trên dòng Yến quanh co, tiếng niệm Phật A Di Đà, mỗi khi đò vào lại gặp đò ra, tạo nên một không khí xốn xang náo nức. Ngồi trên đò xuôi theo dòng nưóc, trong tiết trời dịu nhẹ của mùa xuân với nắng vàng trải nhẹ, lòng người đi hội như cùng hòa với đất trời vào xuân. Trên dòng suôi Yến có một cây cầu gỗ bắc ngang qua, tên là cầu Hội. Từ chân cầu đi vào bên trái là lốì 63

vào chùa Thanh Sơn, cách đấy không xa đi qua một quãng ruộng dâu trong một thung lũng là đến chùa Hương Đài, ẩn trong một hang động nhỏ. Chùa Thiên Trù (có nghĩa là bếp Trời) là nơi tập trung của khách thập phương trước khi lên chùa Chính (động Hương Tích). Bên phải con đường này là lốĩ lên chùa Tiên Sơn. Theo sách Hương Sơn Thiên Trù thiên phủ thì chùa Hương được xây dựng từ đời Lê Huy Tông, niên hiệu Chính Hòa, (1680-1705). Bia tại chùa Thiên Trù có ghi rằng: Việc xây dựng nền đất, bậc đá và tôn tạo Kim Dung bảo điện của chùa được thực hiện vào năm 1686. Từ chùa Thiên Trù, theo đường núi quanh co đi khoảng hơn 2km thì đến chùa Hương còn gọi là chùa Trong. Chùa Hương Tích không phải là một công trình nhân tạo, mà là một động đá thiên nhiên. Đường xuống hang động gồm 120 bậc lát đá. Vách trước cửa động có năm chữ Đại tự (Nam thiên đệ nhất động) khắc năm 1770, là bút tích của Tĩnh Đô Vương – Trịnh Sâm (1767-1782). Khi dẫn đoàn vào đến cửa động Hương Tích, dừng bước trước cửa động, cụ nói: Hôm nay tôi đến thăm Bác. Rồi Cụ nói tiếp: Bây giờ, nước Việt Nam đã có chủ. Khi cụ dứt lòi, thì th ật lạ thay, các bát hương trong chùa bỗng bốc cháy đùng đùng. Tất cả những người có m ặt lúc đó đều nhất nhất chắp tay lễ Trời Phật, mà xuýt xoa vui mừng.

64

Cụ giảng giải: Ngài (Đức Phật Bà) vào đòi nhà Triệu, đã đến nưóc ta tu, trước Ngài tu tại động Tuyết Sơn, sau khi thành đạo thì Ngài mói sang động Hương Tích. Cụ giải thích: Vì Ngài xuống đời trước, nên ta gọi Ngài là Bác. Chuyến du xuân Chùa Hương của cụ năm đó, đi trong hai ngày. Buổi tốĩ hôm trước, đoàn nghỉ trọ tại quán Yến Hương gần bến Đục, để hôm sau vào chùa Tuyết Sơn. Khi nghe tin cụ nghỉ đêm tại đây, rất nhiều người nghe danh của cụ đã đến chào và xin cụ chữa bệnh. Sáng sớm hôm sau, đoàn lên đường vào chùa Tuyết Sơn. Từ bến đò thôn Phú Yên đi bằng đường thuỷ tới chùa Bảo Đài khoảng 1500m. Dòng suối Tuvết Sơn trong xanh chảy giữa một vùng đầm lầy, một bên là những quả núi với nhiều hình thù kỳ thú: Núi Thuyền Rồng, núi Chim Phượng Hoàng, núi Ba Toà… Còn một bên là cánh đồng lúa mênh mông nước với những gò nấm thiên nhiên xanh mướt cỏ cây. T hật là sơn thủy hữu tình, một vùng non nưốc bao la, động ồ trên th ế cao lưng chừng núi, con đò nhỏ nhẹ đưa mái chèo, ngồi trên thuyền ngắm nhìn cảnh trí nơi đây th ậ t nên thơ. Bỗi vậy Phan Huy Chú từng viết: Tuyết Sơn ở huyện Hoài An, có nhiều lớp núi cao, trong núi có hang động rất đẹp… Sau khi đến bến Tuyết Sơn, khách thập phương vào lễ chùa Bảo Đài. Trong chùa còn giữ được một pho tượng Cửu Long bằng đồng rấ t đẹp. Từ chùa Bảo Đài, theo một con đường nhỏ bên rừng 111Ơ để đẹn chùa Tuyết, 65

trong Ngọc Long động. Nơi đây, vào năm 1770, chúa Trịnh Sâm có làm bài thơ Đăng Tuyết sơn hữu hứng. Trên cửa động Tuyết Sơn có khắc ba chữ Nôm “Ngọc Long động”, trong động chia thành hai nhánh động nhỏ, một nhánh động là nơi Tam bảo thờ Phật, bên cạnh có khôi thạch nhũ gọi là cây trường tuyết, trong vách đá có bức tượng phù điêu tạc bà chúa Ngọc Hương, nhánh động bên là điện thờ Mẫu. Động Tuyết Sơn tuy nhỏ hơn động Hương Tích, nhưng có nhiều nhũ đá đẹp, theo Phan Huy Chú: Có chỗ quấn quýt như một ổ rồng, vì vậy người ta đặt tên cho động Tuyết Sơn là “Ngọc Long động”. Đứng bên ngoài của động, khách thập phương ngước nhìn lên quả núi gần đó, thấy trên đỉnh núi có pho tượng P hật Bà bằng đá xếp tự nhiên, lại có những cây thông mọc từng hàng quấn quýt, như một cái tán che đầu. Cảnh trí thật lạ lùng mà tạo hóa đã khéo bày đặt nên. Trên đường trở ra, mưa xuân đang phơ phất bay, bất chợt, cả đoàn người đi du xuân thấy một kẻ ăn mày, quần áo rách rưới đang nằm lê lết trên vũng bùn ven đường, ngửa chiếc nón rách, miệng van xin tiền khách qua đường. Thấy cảnh ngộ khốn khổ của người kia, một bác trong đoàn chạy đến xin trình cụ, để quyên góp tiền giúp đỡ. Nhưng cụ lặng yên không đáp, mà cứ đi thẳng. Khi đoàn người đi qua mà không thấy có ai cho tiền, đột

66

nhiên con ngưòi tưởng như tậ t nguyền kia bỗng vùng dậy vung tay, chửi bối om xòm. Hóa ra hắn chẳng ốm đau, tậ t nguyền gì, mà chỉ giả vờ đóng kịch để lừa dối người đời. Mọi người lúc đó mới vỡ lẽ tại sao lúc trước cụ lại không nói gì. T hật đúng là “Vải thưa không che được m ắt Thánh”. Đi được một quãng xa, chợt cụ dừng chân, chỉ một cháu bé gái đang bán rau ven đường và nói: Con người này mối th ậ t đáng thương. Nghe vậy, mọi người dừng lại xúm vào hỏi thăm và chẳng mấy chốc đã mua hết rổ rau sắng. Cháu gái nhỏ cho biết, cháu còn đang đi học, nhưng mẹ cháu bị ốm, cháu tran h th ủ đem rau đi bán để đõ tiền cho cha mẹ. Mấy bà chậm chân đến muộn, nên rau đã hết, nhưng cũng bỏ tiền vào trong rổ. Thấy vậy, cô bé n h ặt tiền rồi trả lại và nói rằng: Cháu đi bán rau, chứ không đi ăn xin, các bà cầm lại tiền đi ạ. Mấy người kia cầm lại tiền và bảo với nhau rằng, con bé này đến dại. Ôi! Ngưòi lớn chúng ta, nhiều người vẫn tưỏng rằng mình là khôn. Đầu năm 1974, được phép của ủ y ban Khoa học Nhà nước, ông Nguyễn Phúc Giác Hải, cán bộ nghiên cứu sinh vật học đã đến Đại Yên gặp cụ để nghiên cứu phương pháp chữa bệnh của cụ. Ông đã tiếp cận cụ và được cụ cho phép gặp gỡ, phỏng vấn các bệnh nhân đã được cụ chữa khỏi. Ngày 26 tháng 4 năm 1974, ông Nguyễn Phúc Giác

67

Hải đã báo cáo trình bày vấn đề này theo yêu cầu của Bộ Công an. Ngày 30 tháng 4 năm 1974 có thể gọi là ngày đánh dấu của Khoa học ngoại cảm ở Việt Nam, các cơ quan chức năng đã tiến hành quay phim hai ca chữa bệnh của cụ, các bác sỹ phản biện đã phát biếu, công nhận việc chữa bệnh của cụ đã có kết quả ban đầu. Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương đã phát biểu: Cụ Nguyễn Đức cần có một khả năng kỳ diệu và phương pháp chữa bệnh hoàn toàn mới và rất thần tình, mặc dầu chưa giải thích được, là một tồn tại khách quan, không thể phủ nhận được. Nhưng sau đó giới y tế cho rằng việc chữa bệnh này là tự kỷ ám thị, người bệnh khỏi là do ngấm thuốc. Họ đòi hỏi cụ muốn chữa bệnh phải có giấy phép, mà không biết cơ quan nào đứng ra cấp cho cụ giấy phép này. Ngày 18 tháng 5 năm 1974, sỏ Y tế Hà Nội đã ra thông báo về việc chữa bệnh của cụ, và cho rằng phương pháp chữa bệnh đó là lừa bịp, mê tín dị đoan. Ngày 19 tháng 5 năm 1974 đã xảy ra một sự kiện: Một người bệnh đã bị chết trước cổng nhà cụ (sô” nhà 86 làng Đại Yên – Hà Nội). Chị Nguyễn Thị Lê, con gái út của cụ, kể lại: Hôm trưốc, tôi đang làm việc tại Đài Phát thanh Hà Nội, thì nghe thông báo của Sỗ Y tế Hà Nội nói về cụ, tôi xin nghỉ phép về nghỉ ở nhà, còn ông cụ đã đi chơi trước đó mấy hôm. Trước khi đi, cụ tôi có dặn là không tiếp khách, không mồ cửa cho bất kỳ ai vào nhà “Nội bất 68

xuất, ngoại bất nhập”. Khoảng 9-10 giờ sáng ngày 19 tháng 5, có một ngưòi chị đưa cô em bị bệnh xơ gan cổ trướng, bụng rất to đến nằm ngay ỏ cổng nhà tôi, nhưng nhà tôi đóng cổng. Không hiểu sao họ lại biết tên tôi, họ gọi: Cô Lê ơi! Cô Lê ơi. Nhớ lời cụ dặn mấy hôm trước, tôi không dám mỏ cửa. Sau đó tôi ra mấy chục lần xem sao, vẫn thấy người đó nằm ngoài cổng nhà, tôi rất thương. Người phụ nữ đó nằm từ sáng đến khoảng 10 giờ đêm thì chết. Sau đó cán bộ y tế tiến hành khám nghiệm, lập biên bản. Tôi yêu cầu họ ghi lại lời ông chồng người bệnh là ông cụ chưa nhận chữa lần nào, và người bệnh chết bên ngoài cổng nhà tôi. Do vậy, việc ngưòi bệnh nhân bị chết đó không có liên quan gì đến gia đình và cụ Nguyễn Đức cần. Sau này, khi nhắc đến sự kiện ngày 19 tháng 5 năm 1974, cụ Nguyễn Đức cần nói rằng, ngay trước khi có thông báo cấm chữa bệnh của Sồ Y tế Hà Nội, Cụ đã không nhận chữa bệnh và đã đi chơi xa. Trong thời kỳ khó khăn đó, cụ cũng nhận được sự giúp đỡ của rất nhiều người, trong đó có cả những vị lãnh đạo cao cấp của ngành công an như trung tướng Phạm Kiệt, thiếu tưóng Mai Văn Mạc, gia đình cụ Khuất Duy Tiến… Cùng trong năm 1974, trung tướng Phạm Kiệt, thứ trưỏng thứ nhất Bộ Công an đã viết một bức thư gửi đến các cơ quan liên quan và một bức thư cảm ơn cụ Nguyễn

69

Đức Cần. Kính gửi Cụ Trưởng cần Trong thời gian cụ còn được chữa bệnh, tôi có đến với cụ một vài lần, tuy chưa được cụ chữa bệnh chính thức, nhưng một sô’ bệnh thần kinh như huyết áp được xuống, ngủ được, không phải dùng thuốc ngủ, đường ruột co bóp tốt hơn, còn bệnh chính thì thật ỉà nan giải. Nhưng sau đố cụ bị cấm, không được chữa bệnh, từ đố tôi không còn được cụ chữa bệnh, nhưng mỗi khi đến với cụ thì thấy trong người dễ chịu hơn. Bây giờ, điều mà tôi mong muốn là Bộ Y tế, sở Y tế Hà Nội, cơ quan khoa học Nhà nước với các đồng chí có chức trách nên nghiên cứu lại và để cho cụ được chữa bệnh cho đồng bào một sô’ bệnh mà khả nàng của cụ đảm đương được. Đó là điều làm tốt không có gì trở ngại theo sự hiểu biết cá nhân của tôi. Cuôĩ thư chúc cụ sức khỏe và mong sớm muộn có ngày cụ sẽ được chữa bệnh cho nhân dân là điều tốt nhất. Cảm ơn cụ. Ký tên – Phạm Kiệt Cụ nghỉ chữa bệnh và treo một chiếc biển trước cổng nhà “Không chữa bệnh, miễn vào”. Cụ đi chơi, đến thăm nhà các bệnh nhân. Gia đình mời cụ đến thăm đầu tiên là gia đình cụ Khuất Duy Tiến, nguyên Chủ tịch úy ban hành chính kháng chiến 70

thành phô” Hà Nội. Vào năm 1961 – 1962, cụ Tiến bị rối loạn thần kinh, hoàn toàn khộng thề làm việc được nữa. Đến năm 1973 gia đình biết đến cụ Nguyễn Đức cần và lên cụ để chữa. Từ đó cụ Tiến tỉnh táo, bắt đầu nhận biết được những người chung quanh. Sau đó, cụ Tiến lại bị năm cái gai đôi mọc ở gáy làm cho mất ngủ, đau đớn. Khi đưa cụ lên Đại Yên về, thì chỉ năm ngày sau năm gai đôi hoàn toàn biến đi, cụ Tiến đã ngủ được và khỏi bệnh. Chúng hãy trở lại những ngày hè nóng bỏng của năm 1974, qua một bản tường trình của một bệnh nhân mà chúng tôi xin trích dẫn dưới đây: Kính thưa cụ. Trong quá trình của những ngày cụ đi chơi vắng nhà, một hôm cố bốn người (một nam và ba nữ) với danh nghĩa là cán bộ Nhà nước, tự giới thiệu là bác sĩ Nguyễn Văn Minh ở phòng Y tế khu Ba Đình. Họ nói: Chúng tôi muốn được xem một số bức thư của bệnh nhân đã được chữa khỏi bệnh viết th ư cảm ơn. Sau họ nói, cho mượn về xem, ngày mai sẽ trả lại ngay, vi ở đây xem không hết được. Con lúc ấy do nhẹ dạ, quá tin người, nên đã tự tiện đưa hơn mười cái thư và quyển viết của anh Nguyễn Hoàng Phương cho họ mang về, họ đưa lại cho con một giấy biên nhận ký tên là bác sĩ Nguyễn Văn Minh ở phòng Y tế khu Ba Đình… Ngay sau đó, con đã thấy nghi ngờ. Nhưng đã trót

71

đưa cho họ rồi, con đành ngóng chờ xem ngày mai, họ có đem trả lại không. Ngày tháng và hàng năm trôi qua, đến nay, họ cũng không đem trả lại. Con đã viết thư qua hưu điện để đòi, nhưng người không thấy lại… có lẽ không có ai tên là bác sĩ Nguyễn Văn Minh, rKính thưa cụ. Sau việc làm sai trái trên, đã có rất nhiều sự không hay và nguy hiểm đến với con… Chúng tôi được biết rằng, sau khi có những bức thư cảm ơn trên, người ta tiến hành đến từng địa chỉ trong thư, gây sức ép, để những người bệnh này không cỉám nói đúng sự thật… Ngày 16 tháng 6 năm 1974 trên một tờ báo dã đăng bài Về một chuyện chữa bệnh trái phép phỏng vấn bác sĩ Trịnh Văn Khiêm, giám đốc Sồ Y tế Hà Nội. Chúng tôi xin trich dẫn bài phỏng vấn:

VÊ MỘT CHUYÊN CHỮA BỆNH TRÁI PPIÉP L.T.S. Ngày 18- 5- 1974 s ở Y tế Hà Nội đã ra thông báo về việc chữa bệnh trái phép của ông Nguyền Đức cần, tức Trưởng cần ở 86A Đại Yên. Theo yêu cầu của một số bạn đọc, chúng tôi đã gập và phỏng vấn bác sĩ Trịnh Văn Khiêm , Giám đốc s ở Y tế Hà Nội, đ ể tìm hiểu rõ hơn về chuyện này.

72

Hỏiĩ Xin đồng chí cho biết cái mà ông Nguyễn Đức Cần gọi là “chữa bệnh” là như thế nào? Trả lời: Qua lời kể của nhiều bệnh nhân và những người được xem ông cần “biểu diễn” chữa bệnh thì cách chữa chủ yếu gồm mấy điểm sau: 1. Ông Cần chữa bệnh không cần khám bệnh để đi đến chẩn đoán trước khi chữa. Nhiều trường hợp bệnh nhân không cần đến nhà ông, mà chỉ cần người nhà đến kể bệnh, thậm chí bệnh nhân ỏ xa chỉ viết thư kể bệnh xin chữa cũng được. 2. Ông Cần nhận người bệnh để chữa qua người giới thiệu hoặc qua những bệnh nhân đang được chữa bệnh giới thiệu… 3. Ông Cần chữa bệnh không dùng bất kỳ loại thuốc gì. Động tác chữa bệnh chỉ là nhìn trực tiếp vào bệnh nhân, đồng thời đưa tay bắt ấn, bắt quyết… phần lớn người bệnh được ông cần đưa cho một “đạo”, tức là một mảnh giây, kích thước bằng bao diêm. Bệnh nhân sẽ dán đạo lên chỗ đau hoặc đeo vào người, đặt dưới gốì hoặc đốt lên trong phòng bệnh nhân.Vói bệnh nhân ở xa, ông Cẩn gửi “đạo” cho họ qua người nhà. 4. Những người được giới thiệu đến chữa bệnh đều được căn dặn phải tuyệt đôi tin tưởng và kiên trì… Tóm lại, cách thức chữa bệnh như thế chỉ có thể gọi là cách làm ăn của một thầy cúng hay thầy phù thuỷ. Hỏi: Vối cách thức “chữa bệnh” nhự vậy, ngành y tế đã kiểm tra chưa và thấy kết quả ra sao? 73

Trả lời: Chúng tôi chưa có điều kiện thông kê và đánh giá kết quả ở tất cả những bệnh nhân đã được ông Cần chữa, nhưng chúng tôi khảo sát khoảng 20 trưòng hợp mà những người môi giới cho là thành công nhất. Những trường hợp này chia làm 5 loại: 1. Đầu tiên là hai trường hợp bệnh kết tóc và bệnh bại liệt mà ông Cần đã chữa biểu diễn trước một sô”người. 2. Một sô” trường hợp khác… trong khi bệnh nhân chờ đợi kết luận chính xác của bệnh viện, đã tranh thủ đến nhờ ông cần chữa… 3. Một sô” trường hợp là những bệnh nhân sau một thời gian đVíỢc điều trị nội trú trong bệnh viện vẫn đang tiếp tục chữa ngoại trú và đang tiến triển tô”t, thì lại đi tìm đến ông cần và đã gắn mọi kết quả chữa bệnh từ trước ỗ bệnh viện cho ông cần. 4. Một sô” trường hợp bệnh nhân có bệnh thực thể kèm theo các triệu chứng chức năng, sau khi được ông Cần chữa, cảm thấy có tiến bộ về mặt chức năng (như thấy thoải mái, ăn ngủ được…) 5. Trong một sô” trường hợp, cách làm của ông cần có thể có tác dụng tạm thời đôi với một sô” bệnh chức năng đơn thuần như suy nhược thần kinh, rối loạn thần kinh chức năng, hysteria… Hỏi: Xin đồng chí cho biết những nhận định, kết luận khái quát đã dẫn đến quyết định của sở Y tê” câ”m ông Cần hành nghề. 74

Trả lời: Như đã nói ỏ trên, cách chữa bệnh của ông Cần có thể có một sô” kết quả nhất định đốì với các bệnh chức năng như rối loạn thần kinh, hysteria, nhức đầu… Những kết quả đó- nếu có là do ông cần đã gây một tác động tâm lý mạnh đốỉ với người bệnh và gia đình… Có người nói ông cần chữa bệnh bằng thôi miên… theo nhận định của các bác sĩ chuyên khoa tâm thần, thì ông Cần không phải chữa bằng thôi miên.. Có người nói ông cần chữa bệnh bằng điện sinh học… cũng có người nói rằng dòng điện của ông cần không phải là dòng điện sinh vật mà là một dạng năng lượng sinh vật dặc biệt… thực ra đây chỉ là một giả thiết. Về những “đạo” của ông cần, chúng tôi đã đề nghị Bộ Y tế cho đơn vị nghiên cứu phóng xạ để đo hoạt tính phóng xạ, nhưng hoàn toàn không có gì. Còn về pháp lý thì rõ ràng ông Nguyễn Đức cần không có đăng ký hành nghề, ông cũng tự nhận mình không phải thầy thuốc. Vì vậy, Bộ Y tế rất nhất trí với chúng tôi khi chúng tôi ra thông báo cấm ông Nguyễn Đức cần hành nghề. Cụ Nguyễn Đức c ầ n có nói rằng: Nếu Nhà nước công nhận và đồng ý cho cụ chữa bệnh cho nhân dân thì chỉ cần mỗi khu phố cho cụ một chỗ hay một gốc cây củng được, cụ sẽ đến đấy chữa bệnh cho nhân dân không thu tiền của ai cả. Nhưng đáng tiếc rằng sự việc đã không như lòng cụ mong muốn. Sau một thời gian đi xa nhà, một ngày mùa thu năm 75

1974, cụ lại trở về ngôi nhà 86 làng Đại Yên, Hà Nội. Nghe tin này, nhiều người chịu ơn, những bệnh nhân của cụ đến thăm hỏi, với biết bao ân tình càng thêm sâu nặng. Trong thời gian cụ đi vắng, có hàng trăm lá thư gửi đến nhà cụ, vói điều mong muôn thiết tha xin được cụ chữa bệnh. Chúng tôi xin giới thiệu bức thư của nhạc sỹ Thuận Yến gửi tới cụ Nguyễn Đức cần, trong những ngày hè nóng bỏng năm 1974. Kính gửi Bác Trưởng c ầ n Ị Ngày mai cháu sẽ đến nhà bác mong được gặp bác và được bác thương đến một chiến sỹ giải phóng quân miền Nam đang học tập tại thủ đô Hà Nội, nghĩ đến việc được gặp bác, lòng cháu đã thấy tràn ngập niềm vui, nhưng dạ vẫn băn khoăn là ngày mai có may mắn được gặp bác không. Thế rồi cháu tự trả lời là khó lắm! Không được đâuỉ Vỉ hiện nay bấc đang bận việc, mọi người yêu mến bác đến quấy rầy bác. Vì vậy mà cháu quyết định viết thư này, phòng khi không gặp bác thì có sẵn lá thư gửi bác, mong bác bỏ chút thì giờ xem qua lá thư này, cháu sung sướng vô cùng. Bác Cần ạ, từ lâu cháu đâu có hề biết ở làng Ngọc Hà có một người thầy thuốc tài giỏi và nhân đức như vậy. Sau ngày 1 tháng 5 năm 1974, nhờ có anh Hồ Phương, nhà văn quân đội có con đến chữa bệnh tại nhà

76

bác kể lại, cháu mới biết ten tuổi của bác và cháu rất xúc động khi nghe nói đến tấm lòng nhân hậu của bác… Mỗi khi kể chuyện ưề bác trong lòng cháu dấy lên một niềm kiêu hãnh và tự hào. Đất nước tổ tiên Việt Nam đã sản sinh ra người thầy thuốc đẹp đẽ như vậy. Bác Cần, những lời cháu nối về bác trên, xuất phát từ đáy lòng, từ tình cảm chấn thành của một đứa cháu quê ở xã Xuyên Trường, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam xa xôi, nay đang học tập tại trường Ảm nhạc Việt Nam, Hà Nội. Vợ cháu củng là một chiến sỹ giải phóng quân, vì yếu sức khỏe, bị bệnh nặng nên phải ra Bắc công tác, hiện nay công tác tại Đài Tiếng nói Việt Nam, chỗ ở của chúng cháu và hai con nhỏ tại khu tập thể Văn công Quân đội, Mai Dịch, Từ Liêm, Hà Nội. Chắc bác không có thì giờ xem thư dài, cháu xin phép trình bày với bác về bệnh tật của cháu như sau: Năm 1967 trên đường vào Nam cùng với vợ, cháu bị thương vì tai nạn ô tô đâm nhau, may quá cả hai vợ chồng chỉ bị thương thôi, cháu thì bị chấn thương ở ngực bên phải, sau đó vào nằm viện 4, hai mươi ngày, tạm đỡ lại tiếp tục vào Nam, mãi đến năm 1971 cháu được về Hà Nội. Đến giữa năm 1973 thì được về trường Ẩm nhạc Việt Nam học tập. Đến giữa năm 1973 thì chỗ bị thương (năm 1967) tái phát, bắt đầu đau dây thần kinh liên sườn. Hiện nay thì chấu đang ở tình trạng nặng hơn,

77

đau cả vùng ngực, đau ra sau lưng, nằm ngửa không được’, thở mạnh củng đau, với tay lên quá đầu củng đau. Vì vậy mà ngủ chang được, người gầy đi nhiều. Trong lúc đó thì vợ cháu củng vỉ hoạt động ở chiến trường miền Nam gian khổ, ngủ hầm ẩm thấp, khí hậu lạnh lẽo mà sinh ra đau khớp, biến chứng tim. Bệnh của cô ấy hiện nay rất nặng, bị hẹp van 2 lá, leo cầu thang bị mệt, bị choáng. Tình hình gia đình chấu thật bi đát như vậy đấy, nên cháu thiết tha mong bác thương đến, cho cháu được gặp Bác, để xin bác một đạo về chữa bệnh thần kinh liên sườn. Nếu bác vui lòng chữa bệnh cho cả vợ cháu nữa, thì cháu mang ơn bấc nhiều. Chắc là không gặp được bác nên cháu viết thư này mong bác trả lời cho. Cháu đã đề sẵn địa chỉ trên bì thư, chỉ cần bác vui lòng cho phép gặp bác, cháu không dám viết dài hơn nữa sợ làm mất thì giờ vàng ngọc của bác. Cháu mong bác thương đến một chiến sỹ giải phóng quân miền Nam đang ở tại khu Văn công Quân đội Mai Dịch, Từ Liêm, Hà Nội (nhà số 3 tính từ bên trái sang, tầng 1, ngôi nhà ba tầng số2). Cuối cùng, cháu kính chúc bấc khỏe, sống lâu cho chúng cháu được nhờ. Sau này, khi nhắc lại những ngày tháng khó khăn đó, cụ Nguyễn Đức cần nói: Tôi làm việc vì lẽ phải, dân người ta ôm đau, thì tôi giúp. Chính vì thế không có gi ngăn được lòng dân đến với cụ.

78

Từ đầu tháng 4 năm 1975, quân dân ta tiến công trong mùa xuân lịch sử vói khí thế thần tốc, bất ngờ, táo bạo và chắc thắng. Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975, các hướng tấn công của đại quân ta đều nhắm tói Sài Gòn, nơi tập trung các cơ quan đầu não của ngụy quyền. Giờ phút lịch sử của dân tộc ta đang bước vào một trang mói: Kỷ nguyên của đất nước độc lập thông nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong buổi sáng lịch sử đó, cụ đã bảo anh Lê Quang, một bệnh nhân đang có mặt tại nhà cụ: “Chú hãy treo cờ Tổ quốc lên, mừng cho non sông liền một dải”. Nhìn lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong rực rỡ nắng vàng, nét mặt cụ rạng ngời xúc động. Có lẽ đây là một trong những lá cờ Tổ quốc được treo lên sớm nhất ở Thủ đô Hà Nội, trong niềm vui chiến thắng của dân tộc ta, kết thúc vẻ vang quá trình 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (1945 – 1975). Từ những năm 1980 trở đi, công việc chữa bệnh giúp dân của cụ có nhiều thuận lợi hơn. Nhiều người đến xin cụ chữa bệnh, có cả những cán bộ cao cấp trong trung ương, các tướng lĩnh trong quân đội, công an, các văn nghệ sỹ, các bậc lão thành cách’ mạng và đông đảo bà con nhân dân lao động. Ngày 27 tháng 6 năm 1982, phóng viên Minh Đăng Khánh, báo Sài Gòti giải phóng, phỏng vấn cụ Nguyễn Đức Cần tại Đại Yên. Trong buổi phỏng vân, cụ đã nhấn mạnh: “Đức là gốc của con người. Nếu anh sửa mình được thì dù nghèo 79

cũng không khổ. Giàu mà cái gốc không còn, đức hết, anh khổ cũng là tại anh”. Cuối cuộc phỏng vấn cụ nói: “Tôi chữa bệnh không lấy tiền, như vậy tôi đã làm lợi cho dân. Đó là điều làm tôi sung sướng. Tôi chỉ muôn mọi người có cơm no, áo ấm, không bị ôm đau, thế thôi”. Cụ Nguyễn Đức cần đã từng nói rằng: Chính tu là cái đức của mình, biết thương người, mình chịu khổ thì mới thương người, còn mình sưống thì biết thương ai. Nói đức mà chỉ nói cái mồm, thì ai chả nói được. Cho nên thương thật thì ít lắm. Nhạc sỹ Tu My Đỗ Mạnh Cường khi viết xong bài hát Giọt nước mắt để tặng cụ đã kể lại rằng, khi lên cụ, ông đã chứng kiến bao câu chuyện cảm động về tình thương của cụ đối với những người bệnh, những người nghèo khổ đã trải qua bao tháng năm ốm đau hoạn nạn, nay được cụ chữa khỏi những căn bệnh nan y, không biết lấy gì tạ ơn, dành dụm được ít tiền mua chút quà nhỏ để mang lên biếu cụ, có khi chỉ là miếng ăn hàng ngày như một vài bìa đậu phụ hay một miếng chả, nhưng cụ nhất qu}’ết không nhận. Cụ bảo: Ong nhận rồi, thôi mang về cho các con ăn. Chúng nó đang mong ỏ nhà. Lại một người nghèo khác, khi được cụ chữa khỏi bệnh, chỉ mang lên biếu cụ một khúc sắn dây luộc, lần đó thì cụ nhận, nhưng bảo cắt ra chia cho mỗi người đang có mặt tại đó, mỗi người một miếng. Cụ bảo: Đây là cả tấm lòng của người ta. 80

Những giọt nước mắt đã tuôn rơi, tuôn rơi trên những khuôn mặt dịu hiền trưốc tình thương của cụ. Cuộc đời của họ nhờ có cụ cứu giúp, đã vượt qua những cơn hiểm nguy. Ông Đinh Văn Hợp ỗ Phúc Tân, Hà Nội kể: Tôi có người con bị ung thư, đầu năm 1972 cháu điều trị ở bệnh viện K, về nhà sáu tháng cháu lại bị đau ồ cạnh sườn. Cháu bị chướng bụng khó thở, ăn không tiêu và bụng ngày càng to thêm. Bệnh viện bảo cháu bị di căn chạy vào gan không chữa được nữa, chỉ chờ ngày một, ngày hai chứ không lâu, thèm gì cứ cho cháu ăn. Khi viện cho về nhà, gia đình họ hàng đều chán ngán, người khóc om sòm. Lúc ây bà con hàng xóm đến thăm, mách bảo lên cửa cụ, gia đình tôi lập tức lên ngay. Tối hôm đó 7 người anh em, bô” mẹ, họ hàng thuê một xe xích lô khiêng cháu vào tận nhà cụ. Không may tối hôm đó trời mưa như tầm như tã, mọi người đều ướt sũng. Còn cháu thì mê man không biết gì nữa. Thây cảnh tượng như thế, cụ rất thương và đã nhận lời cứu cháu. Từ đó cháu về dần dần tỉnh, mấy hôm sau bụng cháu dẹp hẳn đi, chân tay nhẹ nhõm, rồi cháu đã ăn được hai, ba lưng cơm. Nay cháu đã khỏe mạnh là nhờ lòng thương nhân đạo của cụ. Lệ tục là ngày rằm và ngày mồng một đầu tháng là ngày lễ Giời, lễ Phật, nên gia đình không biết lây gì đền đáp công lao của cụ. Nhưng cụ không cho mang lễ bái gì cả. Vậy vợ tôi nghĩ, lòng thành mua thẻ hương rồi nhét 81

20 đồng vào thẻ hương. Đến sáng ngày 16, cụ thấy trong thẻ hương có tiền, bèn đi ra chỗ Cột đồng hồ (phô” Trần Nhật Duật) đón tôi đi lam dể cụ giao trả. Cụ đã mất công đi như thế mà không gặp. Cụ phải nhờ một người ỏ phô” Mã Mây đem xuống tận nhà trả lại, cụ viết thư bảo: Nhà nghèo, tiền ấy đế mua thêm thức ăn bồi dưỡng cho cháu, cụ thương những người nghèo, cụ chữa giúp, nhưng cô”t phải có đạo đức. Một gia đình ở phô” Hàng Trông, khu phô” Hoàn Kiếm, Hà Nội kể: Hồi tháng 8 năm 1979, cháu trai lớn của gia đình tôi da bị vàng úa, sau dần da cháu bị bạc trắng, môi nhợt, cháu chuyển từ bệnh viện Hai Bà Trưng đến bệnh viện Xanh Pôn nhưng bệnh tình không đỡ mà ngày một thêm nặng, chân tay bị phù, mắt nặng, bụng to rắn như đá, gia đình khóc lóc van xin các bác sỹ cứu chữa cho cháu. Các bác sỹ chuyên khoa cho biết là cháu bị bệnh máu trắng, rất ít hy vọng. Gần Tết Nguyên Đán gia đình đưa cháu lên Đại Yên, ăn mày cửa cụ. Cụ dặn: Cứ về đi, cụ thương, cụ sẽ giúp. Sau khi cháu về nhà mấy tiếng đồng hồ, chân tay cháu deo cả lại, mặt đã bớt nặng. Hôm sau gia đình lại lên xin cụ, cụ bảo rằng: Cứ về đi, tôi sẽ giúp cháu khỏi hẳn. Quả nhiên, đến Tết thì cháu khỏi hẳn phù, bụng mềm lại, da dẻ mặt mày hồng hào. Cụ chữa bệnh thật như thần thoại, không cúng bái, tiền nong không mat một đồng mà cháu đã khỏi bệnh hiểm nghèo. Thật là mang ơn cụ suốt đời.

82

Có bài thơ ca ngợi rằng: Quất tĩnh trùng lâm thế Nam thiên xuất Dị nhân Huyền công tham tạo hóa Trước thủ tiện thành xuán.

Dịch nghĩa: Thày hay cùng xuống ỏ đời Trời Nam nay mới sinh thời Dị nhân Huyền công tạo hóa dự phân Động tay tức khắc bệnh lành phút giây.

Ngày 13 tháng 8 năm 1982, nhạc sỹ Tu My – Đỗ Mạnh Cường, sáng tác bài hát Sao rực sáng làng hoa kính tặng cụ. Sự nghiệp của nhạc sỹ Tu My gồm có một sô”bản nhạc tình lãng mạn, một thời đã được công chúng biết đến và yêu thích như Nhạc lòng, Chia Ly, Hận tình hay Tan tác (trước năm 1954)… cùng một sô” bài ca ngợi quê hương như Hà Nội 55, Uống nước nhớ nguồn, Thư gửi miền Nam, Nhắn bạn phương Nam, Phạm Ngọc Đa, Nguyễn Đỗ Hùng… Nhưng là người giảng dạy nhiều năm tại nhiều trường phổ thông, dàn dựng các chương trình biểu diễn âm nhạc trong các hoạt động văn hóa văn nghệ, cho nên ông sáng tác nhiều ca khúc thiếu nhi, như Bài ca gia đình, Ông thân yêu, Học vỉ ngày mai, Bông sen trắng… Là một nhạc công tài hoa, biết biểu diễn nhiều nhạc cụ như accordeon, piano, guitare,

83

violon, saxo alto, flute… ông đóng góp rất nhiều vào phong trào âm nhạc quần chúng tại Hà Nội. Gia đình ông Tu My trước đây ỏ tại số 20 phố Nguyễn Văn Tô”, Hà Nội. Ông Tu My bị bệnh tim (rốĩ loạn nhịp tim), ông lên Đại Yên xin cụ Nguyễn Đức cần chữa bệnh. Ông thường “khoe” với mọi người về tò giấy (đạo) của cụ cho mà ông luôn đeo ỏ trong ngực áo. Từ ngày gặp cụ, trái tim ông đã trở lại khỏe mạnh với nhịp đập bình thường. Rung cảm trước tài năng và đức độ của cụ, nhạc sỹ đã sáng tác nhiều bài hát để kính tặng cụ, như: Sao rực sáng làng hoa, Ông thân yêu, Du xuân, Vườn ngọc nở hoa, Giơ tay lên, Giọt nước mắt… Ngày 2 tháng 9 năm 1982, luật sư Đỗ Xuân sảng, một trí thức có tiếng ở Hà Nội cùng một sô” phóng viên Thông tấn xã lên Đại Yên thăm cụ. Họ rất ngạc nhiên khi thấy vào đúng ngày rằm tháng bảy, mà trên nhà cụ không thấy làm lễ cúng bái gì cả. Sau khi tiếp chuyện cụ, các vị khách ngỏ lời xin được chụp ảnh chung cùng với cụ. Lúc đầu cụ cảm ơn và nhẹ nhàng từ chối, sau mọi người cứ nằn nì mãi. Cụ bảo: Thôi được, tùy các ông thôi. Thê” là hai phóng viên thi nhau trổ tài chụp lia lịa. Mấy ngày sau, có một người trong đoàn khách lên thưa chuyện vối cụ là lạ quá, không hiểu sao cả hai cuộn phim chụp cùng cụ hôm ấy, khi rửa thì lại trắng phớ, chẳng được ảnh nào. Cụ cưòi nói rằng: Hóa ra máy cũng bị mù à.

84

Đêm 30 Tết Quý Hợi năm 1983, như thưòng lệ, trên nhà cụ không khí đón Tết thật hân hoan náo nức. Cụ cho trồng trước nhà một cột pháo cao khoảng 4 – 5m, trong hai bồn hoa dưới tán hai cây vạn tuế trước sân nhà, nổi bật hai dòng chữ “Hạnh Phúc” được cắm bằng hàng trăm bông hoa cúc vàng tươi. Những bệnh nhân, người từ bốín phương nhưng yêu thương nhau như con cùng một mẹ, tụ họp về đây, chung quanh cụ và nghe cụ chúc Tết. Những đêm 30 Tết trước đó, đến đây có các bệnh nhân ở Hà Nội, rồi ở các tỉnh về, thậm chí có những người ở miền Nam ra, những người ỏ nước ngoài về, có những người theo đạo Thiên Chúa, những người theo Phật giáo, những nhà sư quần áo nâu sồng, có những sỹ quan quân đội, những văn nghệ sỹ… tâ’t cả anh chị em bệnh nhân, những người chịu ơn cụ nhìn nhau với ánh mắt trìu mến và tất cả ngước mắt lên cụ và chờ đợi lời chúc Tết của cụ. Nhạc sỹ Tu My – Đỗ Mạnh Cường đã sáng tác nhiều bài hát để kính tặng cụ và các nghệ sỹ, những bệnh nhân cất cao tiếng hát chúc mừng cụ trong thời khắc thiêng liêng của giao thừa sắp đến. Có thể nói, ở Việt Nam mình, cũng như ở trên khắp thế giới không có một nơi nào có một phong tục đẹp, đặc biệt như thế. Nó biểu hiện lòng biết ơn của bệnh nhân, tình thương yêu giữa những ngựợi bệnh, lòng biết ơn đồi với vị Thầy đã cứu, chữa bệnh cho mình, cho gia đình mình.

85

Ngày mùng 8 Tết Quý Hợi, cụ tổ chức đi cìu xuân Đền Và, Sơn Tây, đi theo cụ có khoảng 500 bệnh nhân, những người chịu ơn. Đền Và là nơi hàng năm cụ hay đến thăm và là ngôi đền thiêng liêng vối cư dân việt cổ đã hàng ngàn năm nay. Đền Và thuộc thôn Vân Gia (nguyên đọc theo âm chữ Hán là Vân Già), xã Trung Hưng, cách thị xã Sơn Tây chừng 2km, đền Và còn gọi là Đông Cung trong hệ thông tứ cung của xứ Đoài. Bắc Cung thuộc xã Tam Hồng, huyện Vĩnh Lạc, Vĩnh Phúc, Nam Cung thuộc xã Tản Lĩnh, Tây Cung thuộc xã Minh Quang, huyện Ba Vì, Hà Nội. Đền Và là nơi thờ Đức Thánh Tản, vị Thánh đứng đầu trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Ngài được dân ta tôn là Nam Thiên Thánh Tổ, là người anh hùng văn hoá sáng tạo trong tư duy nông nghiệp, người anh hùng trị thuỷ, biểu tượng của khốỉ đoàn kết dân tộc. Đền Và được Nhà nước Việt Nam xếp hạng là di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia năm 1964. Theo bia “Vân Già đông trấn cung ký” dựng ở đầu hồi hai bên nhà tiền tế ỗ đền năm Tự Đức thứ 36 (1883) thì đền Và đã có từ thời Việt Nam đang thuộc ách đô hộ của nhà Đường, lúc ây đền tuy nhỏ nhưng rất linh ứng. Trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo, trong đó có những lần trùng tu lớn vào năm 1884, năm Duy Tân thứ nhất 1907, đền được xây dựng theo quy mô như ngày nay. Đền Và là nơi thờ Đức Quốíc Mẫu (thân mẫu Thánh Tản Viên) và tam vị Đức Thánh Tản (gồm Thánh Tản 86

Viên và hai người em con chú là Cao Sơn, Quý Minh). Tản Viên, còn gọi là Sơn Tinh, là vị thần cai quản dãy núi Ba Vì (núi Tản Viên). Khi nói về sự tích câu chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh, cụ Nguyễn Đức cần nói rằng: Không bao giờ hai vị thần lại đi tranh nhau một người con gái. Sự tích Sơn Tinh dời non chặn dòng nước lũ hung dữ, thể hiện cuộc đấu tranh trị thủy của dân tộc ta thời mỏ cõi dựng nước. Từ đền Và đi theo một con đường nhỏ phía trưốc, trên cánh đồng lúa của thôn Đồng Nổi có một đàn cá trê đá, đã có từ hàng ngàn năm trước. Mùa xuân năm 1983 khi đi qua đây, chúng tôi vẫn còn thấy một con trê mẹ và đàn con trê con. Cụ bảo rằng: À, trời vẫn còn chê. Trong ngôn ngữ, người miền Bắc khi nói cá trê, ngưòi ta không uốn lưỡi chữ tr mà đọc như là ch. Cho nên chữ “trê” lại thành “chê” vậy. Đến nay (năm 2010) đàn cá trê đá đã lặn mất con trê mẹ và mấy con con, nay chỉ còn một con trê nhỏ. Nhớ lại năm xưa, cụ đã nói rằng, bao giờ cá trê (đá) đi hết, thì thế giói mới có thái bình. Trong chuyến du xuân hàng năm, sau khi đến lễ tại đền Và, cụ dẫn đoàn đến đền Ba Cây. Đền Ba Đai hay còn gọi là đền Ba Cây, nằm trên một quả đồi cao, thuộc địa phận thôn Yên Mỹ, xã Thanh Mỹ, cách thị xã Sơn 87

Tây chừng 4km. Quả đồi mà ngôi đền tọa lạc, trên đỉnh có hình thể ba vòng tròn như ba vòng đai nên gọi là Ba Đai. Thế đất như vậy, phong thủy gọi là “Đại hựu viên khâu”, đất lành có nhiều vượng khí. Theo ông Kiều Xuân Minh, người đang trông coi ngôi đền này, thì đền Ba Đai xưa gọi là đền Hoàng Anh và còn được gọi là đền Ba Cây. Nguyên trước đây trên đỉnh quả đồi này có mọc ba cây thông cổ thụ, sau quân Pháp đến đây chiếm đóng, tàn phá đốt cháy cả ba cây thông này. Xưa ỏ đây chỉ là một ngôi đền nhỏ, mái ngói rêu phong, bên ngoài có một căn bếp nhỏ lợp rơm rạ, sớm chiều khói lam lan tỏa. cửa ngôi đền nhìn về hướng đông, phía trên cửa đền có ghi bốn chữ “Anh Sơn Linh Từ” có nghĩa là ngôi đền thiêng trên núi cao. Đền Ba Đai là nơi thờ Thánh Mẫu. Từ xưa, người ta quan niệm rằng vạn vật trong vũ trụ này đều có Mẹ. Đó là cái lẽ tự nhiên của trời đất. Tôn vinh Mẹ (Mẫu) chính là một đạo lý của người Việt Nam ta. Khi xưa mỗi lần du xuân, cụ cùng hàng trăm bệnh nhân, những người chịu ơn lên đây, ngồi chật kín cả ba vành đai trên đỉnh quả đồi này, các anh chị em văn nghệ sỹ mang những tiếng đàn lời ca chúc tụng cụ và đón chào một mùa xuân mới, với bao tình yêu thương chan chứ . Đầu hè, đại tá không quân Lưu Huy Chao, anh hùng lực lượng vũ trang lần thứ hai đến xin cụ chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, anh hùng Lưu Huy Chao xin được chụp ảnh cùng cụ, trong bộ quân phục đại lễ. Đây l à bức ảnh CUỐI cùng cụ chụp với bệnh nhân. Anh hùng

88

Chao, nguyên là phi công MIC 17, đã bắn rơi 6 máy bay của không lực Hoa Kỳ. Ngày 21 tháng 6 năm 1983, sau một cơn giông nhỏ, cây trứng gà trong sân nhà cụ bị đổ nghiêng. Cụ nói: – Thế là hết, dạo này trong người tôi khác lắm. Tôi ngày 23 tháng 6, khi nằm nghỉ ỏ ngoài sân, cụ hỏi ông Tiến, con rể lớn của cụ: – Chú có thấy ngôi sao kia không? Ông Tiến trả lời: – Có, con thấy ngôi sao đó, mọi khi sáng lắm, sao mấy hôm nay trông không sáng mà lại có quầng bô” ạ, thế là thế nào hả bố? Cụ bảo: – Biết vậy, nó sẽ mất. Đấy rồi chú xem. Cụ hỏi: – Hồi ở Việt Bắc, chú có đi nhiều đền chùa không? Ông Tiến trả lời: – Con công tác ỗ miền núi nhiều năm, tất cả các đền chùa của 13 tỉnh miền núi, con đều vào lễ và thắp hương, có những ngôi đền ỏ sâu trong rừng, không ai dám vào, mà con vẫn vào lễ, có khi dấu chân hổ còn mới, mà con chẳng sợ gì. Cụ cười: – Anh này làm cách mạng mà cũng đi lễ, cũng lạ 89

thật. Chú đi lễ thế là tốt. Chú đã nghiên cứu nhiều sách, chú thấy đạo nào là tốt? Ông Tiến trả lời: – Con đã xem nhiều sách và nhiều quyển sử nói về các đạo, nhưng phần nhiều họ nói một đằng nhưng lại làm một nẻo. Sách thì con cho là hay, nhưng thực tế con lại thấy nó khác, mà ở nưốc ta không có môn đạo nào cả, mà toàn du nhập ở nước ngoài vào. Cụ nói: – Phải, ở nước ta thì không có đạo nào cả, toàn ỏ nước ngoài vào, như thế mà người đời tin. Đạo là đứng đắn, nhưng chủ yếu là cái tâm, cái đức của mình, tức là cái đầu mình không tham, không thù ghét ai, biết thương người. Ông Tiến hỏi: – Bô” ơi, với pháp đạo của bô”, tại sao lại không trị những người thất đức? Cụ nói: – Không được, khi tôi xuống núi, thầy tôi có dạy là không được thù ghét ai, nếu thù ghét người ta thì nguy hại lắm, lúc còn trẻ tôi có phi đạo một hai trường hợp, họ bị hại ghê gớm lắm, mà tôi đã phi đạo phạt họ, thì lại không cứu được họ. Cho nên mình làm việc công đức thì không được hại ai, mình phải chịu nhục thì mới tu được, mới cứu đời được. Đời tôi sống hơn 70 năm trời, chịu bao đau khổ, cay đắng đủ mọi thứ mà tôi vẫn chịu được để cứu đời. 90

Vào 14 giờ chiều ngày 24 tháng 6 năm 1983, một trận động đất mạnh 6,7 độ Richter, tâm chấn tại Tuần Giáo, làm rung chuyển cả thủ đô Hà Nội. Mấy ngày sau, cụ nói với mọi người: “ Tôi sẽ đi xa. Tôi sẽ về một nơi có cánh đồng rộng rãi, xung quanh có nhiều cây cốì và không xa (Hà Nội), ai vào cũng được. Mọi người không biết đó là những lời dặn xa xôi, nên ai cũng xin được đi theo cụ. Tôi ngày 2 tháng 7 năm 1983, Cụ nói với ông Tiến: – Dạo này tôi yếu lắm, người khác đi nhiều, có lẽ thầy sẽ đi xa – Rồi cụ hỏi: – Chú có thây ngôi sao đâu không? Ông Tiến trả lời: – Con có thấy, nhưng mờ hơn hôm qua, quầng lại sáng hơn, bô” ạ. Cụ nói: – Tôi yếu rồi, đừng nói với ai làm cho người ta hoang mang… Tôi nếu qua ngày mùng 4 tháng 6 (âm lịch) thì tốt, nếu không thì đi thôi. Ông Tiến khóc và hỏi cụ: – Bô” ơi, thê” thì con đau khổ quá, bây giờ làm thê” nào hở bô”? Có cách gì không hở bô”? Cụ nói: 91

– Đó là mệnh tròi, không sao tránh khỏi. Phải bình tĩnh con ạ. Ngày 3 tháng 7 năm 1983, cụ bắt đầu mệt, gia đình và một sổ bệnh nhân họp bàn phân công nhau chăm sóc cụ. Ngày 6 tháng 7, nhộng ngày hè năm đó nắng như đổ lửa, trời trong xanh không một gỢn mây. Ban ngày thủ đô Hà Nội nhiều nơi bị cắt điện, cái nóng hầm hập làm ai cũng như cảm thấy đang sốt. Mỗi ngày hàng trăm bệnh nhân, những người chịu ơn cụ, nghe tin cụ bị mệt nặng đến thăm, ngôi nhà rộng rãi của cụ bỗng trở nên chật chội. Mọi người đứng bên hiên nhà cụ, lặng lẽ hỏi thăm nhau, trên nét mặt ai cũng thấy sự lo lắng cho sức khỏe của cụ. Ban đêm những người ở lại nằm la liệt trên sân, trong vườn nhà cụ. cảnh gối đất nằm sương trông thật cảm động. Ai cũng mong ngóng cho cụ sớm khỏe trỗ lại. Sáng 11 tháng 7 năm 1983, cụ bỗng trỏ dậy như lúc bình thường. Mọi người có mặt lúc đó rất ngạc nhiên và mừng rỡ. Cụ ký hai tờ đạo cho hai gia đình, và nói: – Việc tôi giúp cho mọi người đến đây là xong, mọi việc từ nay sẽ khác. Cụ ngồi trên chiếc chõng tre, ánh mắt chan chứa yêu thương nhìn khắp lượt các con cháu, những bệnh nhân, những người chịu ơn đang ngồi vây kín trong nhà, ngoài sân, rồi cụ lặng lẽ nằm xuống. Sáng ngày 13 tháng 7 năm 1983 (mùng 4 tháng 6 năm Quý Hợi), cụ khó thở. Đến 19 giờ 4 phút cụ lịm đi 92

một lát, sau lại tỉnh, tim mạch bình thường. Đến 23 giò 30 tim mạch cụ yếu hẳn. Và đến 23 giờ 58 phút, cụ đã trồ về cõi trường sinh. Thật đúng là: Việc đời cưu giúp đã xong Gối mây, nhẹ bước thong dong cõi trời. Sáng ngày 16 tháng 7 năm 1983 tại số nhà 86 làng Đại Yên – Hà Nội, gia đình cùng đông đảo bệnh nhân đã trang trọng tổ chức lễ tang cụ Nguyễn Đức cần. Buổi sáng hôm đó, trời bỗng dưng chuyển mát, mưa bụi nhè nhẹ rơi, hơn một trăm vòng hoa để trong sân nhà, sau mây ngày nắng hè đã héo rũ, bỗng đột nhiên tươi trở lại. Trong giờ phút thiêng liêng này, nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải đọc lời điếu nói về thân thế, sự nghiệp của cụ và nhấn mạnh: Cụ đã cống hiến suốt đời mình cho sức khỏe và hạnh phúc của nhiều người. Nhà giáo Vũ Văn Ngọc thay mặt những người chịu ơn ca ngợi công lao trời bể của cụ, bày tỏ niềm tiếc thương vô hạn của những người bệnh, trước sự ra đi của cụ. Kính thưa hương hồn cụ Nguyễn Đức cần. Thưa các bạn. Giờ phút này chúng ta tề tựu tại đây, kính cẩn nghiêng mình trước thi hài của một người mà tất cả chúng ta đều tôn kính – cụ Nguyễn Đức cần, người thầy

93

chữa bệnh của chúng ta và gia đình ta… Người mat đi, để lại trong lòng chúng ta một khoảng trống lớn lao, sự tiếc thương vô hạn, một nỗi dau tê tái, một mất mát không thể gì bù đắp được … Thầy ta: Sống chữa bệnh cứu đời, vì nước, vì dân phục vụ Chết nêu gương trong súnq, vinh hoa phú quỷ không màng.

Hàng ngàn người bệnh đã đến chịu tang cụ, chít khăn tang trắng trên đầu dự lễ truy điệu và đưa cụ đến nơi an nghĩ cuối cùng tại cánh đồng làng Thanh Mai, huyện Thanh Oai – Hà Tây (cũ). Từ ngày đó đến nay, thấm thoát đã 26 năm trôi qua, nơi cụ an nghỉ đã trỏ thành một khuôn viên với những hàng cau tươi tốt. Cụ về đây an nghỉ giữa đồng quê thanh bình. Những người chịu ơn cụ, những người biết đến danh cụ thường vẫn về nơi đây, thắp những nén hương thơm ngát để tưởng nhớ, để tri ân cụ – một con người đã suốt đời vì nưóc vì dân phục vụ. Mùa thu năm 2009

94

Phần II CỨU NHÂN DỘ THÊ

Cứu th ể trừ tai trong đất nước Đ ộ nhân giải ách suốt đông tây Muôn nhà an lạc ơn thiên thượng Dán nhớ ngàn xưa trọng (lạo thầy

Long thành Hoài Quang cư sĩ

RA ĐỜI SỚM Cụ Nguyễn Đức cần ra đời vào đêm 30 Tết Kỷ Dậu 1909 và mất ngày 13 tháng 7 năm 1983 (ngày 4 tháng 6 năm Quý Hợi). Theo lời kế lại của cụ Trương Thị Đào và cụ Trương Thị Mận (vợ cụ Nguyễn Đức Yêm, bác ruột cụ Nguyễn Đức cần) thì khi cụ Hoàng Thị Khế (thân mẫu cụ Nguyễn Đức cần) sinh người con trai này vào đêm 30 Tết Kỷ Dậu, chỉ còn một canh giờ nữa là đến giao thừa. Một điều kỳ lạ là đêm giao thừa năm ây, khi cậu bé

95

Nguyễn Đức cần ra đời thì trời lại sáng trưng như có trăng rằm. Chúng ta biết rằng, Mặt Trăng là vệ tinh tự nhiên duy nhất của Trái Đất và là vệ tinh tự nhiên lón thứ năm trong Hệ Mặt Trời. Mặt Trăng chuyển động quanh Trái Đất trên quỹ đạo hình elíp gần tròn. Tháng giao hội của nó khoảng 29,53 ngày. Tháng âm lịch hình thành trên cơ sở tuần trăng, trăng tròn vào đêm rằm (15) và những ngày có trăng thì trời đêm được ánh trăng chiếu sáng, còn vào đêm 30 là đêm không trăng nên trời tốì. Ngạn ngữ có câu: Tối như đêm ba mươi tết. Cụ Nguyễn Đức cần nói: Tôi phải ra đời sớm. Thời điểm cụ ra đời chỉ còn một canh giờ nữa là đến giao thừa, thời khắc thiêng liêng giao hòa của trời đất và theo Phật lịch ngày mùng 1 Tết (âm lịch) là ngày đản sinh Đức Phật Di Lặc, một vị Phật của tương lai (Future Buddha). Cụ Nguyễn Đức cần còn nói rõ rằng: Tôi phải ra đòi sớm, nếu không máu sẽ chảy thành sông và con người sẽ còn ăn thịt nhau. Thế kỷ thứ XX, nền khoa học kỹ thuật của thế giới đã có những tiến bộ vượt bậc, con người đã chế tạo được những con tàu vũ trụ bay vào không gian. Nhưng con người chúng ta cũng tự tàn sát lẫn nhau một cách đẫm máu qua hai cuộc đại chiến. Thế chiến thứ nhất, diễn ra từ tháng 8 năm 1914 đến tháng 11 năm 1918, là một trong những cuộc chiến tranh

96

quyết liệt. Đây là cuộc chiến tranh có chiến trường chính bao trùm khắp châu Âu và ảnh hưởng ra toàn thế giới, lôi kéo tất cả các cường quốc châu Âu và Bắc Mỹ vào vòng chiến với sổ người chết trên 20 triệu người, với sức tàn phá và ảnh hưỏng về vật chất tinh thần cho nhân loại rất sâu sắc và lâu dài. Chiến tranh thế giới thứ hai là cuộc chiến tranh thế giới thảm khốc bắt đầu từ năm 1937, 1939 và chấm dứt vào năm 1945 giữa các lực lượng Đồng Minh và trục theo chủ nghĩa phát xít. Hầu hết mọi lục địa trên thế giới đều bị ảnh hưởng của cuộc chiến này, ngoại trừ châu Nam Cực. Nó là cuộc chiến rộng lớn và tai hại nhất trong lịch sử nhân loại. Khoảng 62 triệu người đã bị chết bồi cuộc chiến này, kể cả các hành động tàn sát diệt chủng của Đức Quốc Xã (Holocaust), 60% người chết là thường dân, chết vì bệnh dịch, nạn đói, nạn diệt chủng và bom đạn. Thiệt hại nặng nhất là Liên Xô (cũ) với 23 triệu người chết, Trung Quốc với 10 triệu người… Đất nước Việt Nam chúng ta cũng trải qua các cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Nhật, chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ biên giói phía Bắc và Tây Nam. Nhưng trong thế kỷ XX này, con người ta còn đôi xử với nhau dã man, ăn thịt nhau như thời Trung cổ hay không – như lời cụ nói? Tình cờ vào khoảng những năm 1980, chúng tôi có được nghe một câu chuyện kế lại của anh Đỗ Văn Nhân, bộ đội đã tham gia cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam. Chiến dịch phản công biên giổi Tây Nam là một loạt các 97

chiến dịch quân sự do Việt Nam tiến hành nhằm ngăn chặn các hoạt động quân sự của quân Khmer đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, giết chóc người dân và đốt phá làng mạc Việt Nam trong những năm 1975- 1978. Anh Nhân kể lại: Trong một lần đơn vị anh hành quân truy đuổi tàn quân Khmer đỏ, thì bắt được một tên lính trẻ, ăn mặc rách rưới, dáng vẻ tiều tụy. Khi khám xét chiếc ba lô của nó thì thấy có miếng thịt sống và một quả tim. Nó khai, nó và một đứa anh cùng là lính Khmer đỏ, bị lạc trong rừng nhiều ngày, nên thằng anh đã bị chết đói, còn nó vì đói quá nên đã ăn thịt thằng anh để sống, nay chỉ còn lại quả tim này. Thật là khủng khiếp, mấy ngày sau đó tôi không thể nào ngủ được, về sau do bị sốt rét ác tính, tôi được chuyển ra Bắc. Anh Nhân kết luận: Lòng tham vô đáy của con người thật là kinh khủng, từ lòng tham đó con người đã gây ra bao cuộc chiến tranh, và đã biến con người trỏ thành dã thú. Ngày nay, chúng ta đã bước sang một thiên niên kỷ mới, nhưng các cuộc khủng bô”đẫm máu vẫn xảy ra ỏ ấn Độ (2008), tại Baghad, Pakistan, tại Đomedovo- Nga (2011)… Cụ Nguyễn Đức cần sinh ra tại làng Đại Yên, Hà Nội và cụ nói rằng: Tôi chỉ vì hai chữ (Đại Yên) mà về đây. Đại Yên xưa viết theo chữ Hán Nôm còn có một nghĩa nữa là Đại An.

98

PHƯƠNG PHÁP CHỮA BỆNH

Cụ Nguyễn Đức cần có thể chữa bệnh cho người khác không cần dùng thuốc và không động chạm vào cơ the họ. Ngưòi bệnh trực tiếp đến gặp cụ, trình bày bệnh tật của mình, nếu cụ nhận lời hoặc cho một mảnh giấy có chữ ký của cụ, bệnh có thể khỏi mà không cần thuốc. Có trường hợp người bệnh nằm ở nhà hay đang điều trị tậi bệnh viện, ngưòi nhà bệnh nhân đến gặp cụ xin chữa, nếu cụ nhận lời, bệnh nhân cũng có thể khỏi. Cụ có thể chữa bệnh từ xa hàng trăm km, thậm chí hàng ngàn km. Qua những năm tìm hiểu và theo dõi kết quả việc chữa bệnh của cụ, thì có ba phương pháp chữa bệnh mà cụ thường sử dụng: – Lời nói – Tồ đạo – Điều khiển bằng tay Cụ Nguyễn Đức cần đã dùng kết hợp cả ba phương pháp trên một cách tài tình và đạt được nhiều kết quả trong việc cứu đời, trị bệnh. Cách chữa của cụ có thể so sánh vói An- Phù – Chú trong Mật tông tâm pháp của nhà Phật. – Chữa bệnh bằng Lời nói (chú – mật chú – mật ngữ – Dharani) Mật ngữ là gì? Mật ngữ nghĩa là lời nói bí mật, lời nói kín, còn gọi là chân ngôn, tức là lời nói chân thật. Lời nói bí mật vì nó không được giải nghĩa, vì chỉ có Chư 99

Phật thì mối hiểu trọn vẹn. Mật ngữ được truyền đạt giữa người nói ra chân ngôn với các cõi giới khác, đó là một ngôn ngữ vi diệu trong Vũ Trụ, gọi là Vũ Trụ Am, giúp cho tâm của hành giả tu Mật được tiếp cận và hòa nhập vào tâm của Vũ Trụ, thu nhận năng lực của Vũ Trụ, nhanh chóng được đi vào cảnh giói của Chư Phật. Mật ngữ còn gọi là chú. “Chú” là từ Hán Việt, có nghĩa là niệm, rót sức vào, những lời tốt đẹp tha thiết nhất để đạt được một cái gì đó, hoặc tông một cái gì đi. Những lời chú chứa đựng râ’t nhiều và rất mật, có sự liên hệ đến âm thanh và khí mạch của con người. Chú Ngữ Chân ngôn có rất nhiều loại, trong đó gồm có bốn loại: Phật Bộ Chân Ngôn – Bồ Tát Bộ Chân Ngôn – Minh Vương Bộ Chân Ngôn và Chư Thiên Bộ Chân Ngôn. Mật ngữ có khi được dùng cùng ấn (thủ ấn), gọi là Ân – Chú. Lúc đầu khi chữa trị bệnh, cụ Nguyễn Đức cần dùng phương pháp Mật ngữ. Bà An Thị Phú, sinh năm 1924, ỏ tại làng Hữu Tiệp, Hà Nội kể lại: Lúc tôi độ 15, 16 tuổi (khoảng năm 1939 1940), thì bị một trận sốt thương hàn hơn hai mươi ngày, người gầy và mệt lắm. Cụ đến chữa bệnh cho tôi, không thấy cụ cho thuốc gì cả, chỉ thấy ông cụ nói thứ tiếng gì đó, lạ lắm, rồi sau đó tôi khỏi bệnh. Đó là, cụ đã sử dụng mật ngữ để chữa bệnh. Cụ Phạm Thị Chút, sinh năm 1920, ỏ tại làng Đại Yên, Hà Nội kể lại: Tôi là em họ cụ Nguyễn Đức cần, trước đây có thời gian tôi nấu cơm giúp đỡ ông cụ. Một 100

hôm, khi bê mâm cơm từ dưới bếp lên nhà, thì tôi nhìn thấy cụ đang ngồi nói chuyện bằng thứ tiếng gì đó vối các vị thiên quan, người nào cũng đội mũ cánh chuồn, mặt hồng tươi đẹp đẽ. Tôi sững người, làm rơi mâm bát đến “xoảng” một cái. Thế rồi cảnh tượng trên bỗng biến mất. Chờ tôi thu dọn xong chỗ bát vỡ, cụ ôn tồn: Tôi quên mất không dặn, lần sau cô có trông thấy thì đừng có sợ. Đó là cụ dùng mật ngữ để giao tiếp với các cõi giới mà chúng ta gọi là vô hình. Thỉnh thoảng về sau này, vào những lúc vắng khách, những người gần gũi cụ vẫn thấy cụ ngồi nói chuyện một mình bằng mật ngữ với các Ngài, các vị trong các cõi giói vô hình. Sau này, trong quá trình chữa trị bệnh, cụ Nguyễn Đức cần ít khi sử dụng đến mật ngữ nữa, do đạo pháp của cụ ngày càng cao lên, mật ngữ đã chuyển hóa thành Việt ngữ. Đó là một việc chưa từng có trong việc sử dụng mật ngữ để chữa trị bệnh. Chúng tôi xin dẫn chứng một sô” trường hợp cụ đã chữa bệnh bằng Việt ngữ: Ồng Vũ Như Lộc, một giáo viên ở Hà Nội, bị viêm bàng quang, mỗi khi đi tiểu tiện thì bị đau buốt. Khi đến xin cụ chữa bệnh, cụ nhận lời và nói: 7 giờ tối mai sẽ khỏi. Thì đúng 7 giờ tốì hôm sau, khi ông Lộc đi tiểu, một viên sỏi to như một hạt ngô bắn ra, và ông khỏi luôn bệnh viêm bàng quang. Một trường hợp khác là bà Sâm, vợ đại sứ Nguyễn Tiến Thông ở Tiệp Khắc (cũ) bị bệnh mất ngủ, đã được các giáo sư, bác sỹ Tiệp chữa nhưng không khỏi. Trong 9 101

tháng, bà đã uống hơn 2.000 viên thuốc ngủ. Khi lên cụ xin chữa bệnh, bà nói: Chín tháng nay con không biết giấc ngủ là gì, hoàn toàn ngủ là do thuốc. Cụ nói: A, nếu vậy tôi sẽ chữa cho bà biết là Việt Nam còn giỏi hơn cả Tiệp Khắc. Tối nay, tôi sẽ cho bà ngủ. Bà Sâm kể lại, đúng 7 giò tối hôm đó, bà ngáp lên ngáp xuống, rồi lên giường ngủ một lèo tới sáng. Bà nói, ba năm nay, tôi mới có một giấc ngủ ngon như vậy. Cũng từ đó bà Sâm khỏi bệnh mất ngủ. Chúng ta biết rằng ngôn ngữ mà ta sử dụng hàng ngày là một dạng của sóng thông tin. Người Việt Nam nói tiếng Việt thì người Anh nghe thấy nhưng không hiểu ý nghĩa, muốn hiểu thì phải học tiếng Việt. Mật ngữ là loại ngôn ngữ không thể dịch ra được, muôn sử dụng mật ngữ phải có quá trình tu học lâu dài, học theo phương pháp tâm truyền tâm và không phải ai cũng học được. Lòi cụ nói: Tôi sẽ cho bà ngủ, là một dạng mật ngữ đã chuyển hóa thành Việt ngữ, sóng thông tin này được chuyển đến nơi cần đến như một mật lệnh. Tất nhiên, chỉ có cụ mới có phép sử dụng như vậy. Chúng ta biết rằng, bản chất của ngôn ngữ tạo nên những “xung động”, những “trường” di chuyển theo dạng sóng với những bước sóng khác nhau. Những lời cụ nói khi chữa bệnh là một dạng sóng thông tin đã được mã hóa. Như vậy chúng ta nhận thấy rằng, âm thanh trong thế giới tự nhiên chứa đựng trong nó một sự truyền cảm vô cùng to lớn và huyền diệu. 102

– Chữa bệnh bằng tờ đạo (Phù – Linh thần phù Man-đa-ra) Trước tiên chúng ta tìm hiểu Linh thần phù là gì? Linh thần phù, thần phù, phù, trong dân gian còn gọi là bùa. Bùa là một từ Việt cổ, người Việt dùng từ bùa thay cho “phù” là âm Hán Việt. Bùa được họa trên giấy hay trong hư không. Bùa diễn đạt tác dụng của khí để dùng trong chữa bệnh, phong thủy, hộ mệnh, trừ tà… Những ký hiệu mà chúng ta thấy trong bùa (phù) có chức năng truyền tải thông tin và năng lượng. Với những phù sử dụng trong chữa bệnh, nó tác động tới thể xác và tinh thần nên có thể chữa thân bệnh và tâm bệnh. Một điều quan trọng nữa là phù chỉ có tác dụng khi được trì chú bỏi các vị cao tăng, đạo sỹ, những bậc chân tu đạo hạnh. Nếu không nó chỉ như một tờ giấy trắng mà thôi. Trỏ lại việc chữa trị bệnh của cụ, khi nhận lời chữa bệnh, thì cụ thường cho những bệnh nhân một tờ giấy mà những người bệnh gọi là tờ đạo. Tờ đạo đó như thế nào? Đó là một tờ giấy trắng, được cắt ra mỗi chiều khoảng 4cm (kích thước gần giống như một bao diêm). Khi nhận chữa bệnh thì cụ dùng bút ghi những ký tự vào tờ giây đó và dặn đặt vào chỗ đau của người bệnh, hoặc đốt nơi người bệnh nằm. Những ký tự mà cụ đã viết vào tờ giây đó như thế nào? Có tờ cụ chỉ ghi chữ “Sốt” hay “Hen”, đó là những căn bệnh mà người bệnh mắc phải, có tờ thì những ký tự trông như mây

103

cuộn, sóng dồn (như cuộn xoáy của luân xa), có tò thì lại như chữ khoa đẩu thời thượng cổ… rất lạ. Theo những nhà nghiên cứu về cổ tự thì những ký tự trên bùa có tính quy luật được đúc kết qua nhiều đời, mỗi hình đều có ý nghĩa riêng, ứng với một quy luật vận hành của năng lượng. Người vẽ bùa phải là người có công phu tu luyện thực sự, có chân tâm và có khả năng phát ra năng lượng để nạp vào bùa. Khi vẽ bùa, người vẽ phải đạt được trạng thái xuất thần, để năng lượng đi vào hình vẽ một cách tự nhiên, và vận hành theo những quy luật đặc biệt mà người xưa đã đúc kết thông qua những nét vẽ, những đường uôh lượn kỳ lạ. Nhưng điều đặc biệt là tồ đạo mà cụ Nguyễn Đức cần cho người bệnh, không hề có trì chú như các cao tăng, đạo sỹ khi dùng Linh phù. Chúng tôi xin dẫn chứng tác dụng những tờ đạo của cụ khi cho người bệnh: Ông Lý Hữu Thành, một bệnh nhân ỏ Thanh Hóa, viết thư kể lại: Trước năm 1980, năm nào tôi cũng bị sưng mụn ỏ lưng, gần ngay cột sông, Tây y gọi là hậu bốì, tôi đã chữa ỏ bệnh viện Việt – Xô, thuốc men tốn kém hàng tháng trời, nhưng chỉ đỡ chút ít chứ không khỏi. Tháng 9 năm 1980, mụn bốĩ lại tái phát, sưng rất to làm tôi vô cùng đau đớn. Cụ đã nhận chữa và cho tôi tờ giấy (tờ đạo), dặn hàng ngày trước khi đi ngủ đặt tờ giây đó một phút lên chỗ đau. Theo lời cụ dặn, chỉ trong một tuần là mụn đó đã hết, tôi đã khỏi hẳn bệnh. Đến nay đã ba năm không thấy còn tái phát nữa. 104

Ông Minh Đăng Khánh, phóng viên báo Sài Gòn giải phóng, viết th ư kế lại một chuyện lạ kỳ qua bức th ư sau: Thành phô’Hồ Chí Minh, ngày 23 tháng 8 năm 1982 Kính thưa cụ! Trước hết, con xin thưa với cụ, một chuyện kỳ lạ mà con vẫn chưa hết bàng hoàng, xúc động. Nếu không được cụ cứu vớt thì chắc hắn giờ này con không còn có thể ngồi viết thư được. Đêm 19 tháng 8 vừa qua, lúc gần về sáng, con đang ngủ ngon giấc thì bỗng choàng dậy, con thấy người lạnh toát, miệng không nối được, chân tay nặng trĩu, vợ con nằm ngay ở bên cạnh mà con không sao gọi nổi. Con có một cảm giác rất rõ rệt là mình sắp chết. May thay cho con, trước khi ngủ, con để cái đạo cụ cho, ở ngay bên gối. Con vừa nghĩ tới cụ, vừa thu hết tàn lực, nhấc tay cầm cái đạo đặt lên đầu. Vài phút sau, người con ấm dần, chân tay bắt đầu nhẹ và nói được. Thế là con đã được cụ cứu sống một cách vô cùng kỳ diệu. Trong các tờ đạo mà cụ cho bệnh nhân, có một tờ mà bệnh nhân gọi là tờ đạo sức khỏe. Những người đi công tác xa, đi nước ngoài, những người thấy trong mình không được khỏe hoặc ngay cả người đang khỏe mạnh nhưng vẫn xin cụ để dự phòng. Đối vối trường hợp của ông Minh Đăng Khánh, trước khi ông ròi Hà Nội trở lại thành phô” Hồ Chí Minh, nơi ông đang sinh sông, thì cụ cho ông tờ đạo sức khỏe đó, nhưng ồ trường hợp này tờ đạo đó có tác dụng như một Đạo hộ mệnh (bùa hộ mệnh). 105

Chúng tôi xin trích dẫn một bức thư của ông Trần Năng Luận, một chiến sỹ lái xe, tại tuyến lửa Quảng Bình, trong những giai đoạn ác liệt của cuộc chiến tranh chông Mỹ: Quảng Bỉnh, ngày 8 tháng 7 năm 1972 Kính lạy Thầy Thầy cho phép con được kính lạy Thầy “Bhagavatta” Ba-ga-vat. Đó là danh từ Ân Độ đ ể chỉ Người Thầy đạo đức tôn quý nhất đời. Kính thưa Thầy Sau khi con vô vùng may mắn được dự ba ngày Tết đón xuẩn Nhâm Tỷ tại cô’ hương, được Thầy cho tờ đạo hộ mệnh, ngày mùng 4 Tết con lên đường vào Quảng Bình phục vụ công tác tiền tuyến. Trong lá thư này, con xin báo với Thầy được rõ những nguy hiểm mà con đã trải qua, trong những chuyến xe trên các nẻo đường chiến tranh ác liệt, xe con đã bị 10 trận bom bao trùm. Ngày 17, 18 và 19 tháng 6 năm 1972, đơn vị con bị máy bay giặc Mỹ 8 lần oanh kích, hàng trăm quả bom bi mẹ tung ra hàng vạn quả bom nhỏ xuôhg nơi đóng quân, xe ô tô bị cháy 17 chiếc, nhà cửa, trại chăn nuôi, kho xăng dầu bị sập và cháy hoàn toàn, ngay cả một con chim bồ câu chưa biết bay củng còn bị 5 viên bi vào minh. Một quả bom sát thương 25 cân đã rơi cách thùng xe con nửa thước, xe bị vỡ kính, thủng hai lốp và đầy mảnh bom… Trong những lúc hiểm nguy như vậy con

106

thấy rõ Thầy đã cứu con và con đã được an toàn, mạnh khỏe. Một lần khác, ỉúc đang lái xe trong đêm đi qua một trọng điểm, chợt con thấy những tia ánh sáng màu hồng đỏ, như một ngôi sao băng, nổ tung ngay giữa đường và bắn ra một cục lửa đỏ ra ven đường, con hốt hoảng phanh xe dừng lại. Con tưởng rằng chiếc xe trước bị bom bi, nhưng lại không nghe thấy tiếng nổ gì cả. Điều đó làm con ngạc nhiên, con đi chậm đến điểm đó, xuống xem, thì ra đấy chỉ là một chiếc đèn có kính màu đỏ. Con thấy bàng hoàng và tự kiểm tra lại thần kinh của mình, vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Bỗng một trận bom bi rơi nổ ngay vào giữa đường cách chỗ con khoảng l.OOOm ởphía sau, tiếp theo một trận bom lân tinh trắng ở trước mặt và 5 quả dù pháo sáng bùng ra giữa hai trọng điểm ấy. Đó là một chiến thuật đánh tiêu diệt xe của giặc Mỹ. Nếu con không phanh xe dừng lại lúc trước, thì con đã bị chết cháy trong trận bom lân tinh ấy rồi. Nhờ ơn tờ Đạo Thầy cho mà con đã thoát chết trong gang tấc. Việc sử dụng tờ đạo của cụ Nguyễn Đức cần cũng có nhiều cách: + Dùng tò đạo đặt vào chỗ đau của người bệnh: Người bệnh đặt trên chỗ đau, đeo trong người. Nhạc sỹ Tu My – Đỗ Mạnh Cường ở sô” nhà 20 phô” Nguyễn Văn Tô”, Hà Nội bị bệnh tim (loạn nhịp tim), ông lên gặp cụ để xin chữa bệnh yà được cụ cho một tờ đạo. Ong đã may một cái túi nhỏ, đeo tờ đạo đó ngay cạnh trái tim. Ông kể rằng, từ ngày có tờ đạo của cụ, trái tim ông đã 107

đập ổn định và thấy mình đã trỏ lại khỏe mạnh như một người bình thường. + Hóa tờ đạo tại nơi người bệnh nằm: Những trường hợp bệnh rất nặng, đã chết lâm sàng, hoặc khi cụ chữa bệnh cho gia súc (bò, lợn…) Ông Nguyễn Quang Chiểu, Giám đổc Nhà máy cơ khí Nông nghiệp bị ung thư, sau khi mổ, đã chết lâm sàng, chuẩn bị khâm liệm, gia đình lên cầu xin cụ cứu giúp. Cụ cho tờ giấy có chữ ký của cụ, gia đình đã hóa tò giấy đó ngay trước phòng hồi sức của bệnh viện Bạch Mai . Khi hóa xong tờ giây đó, thì người bệnh hé được mắt và người ấm dần lên. Sau đó ít ngày ông Nguyễn Quang Chiểu đã hồi phục sức khỏe và trỏ lại công tác. Ông Vũ Văn Ngọc, một nhà giáo ỏ phô” Thụy Khuê, Hà Nội kể: Thòi kỳ bao cấp, gia đình tôi nuôi một con lợn lai khoảng trên một tạ, đến kỳ nó mang thai được khoảng hai tháng thì nó ôm, bỏ ăn. Chúng tôi rất lo lắng, vì nó là một nguồn thu nhập thêm của gia đình. Tôi có sang nhà thưa vổi cụ, xin cụ cứu nó. Cụ cười bảo: Chữa cho người, chữa cả cho lợn. Rồi cụ cho tôi tờ đạo, dặn về hóa ỏ trước cửa chuồng nó, rồi đổ cháo cho nó ăn. Tôi vê làm theo lời cụ dạy, sau khi hóa tờ đạo, con lợn nhỏm dậy ra ăn cháo, rồi nó khỏi ốm, về sau nó đẻ được 11 con. + Hóa tờ đạo trên cốc nước. Bệnh nhân uống nưóc hoặc dùng nước đó lau cơ thể . Bà Chu Thị Bài ở thôn Thạch Bàn, ngoại thành Hà Nội kể lại: Tôi bị thấp khớp rất nặng, đi chữa ở nhiều 108

bệnh viện không khỏi, khi tôi lên cụ xin chữa bệnh, cụ cho tôi một mảnh giấy bằng bàn tay, có nhiều chữ ký của cụ. Cụ dặn: Mỗi ngày uống một chữ thôi. Tôi về hóa tờ đạo có chữ ký của cụ trên cốc nưóc, vừa uống chữ của cụ vừa đi làm, cứ thế là khỏe dần lên, bệnh khỏi lúc nào cũng không biết. Thiếu tá Vũ Huy Hậu, bị bệnh vẩy nến (Psoriasis) từ năm 1961 đã chữa nhiều lần ỏ Liên Xô (cũ), bệnh viện 108, bệnh viện Đưòng sắt… nhưng không khỏi. Đến tháng 3 năm 1974, đến xin cụ chữa bệnh, cụ cho một tờ đạo về nhà hóa trên chậu nước, rồi lây nước đó lau rửa chỗ chân bị vẩy nến. Ông Hậu cho biết, sau ba tuần, các nốt vẩy dầy cộm đã giảm rất nhanh, giảm ngứa rõ rệt, ngủ-rất ngon giấc ngay từ ngày thứ hai sau khi lên gặp cụ (trước đó mất ngủ nhiều). Chữa bệnh bằng đôi tay (ấn quyết trong Mật tông Mudra) Mudra người Trung Quốc gọi là yin, người Nhật gọi là in-zô, ta dùng chữ ấn (Thân ân và Thủ ấn) hay thành ngữ ân quyết, tiêu biểu cho quyền lực và hiện hình thần thánh. Mudra thường được dùng với mantra (mật ngữ), một thể thức cầu khân. Trong khuôn khổ một nghi lễ, người giáo sĩ vừa đọc mantra vừa xác định một vị trí cho bàn tay, vị trí có thể thay đổi tùy theo chữ, theo câu hay âm vang của giọng đọc. Chúng ta thấy tượng các đức Phật thường được trình bày với một kiểu tay đặc biệt, vừa là một cử chỉ tự nhiên, vừa là một dấu hiệu của tính 109

chất Phật (Phật tính). Trong Đại thừa, các Thủ ấn chỉ các ấn nơi tay, đều tương ứng vối các ý nghĩa đặc biệt, đốĩ lập vổi Thân ấn (Khế ấn) là những tư thế khác như cầm ngọc, tọa thiền… Ấn (Thủ ấn) là phần rất quan trọng trong các lễ nghi tôn giáo, các nghi thức ấn giáo và Phật giáo. Bàn tay còn biểu hiện bản ngã của chúng ta nữa. B ắt ân có thể làm vối một hay hai tay cùng một lúc. Tay phải tượng trưng cho ngoại ngã, tay trái cho nội ngã. Mỗi ngón tay lại có ngôn ngữ riêng. Trong trị bệnh, ấn quyết dùng hai bàn tay để điều khiển khí lực. Bàn tay trái gọi là Thiện niệm thủ hay còn gọi là Chỉ thủ. Bàn tay phải gọi là B i niệm thủ hay còn gọi là Quán thủ. Mười đầu ngón tay gọi là T hập B a la m ật p h on g (mười đỉnh của mười ngọn núi cao). Bàn tay trái ngón cái là T rí, ngón trỏ là Lự c, ngón giữa là N guyện, ngón đeo nhẫn là Phương, ngón út là H uệ. Bàn tay phải, ngón cái là T hiền , ngón trỏ là T iến , ngón giữa là N h ẫ n , ngón áp út là Giới, ngón út là Thí. Có nhiều cách bắt ấn tùy theo công dụng như Phục Ma ấn là bắt ấn trừ tà ma. Tâm ấn là truyền đạt năng lực tư duy giác ngộ. Cụ Nguyễn Đức cầ n khi chữa một s ố bệnh như liệt chân, liệt tay… đã dùng đôi bàn tay điều khiển khí lực để chữa bệnh. Ông Lê Ngọc Vân, cán bộ quân đội, công tác tại Bộ tổng Tham mưu kể lại: Vào khoảng tháng 5 năm 1973, trong dịp đến thăm, tôi đã được chứng kiến một trường hợp chữa bệnh của cụ. Đó là một bà cụ ỏ Hải Phòng lên, 110

không đi lại được, người nhà phải dìu vào nhà. Sau khi gia đình bệnh nhân trình bày, cụ hỏi: Bây giò, cần chữa gì trước. Gia đình người bệnh đề nghị: Xin cụ chữa cho bà cụ đi lại được. Cụ chỉ tạy, mỉm cười, nói: Bà cụ đứng lên, đi lại bình thường đi. Trong vòng vài giây, khi cụ dứt lời thì người bệnh (bà cụ) đứng ngay dậy đi lại khá nhanh nhẹn như người bình thưòng. Ồng Lê Ngọc Vân kể tiếp: Trường hợp thứ hai là cháu Bùi Thị Hạnh 18 tuổi, con gái ông Bùi T h ế Vinh, nhà ở phố’ Khâm Thiên, Hà Nội. Cháu Hạnh bị thấp khốp rất nặng, tay bị co quắp, chân rất đau, đi phải có người dắt, cháu Hạnh nằm viện đã hai năm nhưng không khỏi. Ngày 15 tháng 7 năm 1973, bô” con cháu Hạnh lên xin cụ chữa bệnh. Khi thấy cháu đau quá, không đứng dậy được, cụ ôn tồn nói: Cháu đứng dậy đi xem nào. Cụ vừa dứt lời thì cháu Hạnh vụt đứng dậy, mắt mở to, nét mặt cháu vừa vui sướng, vừa kinh ngạc, cháu đi lại bình thường trước sự chứng kiến của nhiều người có mặt hôm đó. Một điều diệu kỳ nữa là hai tay co quắp của cháu cũng đã trỏ lại hoạt động, cháu cứ nắm ra nắm vào như tìm lại vật quý. Khi trỏ về nhà cháu vẫn chưa hết bàng hoàng và nói rằng, tưỏng như cháu đang nằm mơ trong chuyện thần th o ạ i. Trong cuốn sách này, có ảnh cụ Nguyễn Đức c ầ n đang điều khiển chữa bệnh liệt tay cho trung tá Vũ Hữu Hiếu (viện Quân y 108). Ông Vũ Hữu Hiếu lúc đó công tác tại viện Quân y 108, bị bệnh nhũn não (Ramolissement

111

céresbra), một bên cánh tay không thể cử động được (bị liệt), ông Hiếu đã đi chữa bệnh tại Liên Xô (cũ) nhưng không khỏi. Khi ông Hiếu lên Đại Yên xin chữa bệnh, cụ Nguyễn Đức Cần đã nhận lời và đã điều khiển cho người bệnh giơ được cánh tay bị liệt lên, trước sự chứng kiến của rất nhiều người. Trong bức ảnh, chúng ta thấy bàn tay trái của cụ, ngón trỏ là Lực đang hướng về phía người bệnh, bàn tay phải của cụ giơ cao, ngón trỏ là Tiến đang điều khiển người bệnh giơ được cánh tay bị liệt lên.

QUYỂN NĂNG SIÊU PHÀM Cụ Nguyễn Đức cầ n có một quyền năng siêu phàm. Sau buổi quay phim hai ca chữa bệnh của cụ ngày 30 tháng 4 năm 1974 tại Đại Yên, Hà Nội, ông Nguyễn Hoàng Phương đã phát biểu: Cụ Nguyễn Đức c ầ n có một khả năng kỳ diệu và phương pháp chữa bệnh hoàn toàn mới và rất thần tình. Sau này, qua nhiều năm nghiên cứu khoa học về ngoại cảm và tâm linh, Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương cho rằng, trên thế giới hàng ngàn năm mới xuất hiện một con người có quyền năng siêu phàm như cụ Nguyễn Đức Cần.

112

QUYỂN NĂNG SIÊU PHÀM CỦA CỤ NGUYỄN ĐỨC CẦN CÓ TỪ ĐÂU? Cụ Nguyễn Đức c ầ n là “Nhà ngoại cảm” đầu tiên của nước ta được ủy ban Khoa học Nhà nước, tiến hành nghiên cứu khoa học từ năm 1974. Những người có những khả năng đặc biệt vượt ra ngoài giới hạn của năm giác quan thông thường thì người đó gọi là Nhà ngoại cảm. Có 5 lý do để tr ở th àn h Nhà ngoại cảm – Bẩm sinh: Tức là sinh ra đặ có khả năng ngoại cảm. – Hình thành sau khi phải trải qua một biến cô” như bệnh lý hiểm nghèo hoặc một chấn động nào đó. – Các thiền sư tu hành đắc đạo. – Được đào tạo mà thành. – Được vong linh nào đó trợ giúp. Cụ Nguyễn Đức cầ n là người đã biết được thiên mệnh của mình. Cụ nói: Ta phải ra đời sóm, và cụ chọn đất nước Việt Nam. Cụ cũng nói: Tôi chỉ vì hai chữ (Đại Yên) mà về đây (làng Đại Yên – Hà Nội – Việt Nam). Nếu tôi về các nước văn minh, người ta hiểu tôi, thì tôi được sung sướng mọi thứ. Nhưng không, tôi về Việt Nam. Trong tướng pháp, cụ có “thân tướng uy nghiêm, ngũ nhạc đầy đặn, má đầy như má sư tử”, đó là những tướng vô cùng tôn quý. Cụ nói rằng: Ta có đôi mắt hai tròng. Những người 113

đã từng gặp cụ đều nhận thấy rằng cụ có đôi mắt rất sáng. “Đôi mắt Người với ánh sáng kỳ diệu, lấp lánh, tươi vui dọi đến làm rạng rỡ mọi tâm hồn của chúng ta”, nhà giáo Vũ Văn Ngọc đã ca ngợi cụ như vậy. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải kể lại: An tượng đầu tiên của tôi khi gặp cụ, thứ nhất lời ông cụ nói, cụ chữa bệnh bằng cái đầu. Đó là điều tôi chú ý và rất logic. Thứ hai, cụ phải là một người có cái gì đặc biệt. Tôi nhận thấy là cụ có đôi mắt rất sáng, nó loáng một cái, một đôi mắt có ánh quang. Thật vậy, cái nhìn của cụ như là máy chụp quyét Scanner trong đầu cụ, cho nên khi tiếp xúc vối người bệnh, cụ đọc được mọi thông tin của người bệnh. Bà An thị Phú, sinh năm 1924, ỏ làng hoa Hữu Tiệp, Hà Nội kể lại: Ong cụ nói với tôi, ai vào cổng nhà cụ, có đạo đức hay không có đạo đức là cụ biết hết. Ngay từ khi còn trẻ tuổi, cụ Nguyễn Đức cầ n đã có duyên may gặp được những vị Thầy tâm linh, cụ đã đi nhiều nơi trong các miền núi cao rừng thẳm, mà một trong những nơi đó là đỉnh Mẫu trong dãy núi Ba Vì “nơi linh khí thiêng liêng của nước Việt”. Cụ đã được vị Thầy của mình truyền dạy cách thu nhận linh khí của trời đất (trường năng lượng của vũ trụ). Đó là cách hấp thụ khí dương quang (Thái Dương) và Tuệ Quang (Thái Âm). Qua những tháng năm tu đạo vô cùng gian khổ, trải qua bao quãng đường đời lao động vất vả, nếm bao vị đắng cay thử thách, cụ đã đạt được một tri giác cao cấp, khai mỏ 114

Thiên Nhãn, Thiên. Nhĩ, nghe nhìn thấu các cõi giới, nhìn thấy tương lai, quá khứ (soi kiếp). Cụ Nguyễn Đức cần đã thu nhận được những nguồn năng lượng vũ trụ vô cùng to lớn và những năng lượng tâm linh đó đi qua trái tim đầy lòng yêu thương của cụ, truyền cho cụ một sức mạnh vô cùng lớn lao để cụ giúp đời. NHÌN THẤY TƯƠNG LAI QUÁ KHỨ Cụ Nguyễn Đức c ầ n đã khai mở được Thiên Nhãn, Thiên Nhĩ và có được tri giác cao cấp, nhìn thấy tương lai, quá khứ. Tri giác cao cấp là gì? Là phương thức lĩnh hội sự vật vượt qua phạm vi thông thưòng của giác quan con người. Nhờ nó, con người có thể nhìn, nghe, ngửi, nếm, thấy những sự vật mà bình thường không cảm nhận được. Tri giác cao cấp là một kiểu “nhìn thây”, trong đó người đã khai mỏ con mắt thứ ba nhìn thấy một bức tranh trong óc mà không cần sử dụng thị giác thông thường. Những khám phá mới đây nhất vào năm 1996, từ một sô’ nhà khoa học, đã cho biết là trong não người có một cái tuyến tuy rất nhỏ, chỉ bằng hạt đậu xanh, nhưng nhiệm vụ của tuyến này rất kỳ diệu, chỉ tiết ra loại nhân hóa tô’ đặc biệt với một lượng rất nhỏ, trong trường hợp con người đang chú tâm cầu nguyện, với tất cả thành tâm, hay vào các giai đoạn con người ỏ tình trạng ngúy biến, thập tử nhất sinh. Cái tuyến lạ lùng đó 115

là tuyến Tùng quả (Pineal gland). Khi phân hóa tô’ của tuyến đi vào máu, thì cơ thể sẽ có những phản ứng kỳ diệu bất ngờ, mà lúc bình thường không có được. Các nhà sinh vật học còn khám phá ra rằng, tuyến Pineal gland còn có liên quan tói bộ phận mà người Tây Tạng gọi là con mắt thứ ba. Nhưng chỉ những ai chịu vứt bỏ lòng tham luyến sân si mê mờ, quyết tâm giữ lòng trong sạch và tu trì mới có được Huệ nhãn. THÔNG TIN Dự BÁO Cụ Nguyễn Đức cầ n đã có nhiều thông tin dự báo trong những lĩnh vực rộng lớn về th ế giới và đất nước Việt Nam. Cụ nói rằng: Thời này là thời tai kiếp, toàn th ế giới phải chịu động đất, núi lửa, thời tiết nóng lạnh bất thường, bệnh tật tai chưống rất nhiều. Vào đầu tháng 9 năm 1982, hơn 1.500 nhà khoa học của châu Âu đã họp đại hội ỏ Matxcơva, nghiên cứu lịch sử và cơ câ’u của vỏ trái đất, quá trình diễn biến vận động của quả đất. Quá trình đó giới khoa học nhất trí chia ra làm bốn giai đoạn lốn gọi là bốn kỷ, có độ ngắn dài khác nhau. Kỷ thứ tư, gần đây nhất và ngắn nhất khoảng một triệu năm. Một điểm lốn nhất là kỷ thứ tư có mặt loài người và khoảng từ 10.000 năm nay, vói hoàn cảnh sinh hoạt thuận lợi, sự tiến bộ của con người thật sự ảnh hưỗng mạnh mẽ đến thiên nhiên và tạo ra những môi trường. 116

Một vấn đề nữa được nêu ra trong đại hội, phải chăng kỷ thứ năm đã bắt đầu rồi và chúng ta đang đứng trên ngưỡng cửa của một chuyển biến lớn. Nếu không có tai họa xảy ra, thì chúng ta đang chuẩn bị hòa nhập vào cuộc sông, một môi trường không phải như ngày nay nữa. Điều đó là do sức mạnh của khoa học quyết định một phần, một phần khác là do những yếu tô” không thuộc khoa học chi phôi, đó là sức mạnh của thiên nhiên. Sau khi chúng tôi trình bày những nhận định trên của các nhà khoa học (do giáo sư Phạm Huy Thông, đại diện duy nhất của Việt Nam tham dự hội nghị về và viết hài đăng trên báo N hân dân), cụ nói rằng: Họ (các nhà khoa học tham dự hội nghị Kỷ thứ tư) cũng rất giỏi đây. Kỷ thứ năm mà họ gọi đó đang dần đến rồi, một vận hội mới sẽ đến và thế giới sẽ thái bình yên vui. Nhưng cụ nói thêm rằng phải qua cơn bĩ cực rồi mới có ngày thái lai. Cụ nói, loài người phải chịu nhiều thảm họa, cảnh tượng rất là thảm kịch, chết rất nhiều, khắp nơi thiên hạ động lửa, rồi có những nơi cơm không có người ăn, đường không có người đi… Nghe vậy, chúng tôi rất lây làm sợ hãi và đau buồn, chúng tôi có thưa rằng: Thưa cụ, như vậy thì loài người đau khố quá. Chúng tôi thấy trên nét mặt cụ lộ vẻ xót thương, rồi cụ nói, tròi định cả rồi. Chúng tôi chợt nhớ đến câu của Đức Lão Tử: “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu” (Trời đất coi vạn vật như con chó rơm, khi cúng tế thì dùng, khi xong thì đôt bỏ). Đó là luật của tạo hóa, đang thời thì 117

dùng, sái thời thì bỏ, ví như cây cỏ, xuân thì dâm chồi, thu thì rụng lá, năm sau xuân đến cây lại đâm chồi nhưng lá cành không phải của năm xưa nữa… Riêng câu: “Thiên hạ động lửa khắp nơi”, chúng tôi chưa giải mã được việc đó sẽ xảy ra như thế nào, nguyên nhân nào sẽ dẫn đến việc đó? thì đầu năm 2011 vừa qua chúng tôi biết được một thông tin, hai nhà khoa học nghiên cứu thuộc trường đại học Sydney (Ưc) là Bergen và Gavaiev thông báo rằng họ đã phát hiện ra những xung lực bất thường trong lòng trái đất và trong lịch sử trái đất đã có những thời, kỳ tất cả các núi lửa cùng lúc phun trào, trung bình cứ 10 triệu năm thì núi lửa lại cùng phun trào mãnh liệt. Như vậy, liệu tất cả các núi lửa có đồng loạt thức giấc vào năm 2012 hay không như một sô” dự đoán? Nhưng theo dự cảm của chúng tôi thì sự kiện núi lửa cùng phun trào sẽ xảy ra, nhưng phải là sau năm 2012. Và nếu có xảy ra thì cũng rất may là đất nước Việt Nam nằm bên ngoài vòng đai lửa Thái Bình Dương (vành đai lửa Thái Bình Dương là một khu vực hay xảy ra động đất và các hiện tượng phun trào núi lửa bao quanh vòng lòng chảo Thái Bình Dương, nó có hình dạng tương’tự vành móng ngựa và dài khoảng 40.000 km). Có thể sự kiện xảy ra vào năm 2012 có liên quan đến hiện tượng Liên châu, đó là sự sắp xếp thẳng hàng của các hành tinh trong Thái Dương hệ. Năm 1982 cụ cũng nhắc đến hiện tượng này. Đó là thời điểm mặt trời

118

bước vào thời kỳ hoạt động mãnh liệt. Cụ cũng nhắc đến sự kiện vào năm Thìn, Tỵ có nhiều người chết, và năm 2012 sắp tới là năm Nhâm Thìn, liệu nó có liên quan đến sự kiện bi thảm đó hay không? Cụ nói rằng, có những đám đông người đang tụ họp với nhau thì bỗng ngã ra mà chết đồng loạt. Vậy những thông tin dự báo mà chúng ta được cụ cho biết là những thảm họa bất ngờ và nhanh chóng. Cụ còn dự báo về việc nhiều giống lúa mất mùa, do hạt lép và nạn đói kém xảy ra… rồi sau những thời kỳ đen tổĩ đó sẽ có những hiện tượng thiên nhiên kỳ lạ như trời mưa vàng bạc… và cuối cùng th ế giói sẽ thái bình. Câu chuyện tròi mưa vàng bạc mới nghe thì chúng ta tưỏng như một câu chuyện viễn tưỏng, nhưng mới đây (đầu năm 2011) tiến sỹ Brad Carter, giảng viên môn vật lý trường đại học Southern Queesland cho biết ngôi sao Betelgeuse, một ngôi sao lớn thứ hai trong chòm sao Orion đang mất dần trọng lượng ỏ trung tâm và rất có thể phát nổ trong khi di chuyển. Betelgeuse là một ngôi sao trẻ lớn nhâ’t trong vũ trụ, nó có đường kính gấp 1.000 lần và khối lượng gâp 15 lần so với mặt tròi, cách trái đất 640 năm ánh sáng. “Nó sẽ nổ, đó là điều tất nhiên, nhưng nó quá xa để hủy hoại trái đất”, tiến sỹ Carter khẳng định. Ông Carter nói rằng khi ngôi sao khổng lồ này phát nổ, nó sẽ tạo ra một nguồn năng lượng khủng khiếp, trái đất sẽ không có đêm trong vài tuần và siêu tân tinh này 119

phát nổ sẽ cung cấp nhiều tài nguyên có lợi cho sự sông của con người. “Khi ngôi sao này phát nổ, chúng ta nhìn thấy một trận mưa các hạt vụn siêu nhỏ, còn gọi là các hạt neutrinos, ngoài ra còn có cả những nguyên tử kim loại như vàng, bạc và nhiều kim loại nặng khác như uranium…”, tiến sĩ Carter khẳng định. Tuy nhiên ông không biết được thời điểm nào sẽ xảy xa vụ nổ của ngôi sao đó. Vậy năm nào th ế giới sẽ thái bình? Chúng tôi không được biết rõ, nhưng cụ có cho chúng tôi biết một điềm báo. Khi xưa cứ vào dịp đầu năm, cụ thường cho những bệnh nhân đi du xuân đền Và, Sơn Tây, sau đó cụ dẫn đoàn đi thăm đền Ba Cây, nơi thờ Đức Thánh Mẫu. Từ đền Và đi theo một con đường nhỏ phía trước để tới đền Ba Cây, chúng tôi đi qua một cánh đồng và trên cánh đồng lúa của thôn Đồng Nổi có một đàn cá trê đá, đã có từ hàng ngàn năm trước. Mùa xuân năm 1983, khi được đi du xuân cùng cụ qua đây chúng tôi thấy một đàn cá trê đá, có một con trê mẹ và đàn trê con. Cụ nói rằng: À, trời vẫn còn chê. Trong ngôn ngữ, chữ cá trê, người miền Bắc khi nói cá trê người ta không uốn lưỡi chữ tr mà đọc như là ch. Cho nên chữ “trê” lại thành “chê” vậy. Cụ nói rằng, bao giờ cá trê (đá) đi hết, thì th ế giới mới có thái bình. Vào khoảng năm 1990, khi chúng tôi đến đây thăm lại, thì con trê mẹ đã lặn đi đâu mất và hiện nay (2010) chỉ còn một con trê con.

120

NHŨNG Dự BÁO VỂ VIỆT NAM Cụ nói rằng dân tộc Việt Nam chúng ta không bị mất nước, trước hết là vì dân ta có một tinh thần yêu nước kiên cường, bất khuất, và một điều cũng rat quan trọng là luôn có anh linh các vị thánh thần phù trợ (nhân thần và nhiên thần – hồn thiêng sông núi). Đó là một điều đặc biệt thiêng liêng mà không phải dân tộc nào cũng có. Cụ nói rằng, tương lai của dân tộc Việt Nam rất tốt đẹp, sau này các nước trên th ế giới phải đến Việt Nam. Một lần, khi ngồi trong nhà tiếp chuyện, cụ chỉ lên những bức hoành phi câu đốĩ viết bằng chữ Hán Nôm, nói: Sau này những thứ đó phải viết bằng chữ Việt Nam và người các nước trên th ế giới phải học tiếng Việt Nam. Những chùa chiền, đền đài mai ngày sẽ được xây dựng to đẹp, lộng lẫy, nguy nga. Những dự báo của cụ từ những năm 1980 đó, thì nay đã được minh chứng: Trên báo T han h niên, ngày chủ nhật 3 tháng 4 năm 2011, nhà báo Ngọc Minh đã viết bài với tiêu đề: Tiếng chuông chù a g iữ a sóng nước Trường S a trong đó có đoạn: Tôi thực sự ngỡ ngàng trước hình ảnh ngôi chùa Song Tử Tây (trong quần đảo Trường Sa) uy nghi, trầm mặc, tọa lạc ngay trên thềm biển Đông và th ật xúc động khi được chứng kiến ngôi chùa ỏ một hải đảo xa xôi được xây dựng bề thế, tráng lệ. Và điều đặc biệt là, những ngôi chùa trên quần đảo

121

Trưòng Sa, tất cả những văn bia, những hoành phi câu đốỉ đều được khắc, viết bằng chữ Việt. Nhìn những tấm hoành phi, câu đốì sơn son thiếp vàng với những mỹ từ ca ngợi sự trường tồn của dân tộc, ca ngợi cảnh sắc kỳ vĩ của quần đảo Trường Sa, ca ngợi sự mênh mông đến khôn cùng của trời biển nưốc Nam, ví như: Quần đ ảo huy hoàng chất ngất hiển Đông ngời thắng cảnh Chùa chiền sừng sững nguy nga đất Việt nổi danh lam.

Thật đúng như lời cụ Nguyễn Đức cầ n đã dự báo vậy. Có một sô sự kiện quan trọng mà cụ đã dự báo và đã được kiểm chứng. Đêm 27 tháng 12 năm 1972, một siêu pháo đài bay B52 của giặc Mỹ đã bị rơi tại làng hoa Ngọc Hà, Hữu Tiệp (cách nhà cụ không xa). Thật lạ thay, nhà dân trong làng san sát, nhưng các mảnh máy bay không rơi vào nhà mà chỉ rơi xuống hồ, và một điều thật may mắn nữa là bao nhiêu quả bom rơi xuống khu vực làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp, không có một quả nào phát nổ (nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải có bài viết về sự kiện này vối tiêu đề: Chuyện hây g iờ mới kể). Ngày 17 tháng 2 năm 1979, chiến tranh biên giói Việt Trung, Trung Quốc mang quân sang đánh nước ta. Thòi cuộc lúc đó thật là căng thẳng. Ngay sau ngày đó, một người đã hỏi cụ: Thưa cụ, Trung Quốc dọa mang quân đánh vào đến Hà Nội, vậy nó có làm như th ế hay không? Cụ trả lời: Nó không làm được đâu, chỉ ít ngày nữa là nó phải về thôi. Quả nhiên ngày mùng 5 tháng 3 122

năm 1979, Trung Quốic tuyên bô” rút quân, ngày 18 tháng 3 năm 1979 thì rút hết quân xâm lược về nước. Có lẽ người Trung Quốíc còn nhớ câu: Nước N am thường có Thánh tài, sơn h à vững đ ặ t m ấy a i rõ ràn g. Có một việc liên quan đến người Trung Quốc, chúng tôi xin nhắc lại để chúng ta cùng suy ngẫm. Khi Trung Quổc xâm lược nước ta năm 1979, thì nhiều phương tiện thông tin, báo chí lên tiếng. Cụ nói rằng, mình chửi nó, nhưng dân mình lại đi lễ người nước họ. Cụ giải thích rằng, ngay tại đền Ngọc Sơn ỏ Hà Nội có thờ Quan Vũ (Quan Vân Trường), và dân ta hàng ngày vẫn có người vào đấy lễ sì sụp, hoặc ngay cả đền Bạch Mã, một ngôi đền trong tứ trân của Hà Nội, cũng để cho Hoa kiều đưa Mã Viện vào thò. MỘT SỐ NHŨNG Dự BÁO NGẮN HẠN Bà Phùng Thúy cẩm trước đây ỏ phô” Hàng Cháo, Hà Nội, là bệnh nhân kể lại: Một lần cháu nhà tôi nhổ hai cái răng sâu, không ngờ máu phun ra nhiều quá, thâm cả ra áo cháu, hàng xóm trông thây tưỏng cháu bị xe ô tô đâm. Tôi vội lên xin cụ, cụ cho một tờ đạo bảo về hóa cho cháu uống, và cụ dạy: Cô về lấy nước nóng tắm rửa cho cháu, nửa giờ nữa là nó sẽ nhảy dây. Tôi về làm theo lời cụ dặn, th ế là cháu hết chảy máu, nửa giờ sau cháu ra đường nhảy dây với chúng bạn. Đúng như lời cụ dạy. Thật không ngờ cháu lại khỏi nhanh như thế.

123

Một bà nhà giàu có, buôn bán ở Hà Nội, trong một lần ngồi tiếp chuyện tại nhà cụ, khoe rằng, nhà tôi giàu có, vàng bạc ăn mấy đời không hết. Cụ quay sang nhìn bà ta và nói ngay, nhà bà hết đến nơi rồi. Quả nhiên, vài ngày sau, một buổi tốỉ khi người đàn bà giàu có kia đang ngồi trong màn thì bị cảm và cấm khẩu luôn. Mấy đứa con chẳng đứa nào lo lắng chạy chữa cho mẹ mà chỉ xúm vào hỏi tiền, vàng mẹ cất giấu ỏ đâu. Lúc đó thì bà đã câm khẩu, lú lẫn chẳng còn nhớ gì nữa, còn lũ con thì lục tung cả ngôi nhà mà chẳng thấy vàng đâu. Thật là cám cảnh với sự đời như vậy. Trong sô” người đến nhà cụ, mỗi người có những mục đích và duyên cớ khác nhau. Có lần cụ nói, sẽ cho vẽ một trăm bộ mặt để biết người hay kẻ dỏ như thế nào. Một ngày kia có một người đàn ông to béo, dáng điệu nghênh ngang, đến nhà cụ, qua câu chuyện mà ông ta khoe khéo với mọi người thì nhà ông ta không thiếu thứ gì, trong khi lúc đó là thời bao cấp, người dân Hà Nội đang còn chạy từng bữa ăn, nào lo gạo, lo dầu, lo mắm, lo muối… Khi người đàn ông kia ra khỏi cổng nhà cụ, cụ nói rằng: Này, đã có người đi theo rồi, sắp chết đến nơi còn huênh hoang nỗi gì. Thì ra cụ đã nhìn thấy Thần chết (quỷ vô thường) đi theo con người kia, trong từng bước chân, chỉ chờ hạn định là bắt. Quả nhiên, mấy ngày sau người nhà đến cụ thưa chuyện là ông ta đã chết trong một tai nạn bất ngờ. Chúng tôi xin kể một câu chuyện về cái chết. 124

Ổng Vũ Như Lộc, một giáo viên ở Hà Nội, là một bệnh nhân lâu năm đã đến cụ và được cụ cứu giúp nhiều việc trong gia đình. Ông vẫn còn mẹ già và mỗi khi bà cụ Ốm đau, ông đều lên xin cụ chữa bệnh. Lần ấy, khi mẹ ông ốm, ông lại lên gặp cụ. Nhưng lần này, cụ nói rằng, mệnh mẹ ông đã hết, về nhà chuẩn bị đi. Cụ cho ông một tờ đạo dặn khi nào chuẩn bị xong, hỏi bà cụ đồng ý thì hóa tờ đạo. Ông Lộc vội vàng về nhà, gọi những người thân chuẩn bị mọi việc chu đáo, rồi ông thưa vói bà mẹ, lúc đó đang thiêm thiếp trên giường, bà cụ khẽ gật đầu, ông hóa tờ đạo xong, thì bà mẹ ông nhẹ nhàng ra đi. Sau khi hoàn tất tang lễ, ông Lộc lên tạ ơn cụ. Cụ nói rằng sẽ chăm lo cho hương linh mẹ ông, được ỗ nơi an lành. Cụ còn có thể nhìn hoa nỏ để dự báo bệnh gì vẫn còn, hoặc xem cây cỏ để biết đất lành dữ. Cụ cũng có những dự kiến thiên văn chính xác. Theo lời kể của ông Lê Ngọc Vân (Cục trưỏng Cục Dân quân): Vào ngày 12 tháng 8 năm 1973, ông Vân được đi cùng cụ Nguyễn Đức c ầ n sang thăm bà con nông dân thôn Ngô, xã Thạch Bàn, Gia Lâm, Hà Nội. Nhưng trước đó đài phát thanh có thông báo cơn bão sô” 4 đã vào vịnh Bắc Bộ và dự báo cơn bão này sẽ tràn vào vùng đồng bằng Bắc Bộ, trong đó có khu vực thủ đô Hà Nội. Ông Lê Ngọc Vân rất lo về chuyến đi thăm của cụ, vì nghe thông báo đây là một cơn bão lớn và dân Hà Nội đang chuẩn bị chông bão lụt, nhưng cụ lại nói là đi được. 125

Và đúng như dự kiến của cụ, cơn bão này đã không vào Hà Nội. Ông Vân nói, thật may mắn chúng tôi được đi cùng cụ, trong một ngày thu nắng đẹp. Độ NHÂN GIẢI ÁCH Trong hơn 40 năm chữa bệnh giúp dân (kể từ năm 1940 đến tháng 7 năm 1983), cụ Nguyễn Đức cầ n đã chữa bệnh cho hàng vạn bệnh nhân. Thời gian cao điểm thứ nhất là vào quãng từ năm 1950 đến 1954 và thời kỳ thứ hai từ năm 1970 đến 1974. Chỉ tính trong những tháng đầu năm 1974, đã có hàng ngàn người bệnh đến Đại Yên xin cụ chữa bệnh, có người ỏ những nơi xa xôi như đảo Cát Bà, có người từ vùng rừng núi Việt Bắc, có những người cơm đùm cơm nắm, chỉ mong được gặp cụ. Có ngày cao điểm cụ tiếp khoảng hơn 200 người bệnh, có nhiều ngưồi chưa đến lượt, đêm phải ngủ ỏ ngoài đường làng, ngõ xóm Đại Yên. Sô” lượng thư cảm ơn và xin cụ chữa bệnh có thể lên đến hàng chục ngàn lá thư. Hàng năm cụ lại cho đốt đi hàng ngàn lá thư như vậy (thật là đáng tiếc). Hiện nay, tại nhà cụ chỉ còn lưu giữ được hơn 1.000 bức thư của bệnh nhân, trong đó có nhiều bức thư có dán ảnh để làm chứng. Chúng tôi xin liệt kê một sô” bệnh mà cụ đã chữa cho nhân dân, theo vần A, B, (không theo chuyên môn của ngành y tế):

c…

126

– Áp huyết cao – Bazedo – Dạ dày – Đại tràng, đau cột sống, đau đầu, động kinh, đường ruột, đẻ ngược – Gai cột sống, gan (ung thư gan, sơ gan cổ trướng) – Hậu bốì, hạch cổ, hen – Lao hạch, lao phổi, liệt dây thần kinh, liệt tay, liệt chân – Máu trắng, mắt mờ, mất ngủ – Nôn ra máu – Suy tủy – Tâm thần, thấp khớp, thận (suy thận, phù thận), tim (hở van tim, tim loạn nhịp), tóc kết – Ưng th ư vú, ung th ư họng, uôn ván – Vẩy nến, viêm não, viêm mũi, viêm tiết niệu, viêm xoang… Có nhiều trường hợp bệnh nặng, bệnh nhân chết lâm sàng nhờ cụ cứu giúp, bệnh nhân đã khỏi bệnh (ông Nguyễn Quang Chiểu, Ông Nguyễn Hữu Thái…) Đặc biệt, bệnh tâm thần là một loại bệnh nan giải đốì với y học hiện đại, cụ đã chữa khỏi nhiều ca bệnh nặng, lâu năm (ông Trương Văn Ngô, chị Ngô Bích Hạnh, chị Phó Thị Ngà, chị Ngọc Lan, chị Lưu Thị 127

Chung, ông Đào Quang Vĩnh, chị Vũ Thị Chò, Chị Nguyễn Thị Chám…) Không những thế cụ còn giải trừ mê tín, đồng bóng, thờ cúng linh tinh. Cụ nói, làm người phải ăn ở có đức thì mới được tốt đẹp, sinh sông hàng ngày phải lao động cần cù, phong tục tập quán thì nước nào cũng có, còn mê tín dị đoan thì nên bỏ. Ông Nguyễn Văn Dốc, ỏ sô” nhà 378 phô” Bạch Mai, Hà Nội kể lại: Khi vợ ông bị mắc bệnh ung thư, đi chữa ở nhiều bệnh viện, thuốc thang không khỏi, nghe người ta mách bảo phải bô”c thờ tất cả là 7 bát hương, vào ngày rằm, mồng một phải sắm lễ mỗi lần 7 con gà, phải đưa lễ cả vàng và tiền mặt, nhưng bệnh của vợ ông cũng không khỏi. Khi gia đình ông lên cụ xin chữa bệnh, cụ dạy, ở đây không có cúng lễ gì cả, nếu hiểu và biết sửa mình, ăn ồ đôi xử sao cho đúng nghĩa, thì mọi việc đều tô”t cả. Khỏi hay không là ở mình. Nghe những lời dạy quý báu của cụ, ngay lúc đó chúng tôi quỳ xuống xin cụ thương cho, để tự mình tu sửa để được tốt đẹp như lời cụ dạy. Kể từ ngày đó bệnh nhà tôi khỏi dần. Sau đó gia đình ông Dốc xin cụ giải những bát hương thờ cúng linh tinh và được cụ chấp nhận. Ông Vũ Như Lộc kể lại: Vợ tôi bị tâm thần, các bác sỹ Tây y chữa nhưng không khỏi, có người mách phải trình Đồng. Ra Đồng thật tốn kém, lúc đầu có đỡ, nhưng chỉ được một thời gian, bệnh tâm thần lại tái phát. Lên xin cụ chữa, cụ còn cho giải Đồng, chỉ sau một thời gian 128

ngắn vợ tôi đã ổn định. Cụ còn dạy, các khăn chầu áo ngự phải cắt ra làm việc khác, chứ không được bán cho người khác, để người ta không phải vướng vào. TRUYÊN NGHẼ CHO AI ? Đã có nhiều người đặt ra câu hỏi như vậy, chúng tôi xin kể lại một câu chuyện: Vào khoảng năm 1982, có một đoàn khách bên ngành Y tế đến thăm cụ Nguyễn Đức Cần tại Đại Yên, Hà Nội. Đoàn khách đến thăm có khoảng gần 20 sinh viên trường Y và một sô’ cán bộ, giảng viên. Trong lúc ngồi tiếp chuyện cụ, có một cán bộ trong đoàn hỏi rằng: Thưa cụ, xin cụ xem có cháu nào ỏ đây có thể được cụ truyền nghề lại cho khổng? Cụ hỏi lại rằng: Ông hỏi các cháu đây, có cháu nào dám kéo xe bò phân hay không? Nghe vậy, cả đoàn khách đều ngạc nhiên và lặng im, không ai tìm ra được câu trả lòi. Những người khách trên không hề biết rằng, để có được một quyền năng siêu phàm như vậy, cụ đã phải trải qua bao tháng năm lao động cực nhọc, cuốc đất, đốn cây, gồng gánh trong nắng lửa mưa rầu của vùng mỏ, vùng biển và các miền rẻo cao. Ngay cả khi mái tóc trên đầu cụ đã điểm bạc, hàng ngày cụ vẫn còn lao động chăm bón rau màu ngoài ruộng đồng để tự nuôi sống bản thân mình và gia đình. Tên của cụ là Nguyễn Đức cần . Chữ cần có nhiều nghĩa, trong đó có nghĩa là cần cù, tức là siêng năng lao

129

động. Thật vậy, cuộc đời của cụ là cuộc đời của một người lao dộng. Lao động chân tay, hai sướng một nắng “mồ hôi ướt đẫm chiếc áo nâu sờn” và cả sự lao động tâm trí, rèn luyện đạo đức hàng ngày không ngơi nghỉ. Lịch sử xă hội loài người tồn tại và phát triển được như ngày nay là nhờ quá trình lao động của con người trong hàng ngàn, hàng vạn năm. Không dễ gì mà có được một quyền năng siêu phàm như vậy, không thể “Ngồi mát mà ăn bát vàng ”. Và để trả lời câu hỏi: Truyền nghề, cụ nói rằng: Cụ không phải là thầy thuốc nên không truyền lại cho ai. Điều mà cụ muôn truyền lại cho tất cả chúng ta chính là lòng yêu thương, “Nhất viết Từ, nhị viết Kiệm…” MỤC ĐÍCH CHỮA BỆNH ĐỂ LÀM GÌ? Cụ Nguyễn Đức Cần có nói, con người ta sợ nhất là cái chết, mà ốm đau lâu ngày sẽ dẫn đến cái chết. Vì vậy, cụ chữa bệnh, cứu người bệnh thoát khỏi ôm đau và từ đây con người ta có những suy nghĩ đúng đắn về chân lý và lẽ sông trên đời. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải nói rằng, cụ bảo chữa bệnh phải có đức. Tên cụ là Nguyễn Đức Cần, ỏ đấy có chữ đức. Có phải những người được cụ chữa bệnh là những người tốt hay không, tôi không biết, hay đấy chỉ là một phương thức của cụ dùng cách chữa bệnh để khuyên răn con người hưống thiện.

130

Nhà giáo Vũ Văn Ngọc nói: Tôi là người ham đọc sách, nên cũng biết nhiều chuyện về tôn giáo, về các vĩ nhân đã làm việc chữa bệnh. Tôi thấy cụ là một hiện tượng rất đặc biệt, bỏi vì những người như Đức chúa Giêsu, như là Đức thích Ca Mầu Ni, thì lúc bắt đầu đi vào truyền bá đạo của mình, cũng mở đầu bằng việc chữa bệnh. Như vậy, phải chăng sứ mệnh của cụ là cứu giúp dân lành vượt qua những bệnh nạn của cuộc đời, để hưóng tối một tương lai tốt đẹp. VẬY CỤ LÀ Aĩ ? Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương, qua nhiều năm tìm hiểu và nghiên cứu về hiện tượng đặc biệt của cụ Nguyễn Đức cầ n , cho rằng, cụ là hậu thân của Đức Thánh Tản Viên. Tại sao giáo sư lại đưa ra nhận định như vậy, và dựa trên cơ sỏ nào? Có thể, qua những chuyến du xuân của cụ Nguyễn Đức Cần đến thăm Đền Và- Sơn Tây, nơi Đông Cung thờ Đức Thánh Tản, một ngôi đền thiêng liêng trong tâm thức người dân xứ Đoài. Nhiều người đi du xuân cùng cụ (trong đó có ông Nguyễn Hoàng Phương) đều nhận thấy, cụ đến thăm Đền Và, như trở lại ngôi nhà thân yêu của mình. Một lần, khi đứng chụp ảnh cùng bà con bệnh nhân ngoài sân Đền Và, cụ đã đứng lên trên một bệ thờ gần chỗ quan Ngũ Dinh và nói vui rằng: “Ta đứng đây ngó thử vào nhà Ngái”. Không phải ai cũng 131

được phép làm thế. Sau khi rửa bức ảnh này, thấy có mấy ngưòi chòi lên đứng chỗ cao gần sát ngay cụ, cụ bảo người thợ ảnh phải bôi xóa mấy người kia đi, kẻo mà họ sẽ mang tội. Đức Thánh Tản được dân ta tôn thờ là “Nam Thiên Thánh Tổ”, vị Tổ của thánh thần nước Việt. Đức Thánh Tản chính là Sơn Tinh trong câu chuyện truyền thuyết có từ ngàn đời xưa. Nhưng khi nói về câu chuyện này, cụ Nguyễn Đức c ầ n nói rằng: Không bao giờ hai vị thần lại đi tranh lấy một người con gái. Trong truyền thuyết về Đức Thánh Tản, có học giả thồi phong kiến cho rằng Tản Viên là “hạo khí anh linh của trời đất sinh ra”. Nhưng cụ Nguyễn Đức cầ n nói rằng: Thánh Tản Viên là người có thực, họ Nguyễn. Phải chăng, Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương còn dựa vào câu sâm truyền: “Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về ” để đưa ra nhận định trên đây. Còn cụ, khi trả lời câu hỏi trên, cụ đã nói: Tôi là ai, rồi sau này mọi người sẽ biết. CUỘC ĐỜI ĐẠO ĐỨC CỦA CỤ NGUYEN ĐỨC CẦN Cụ Nguyễn Đức cần kể rằng, Thầy tôi dạy muốn thành đạo cứu đời, phải chịu ba điều: nhất bần, nhị yểu, tam vô tự. N hất bần , là phải chịu cảnh nghèo khó, phải rèn luyện, phải chịu khổ, có khổ cực thì mới biết thương đến người dân nghèo. Suốt cuộc đời của cụ là cả một quá trình lao 132

động cần mẫn, chịu đựng bao khó khăn gian khổ “mồ hôi ưốt đẫm tấm áo nâu sờn”. Từ lúc còn trai trẻ cho đến khi mái đầu đã điểm bạc, cụ đã đi rất nhiều nơi trên đất nước, làm nhiều công việc khác nhau, nếm trải bao cay đắng thử thách. Chính vì vậy cụ đã cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ của quần chúng lao động nghèo khổ, thiếu cơm ăn áo mặc, ốm đau bệnh tật không thuốc thang. N hị yểu là gì? Yểu là đoản mệnh, chết non, chết bất đắc kỳ tử. Đó là một việc kinh hãi trong tu đạo. Tạo hóa chẳng cho không ai điều gì. Muốn giúp người bệnh khỏi đau đớn, thì người giúp phải gánh thay những đau đớn đó. Trong quá trình tu đạo để cứu người, cụ đã phải trải qua biết bao đau đớn của những căn bệnh, để tìm ra căn nguyên, và từ đó có phương pháp trị bệnh. Đó là một việc vô cùng nguy hiểm, có thể đánh đổi cả mạng sống của mình. Tam vô tự là gì? Vô tự là trong gia đình không có người kế tự, hương khói. Đó cũng là một việc vô cùng đau đốn. Người ta nói tu là việc để phúc cho con cháu. Nhưng muốn cứu đời là phải xả thân, phải hy sinh bản thân và gia đình. Cái phúc ở đây là phúc lón của nhân dân, của mọi người, chứ không phải cái phúc của riêng gia đình mình. Đau đốn thay những gì mà cụ đã xả thân hy sinh để cứu đời, và thật lớn lao thay cụ là tấm gương sáng chói trong cõi đòi này! Cụ Nguyễn Đức c ầ n đã thực hiện một nguyên tắc sông cao đẹp: cầ n , kiệm, liêm chính, chí công vô tư. 133

Cụ nói, nuôi tôi quá dễ, dạ dày tôi chỉ bé bằng quả quýt thì ăn gì cho nhiều. Bữa cơm thường ngày của cụ, chỉ có một lưng cơm, mấy quả cà và đôi ba chén rượu. Cụ bảo, thế là đủ rồi, dân còn khổ, mình sông sung sướng sao đang. Cụ nói: Bệnh nhân của tôi ố khắp các tỉnh, nếu mỗi người chỉ cần cho tôi một nắm gạo là tôi cũng đủ thừa ăn. Nhưng cụ không cần sự “bô” thí” của người đời. Còn sức khỏe cụ còn lao động, lao động ngoài ruộng vườn của hợp tác, về nhà cụ trồng chuôi ỏ vườn nhà. Trong nhà cụ có hai vườn chuối tiêu, một ỏ phía trước sân, một ỗ phía sau nhà. Cụ nói, cây chuôi là cây có nghĩa, cây mẹ đẻ cây con. Cũng thật lạ, những cây chuôi trong vườn nhà cụ sao thấy tươi tốt vô cùng, tuần nào cũng có chuôi để bán. Sau này, những bệnh nhân thấy cụ đã già, nên họ tự nguyện lên giúp cụ chăm bón vườn cây, để cụ dành thời gian chữa bệnh giúp dân. Trong nhà cụ, mọi thứ đồ vật không thấy có thứ gì đắt tiền, cũng giông như cuộc sống giản dị của cụ. “Mỗi ngày cụ chữa cho hàng trăm người bệnh, nếu giông như ông thầy thuốc khác thì cụ đã giàu to, nhưng cụ không lây tiền mà vẫn ân cần niềm nỏ”, một người bệnh đã viết thư nói như vậy. Cụ nói rằng, người tu phải thực hiện ba điều là không tham, vì mọi người và không thù ghét ai. Người muốn tu phải chịu khổ, ngay cả ăn mặc cũng phải tằn tiện, đừng cậy mình có của mà hoang phí thì không tu được. “Cụ đã giúp cho bao gia đình được hạnh phúc, chăm lo cuộc sống của nhân dân hơn cả cuộc sông của 134

mình. Cụ sông th ật giản dị, mặc bộ quần áo nâu, đi đôi guốc mộc, chẳng khác gì một ông già nông dân”, một bệnh nhân khác viết. Cụ nói rằng, người Việt Nam chỉ có một đạo là Tổ quốc Việt Nam, và gia đình là chôn thiêng liêng nhất. Tại sao lại phải bỏ gia đình, tu thì tu ngay tại nhà. Một người bị bệnh hiểm nghèo được cụ chữa khỏi đã viết: Cụ là cha, là mẹ đã cứu con qua cơn bệnh hiểm nghèo, dù có tiền đầy rừng, có bạc đầy biển cũng không bằng lòng thương người vô hạn của cụ. Một lần, có người hỏi cụ: Thưa cụ, sao có những người ác mà trời không giết hết đi? Cụ ôn tồn, nếu người ta chết hết, thì mình ồ vối ai. Ôi! Lòng trời th ật lón lao, chỉ hiếu sinh chứ không hiếu sát. Cụ còn dạy rằng: Đời người phải có thủy, có chung, có hiếu có nghĩa. Phải biết cái xấu, cái đẹp. Khi chữa bệnh, cũng là lúc cụ khuyên răn người bệnh sửa chữa những thiếu sót của bản thân người bệnh với gia đình và xã hội, để sông tốt đẹp hơn. Cụ đã cảm hóa bao con người trở nên tốt đẹp hơn bằng chính cuộc sông hàng ngày của cụ. Do vậy, những ai mỗi khi được gần cụ cũng cảm thấy tâm hồn mình thư thái, nhẹ nhàng như được cởi mở khỏi những khúc mắc, lo toan của cuộc sông hàng ngày và thấy lòng mình hướng về cái thiện. Ngày 13 tháng 7 năm 1983 (tức ngày mùng 4 tháng 6 năm Quý Hợi), cụ Nguyễn Đức cần đã từ biệt con cháu, họ 135

hàng yêu quý, từ biệt những người bệnh đáng thương, từ biệt tất cả mọi ngưòi đế trở về cõi trường sinh. Người tu đạo đến mức cùng cực như cụ, khi ra đi gọi là trỏ về chôn cũ. Theo “Ngọc lịch Minh kinh”, ngày 30 tháng chạp, ngày sinh của cụ Nguyễn Đức cầ n là ngày Chư Phật giáng hạ, và cũng thật đặc biệt, ngày cụ trở về chốn cũ, ngày mùng 4 tháng 6 (âm lịch) cũng là ngày Chư Phật giáng hạ. Cũng theo Ngọc lịch, trong một năm âm lịch (khoảng 354 ngày) chỉ có hai ngày Chư Phật giáng hạ. Trước khi ra đi, cụ Nguyễn Đức cầ n nói rằng: Công việc của tôi đến nay đã xong. Đó là công việc trị bệnh giúp đời ồ cõi trần gian này, nhưng, công việc cứu nhân độ th ế của cụ mới được 50%, cụ còn phải làm nốt công việc đó (trong cõi vô hình) thì mới trọn lời thề nguyện ấy, để triệu dân vui thỏa, thiên hạ thái bình. M ù a X u â n n ă m T â n M ã o 2 0 ỊỊ

Phẩn III KHOA HỌC NGOẠI CẢM ở VIỆT NAM

NGOẠI CẢM LÀ GÌ? Những hiện tượng đặc biệt về tinh thần: thường gọi là hiện tượng ngoại cảm (extrasensory), bao gồm những khẳ năng đặc biệt về tinh thần như: thần giao cách cảm (telepathy), liên lạc với ngưồi Am (clairvoyance), sự tiên tri (precognition), hồi tưỏng (retrocognition), thiên nhãn thông (remote viewing), quan trắc ngoại cảm (psychometry), hào quang (xenoglossy), gọi hồn (mediumism), thấu thính (clairaudience),’ thấu thị (clairsentience), ma ám (possession)… Đặc điểm chung của những hiện tượng tinh thần là có sự trao đổi thông tin không qua năm giác quan thông thường. Mọi người chúng ta có năm giác quan là: thị giác (mắt), thính giác (tai), vị giác (lưỡi), khứu giác (mũi), và xúc giác (da), giúp chúng ta cảm nhận được thế giói xung quanh mình. 137

Những người có những khả năng đặc biệt vượt ra ngoài giới hạn của năm giác quan thông thường thì người đó gọi là nhà ngoại cảm (extrasensory). Có 4 lý do để trở thành nhà ngoại cảm: – Bẩm sinh: Tức là sinh ra đã có khả năng ngoại cảm. – Hình thành sau khi phải trải qua một biến cô” như bệnh lý hiểm nghèo, đã ỏ giữa cái chết và sự sông, thậm chí đã chết lâm sàng vài ngày rồi sống lại, hoặc phải trải qua một chân động nào đó. – Các thiền sư tu hành lâu năm, đắc đạo mà thành. – Được đào tạo mà thành. Khả năng của những người này thưòng kéo dài không được lâu Hiện tượng đặc biệt về th ể xác: Bao gồm những hiện tượng đặc biệt của cơ thể như: tâm năng điều khiển (psychokinesis), năng lượng ma (poltergeist), hiện hình (materializations), chữa bệnh tâm linh (psychic healing, faith healing), sự trùng hợp (synchronicity), thôi miên (hypnosis). Đặc điểm chung của những hiện tượng thể xác thường có những thay đổi về thể xác dưới sự tác động của tâm năng. H iện tượng đ ặc biệt về sinh tử: Nghiên cứu sự tồn tại của ý thức sau khi chết, bao gồm hiện tượng về ma quỷ (ghost), thoát xác (out-of-body experience OBE), đầu thai (reincarnation), chết đi sống lại (near-death experience NDE). 138

Sự phân chia lĩnh vực cận tâm lý nói trên chỉ mang tính tương đối, bởi có những hiện tượng xảy ra khó phân định rõ ràng. Bên cạnh đó có nhiều hiện tượng lạ thường, không giải thích được bằng khoa học. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CÚƯ NGOẠI CAM Ngoại cảm thuộc về khoa học huyền bí (pseudoscience), vì vậy tất cả hệ thống lý thuyết cũng như phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại không thể áp dụng trong lĩnh vực này được. Hiệp hội Cận tâm lý học của Mỹ lựa chọn phương pháp nghiên cứu bằng thực nghiệm (experimental research), thông qua những s ố liệu thống kê đê kết luận đánh giá về hiện tượng tâm linh. Trên th ế giới, đã thành lập các trung tâm nghiên cứu về tâm linh, đó là: – Hội nghiên cứu tâm linh của Anh (Society of Psychical Research) thành lập từ năm 1882 và Trung tâm nghiên cứu tâm linh (Psy ResearRoney Dougal) – Hội nghiên cứu tâm linh của Mỹ thành lập năm 1885. – Năm 1969, Mỹ đã chính thức thành lập Hội nghiên cứu Cận tâm lý (American Parapsychological Association), trực thuộc Hội Xúc tiến khoa học Mỹ (American Association for the Advancement of Science). – Viện Hàn lâm Tôn giáo và tâm linh của Mỹ (Academy of Religion and Psychical Research). 139

– Trung tâm nghiên cứu những hiện tượng cơ bản và dị thường (The Centre for Fundamental & Anomalies Research). – Hội Nghiên cứu cận tâm lý Nhật (Japaness Society for Parapsychology) thành lập năm 1968, xuất bản tờ tạp chí Cận tâm lý N hật (Japaness Journal for Parapsychology). – Hội Nghiên cứu tâm linh Scotland (Scottish Society for Psychical Research) thành lập năm 1987. – Hội Nghiên cứu khí công, Hội nghiên cứu công năng đặc dị được thành lập ồ Trung Quốc. – Hội Nghiên cứu cận tâm lý úc (Australian Society for Parapsychology). – ở Việt Nam, Trung tâm N ghiên cứu Tiềm năng con người được thành lập ngày 31 tháng 1 năm 1997 tại địa chỉ sô” 10 đường Đào Tấn, quận Ba Đình, Hà Nội (Viện Vật lý Việt Nam) do G S-TS Ngô Đạt Tam làm giám đốc, và sau này (2007) là GS – TS Đào Vọng Đức, nguyên viện trưỏng Viện Vật lý , làm giám đôc. Từ tháng 12 năm 2009, GS – TSKH Phan Anh làm giám đốc. NGƯỜI CHỮA BỆNH ĐẶC BIỆT Vào năm 1974, khi chúng tôi vừa kết thúc đợt nghiên cứu thực nghiệm về sinh học thì ở Hà Nội xuất hiện một người có khả năng chữa bệnh đặc biệt, một cụ già ỏ làng Đại Yên. 140

Cụ có thể chữa bệnh cho người khác không cần dùng thuốc. Người bệnh có thể trực tiếp gặp cụ, trình bày bệnh tật của mình. Sau đó, nếu cụ nhận lời chữa bệnh, bệnh có thể khỏi mà không cần thuốc. Khi người ốm ỏ nhà, hoặc nằm trong bệnh viện, người nhà lên xin chữa giúp, nếu cụ nhận lời, bệnh nhân được chữa cũng có thể khỏi. Cụ là Nguyễn Đức cần. Cụ sốíng trong một căn nhà rộng, có vườn cây, nhiều hoa quả, chữa bệnh cho người khác mà không lấy tiền. Tuy nhiên, lôi chữa bệnh có tính chất kì lạ, gần như thần bí ấy khiến nhiều ngưòi không thể hiểu được, và đã có dư luận coi cụ là phù thủy. ở các nước, danh từ này chĩ một loại người có những khả năng đặc biệt: tìm nguồn nưốc chỉ vói một cành liễu cầm tay, chữa bệnh không dùng thuốc hoặc kèm những câu thần chú, đi trên lửa với bàn chân trần, tiếp xúc với những lực lượng vô hình… Nếu quả thật có những phù thuỷ như vậy thì phù thuỷ cũng là một hiện tượng khoa học cần nghiên cứu. Nhà nữ ngoại cảm Liên Xô (cũ) – Djouna Đavitatxvili được phong danh hiệu tiến sỹ. y khoa, vì có khả năng chữa bệnh chỉ với đôi bàn tay… Khi vâ”n đề được chính thức đặt ra, chúng tôi không chỉ có một đối tượng nghiên cứu là nhà chữa bệnh ở Đại Yên, mà còn có một sô” nhân vật ngoại cảm khác, trong đó có những người là cán bộ khoa’ học. Tuy nhiên, hiện tượng Đại Yên vẫn là hiện tượng

141

đặc biệt nhất mà chúng tôi đă gặp cho tối nay. Cùng lúc ấy, báo chí Liên xô giới thiệu nhà ngoại cảm Tôpich Đađasep, người có thê nhận biết ý nghĩ và điều khiển hành động của người khác, việc nhà phi công vũ trụ Mỳ E Mitchell tiến hành các thí nghiệm truyền ý nghĩ từ con tàu Apollo 14 về trái đất… đă đưa chúng tôi đến giả thuyết về sự tồn tại của một năng lực đặc biệt để giải thích các hiện tượng ngoại cảm… Được phép của uỷ ban Khoa học nhà nước, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu tỉ mỉ việc chữa bệnh ỏ Đại Yên. Tôi lên cụ vào ngày mùng 6 Tết năm Giáp Dần, 1974. Tôi còn nhớ rõ, buổi sáng hôm ấy cụ cùng một sô” bệnh nhân vừa đi thăm đền Và (Sơn Tây) về. Trong nhà, người bệnh đang ngồi chờ cụ chữa bệnh cho họ, rất đông. Khi đến, tôi coi như một người bệnh và quan sát cụ tiếp khách, chữa bệnh. Bâ”y giò có một người phụ nữ đến xin cụ chữa bệnh, người này hình như có một tình trạng thần kinh thế nào đó. Cụ có khuyên giải một sô” điều. Sau đó, bâ”t chợt cụ thây tôi ngồi mãi mà không nói câu gì, không xin chữa bệnh như mọi người. Cụ có quay sang tôi, cụ nói: – Thưa ông, ông cần gì đấy ạ? Tôi trả lời: – Thưa cụ, tôi không đến để xin chữa bệnh. Tôi là một cán bộ nghiên cứu của Viện Khoa học Việt Nam. Tôi có nghe người ta nói về cách chữa bệnh đặc biệt của cụ, nay muôn lên gặp cụ để tìm hiểu về vân đề này. Nếu 142

đây là một sự thực, chúng tôi sẽ tìm cách giới thiệu dưới ánh sáng của khoa học. Nghe vậy cụ tiếp tôi vói một trạng thái khác. Cụ trả lời: – Vâng thưa ông, tôi chữa bệnh bằng cái đầu của tôi, nhưng người ta cứ bảo tôi là phù thuỷ. Ấn tượng đầu tiên của tôi khi gặp cụ, thứ nhất là lời ông cụ nói, cụ chữa bệnh bằng cái đẩu. Đó là điều tôi chú ý và rất lôgich. Tôi chờ đợi câu trả lời như vậy. Thứ hai, cụ là một người phải có cái gì đặc biệt. Tôi nhận thấy là cụ có đôi mắt rất sáng, nó loáng một cái, cái nhìn ấy không thể giống như một người bình thường được. Một cái nhìn có ánh quang. Khi lên gặp cụ, tôi chưa có những điều kiện thu thập các tài liệu như về sau này. Tôi là một người nghiên cứu về sinh vật học, tôi có viết một cuốn sách về những điều kỳ lạ trong th ế giới sinh vật. Khi viết cuốn sách đó tôi phải thu thập các hiện tượng lạ trong th ế giới sinh vật, và việc chữa bệnh của cụ là một hiện tượng lạ trong th ế giới sinh vật và con ngưòi. Như vậy nó nằm trong diện quan tâm của tôi. Tôi thấy cụ chữa bệnh không phải hỏi bệnh nhân, nên tôi liên hệ là cụ nhận biết bằng thần giao cách cảm. Cụ có thể chữa bệnh cho người khác từ xa, thì tôi liên hệ đến tài liệu của Paul Jagot, thôi miên từ xa – có thể tạm gán cho là như thế. Lúc đó Ưỷ ban Khoa học kỹ thuật nhà nước có xuất bản tập N hững dự b áo k h o a học năm 2000, trong đó có mục dự báo năm 2000 coil người có thể nghiên cứu và ứng dụng các h-ện tượng truyền ý nghĩ, 143

tiếng Anh gọi là ExtrasensoryPhenomenag. Những cái đó đặt nền móng cho việc tìm hiểu việc chữa bệnh của cụ, nên tôi thấy nó không xa lạ mà có cơ sỏ khoa học. Tôi phải làm mây công việc sau đây: Thứ nhâ”t, tôi tìm trong những thư cảm ơn của bệnh nhân đốì vói cụ, những ca đặc biệt, tôi tìm đến những người đó. Những người bệnh này có cho tôi xem một sô’ hồ sơ bệnh án, họ đã đi chữa ồ một sô’ bệnh viện, kết luận là không thể chữa khỏi hoặc là khó chữa, nay đến cụ thì được chữa khỏi. Đấy là một trong những bằng chứng, có căn cứ để nói là cụ có thể chữa bệnh. Tiếp đó, chúng tôi chuẩn bị những bệnh nhân mới, với hồ sơ đã chữa ỏ các bệnh viện không khỏi. Sau khi cụ cầ n chữa khỏi, lại đưa đến bệnh viện xác minh lại. Kết quả cho thấy việc chữa bệnh “không dùng thuốc và từ xa” là có thật. Các sự kiện phù hợp với giả thiết về một năng lượng sinh học đã được phát ra từ người chữa được truyền sang người bệnh lại được củng cô” thêm bởi các thông tin về Hội nghị năng lượng tâm thần (Psychotronik) họp ở Praha, Tiệp Khắc (cũ), có khoảng 250 nhà khoa học của hơn 20 nước tham dự, trong đó có Liên Xô. Thứ hai, tôi quan sát trực tiếp việc chữa bệnh của cụ, với phương pháp chụp ảnh trưốc và sau khi chữa đôi với một sô’ ca bệnh, thí dụ như một ca bệnh vẩy nến, là bệnh mà toàn thân người bệnh bị mọc mụn khô thành vẩy. Vậy thì cụ chữa như th ế nào? Cụ lây ra một miếng

144

giấy, bảo người bệnh đốt miếng giấy đó trên một chậu nưốc, rồi lấy nước ấy rửa chỗ đau của cơ thể. Rõ ràng, khi thấy hiện tượng đó thì người nào cũng thấy đó là thần bí mà người ta có thể gọi là mê tín dị đoan. Thế nhưng, khi tôi chụp và so sánh ảnb người bệnh lúc chưa được chữa thì đầy những vẩy nến trên cơ thể, và sau khi rửa cái nưóc đó thì chỉ sau hai tuần lễ nó đã bớt đi rất nhiều, trước đó ngưồi bệnh đã đi chữa ở nhiều nơi nhưng không khỏi. Như vậy, rõ ràng chúng ta phải kết luận, trong trường hợp này, việc chữa bệnh của cụ là có cơ sở. Thứ ba, tôi phải tìm hiểu bản chất việc chữa bệnh của cụ. Cụ chữa bệnh bằng việc nhận lời hoặc cho người bệnh một miếng giấy. Cụ nhận lời thì tôi có thể cắt nghĩa đấy là cụ có thể chữa bệnh từ xa, điều khiển từ xa. Thế nhưng miếng giấy là cái gì? Rất may là lúc bấy giờ tôi có sưu tầm rất nhiều tài liệu của thế giói. Người ta có nói là những nhà chữa bệnh bằng trường sinh học có thể tích năng lượng vào các vật dụng khác, ví dụ: tích năng lượng vào một cốc nước, một miếng giấy, một quả cam… rồi đưa cho bệnh nhân ăn, người bệnh thông qua đó được tiếp năng lượng thì có thể khỏi bệnh. Đó là một nguyên tắc mà những nhà chữa bệnh trên thế giới họ đã tự viết ra như vậy. Sau đó đến giai đoạn thực nghiệm. Tôi vôn không uống được rượu, hôm ấy khi cụ mời tôi uống rượu thì mọi người ỗ đó bảo tôi là cứ uống đi rồi cụ sẽ giải cho. Tôi chấp nhận để thử xem th ế nào. 145

Lúc đó một người rót cho một chén rượu, tôi uôhg vào thì thấy ngây ngất, mặt nóng bừng. Cụ nói với một ngưòi ngồi gần đấy đưa cho cụ cái khay trong đó có những miếng giấy. Cụ cầm miếng giấy tích năng lượng vào đó rồi cụ bảo đốt đi. Một người cầm miếng giấy đó đốt trên cốíc nước rồi tôi uống cốc nước đó. Chúng ta biết rằng khi uống một cốc nưốc đá, thì cảm giác lạnh có từ cổ trỏ xuống, hoặc uống nước nóng thì cảm giác nóng có từ cổ trỗ xuống. Nhưng ở đây lại khác, trong trạng thái mờ mò do uấng rượu và say, khi tôi uống cốc nước đó thì thấy như có một cái mành mành chạy lách tách thả từ trên đỉnh đầu xuống, có một cái gì đó sáng ra, đây là một trạng thái rất lạ, và tất nhiên tôi có tỉnh hơn nhưng không thể hết hẳn say như khi bình thường. Sau đó, tôi có rủ anh Hoàng Phương là một phó tiến sĩ toán lý, anh có lên trên cụ và tôi có mời anh uống rượu. Nhưng tôi không nói cảm giác của mình cho anh biết. Thực nghiệm thì phải làm như vậy. Sau khi anh uống, tôi có đề nghị cụ cho anh ấy một liều thuốc giải. Khi anh uống xong chén nước, tôi hỏi anh thấy th ế nào, anh có tả lại cảm giác như tôi đã cảm nhận. Lúc đó tôi* mới nói với anh, đó cũng chính là cảm giác của tôi khi được cụ cho giải rượu. Ngày 26 tháng 4 năm 1974, trong buổi báo cáo của chúng tôi tại Bộ công an, Bộ trưởng Bộ công an Trần Quốc Hoàn đã phát biểu: “Việc chữa bệnh của cụ là có cơ 146

sỏ khoa học, trước đây tôi cũng có khả năng này, nhưng do tham gia cách mạng, nếu không tôi cũng có khả năng chữa một sô” bệnh như cụ c ầ n ”. Vào ngày 30 tháng 4 năm 1974, các cơ quan của Nhà nước có tổ chức quay phim việc cụ chữa bệnh tại Đại Yên, Hà Nội. Sự việc đó là do chính chúng tôi đề xuâ”t với cụ và với cơ quan Nhà nước để ghi nhận một sự kiện khoa học. Chúng tôi đề nghị là phải dùng biện pháp quay phim, vì chỉ quay mới so sánh được kết quả lúc trước và sau khi chữa bệnh. Chúng tôi có đề nghị vối xưỏng phim Tư liệu khoa học. Thứ hai tôi có nhờ đến xưởng phim Quân đội, sau đó lại nhờ thêm xưỏng phim của Vô tuyến truyền hình. Tôi không biết đoàn nào có thể đến được vì khi nhận lời các anh ấy không nói một cách chắc chắn. Buổi hôm đó, chúng tôi có mời ông Lê Khắc, Phó chủ nhiệm u ỷ ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước, một sô” đại diện ngành y tế, các cơ quan khoa học, bộ Công an, một sô” tưóng lĩnh trong quân đội như thiếu tướng Kinh Chi, ông Đặng Quốc Bảo… Buổi quay phim hôm đó tổ chức ngay tại nhà cụ Nguyễn Đức cần, cả ba đoàn quay phim đều đến, có công an Hà Nội làm nhiệm vụ bảo vệ. Ông cụ chữa một ca bệnh tóc kết. Cụ điều khiển, một người phụ nữ cầm lược chải tóc người bệnh cho nó xuôi ra, chải một lúc lại thấy bị ‘tắc, bèn nói: “Thưa cụ, xin cụ cho mỏ thêm ra, không thể chải được”. Cụ giơ tay điều khiển thì lại chải được tóc, sau một lúc thì tóc mượt 147

ra. 15 ngày sau, chúng tôi có tìm lại người bệnh ấy thì tóc vẫn mượt, không quăn trở lại. Điều quan trọng vói người bệnh là khi tóc bị kết thì bị đau đầu, sau khi cụ chữa thì người bệnh không còn bị đau đầu nữa. Bệnh nhân thứ hai bị bại liệt, chân đã bị teo. Cụ nói ngay: “Cái chân này không thể chữa khỏi ngay được đâu, nhưng tôi sẽ làm cho nó cử động”. Cụ điều khiển thì cái chân cử động được thật, vì trước đó một bác sĩ bệnh viện Việt Xô (bệnh viện Hữu nghị) đã lấy kim châm nhưng chân đó không thể cử động. Chúng tôi có mời hai bác sĩ: một bác sĩ ở bệnh viện Việt Xô giám định ca bại liệt, bác sĩ bệnh viện Bạch Mai giám định ca bệnh tóc kết. Các bác sĩ có phát biểu và đã ghi âm, kết luận là việc chữa bệnh của cụ buổi đầu có kết quả. Anh Nguyễn Hoàng Phương, một người cùng nghiên cứu vói chúng tôi, ngay sau buổi quay phim đã đọc một bài phát biểu, trong đó anh nói: “Sự kiện cụ Nguyễn Đức Cần có một khả năng kỳ diệu và những phương pháp chữa bệnh hoàn toàn mới và rất thần tình, mặc dầu chưa giải thích được, là một tồn tại khách quan không thể phủ nhận được”. Cụ có nói là bệnh của con người có hai vấn đề: “thân bệnh” và “nghiệp bệnh”, “thân bệnh” thì có thể chữa được, còn “nghiệp bệnh” thì khó, nghĩa là có người có thể khỏi bệnh, có người không khỏi, và có cả người cụ không nhận chữa. Cụ bảo, chữa bệnh phải có “đức”. Tên cụ là Nguyễn Đức Cần, ở đấy có chữ “Đức”, ở đây, khái niệm đạo dức

148

của cụ là con người sống không làm điều ác, không phạm các tội lỗi vói xã hội, , không bất hiếu với cha mẹ, đó là đạo’ đức thông thường và cụ khuyên người ta làm việc thiện. R ất tiếc là những điều kiện sau đó không thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học ngoại cảm ỏ nước ta. Mãi đến năm 1990, khi tôi trỏ lại công tác tại Viện Khoa học Việt Nam, vấn đề nghiên cứu ngoại cảm mới chính thức được đặt lại. Đầu năm 1991, một ban vận động thành lập Hội nghiên cứu khoa học ngoại cảm, gồm nhiều giáo sư, tiến sĩ và các nhà nghiên cứu tham gia, do giáo sư Đào Văn Tiến làm trưỏng ban, đã chính thức ra đời để chuẩn bị cho một tổ chức khoa học nghiên cứu về hiện tượng này… Khoa học ngoại cảm khác với các khoa học thực nghiệm khác ở chỗ: Đốì tượng nghiên cứu của nó là những con người có khả năng ngoại cảm. Việc tìm được những người thật sự có khả năng ngoại cảm, tự nguyện cống hiến khả năng của mình cho việc nghiên cứu và cho lợi ích xã hội không phải là dễ dàng. Năm 1997, Đảng và Nhà nước ta đã cho phép thành lập một Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam, trong đó có một Bộ môn nghiên cứu năng lượng sinh học của những con người có khả năng đặc biệt như cụ, và vấn đề chữa bệnh của cụ đã được làm sáng tỏ. NGUYỄN PHÚC GIÁC HẢI

149

NHÀ NGHIÊN CỨU NGUYÊN PHÚC GIÁC HẢI Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải không chỉ nổi tiếng giữ nhiều trọng trách: Chủ nhiệm Bo môn Thông tin – Dự báo của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, u ỷ viên Ban châp hành trung ương Hội Các ngành sinh học Việt Nam, Thường trực Ban chấp hành Hội Thiên văn vũ trụ – Hội Vật lý Việt nam, Cố vấn nhiều chương trình khoa học của Đài truyền hình Việt Nam. Ông còn nổi tiếng vì là nhà khoa học không có học hàm học v ị . M ất việc, m ất vỢ vì… nghiên cứu hiện tượng lạ “Từ ngày tốt nghiệp đại học Sư phạm về dạy ỏ trường Bổ túc Công nông, tôi đã ham mê nghiên cứu về những khả năng kỳ diệu của con người, như khả năng ngoại cảm, khả năng chữa bệnh từ xa… Khi được mời về làm việc ỏ u ỷ ban Khoa học Nhà nưóe, tôi như cá gặp nước. Ngoài công việc ỏ viện, tôi còn lao vào nghiên cứu các hiện tượng lạ như việc chữa bệnh không dùng thuốc của cụ Nguyễn Đức cần… Nào ngờ, có người không tin những việc tôi nghiên cứu là có thật, họ còn cho tôi là lợi dụng khoa học để tuyên truyền mê tín dị đoan, và quyết định cho tôi ra ngoài biên chế Nhà nước”- Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải ngậm ngùi nhớ lại. Đó là ngày 1 tháng 5 năm 1976, ông được lãnh đạo Ưỷ ban Khoa học Nhà nước gọi lên bảo: “Nếu nhận mình sai thì được ỏ lại Viện, còn cứ giữ quan điểm của mình thì sẽ thi hành kỷ luật, ra khỏi Viện”.

150

Sau “lần gặp” ấy, ông phải “về vườn”. Mức lương thực từ 13,5kg hạ xuống còn llk g ! Cú sốc này.không chỉ mình ông gánh chịu, vợ và hai con ông cũng vô cùng hoang mang… “Thời bao cấp, cái lý lịch và biên chế Nhà nước như là một “chứng chỉ về đạo đức”, nên có ngưòi gợi ý với tôi rằng: muốn giữ được lý lịch trong sạch cho vợ con thì chỉ có con đường tốt nhất là… ra toà ly dị! Và vợ chồng tôi đã làm như vậy!” Giọng ông bùi ngùi, mắt nhìn ra xa xăm, trên vầng trán hằn sâu những vết nhăn. Nào ngờ ly hôn giả hoá thật! Năm 1977, bà không chịu đựng nổi nên đã mang con vào Nam sinh sống. Sự xa cách trong vô vọng đã dẫn đến cuộc kết hôn của bà vói một người khác là giảng viên đại học… Nhưng cuộc hôn nhân này cũng chỉ kéo dài được sáu tháng! Là một nhà nghiên cứu, nguồn thu nhập chính của ông là viết báo về lĩnh vực mình am hiểu, say mê, đó là tiềm năng của con người, được độc giả đón nhận. Nhưng vói cái “án” như thế, không báo nào còn dám đăng bài của ông. Không kiếm tiến bằng ngòi bút được, ông xoay sang việc khác: ngày luyện thi đại học, đêm tay kìm tay búa làm đồ chơi trẻ con bán lấy tiền độ nhật và đóng góp nuôi con. Đến bây giờ ông còn hóm hỉnh đọc thơ về cái thời đen tốì của mình:

151

Cũng kìm cũng búa cũng như ai K h oa h ọ c đem ra c h ế d ồ chơi Con trẻ p h en này d à thích thú G iáo dục mầm non hẳn kịp thời.

Còn nói về luyện thi “chui”, viết sách L ịch t h ế kỷ XX thu gọn phải dùng tên người khác và “gà trống” nuôi con, ông có thơ tự trào: N hà nước phon g người chức g iáo sư Còn td hú chịu kém người ư? Luyện thi mấy trẻ ta là g iáo K hông vợ ỈO ndm hẳn gần sư…

15 năm đằng đẵng, năm nào ông cũng đâm đơn khiếu nại gửi các cấp có thẩm quyền nhưng đều bặt vô âm tín. Mái tóc của nhà giáo, nhà khoa học ngày càng thưa, càng bạc. vầng trán rộng của ông ngày càng hằn thêm những vết nhăn… “Sông là phải có niềm tin!” “Một hạt giống gieo xuống có thể nó không mọc thành cây nhưng anh không gieo thì không bao giờ có hy vọng” – Nguyễn Phúc Giác Hải nhắc lại “cái phao” mà trong những ngày khốn khó nhất của án “chăn dê” ông bấu víu vào nó. Không có tiền mua sách, tài liệu để tự nghiên cứu thì ông tìm đến hàng đồng nát. Rồi tình cờ một lần ông đọc trong tờ Tuần tin tức Mat-xcơ-va (Les Nouvelles de Moscow) có đăng tin về cuộc thi Tìm hiểu về nước Nga. Khi đến tay ông kỳ thi chỉ còn hạn 15 ngày và 6 trong 8 152

câu hỏi đã được đăng tải. Đó là năm 1983, ông vừa tìm tiếp các câu hỏi còn lại vừa ngồi gõ thắng bằng tiếng Pháp bài dự thi vào chiếc máy chữ cũ kỹ… Ngày 7-11-1983, ông đang lang thang ở hàng sách cũ thì nghe thấy tiếng một người bạn: Hải ơi! Cậu được giải của Liên Xô rồi! Lần ấy ông đã vượt qua thí sinh của 94 nước tham dự cuộc thi và giành giải nhất. Ông vinh dự được mời sang thăm nước Nga. Chuyến đi ngán ngủi ấy ông đã mang những bông sen tươi thắm sang viếng người sáng lập ra Liên bang Xô Viết, để lại ấn tượng tốt đẹp về con người và đất nước Việt Nam trong lòng người dân Xô Viết. Trong hành trình của cuộc viếng thăm, ông đã đến trường Đại học tổng hợp Lomonoxop, ỏ đó ông gặp lại những người bạn cùng làm ỏ Viện Khoa học Việt Nam ngày nào, nay đang làm luận án tiến sĩ… Họ bảo với ông rằng: Nếu anh còn ỏ trong biên chế thì bây giờ cũng đi làm tiến sĩ như chúng tôi… Từ lưu bút của Nguyễn Phúc Giác Hải ỏ nghĩa trang các liệt sĩ vô danh, ông lại “chiến thắng” trong kỳ thi nhân ngày kỷ niệm 40 năm chiến thắng phát xít của Đài phát thanh và truyền hình Tasken. Lần ấy bài của ông với nhan đề T asken qu a các đ ạ i b ách k h o a toàn thư trên t h ế giới lại giành giải nhâ’t. Năm 1985, ông lại được mời sang thăm nước Nga và phát biểu trên truyền hình. Dòng lưu bút Nhân danh sự sống trên trái đất của ông ngày nào tại nghĩa trang các 153

liệt sĩ vô danh, được lấy làm tít cho các bài báo xuất bản ỏ Nga bằng nhiều thứ tiếng. Thời gian vẫn nặng nề trôi, đến năm 1990 “cái cây ấy đã vươn lên tươi tốt” theo cách nói ví von của Nguyễn Phúc Giác Hải. “Đơn khiếu nại của tôi đã đến được tay Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, và tôi được phục hồi về nghiên cứu khoa học ỏ Viện”. Nguyễn Phúc Giác Hải vui vẻ kể lại: Trong cuộc điều đình để tôi lại được làm việc ở Viện, tôi vô cùng cảm động vì cuốĩ cùng công việc nghiên cứu về tiềm năng con người của tôi đã không vô ích và có người hiểu. Điều ấy là quan trọng nhất! Viện sĩ Nguyễn Văn Hiệu nói: “Nếu có một Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, thì người đầu tiên tôi mời tham gia nghiên cứu là Nguyễn Phúc Giác Hải”. Tôi đứng bật dậy phát biểu: “Tôi vô cùng sung sướng được tham gia cùng các đồng chí… Và không đặt ra một điều kiện gì về án kỷ luật 15 năm của tôi!”. Kể đến đoạn này, bỗng nhiên ông trầm tư: Người ta sống ỏ trên đời là phải có niềm tin, cho dù ngày hôm nay có đen tối với cá nhân anh như thế nào đi chăng nữa. Làm khoa học thì càng phải có bản lĩnh! Đi tìm tên nước V iệt Nam Đã từ lâu trong sách giáo khoa của ta không hể nhắc gì đến sự ra đời của quốc hiệu Việt Nam. Tên Việt Nam có từ bao giờ. Trong khi đó Đ ại bách k h o a toàn thư Anh (Encyclopaedia Britannica) 1992 đã viết như sau: 154

“Năm 1802, một triều đại mối đã hình thành ỗ Việt Nam (Đại Việt), do Nguyễn Phúc Ánh, một thành viên của hoàng tộc nhà Nguyễn ở Huế. Ong đã xoá bỏ được nhà Tây Sơn và thông nhất được đất nước. Nhà Thanh lúc bấy giờ là thời của Gia Khánh Hoàng đế, đã nhìn nhận vấn đề này như một việc đã rồi, nhưng một cuộc tranh cãi đã nảy ra về tên gọi của đâ’t nước mới này. Nguyễn Phúc Ánh đề nghị gọi tên là Nam Việt, nhưng nhà Thanh đã đảo ngược hai chữ và đề nghị là Việt Nam. Cuối cùng hai bên đã nhất trí, và Nguyễn Phúc Ánh trở thành vua của Việt Nam. Một sô” sử liệu khác cũng nói vậy. Một lần, khi nghiên cứu các tư liệu về nhà tiên tri Nguyễn Bỉnh Khiêm, tôi thấy hai chữ Việt Nam đã có trong tư liệu này. Điều đó làm tôi băn khoăn: Liệu Đại bách khoa toàn thư Anh và các sử liệu khác ghi như vậy có đúng không? Đó chính là lý do để tôi từ năm 1991 là một người “ngoại đạo” nhảy sang “nghiên cứu lịch sử”. Với sự nghi ngờ của người nghiên cứu khoa học, Nguyễn Phúc Giác Hải đã lặn lội khắp trong Nam, ngoài Bắc để tìm những cứ liệu lịch sử. Điều ông rấ t tâm đắc là tới nay ông đã tìm thấy trên những bia đá có khắc hai chữ Việt Nam trước năm 1802. Đó là những tâm bia ỏ chùa Bảo Lâm (1559); chùa Phúc Thánh (1604); Thuỷ Môn Đình (1670)… Những cứ liệu này vô cùng quan trọng để tìm ra nguồn gốc tên gọi Việt Nam có từ bao giò và ai đặt tên? Đây là cả một vấn đề lớn của lịch sử. Sau những chuyến đi thu thập cứ liệu, ông lại về sống âm thầm lẻ bóng, bầu bạn với sách vỏ trong căn nhà ngoài 155

đê sát mép sông Hồng, ở đường Bạch Đằng, Hà Nội. ông thường nói đùa với bạn bè “ngõ nhổ phô” nhỏ nhà tồi ở đó…”. Đó là căn nhà ba tầng nhìn chỗ nào cũng thấy sách. Sách lèn chặt những giá, những hòm, những tủ, từ chân cầu thang, lối đi, lên đến sân thượng. Sách lấn cả đất kê giường ngủ, tràn vào cả bếp, nhà vệ sinh… ỏ trong căn nhà ấy, bất cứ lúc nào, và ỏ tư thế nào ông cũng có thể đọc được… Trải qua bao thăng trầm mất mát trong cuộc đời, dù đã hơn bảy mươi mấy mùa xuân, nhìn vào đôi mắt ông vẫn thấy ngời sáng! Ánh sáng của niềm tin và khoa học. VietNam Net

MỘT KHOA HỌC MỚI Tờ báo Nhật Mainichi Daily News (7-5-1981) và các tờ báo Pháp Express ( 12-5-1981), Paris Match (15-51981) cùng đưa tin cuộc toạ đàm quan trọng ở Liên Xô về trường sinh học, công bô” trong tờ báo Ôgônhiôk (174- 1981) dưới đầu đề “Theo những quy luật chưa hề biết của tự nhiên”. Trường sinh học… Đó là nội dung của một khoa học về sự sông, một khoa học đã trăn trở qua mấy nghìn năm của lịch sử nhân loại và chỉ mới có điều kiện nỏ ra những chiếc hoa đầu tiên ở cuối thế kỷ này, những chiếc hoa hiếm hoi nhưng rất quý báu. Khi nói về một khoa học mới- Trường sinh học, cụ 156

Nguyễn Đức c ầ n có nói rằng: Khi nụ hoa mới nỗ, nào ai đã biết nhụy nó ở đâu. Một • nụ« h oa x u ân đầu m ùa Lịch sử nhân loại đã để lại một di sản hoàn toàn tan hoang về các hiện tượng cận tâm lý và lại còn bị che lấp đằng sau bao nhiêu thủ đoạn. Nhưng trên con đường lỏm chỏm đó của các hiện tượng cận tâm lý, về các giác quan thứ sáu, bảy… (ngoài năm giác quan thông thường của con người), hoàn toàn đốì lập với phương hưống thừa nhận sự tồn tại của một th ế giới thứ hai nào đó, thần bí, nguồn gốc của các hiện tượng cận tâm lý, đã bắt đầu xuất hiện một phương hướng khác, đi ngược dòng đang tìm cách tìm hiểu, khám phá th ế giói năng lượng và thông tin, dạng năng lượng nào có khả năng mang những thông tin vẫn còn thầm kín giữa các cơ thể sống. Năng lượng theo quan điểm duy vật đó gọi là năng lượng trường sinh học Và trong Đ ại b á ch k h o a toàn thư L iên Xô, tập 19, năm 1975, hai viện sĩ tâm lý, vốn công kích các hiện tượng cận tâm lý, đã buộc phải thừa nhận: “Về những hiện tượng loại này, cần phải phân biệt như sau: một mặt, đó là những hiện tượng do các nhà thần bí và các lang băm quảng cáo, còn mặt khác là những hiện tượng tồn tại thực sự, nhưng vẫn chưa được giải thích một cách khoa học về mặt vật lý và tâm lý. Những hiện tượng thuộc loại thứ nhất cần được vạch mặt và phá tan vẻ huyền bí. Còn việc nghiên cứu 157

những hiện tượng thuộc loại thứ hai thì được tiến hành trong các cơ quan tâm lý học, sinh lý học và nhiều cơ quan khoa học có liên quan khác”. Một nụ hoa xuân đầu mùa của trí tuệ với bao nhiêu đường nét còn phôi thai của nó trong khoa học và trong cuộc sông! Trường sinh học và tình yêu con người Hào quang và huyệt và một nền y học song song. Tiếp thu vật chất năng lượng từ vũ trụ bên ngoài, mọi cơ thể sông đều có thể phát ra trường sinh học mà những tác động trực tiếp với môi trường quanh cơ thể tạo ra những cái gọi là hào quang. Các hào quang này đã được xác định trong các phòng thí nghiệm sinh học, điện tử và tuỳ theo hình dạng, màu sắc, cường độ đã biến thành những nhân tô” mang được những thông tin chính xác những gì đang xảy ra trong cơ thể: sức khoẻ, bệnh tật, và đó chính là cơ sỗ cho việc chẩn đoán bệnh bằng trường sinh học, hoặc trực tiếp, hoặc từ xa, qua thân nhân, trên cơ chế của trí nhớ (theo thuyết trí nhố ngắn hạn, dài hạn, trí nhớ hoá học hay trí nhố phân tử hiện hành). Nếu kiên nhẫn luyện tập, thì dù không có khả năng bẩm sinh, chúng ta vẫn tạo nên được một trường sinh học không yếu. Và với trường sinh học này, chúng ta có thể tự tác động lên các huyệt của chính cơ thể mình, hay cơ thể của những người khác, thay cho các kim châm cứu. Đó là phương pháp chữa bệnh của trương sinh học.

158

Người ta chụp trường sinh học của nhà ngoại cảm xuất sắc của Liên Xô là Đgi-Un-na và những người bệnh, và đã thấy rằng, trong quá trình chữa bệnh đã có hiện tượng truyền năng lượng sinh học từ ìigưòi chữa bệnh sang người bệnh. Nhưng khi lấy máy đo trường sinh học của Đgi-Un-na thì do năng lượng trưồng sinh này quá mạnh, các máy đo đều bị hỏng. Cuối cùng người ta chỉ còn bằng lòng vói nhận xét là: trong quá trình trên đã xảy ra một cái gì đó. Những nhà khoa học Liên Xô đã mời Đgi-Ưn-na vào các bệnh viện trung ương tại Mát-xcơ-va để thử nghiệm một cách khoa học. Họ thấy rằng, với trường sinh học của mình, Đgi-Ưn-na có thể chữa được các bệnh viêm dây thần kinh, viêm cột sống, ở đó các bệnh chứng đau đón đều tan biến, còn các chức năng của tứ chi lại được phục hồi. Các nghiên cứu được tiến hành trong bệnh viện sô” 36 tại M át-xcơ-va chứng tỏ rằng trong vòng một tháng rưỡi, khi Đgi-Un-na chẩn đoán cho vài chục bệnh nhân, trưốc đó đã được xem xét trong các cơ quan y tế, thì giữa sự chẩn đoán chính thống và chẩn đoán theo trường sinh học đã có sự trùng hợp trên 97%. Người ta chụp được sự thay đổi trường sinh học của nhiều người khi yêu nhau, ghét nhau… Khi thân nhau thì trường sinh học của cả hai người đều sáng lên hoặc được nối với nhau bằng những sợi chỉ màu nào đó, hoặc có hào quang hoàn toàn trùng với nhau thành một. Khi ghét nhau, đô” kị nhau thì hào quang cả hai đều teo lại. 159

Chúng ta có một thuật ngữ mối về tâm lí, với hình dáng, màu sắc, cường độ, nghĩa là đang xuất hiện một nền tâm lí học song song… Nguyễn Hoàng Phương (Báo Lao dộng, xuân Nhâm Tuất, 1982)

GIÁO SƯ NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG NHÀ KHOA HỌC UYÊN THẢM, MỘT TRÁI TIM NHÂN HẬU

Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương sinh năm 1927, mất ngày 24 tháng 3 năm 2004 . ông từng là chiến sĩ biệt động hoạt động ỗ thành phô” Huế. Năm 1949, được cử đi đào tạo khoa học cơ bản và sau đó tiếp tục ở lại giảng dạy ở Khu học xá (Nam Ninh, Trung Quốc). Khi tiếp quản Thủ đô, ông về dạy ỏ trường Đại học Sư phạm. Tháng 9- 1956, khi trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là trường Đại học Khoa học Tự nhiên thuộc Đại học quốc gia Hà Nội) được thành lập, ông đã có mặt ngay từ những ngày đầu tiên. Lúc đầu, ông được cử làm Tổ trưởng bộ môn Vật lý của Khoa Tự nhiên và trực tiếp giảng dạy các môn Toán cao câ”p và Vật lý. Sau khi Khoa Tự nhiên tách thành các khoa Toán, Lý, Hóa… ông được cử làm Chủ nhiệm Khoa Vật lý. Bên cạnh các tên tuổi bậc thầy về vật lý như GS. Ngụy Như Kontum, ông được coi là con chim đầu đàn của ngành Vật lý Việt Nam, là 160

thầy của hầu hết những nhà vật lý tiếng tăm. Một người thầy hào hoa, uyên bác, đầy nhiệt huyết và rất yêu thương sinh viên. Ong còn là một nhà giáo có tài năng SƯ phạm lỗi lạc của nước ta. Những vâ”n đề toán học khô khan, những lĩnh vực lắt léo của Vật lý lý thuyết, qua những lời giảng giải khúc triết của ông trỏ nên sống động, dễ hiểu và vô cùng dễ nhớ. Chỉ riêng những vấn đề ông đã viết ra, in rồi hoặc chưa in, vối mỗi quyển trên dưối một ngàn trang, cũng đáng để cho người đời, nhất là những người đã từng biết những khó khăn khi cầm bút, phải nghiêng mình thán phục. Sự ham hiểu biết và thú say mê làm việc là những tô” chất ưu việt đã được ông gìn giữ cho đến những “giây phút cuối cùng của cuộc đời”, theo đúng nghĩa đen của cụm từ này. Trong những năm ở sô” 16, Hàng Chuối, không mấy ai trong ngành toán lý chúng ta chưa được nhìn thấy ông suốt ngày miệt mài bên chiếc máy chữ cũ kỹ đặt bên cửa sổ. Những quyển sách ông đã đọc qua, không mây trang không có bút tích của ông để lại. Ông chăm chú lắng nghe những xêmina về Toán – Lý cho dù người trình bày chỉ vào loại học trò nhỏ bé của mình. Mọi thông tin khi lọt vào đầu ông, chúng đều được xử lý, sắp xếp theo cách tư duy của ông, cho nên, mọi điều ông viết ra, dù là những điều ai ai cũrig biết, nhưng chúng đều có những sắc thái rấ t riêng, chỉ mình ông mới có. Ngày 22- 3- 2004, một ngày trước khi đi xa, ông còn nhò một người học trò cũ của mình photo quyển L ý 161

thuyết p h ạ m trù của B.Michell để ông nghiền ngẫm. Ông muôn tìm trong lĩnh vực trừu tượng nhất của toán học những phương cách để ông có thể diễn đạt được các đặc tính tinh tế nhất của thế giới vật chất. Ngày hôm sau, chỉ mấy giờ trưốc lúc ra đi, khi nhận được chương đầu tiên, ông còn phàn nàn sao không photo ngay cho ông cả quyển. Hình ảnh ông với mái tóc dài bạc trắng, đôi mắt thông minh, nét mặt đôn hậu hóm hĩnh, với dáng đi nhanh nhẹn không hề mang dấu vết của tuổi tác, với cách bỡn cợt với bệnh tật của chính mình… vẫn còn in đậm trong tâm trí của bạn bè, học trò và cả những người chỉ biết ông qua một lần được nghe ông nói chuyện. Ông là một trong s ố ít người đoán trước được vận mệnh của riêng mình. Ong nói ra điều đó một cách rất hồn nhiên, ông hoạch định từng chi tiết cho lễ tang của mình. Việc ra đi được ông hiểu đơn giản như việc tìm về nhà sau một cuộc viễn du mệt mỏi. Những nghiên cứu khoa học của ông có thể tạm phân làm ba lĩnh vực Toán – lý, Trường sinh học và Tâm linh. Năm 1959, trong khi nền giáo dục đại học của chúng ta mới chập chững những bước đầu tiên, cơ sỏ vật chất, sách vỏ còn rất thiếu thốn, với cương vị coi sóc Khoa Vật lý, ông đã nỗ lực hết mình, vừa tạo điều kiện để học trò học thật tốt, vừa tự mình mày mò nghiên cứu khoa học để làm gương cho th ế hệ đàn em. Ông đã lập nên nhóm nghiên cứu vật lý lý thuyết, gồm những người 162

tâm huyết từ các cơ sỏ nghiên cứu khác nhau nhưng có chung một niềm đam mê vật lý. Nhóm này hoạt động khá đều đặn và có hiệu quả. Các thành viên trong nhóm, nhiều người đã thành danh, là những phó giáo sư, giáo sư, tiến sĩ, tiến sĩ khoa học, viện sĩ, những trụ cột vững chắc cho các tổ chức vật lý của đất nước chúng ta. Cũng trong thời kỳ này, ông đã có phát kiến trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý cơ bản. Ông đề xuất một mô hình, trong đó không gian, thời gian vật lý được mỏ rộng từ 4 thành 6 chiều và nhờ các chiều phụ, ông đã có những kiến giải rất có sức thuyết phục về đặc trưng nội tại của các hạt cơ bản. Phát kiến này đã giúp ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ. Luận án: Vật ch ấ t trong không g ia n sáu chiều được ông viết một mình, và là luận án tiến sĩ đầu tiên về Vật lý của nước Việt Nam mới. Luận án này được ông bảo vệ thành công ỏ Liên Xô. Ngoài giảng dạy và lãnh đạo Khoa, ông còn dành nhiều thòi gian để viết sách và đã có rất nhiều sách chuyên khảo có giá trị. Quyển L ý thuyết nhóm và ứng dụ n g vào Vật lý học Lượng tử, in khổ rộng với hơn 500 trang, hiện vẫn là công trình chuyên khảo đầy đủ duy nhất về lĩnh vực này ở Việt Nam. Quyển N h ập m ôn Cơ h ọc lượng tử cơ sở và phư ơng p h á p (Tích hợp Toán – lý – hóa), với gần 800 trang in khổ lớn, cũng là một quyển sách tham khảo rất có giá trị cho sinh viên các trường đại học. ôn g cũng có quyển sách viết bằng ngôn ngữ phổ thông về A.Einstein, một quyển sách rất truyền cảm, được độc giả

163

đủ mọi lứa tuổi đánh giá cao, được tái bản nhiều lần, ngay cả sau khi ông đã mất. Một lĩnh vực rất mới mẻ, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, đó là lĩnh vực Trường sinh học, cũng được ông dành cho nhiều tâm huyết. Đây là lĩnh vực rất kỳ bí, còn xa lạ với các công cụ khoa học Toán lý đương thời. Hiện nay, khoa học vẫn đang kiên nhẫn xem xét, và chỉ có trong tương lai xa mới hy vọng có lời phán quyết đúng đắn. Vào những năm khó khăn của thời bao cấp, khi người bạn đời thân thiết, hiểu ông, yêu ông và tận tụy vì ông đột ngột qua đời, ông rơi vào trạng thái hẫng hụt. Các cô” gắng bâu víu vào cuộc đời thường đều không mang lại cho ông sự yên lành cần thiết về cả tinh thần lẫn vật chất. Bạn bè, đồng nghiệp đã khuyên ông đi chuyên gia châu Phi, bởi vì, đây là giải pháp duy nhất phù hợp với khả năng hiểu biết cuộc sống đời thường của ông lúc bấy giờ. Ông đã nghe, đã làm đủ mọi thủ tục cần thiết, chỉ chờ ngày xuất phát. Nhưng tiếc thay, đến phút cuốĩ ông đột ngột thay đổi quyết định. Lý do duy nhất kéo giữ ông ở lại, đó là, muốn dùng khả năng ngoại cảm của một sô” người để tìm tòi tài ngưyên cho đất nưóc. Đây là những năm tháng khó khăn nhất của cuộc đời ông. Khó khăn đó không chỉ vì vật chất thiếu thôn, mà ở ngay cả lĩnh vực tinh thần. Như đã nói ở trên, tiềm năng ngoại cảm của con người luôn là một lĩnh vực bí hiểm và rất dễ bị lợi dụng. Sự thơ ngây trong cuộc sống đời thường đã mang lại cho ông không ít

164

những hệ lụy. Đánh giá đúng về những đóng góp của ông trong lĩnh vực này còn cần có thời gian, nhưng một người bạn cũ tâm huyết của ông đã nhận xét, nếu trong tương lai, tiềm năng ngoại cảm con người được chứng minh là đúng đắn, vị trí của ông trong lĩnh vực này sẽ rất lổn. Nếu lĩnh vực trường sinh học tuy kỳ lạ nhưng phần nào còn có thể nhận thức được, thì lĩnh vực tâm linh, lĩnh vực mà ông say mê cho đến cuốỉ đòi, vẫn còn là bí ẩn và khó hiểu hơn nhiều. Là một người am tường đại sô”, ông luôn mong muôn tìm ra những quy luật chung nhất không chỉ của th ế giới tự nhiên mà còn của th ế giới tâm linh, tức là th ế giới ý thức của con người. Một trong những di sản vĩ đại của người xưa trong lĩnh vực này là “Kinh dịch”. Ông đã nhìn thấy trong “Kinh dịch” quy luật chi phối xã hội và chi phối tự nhiên, thậm chí cả quy luật sản sinh ra các chủng loại người trên hành tinh của chúng ta. Khác với những người học dịch trưóc đây, thường chỉ dựa vào những phán xét của người xưa để luận bàn và thêm thắt, ông đọc dịch trên cơ sở liên hệ nó vối quy luật của đại sô” học, và do đó, ông đã làm một việc chưa từng ai dám làm trừ đức Khổng Tử, đó là sắp xếp lại “Kinh dịch”. Với việc tìm cỗ máy thiên cơ trong “Kinh dịch”, tức là tìm ra quy luật sắp xếp thích hợp cho từng thời kỳ của 64 quẻ, ông đã chỉ ra cách dự báo có tính xác thực hơn. Ông khẳng định rằng: Bài toán giải mã sô” thứ tự các quẻ (tự quái) là một trong những bài toán

165

hóc búa nhất, hiểm trỏ nhất của Dịch lý trên cả toàn cầu và toàn lịch sử loài người, mãi cho đến nay mới bắt đầu thực hiện rõ ràng, cụ thể được. Những giải mã này cho phép khôi phục lại vị trí học thuyết siêu thông nhất phố quát nhất về nhân văn học, và hơn nữa vị trí giao lưu văn minh vũ trụ, hội nhập vũ trụ nay mai. Ông ghi chép những kết quả của mình trong một s ố cuốn sách: Những cơ sở của Triết học phương Đông và Tập ĩnờ, Đông và T ây, in bằng tiếng Anh, khổ lớn, dày 200 trang (Oriental Philosophy Fundamentals and Fuzzy Set, E ast and West), Tích hợp đ a văn h ó a Đ ông – Tây cho m ột chiến lược g iá o dục tương lai, in khổ lớn dày tới gần 1.200 trang, với các thuật ngữ vừa cổ kính vừa huyền bí mà còn lâu ta mới có thể hiểu và đánh giá chính xác đúng sai. Những suy tư của ông trong những năm cuốỉ đời được ông ghi chép thành 5 tập còn đang chờ để được xuất bản. Với 77 năm trong “khí hồng trần”, những điều ông thu được trong các lĩnh vực thuộc khoa học tự nhiên và xã hội là rất đáng khâm phục. Nó chứng tỏ ông có bộ óc siêu việt mà trình độ khoa học đương đại chưa thể có phán quyết đúng sai có tính thuyết phục. Ngoài đời ông là một người lãng mạn, chơi ghi ta rất cừ, rất thích đàm đạo, thương người và sông rất có tình. Trong con người khoa học của ông là một trái tim nhân hậu. Phạm Thúc Tuyển Theo [100 Years-VietNam N ational U niversity, Ha Noi]

166

Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải và Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương là những nhà khoa học nghiên cứu phương pháp chữa bệnh của cụ Nguyễn Đức c ầ n từ năm 1974. Trong buổi quay phim và ghi âm cụ Nguyễn Đức Cần chữa hai bệnh nhân đặc biệt tại Đại Yên – Hà Nội ngày 30 tháng 4 năm 1974, Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương đã phát biểu: “Cụ Nguyễn Đức c ầ n có một khả năng kỳ diệu và phương pháp chữa bệnh hoàn toàn mới và rất thần tình, mặc dầu chưa giải thích được, nhưng là một tồn tại khách quan, không thể phủ nhận được”. Vào năm 1982, ông Hoàng Phương đã tập hợp được một s ố người có khả năng ngoại cảm. Ông lên Đại Yên trình bày với cụ Nguyễn Đức c ầ n về việc đi tìm dầu mỏ cho đất nước, ông Hoàng Phương có đọc cho cụ nghe những kiến nghị của ông gửi đến Chủ tịch Hội đồng Nhà nưóc Trường Chinh. Được biết, sau đó Nhà nước đồng ý để ông đi khảo sát tìm kiếm dầu mỏ, nhưng… kinh phí thì tự túc. Ong Hoàng Phương phải bán chiếc tivi, là vật có giá trị nhất trong nhà để lấy tiền phục vụ công việc tìm kiếm đặc biệt này. Nhưng các thông tin mà các nhà ngoại cảm này nhận được bị nhiễu. Hôm trước thì nhìn thấy dòng khí dầu, nhưng hôm sau cũng tại hiện trưồng đó, lại không thấy xuất hiện dòng khí. Cuối cùng, đợt khảo sát không thành công như ý muốn, và cũng là lúc ông Hoàng Phương hết tiền trong túi. 167

Sau sự kiện này, cụ Nguyễn Đức cầ n có nói rằng; Dầu thì có đấy, nhưng chưa đến lúc tìm ra. Có một câu chuyện về gia đình Giáo sư Hoàng Phương. Vào khoảng cuối năm 1982, khi ông Hoàng Phương đi công tác xa Hà Nội, không may ỏ nhà, vợ ông bị sốt cao mê man, người nhà đưa vào bệnh viện. Sau khi tiêm thuốc thì vợ ông bị chết. Nghe tin dữ, ông vội trỏ về và chỉ kịp lo lễ tang cho vợ. Những ngày sau đó, đêm đêm vợ ông hiện về kêu khóc: Vì anh đi công tác, không lên gặp Thầy (cụ cần) xin cho tôi, nên tôi bị chết oan. Buổi chiều hôm đó, khi cụ đang ngồi uống nước ngoài sân, cạnh cây trứng gà, thì ông Hoàng Phương lên Đại Yên thưa chuyện với cụ, là đêm nào vợ ông cũng hiện về kêu khóc. Cụ có hỏi lại: – Ông là nhà khoa học mà lại tin có ma à? Ông Hoàng Phương thưa rằng: – Thưa cụ, xin cụ giúp cho. Cụ nói: – Được rồi, tôi sẽ giúp ông. Cụ cho ông Hoàng Phương một tờ giấy có chữ ký của cụ và dặn ông về nhà , hóa trước bàn thờ người vợ. Mấy ngày sau, ông Hoàng Phương lên thưa chuyện với cụ, vợ ông đã không còn hiện về kêu khóc nữa và ông đã được ngủ yên giấc.

168

KỶTHỨTU

Tháng 9 năm 1982, 1500 các nhà khoa học ỏ châu Âu đã họp tại Mát-xcơva để nghiên cứu một môn khoa học mối: Nghiên cứu Kỷ thứ tư. Không phải ngẫu nhiên mà “Liên hiệp quốc tế nghiên cứu Kỷ thứ tư” được gọi tắt là INQƯAJ£ (Quốc tế Kỷ thứ tư) đã chọn Mát-xcơva làm nơi họp đại hội lần thứ 11. Tại đại hội lần này, trong sô” hơn 1.000 thông báo khoa học trình bày và thảo luận trước 1.500 nhà khoa học, thì trên một nửa là của những nhà khoa học Liên Xô (cũ). Kết thúc đại hội, các nhà khoa học nhận thức được sâu sắc hơn ý nghĩa và tầm vóc của môn học, đề xuất và cải tổ từ một tổ chức châu Âu thành một tổ chức th ế giới. Từ đầu th ế kỷ này, địa chất học đã bắt đầu phát triển, riêng kiến thức về Kỷ thứ tư, kỷ cuốỉ cùng trong những kỷ địa chất, cũng có phát triển, nhưng chưa thành một bộ môn khoa học riêng biệt. Cống hiến xuất sắc của những nhà khoa học nghiên cứu sâu về Kỷ thứ tư, đứng đầu là viện sỹ Các-pin-xki, chủ tịch Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Viện sỹ Gup-kin, chủ tịch ASQƯE đã hưống công cuộc nghiên cứu Kỷ thứ tư thành một môn khoa học mối. Địa chất học khác với thạch học hay khoáng học không phải chỉ nghiên cứu thành phần lý học, hoá học của đất đá trong thiên nhiên, mà nghiên cứu lịch sử và cơ cấu của vỏ địa cầu. Đe nắm được cơ câu

169

ngày nay, tình hình hiện nay, tức là địa lý, cần biết quá trình biến diễn cả mấy trăm triệu năm vận động của quả đất. Quá trình đó tới nay được giói khoa học nhất trí chia ra bốn giai đoạn lớn, bốn kỷ, ngắn dài khác nhau. Kỷ thứ tư, gần đây nhất và ngắn nhất. Hiện nay vẫn còn tranh cãi là nó có đến hay là vượt một triệu năm hay không. Một điểm rất lớn và nổi bật là trong Kỷ thứ tư có mặt của loài người. Vì vậy có ý kiến nên đổi tên Kỷ thứ tư thành thời sinh sông có con ngưòi. So với những kỷ trưốc, Kỷ thứ tư, tuy không có những biến động tạo sơn to lớn như trưốc đó, nhưng có những tác động mạnh mẽ của con người. Khoảng từ một vạn năm nay, với hoàn cảnh sinh hoạt thuận lợi hơn, với kinh nghiệm tích luỹ, sự tiến bộ con người thật sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến thiên nhiên và tạo ra những môi trường. Về mặt lý thuyết: Thế nào là Kỷ thứ tư, và Kỷ thứ tư bắt đầu từ bao giờ? Trước đây có một sự nhất trí đại cương: Kỷ thứ tư đã dài lâu khoảng một triệu năm, những thập kỷ gần đây có ý kiến là vài triệu năm. Xu hưống nhất trí chia Kỷ thứ tư làm ba giai đoạn hay ba thế. – Thế toàn tân, thời của văn minh, bắt đầu bằng nghề nông, có tuổi 10.000 năm. – Thế canh tân, mở ra 750.000 năm, với con người thật sự là con người. 170

– Thế trước canh tân, khi con người đang từ giới động vật thoát ra. Một vấn đề nữa đáng được suy nghĩ là: Phải chăng kỷ thứ năm đã bắt đầu rồi? Đúng là chúng ta đang đứng trên ngưỡng cửa của một chuyển biến lớn? Nếu không có tai hoạ xảy ra, thì chúng ta cũng đang chuẩn bị để hoà nhập vào một cuộc sống, một môi trường không phải là một cuộc sống, một môi trường như ngày nay nữa. Kỷ thứ năm đến sóm hay muộn? Tích cực hay đáng lo ngại? Phải chịu đựng hay được đón chào? Điều đó là do sức mạnh của khoa học quyết định một phần. Một phần khác là do những yếu tô” không thuộc khoa học chi phối… Sự hiểu biết về con người ở những th ế kỷ và thiên kỷ xa xưa, soi sáng lịch sử gần đây, đã góp phần giúp mỗi dân tộc tự hiểu mình hơn. Sự hiểu biết về Kỷ thứ tư cũng có khả năng soi sáng được bản sắc của núi sông, của đất, của nước, của lòng biển, của môi trường sinh sống trên tổ quốc ta trong quá trình phát triển của dân tộc. Chúng tôi đã đọc bài viết của giáo sư Phạm huy Thông đăng trên Báo Nhân dân, tháng 9 năm 1982 về Kỷ thứ tư và dự báo của những nhà khoa học về Kỷ thứ năm, để trình cụ. Cụ nói rằng: 171

– Họ (những nhà khoa học) cũng rất giỏi đấy. Kỷ thứ năm mà họ gọi đó đang dần đến rồi, một vận hội mới sẽ đến và th ế giới sẽ thái bình. Báo Nhân dân, tháng 9 năm 1982

NĂNG LƯỢNG VŨ TRỤ – NẢNG LƯỢNG TÂM LINH

Năng lượng vũ trụ gọi là Prana. Năng lượng vũ trụ được coi như thành phần cơ bản và nguồn gôc của mọi sự sông. Prana, hơi thở của sự sòng, chuyển dịch qua mọi hình thái và mang sự sông đến cho chúng ta. Mọi vật chất, sống hoặc vô tri, đều có và toả ra năng lượng vũ trụ này. Trường năng lượng vũ trụ thấm nhuần toàn bộ khoảng không, động vật, bất động vật, và liên kết mọi vật với nhau, trường năng lượng vũ trụ chảy từ vật nọ sang vật kia. Dường như nó luôn tiếp tục tạo ra nhiều năng lượng hơn, lúc nào nó cũng vẫn đầy, dù có lấy đi bao nhiêu. Chúng ta sống giữa đại dương năng lượng, năng lượng ấy truyền sức mạnh, nuôi dưỡng chúng ta, cho chúng ta cuộc sông. Trường năng lượng vũ trụ kết hợp mật thiết với sức khỏe và hạnh phúc của con người. Trường năng lượng vũ trụ đã được biết đến và được quan sát, nghiên cứu từ xa xưa trong lịch sử. Người Trung Hoa, ba ngàn năm trước công nguyên, thừa nhận sự tồn tại của một năng lượng sống mà họ gọi là Khí. 172

Trong hơn 70 năm sống trong cõi đời, qua bao năm tháng khổ luyện trong núi cao rừng thẳm, cùng bao nỗi đắng cay, gian khổ trong cuộc sống lao động thường ngày, với sự rèn luyện tâm đức không ngơi nghĩ, cụ Nguyễn Đức c ầ n đã thu nhận và tích lũy được một nguồn năng lượng vũ trụ – năng lượng tâm linh vô cùng to lốn. Một nhà ngoại cảm, có khả năng đặc biệt lúc bấy giờ là anh Lê M. khi gặp cụ đã cho biết, hào quang của cụ sáng vô cùng. H ào q u a n g là g ì?

Trường năng lượng con người là biểu hiệu của năng lượng vũ trụ có liên quan mật thiết với đời sốíng con người. Nó có thể được mô tả như là một cơ thể sáng rực bao quanh và thâm nhập vào thân thể, phát ra các bức xạ đặc thù của riêng nó và thường được gọi là “hào quang”. Hào quang là cái phần của vũ trụ kết hợp với các đốì tượng. Hào quang con người hay trường năng lượng con người là cái phần của năng lượng vũ trụ kết hợp với thân thể. Các vầng này đôi khi được gọi là cơ thể, chúng thâm nhập và bao quanh thành từng vầng liên tục. Mỗi cơ thể k ế tiếp gồm những châ”t tinh khiết và có “rung động” cao hơn của cơ thể mà nó bao quanh và thâm nhập. Mỗi vầng hào quang kết hợp với một luân xa. Vầng thứ nhất của trường hào quang (cơ thể etheric) và luân xa 1 (nền) kết hợp với hoạt động thể chất và cảm xúc- cảm tính thể chất, sự đau đốn thể chất hay 173

niềm vui. Vầng thứ nhất kết hợp với hoạt động tự động và tự quản của thân thể. Vầng thứ hai (cơ thể cảm xúc) và luân xa 2 (xương cùng) thường kết hợp với dạng cảm xúc của con người. Chúng là những cỗ xe, qua đó ta có đời sống cảm xúc và các cảm nghĩ. Vầng thứ ba (cơ thể tâm thần) và luân xa 3 (đám rối thái dương) kết hợp với đời sống tâm thần, với tư duy tuyến tính. Vầng thứ tư (cơ thể tinh tú) kết hợp với luân xa 4 (tim), là cỗ xe qua đó ta có yêu thương, không chỉ có vợ chồng mà có cả nhân loại nói chung. Luân xa 4 là luân xa chuyển hóa năng lượng yêu thương. Vầng thứ năm (Etheric mẫu) kết hợp với luân xa 5 (họng) là mức kết hợp với một ý chí cao cấp có quan hệ chặt chẽ hơn với ý chí siêu phàm. Luân xa 5 kết hợp với sức mạnh của lời nói, sự phát biểu mọi điều vào trong tồn tại, lắng nghe và chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Vầng thứ sáu (cơ thể thượng giới) và luân xa 6 (trán) kết hợp với yêu thương thượng giới. Nó là yêu thương vượt ra khỏi giới hạn yêu thương của con người và ôm lấy mọi cuộc đời. Nó tạo nên sự bày tỏ quan tâm, ủng hộ việc bảo vệ và dinh dưỡng mọi cuộc đời. Nó giữ cho mọi hình thái cuộc đời như là những biểu hiện quí giá nhất của Thượng đế. Vầng thứ bảy (cơ thể Ketheric) và luân xa 7 (đỉnh

174

đầu) kết hợp vói trí tuệ bậc cao, hiểu biết và sự hợp nhất bản chất tâm linh và thể chất. Ai cũng có một trường năng lượng hay là hào quang bao quanh và thâm nhập vào thân thể. Trưòng năng lượng này kết hợp chặt chẽ vói sức khỏe. Nếu một người không được khỏe thì điều đó biểu hiện rõ trong trường năng lượng bằng một dòng chảy năng lượng mất cân bằng hoặc năng lượng ứ trệ ngừng chảy. Hai nhà thông thái Boirac và Liebeault đầu thế kỷ XII thấy rằng con người có một năng lượng có thể gây tương tác từ xa giữa các cá thể. Họ kể rằng, có người chỉ bằng sự có mặt của mình cũng làm cho người khác khoẻ mạnh. Cụ Nguyễn Đức c ầ n nói rằng, những người bị những bệnh nhẹ như cảm nắng đau đầu… chỉ cần vào đến sân nhà cụ là đã khỏi bệnh. Thật vậy, có những người bị ôm sốt, vào nhà cụ xin chữa, thì khi vừa ra khỏi nhà cụ là đã thấy khỏi bệnh. Một người bị viêm xoang rất nặng, nước mũi lúc nào cũng chảy, rất là khó chịu. Khi anh lên cụ xin chữa bệnh, thì lúc còn ở ngoài cổng nhà cụ, nước mũi vẫn còn liên tục giỏ giọt, nhưng khi vào đến trong sân nhà cụ, thì lạ quá, nước mũi không còn chảy nữa. Vậy điều đó giải thích như th ế nào? Theo các nhà chữa trị tâm linh, thì bệnh tật, ôm đau là hậu quả của sự mất cân bằng năng lượng, từ sự tắc nghẽn năng lượng trong cơ thể (các vầng hào quang). Nhưng như 175

đã nói ở trên, năng lượng của con người có thể gây tương tác từ xa, trong trường hợp của cụ Nguyễn Đức cần, cụ đằ nhận được một nguồn năng lượng vũ trụ vô cùng to lớn và vối lòng yêu thương đối với người bệnh, cụ đã truyền vào họ những năng lượng tâm linh, điều chỉnh nó, làm nó tuôn chảy, không còn bị tắc nghẽn nữa và cơ thể của người bệnh trở lại khỏe mạnh. NĂNG LƯỢNG TỪ NGÔN NGỮ

Trong cuộc sống, cơ t h ể chúng ta p h ả i tiếp nhận tác động của rất nhiều nguồn năng lượng từ thiên nhiên: gió, bức xạ m ặt trời, các tia vũ trụ… T h ế nhưng, theo nghiên cứu của m ột g iáo sư N hặt, có một nguồn năng lượng k h á c củng gây tác động m ạn h khôn g chỉ đến cơ t h ể chúng ta m à còn đến cả vật chất. Đố chín h là ngôn ngữ! G iáo sư M asaru E m oto là chuyên g ia nghiên cứu về tác động của năng lượng ngôn ngữ đối với con người và m ôi sinh. Ngôn ngữ mà cũng có năng lượng ư? Xin thưa, đúng là như vậy! Chỉ có điều do chúng ta chỉ thấy các nguồn năng lượng ngoại thân mà không thấy được nguồn năng lượng tự thân của mình. Thực sự, đây là một điều vô cùng quen thuộc. Bạn có để ý rằng khi nhận được một lời nói dịu dàng thì chúng ta cảm thấy dễ chịu, và ngược lại? Đó chính ỉà tác động của nguồn năng lượng từ ngôn ngữ. .176

Chúng ta nên biết rằng bản chất của ngôn ngữ (điều lưu ý quan trọng là luôn cả những ngôn ngữ ’’không lời”, tức suy nghĩ không phát ra thành tiếng) chính là những “xung động”, những “trường” nên có khả năng tạo ra “lực”. Do là xung động nên chúng cũng di chuyển theo dạng sóng với những bước sóng khác nhau mà các thiết bị khoa học đã ghi nhận được. Chính nhờ áp dụng điều này mà chúng ta có được các thiết bị đo điện não, điện tim, phát hiện nói dối… Trong cuộc sổng hằng ngày, những lời cảm ơn, động viên an ủi, khuyến khích sẻ chia và ngược lại, những lời hằn học, nguyền rủa… không chỉ gây hiệu ứng tâm lý đơn thuần mà còn tạo ra xung lực tác động vật lý đến cơ thể. Tại phương Đông, những tiếng như “Aum” trong yoga Ân Độ hay tiếng thét “Kiai” trong võ đạo Nhật Bản chính là những xung lực gây tác động đến cơ thể. Chỉ có chút khác biệt là tiếng “Aum” gây ảnh hưỏng đến nội thân nhằm đạt được an tĩnh, còn tiếng thét “Kiai” gây xung lực ra ngoại thân nhằm áp đảo đối phương. Do vậy, trong trường hợp tập thể như đám đông biểu tình, lễ hội, nếu có sự cộng hưỏng ngôn ngữ thì năng lượng phát ra sẽ râ’t mạnh. Những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học từ nhiều năm trưốc đã cho thấy cơ thể chúng ta không chỉ có cấu trúc bằng phân tử mà còn bằng cả năng lượng. Nhà khoa học Nga Kirlian năm 1939 đã chụp được ảnh trường năng lượng sinh học của con người. Các trường năng lượng này hiển lộ quanh cơ thể vối các màu

177

sắc từơi nhuận hoặc xám xỉn cùng độ sáng tối khác nhau tuỳ theo tình trạng sức khoẻ, tư duy tích cực và tính đạo đức của mỗi con người. Nơi những người có sức khoẻ và đạo đức tốt, trường này có khi hiện hữu trong không gian đến cả mười năm phút. Trở lại vấn đề năng lượng của ngôn ngữ. Trong một tác phẩm nói về sự minh triết trong cuộc sống, tác giả Darshani Deane đã kể lại mẩu chuyện thương tâm về một đứa bé 3 tháng tuổi. Sau một cuộc cãi vã kịch liệt với những lòi lẽ vô cùng cay độc, người chồng đóng sầm cửa bỏ đi. Người vợ trẻ còn lại một mình, chưa nguôi tức giận, nguyền rủa thêm một hồi nữa rồi bồng con lên cho bú. Chỉ vài phút sau khi bú xong, đứa bé bỗng xám ngắt, lên cơn co giật rồi chết. Bạn có biết khám nghiệm hội chẩn sau đó cho kết quả ra sao không? Nhiễm độc! Thì ra, năng lượng xấu từ những lời cay độc của người chồng cũng như của chính người vợ đã làm cho cơ thể tiết ra độc tô” gây nhiễm độc máu và chuyển qua sữa. Do có sức khoẻ nên người mẹ chịu đựng được, nhưng đứa bé mới 3 tháng tuổi thì không. Vậy là chính hai vợ chồng đã làm chết con mình. Ngược lại là trường hợp của GS. Shinichiro Terayama, nguyên giám đốc Hội Y học nhất thể Nhật Bản (Japan Holistic Medical Society). Bị ung thư thận, ông đã học hỏi để chữa trị bằng liệu pháp nói lời cảm ơn. Hằng ngày thức dậy ông đều lên sân thượng đón chào mặt trời mọc, cảm ơn thiên nhiên đã ban tặng,cho mình cuộc sống và đặc biệt 178

hướng hết tâm thức nói lời cảm ơn đối với khu vực ung thư trên cơ thể. Sau đó, ông hồi phục dần cho đến khi các bác sĩ xét nghiệm sửng sốt xác nhận chứng ung thư đã biến mất. V ậ t c h ấ t c ũ n g c h u y ể n m ìn h

Điều kỳ diệu không kém là năng lượng của ngôn ngữ và tư duy còn tác động đến cả vật chất. Trong một thí nghiệm gây nhiều sửng sốt được đăng trong quyển The secret life of water (Pocket Books, 2004), GS. Masaru Emoto cho biết rằng nếu chúng ta tập trung tư tưởng hướng về những ly nước trước khi chúng đông lạnh, thì khi đông lạnh chúng sẽ tạo ra những cấu trúc tinh thê đẹp hay xấu tuỳ thuộc vào tư tưởng chúng ta lúc đó tích cực hay tiêu cực. Giáo sư còn cho biết rằng chúng ta cũng có thể dùng những lời cầu nguyện tốt đẹp, âm nhạc và thậm chí cả viết những lời trên giấy dán lên ly nước cũng sẽ cho được kết quả tương tự. Nhưng độc đáo hơn cả là một thí nghiệm khác của GS. Emoto trên những hạt cơm, được đựng trong 3 chiếc chén như nhau. Emoto đã tập trung hết tư tưỏng và nói với chén cơm thứ nhất “Cảm ơn bạn”, vói chén thứ hai “Đồ ngu” và không nói gì với chén thứ ba. Ba ngày sau, kết quả: chén thứ nhất lên men nhưng có mùi thơm dễ chịu, chén thứ hai thì cơm bị mốc đen và có mùi thiu khó chịu, còn chén thứ ba cơm bị mốc xám và cồ mùi chua. Chưa dừng lại thí nghiệm ồ đây, sau đó Emoto đem cả 3 chén cơm đến một lớp ỏ trường tiểu học, nhờ các em học sinh lần lượt tập trung ý chí nhìn vào từng

179

chén cơm và nói lời “Cảm ơn”. Kết quả bất ngờ: không lâu sau đó, cả ba chén cơm đều chuyển thành mùi dễ chịu, kể cả chén cơm thiu mốc đen do bị nói là “Đồ ngu”! Tương tự, GS. Emoto cũng thí nghiệm đối vối thực vật, cụ thể là cây hướng dương. Ngay trước lúc gieo hạt, ông phân hạt giông thành hai túi. Một túi có nói và viết hai chữ “Cảm ơn”, còn túi kia là hai chữ “Đồ ngu”. Trong giai đoạn hạt nảy mầm và thành cây cũng vậy, hằng ngày khi chăm sóc, mỗi nhóm đều được ông tiếp tục nói lời “Cảm ơn” hoặc “Đồ ngu” tương ứng. Kết quả: nhóm được nói lời “Cảm ơn” cành lá phát triển xanh tốt, còn nhóm “Đồ ngu” thì cành lá quăn queo thưa thớt. Đúc kết từ những thành quả này GS. kết luận rằng, từ một con người khoẻ mạnh cho đến cả những tế bào đã bị hư hoại cũng có thể được chuyển biến tốt hoặc hồi sinh nếu được chúng ta lưu tâm chăm sóc bằng những tình cảm chân thành, lời lẽ dịu dàng và lòng cảm ơn chân tình. Sẽ tốt đẹp biết mây cho con người và cuộc sông một khi chúng ta biết nói lên những lời như vậy! Cụ Nguyễn Đức cầ n thường khuyên răn những bệnh nhân: Hãy nghĩ đến những điều tốt đẹp, hãy nói những điều tốt đẹp, hãy làm những việc tốt đẹp để cuôc sông của mọi người ngày càng tốt đẹp hơn!

180

VĂN HÓA TÂM LINH

Trưốc tiên chúng ta tìm hiểu định nghĩa Văn hóa là gì? Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội mà nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sông, hệ thông giá trị, truyền thông và đức tin. Như vậy Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con người sáng tạo ra trên nền của th ế giói tự nhiên. V ăn h ó a tâ m lin h c ó từ b a o g iở ?

Từ khi loài người xuất hiện trên quả đất, những hiện tượng tâm linh đã bắt đầu hình thành và phát triển. Các nhà khảo cổ, các nhà sử học và nhân chủng học đã khám phá ra nhiều bằng chứng về các dấu tích, về các vật dụng để thờ cúng, từ đá và xương cốt hay các hình vẽ trên các vách đá, trong các hang động, cho thấy sinh hoạt vào thời hỗn mang của loài người, đã có những nghi lễ tôn vinh thần linh. Theo những nghiên cứu khoa học, thì lúc đó cũng đã phát sinh các pháp sư, thầy phù thủy đầy uy quyền. Một sô” nhà khảo cổ và nhân chủng học, cho giống người Neantherdale là văn minh nhất. Nhưng các khám phá sau đó lại cho thấy, giống người Cromangnon có nhiều đặc điểm tiến hóa cao về lĩnh vực đòi sống tâm linh, qua các bằng chứng cổ xưa từ các 181

hình vẽ trên vách đá, các buổi lễ thờ cúng và các hình ảnh về ma thuật đầy màu sắc. Đặc biệt là người chết được đem chôn theo các nghi lễ đầy vẻ huyền bí. Lý luận của một sô” nhà nghiên cứu về nhân chủng học, dân tộc học cho rằng, khi con người còn hoang dã chưa tìm ra được lửa, thì mỗi khi màn đêm xuống, nỗi lo sợ đã đổ ập xuống họ, rồi khi sống trong các hang động và tìm được lửa, thì những hình ảnh chập chòn ma quái lại càng khiến họ sợ sệt. M ặt khác những hiện tượng xảy ra trong thiên nhiên như sâ”m sét, núi lửa, động đất là những nguyên nhân làm họ tin tưởng đến sức mạnh vô hình nào đó, sức mạnh của các bậc thần linh. Ngày nay xã hội loài người đã có cuộc sổng văn minh hơn râ”t nhiều. Tuy vậy, vẫn còn một s ố vùng hoang vắng, được xem như tận cùng của trái đất, mà ỏ đó có những bộ lạc còn sông cuộc đời hoang sơ, giông như thời đại đồ đá của loài người trước đây. Điều kỳ lạ là nhiều nhà thám hiểm đã len lỏi đến tận cùng các vùng xa xôi hẻo lánh ây, để tiếp xúc vói những thổ dân được xem là sơ khai, thì họ bắt gặp được nhiều điều kỳ diệu, mà các phù thủy ở đó đã thực hiện. Nhóm nhà báo của Paris Match nổi tiếng của Pháp, đã lặn lội tiến vào một nơi được xem là sông biệt lập với thế giới loài người, tại một hoang đảo xa xôi tận Thái Bình Dương. Trên đường đi khi đi qua một con suôi, có một ký giả bị té ngã và bị gãy chân phải khiêng cáng. Khi đoàn nhà báo này tới thì thấy một người đàn ông

182

ngồi yên lặng, trên người chỉ một miếng da thú quấn ngang người mà thôi. Người đàn ông đó ra dâ’u đặt người ký giả bị gãy xương nằm xuống trên một miếng da gấu, hai bên đặt hai bó đuốc bằng gỗ thông, xong đâu đấy, ông đưa tay lên trời huơ huơ mấy cái, vừa huơ tay vừa đọc một tràng thổ ngữ kỳ lạ, rồi bất ngờ chỉ vào người bị gãy xương và ra hiệu ngồi dậy. Lạ lùng thay, người này tự nhiên không còn đau đớn nữa và đứng dậy một cách tự nhiên. Rồi sau đó ông ta lặng lẽ đi vào một cái hang sâu đầy rêu và rễ cây che phủ. Cùng lúc đó mọi người nhìn thấy các thổ dân trong bộ lạc đứng nhìn từ xa trên các gộp đá, cũng thoăn thoắt chạy vào hang động. Các hang động này đều đóng kín bỗi các khối đá lốn. Các ký giả Pháp suy đoán rằng người đàn ông ngồi chờ họ, là trưởng bộ lạc hoặc nhà phù thủy. Điều kỳ lạ là không hiểu nhờ đâu, mà ông ta biết được đoàn sẽ đến, và trong doàn có người bị tai nạn gãy chân, để chuẩn bị trước mọi thứ cần thiết. Ngoài ra phương cách trị gãy xương như vậy, rõ ràng vượt khỏi tính cách khoa học của ngành Y khoa hiện đại, nhưng kết quả lại hoàn toàn thành công. Phải chăng cư dân ỏ đây chữa trị chỉ bằng hiện tượng siêu linh huyền bí? William Hals River một nhà nghiên cứu nôi tiếng về văn minh của các bộ tộc, đặc biệt là các vùng hoang đảo thuộc các châu Đại Dương, đã cho rằng nhiều nơi tuy cư dân thưa thót, cuộc sông còn rất hoang sơ nhưng đời sồíng tâm linh lại rất cao. Theo GS. T S Nguyễn Hoàng Phương, thì có những 183

thổ dân chữa bệnh không cần thuốc như tại Philippines, nhiều nhà phẫu thuật đã dùng loại năng lực thuộc lĩnh vực tâm linh, đã giải quyết thành công các ca phẫu thuật, có người cho rằng họ là con cháu của những người thuộc bộ lạc Kahyna đã mai một. Theo Rives thì nhiều bộ tộc có lắm người truyền cho nhau tư tưởng qua không gian, như hiện tượng telepathic (thần giao cách cảm). Những bộ tộc với lốỉ sống còn hoang sơ đó, có lẽ thiên nhiên quá gần gũi với họ, và họ đã hòa tâm hồn vào cùng với núi rừng, biển cả bao la, cuộc sống của họ lại không bị vật chất ràng buộc, cho nên trí óc họ trong sáng và họ dễ dàng thu nhận những năng lượng huyền diệu, những năng lượng tâm linh chan hòa trong vũ trụ. Phải chăng điều nhận xét của nhà nghiên cứu lỗi lạc Rivers, đã chứng minh rõ ràng qua chuyến thám hiểm, của đoàn ký giả Pháp vừa kể trên. Như vậy, chúng ta nhận thấy rằng Văn hóa tâm linh là một nền văn hóa đặc biệt, nó đặc biệt ỏ chỗ trong nó chứa đựng biết bao điều bí ẩn và cao cả, mà con người muốn tìm hiểu khám phá. Có thể nói từ khi có xã hội loài người thì đã xuất hiện nền văn hóa tâm linh. Nền văn hóa đó tồn tại song song với nền văn hóa đời thường. Văn hóa tâm linh là mạch ngầm chảy trong lòng nhân loại, là chiếc cầu nốỉ giữa con người và thế giới tự nhiên. Ngày nay cùng vói sự tiến bộ của loài người trong lĩnh vực khoa học, văn hóa tâm linh I được nhìn nhận dưới góc độ của ánh sáng khoa học và nền tảng của nó lạ đạo đức của con người. 184

NHŨNG LỢI ÍCH TINH THẦN

“Các nghi thức tín ngưỡng tăng cường khả năng bộ não, ngay cả với những người vô thần” Các nhà sư Phật giáo và tu sĩ Thiên Chúa giáo tăng cường khả năng cho bộ não của họ thông qua thiền định và cầu nguyện, nhưng ngay cả những người vô thần cũng có thể được hưỏng những lợi ích tinh thần mà các tín đồ tôn giáo có được từ đức tin, theo một tác giả thần kinh học nổi tiếng. Vấn đề then chốt mà Andrew Newberg tranh luận trong cuốn sách mới của mình: Chúa Trời thay đ ổi bộ n ão củ a bạn như t h ế n à o , nằm ỏ những tác dụng giúp bình tĩnh và tập trung mà thiền định hoặc tăng cường cầu nguyện tạo ra bên trong đầu não của chúng ta. Các máy nội soi não bộ cho thấy rằng việc tăng cường thiền định làm thay đổi chất xám của não, củng cố các khu vực tập trung trí óc, và nuôi dưỡng lòng thiện từ trong khi làm trầm tĩnh những vùng có liên hệ với sự sợ hãi hay tức giận. Dù một người tập thiền tin vào siêu nhiên hay một người vô thần trì tụng một câu chú, ông nói, kết quả có thể như nhau – đó là sự tăng trưỗng lòng từ tâm mà hầu hết mọi tôn giáo đều giảng và sự giảm bớt những cảm xúc tiêu cực. “Về cơ bản, khi bạn nghĩ về những vấn đề thực sự lốn trong đời – dù chúng mang tính tôn giáo, khoa học, hay tâm 185

lý học – bộ não của bạn sẽ phát triển”, Newberg, người đứng đầu Trung tâm nghiên cứu Tinh thần và Tâm trí thuộc trường Đại học Pennsylvania, nói. “Không quan trọng bạn là một tín đồ Cơ Đốc giáo hay Do Thái, một tín đô Hôi giáo hay An Độ giáo, một người theo thuyết bất khả tri hay một người vô thần”, ông viết trong cuốn sách đồng tác giả vối Mark Robert Waldman, một nhà trị liệu tại Trung tâm này. V

V

Thần kỉnh học

Tại văn phòng của mình ỏ bệnh viện trường đại học Pennsylvania, Newberg nói với Reuters rằng “thần kinh học” – nghiên cứu vai trò của bộ não trong tín ngưỡng tôn giáo – đang bắt đầu làm sáng tỏ những gì xảy ra trong đầu não của các tín đồ khi họ suy nghĩ về Chúa. Khoa học và tôn giáo vẫn thường được nhìn nhận là đối lập nhau, tối mức mà một sô” người ỏ mỗi bên công khai phản bác bên kia, nhưng bác sĩ y khoa và giáo SƯ ngành Y học phóng xạ, tâm lý học và nghiên cứu tôn giáo này không thấy lý do nào để không nghiên cứu hai vấn đề này cùng nhau. “Hai lực lượng mạnh nhất trong toàn thể lịch sử loài người là tôn giáo và khoa học”, ông nói, “Đây là hai thứ giúp chúng ta tổ chức và hiểu thế giới. Tại sao lại không cố mang chúng lại với nhau để nghiên cứu từng thứ một và cuốĩ cùng là thế giới của chúng ta một cách hữu hiệu hơn”? Những ngưòi vô thần thường coi những ảnh chụp 186

nội soi theo dõi các dòng máu chảy trong não bô của các nhà sư đang thiền định và tu sĩ đang cầu nguyện thâm sâu như bằng chứng rằng đức tin chỉ là một ảo giác. Newberg cảnh báo trước những kết luận đơn giản đó: “Nếu bạn xem một ảnh chụp nội soi bộ não của một nữ tu đang cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa trong một căn phòng, tất cả những gì nó cho bạn biết là những gì đang xảy ra trong não bộ của bà ấy khi bà cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa trong một căn phòng. Nó có thể chỉ là bộ não đang làm việc đó, nhưng nó cũng có thể là thứ tiếp nhận các hiện tượng tinh thần đó”, dẫn lời ông Newberg, người nghiên cứu, cho thấy những lời cầu nguyện ngắn mà hầu hết các tín đồ thực hiện chỉ để lại một chút dấu vết trên não bộ bỏi vì chúng không mạnh mẽ như thiền định. “Tôi không muốn nói rằng tôn giáo là xấu hay không thật”, ông nói thêm. “Tôi nói rằng người ta có tín ngưỡng và hãy cô” gắng hiểu xem nó đã tác động đến họ như thế nào”. Một khái niệm khác mà Newberg vạch trần là ý tưởng rằng có một “điểm Thiên Chúa” duy nhất trong bộ não phụ trách tín ngưỡng tôn giáo: “Không phải là có một “điểm tinh thần’ nhỏ sáng lên mỗi khi ai đó nghĩ về Chúa”. Thay vào đó, những trải nghiệm tôn giáo kích thích các nơ-ron thần kinh tại vài phần khác nhau của bộ não, cũng như các sự kiện khác gây ra. Việc xác định vị trí của chúng không giải thích được chúng, nhưng có thể

187

chỉ đến việc các hiện tương này xảy ra như thế nào và chúng có thể có ý nghĩa gì. Trong cuốn sách của mình, Newberg và Waldman phác thảo ra một sô” “đường Thiên Chúa” trong bộ não và những ảnh hưỏng của chúng, đặc biệt là nếu được luyện tập qua thiền định giống như cơ bắp được rèn luyện qua tập thê dục. Thiền định làm kích hoạt thùy trán, nơi “tạo ra và tổng hợp tất cả các ý tưỏng của bạn về Chúa”, và xoa dịu hạch hạnh nhân, khu vực cảm xúc mà có thể tạo ra các hình ảnh của một vị thần uy nghiêm và làm mờ đi lốì suy nghĩ logic của chúng ta. Đường đỉnh – trước cho chúng ta cảm giác về không gian xung quanh và vị trí của chúng ta trong đó. Thiền định loại bỏ cảm giác này, tạo ra một cảm giác thanh thản của sự hợp nhất với Chúa Trời hay với thế giới. “Thậm chí 10 đến 15 phút thiền định dường như cũng có tác dụng tích cực đáng kể lên nhận thức, thư giãn và sức khỏe tâm lý”, các tác giả tuyên bô” trong cuô”n sách. Newberg, người đ ã lớn lên trong một g ia đình Do T h ái C ải cách và đ ã nghiên cứu nhiều tôn g iáo , nói rằng công việc của ông có t h ể giú p cả những tín đ ồ và những người vô thần hiểu về những cảm g iá c tôn giáo, m à ông nói là “nằm trong sô’ những trải nghiệm phứ c tạp và m ạn h m ẽ nhất người ta có được”. N hưng ông củng cản h báo về việc trông đợi “thần kin h h ọ c ” sẽ sớm đư a ra những hiểu biết đ án g ngạc

188

nhiên: “Dù kỹ thuật củ a chún g ta có tốt như t h ế này, chúng vẫn ch ỉ hết sức thô sơ. Chúng ta còn cả m ột chặn g đường d à i đ ể đ i ’. (N guồn: R e u ters/E p o ch Tim es)

LÒNG TIN VÀ S ự LÀNH BỆNH

Tờ báo Time ngày 24 tháng 6 năm 1996 đã đăng bài dưới chủ đề L òn g tin và sự là n h bện h (Faith and Heathing) đã nêu ra câu hỏi: Can spirituality promote health? Doctors are finding some sursprising evidence (Có the nào tâm linh đẩy mạnh sức khỏe? Những bác sỹ khám phá những điều làm ngạc nhiên) và chủ đề này đề cập đến hiệu lực của sức mạnh tâm linh qua những nghi lễ tín ngưỡng như lời cầu nguyện, sự đặt tay, và bùa chú giúp cho những bệnh nhân lành bệnh trỏ lại. Bài viết của Claudia Wallis, nêu ra những khảo sát: Vào năm 1995, tại Trung tâm Y khoa Dartmouth Hitchcook đã ghi nhận sự sống sót trong 232 người bệnh được giải phẫu tim mà họ đã có được tâm trạng thoải mái và lòng tin về tôn giáo. Những bệnh nhân không có lòng tin thì sô” tử vong cao gấp ba lần những bệnh nhân có lòng tin. Một nghiên cứu khác cho biết, những người đi lễ nhà thờ đều đặn thì sô” người chết vì bệnh mạch vành chỉ bằng phân nửa so với những người lười đi nhà thờ. Ông Herbert Benson, trường Harvard, đã giải thích trong: “Sự đáp trả của thư giãn” như sau: Qua sự tĩnh 189

tâm quán định, người bệnh có thể chiến thắng những căn bệnh trong cơ thể mình, tạo ra một loạt thay đối về sinh lý. Qua sự tĩnh tâm, mạch đập tim, hơi thồ và sóng não bộ giảm đi, các cơ bắp thư giãn và các kích thích căng thẳng bớt hẳn đi. Thí nghiệm sau đó ghi nhận các kết quả sau thư giãn: 75% người mất ngủ tìm lại giấc ngủ ngon, 35% phụ nữ hiếm muộn mang thai, và 34 % bệnh nhân kinh niên giảm liều thuốc giảm đau. Trong cuốn sách “Timeless Healing” (Sự lành bệnh không lỗi thời) ông Benson còn tiến sâu vào lĩnh vực tâm linh. Trong năm năm nghiên cứu những bệnh nhân áp dụng sự Quán tưỏng để chiến đấu với căn bệnh kinh niên, theo đó những bệnh nhân có cảm tưồng thật gần gũi vói Chúa trong lúc quán tưỏng đã được hưỗng nhiều sức khỏe và mau chóng bình phục hơn. Theo ông Benson, cơ thể con người là một bản sao di truyền tạo ra để tin vào một sự tuyệt đốĩ vô biên của thiên nhiên. Lời cầu nguyện tác động qua biểu đồ sinh hóa, hay nói cách khác, cầu nguyện tác động đến những kích thích tô” do tình trạng căng thẳng tạo ra (như epinephrine và corticoids) làm giảm huyết áp, tim đập thư thả, nhịp thỏ khoan thai… Sự định thần quán tưỏng làm thay đổi hoạt động của kích thích tố, đương nhiên có ảnh hưỏng rõ rệt trên hệ thống miễn nhiễm. Có lẽ chẳng phải là do một sự, trùng hợp nào đó mà sự đáp ứng thư giãn và những cảm xúc về tín ngưỡng đã cùng chia xẻ những bản doanh chỉ

190

huy trong não bộ như các hạch hạnh nhân và hạch hải mã – amygdale & hippocampus – ỏ hệ thống não biêndiệp- limbic system. Tháng 7 năm 2008, tờ Nhật báo Politiken tại Đan Mạch, đã có bài viết về Thiền Quán như sau: Thiền là m ột p h á p m ôn đ ã có m ặt trên 2 55 0 n ăm và AIDS là h ội chứng suy g iả m m iễn dịch. Có n g h ĩa là kh i cơ th ể ở tình trạng suy g iả m m iễn dịch th ì k h ả năng đ ề kháng kh ôn g chống được các m ầm bện h thôn g thường, thì việc m ắc p h ả i các chứng bệnh truyền n hiễm ở người đã bị lây nhiễm HIV, sẽ d ẫ n đến cái chết, vì kh ôn g cố thuốc điều trị, đ ê ch o người bệnh cố k h ả n ăn g h ồ i phục. Kết q u ả nghiên cứu củ a trường đ ạ i h ọc UCLA tại Hoa kỳ cho thấy Thiền Quán có năng lực là m cho tính miễm nhiễm dồi d à o m ạn h m ẽ hơn trong cơ t h ể những người đ a n g bị lây nhiễm HTV. Điều này, n g h ĩa là thực tập Thiền Quán sẽ ngăn ch ặn được sự xuất hiện củ a căn bệnh AID S trong cơ th ể những người khôn g m ay bị lây nhiễm H ỈV và H IV sẽ “ngủ y ên 1”, khôn g có cơ h ộ i p h á t tấn tấn công hủy d iệt h ệ thống m iễn dịch. Tóm lại, sự trị bệnh bằn g lòng tin hay sức m ạn h củ a tâm linh q u a lời cầu nguyện hay T hiền qu án với những kết quả k h ích lệ là một vấn đ ề m à con người trong thời hiện đ ại vẫn còn tiếp tục nghiên cứu và những người lạc quan tin rằn g cơ t h ể con người là m ột sự p h ố i hợp thân xấc và tinh thần, có sự tương qu àn m ật thiết với những quyền lực vô cùng to lớn của thiên nhiên.

191

LINH HỔN CON NGƯỜI Lời dẫn: Từ ngàn năm xưa, loài người đ ã đ ặt câu h ỏi: L in h hồn con người là gi? Và L in h hồn con người có tồn tại m ãi m ãi hay không? Ngày nay cùng với sự p h á t triển của k h oa học, bước tiến về tâm linh củng m ở ra những chân trời mới với những trí tuệ cao siêu, g ia o tiếp với các cõi giới tâm linh. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bản biên dịch của N h à nghiên cứu L ê Phước Minh, g h i lại sự g ia o tiếp thông linh giữ a các N h à ngoại cảm N ga Seklitova., Strelnikova L., V olodia Tritrilin… Với các bậc thầy tâm linh. (Các N hà ngoại cảm là những người đ ặt câu hỏi và các bậc T hầy tâm linh trả lời) – L in h hồn là gì? – Linh hồn là một dạng năng lượng – L in h hồn con người là bất tử? – Linh hồn thuộc về năng lượng cao siêu, nó luôn luôn tồn tại. – L in h hồn ở đ âu : Trong tim hay trong đầu? – Linh hồn ở trong toàn bộ thân thể – Tương qu an giữ a th ể chạt và tâm linh trong con người nh ư t h ế nào ?

192

– Linh hồn được cài đặt trong mỗi phần tử của thân thể. – C ác lin h hồn được sản sin h từ năng lượng như t h ế nào? – Linh hồn được tạo thành từ hàng loạt thành phần năng lượng, theo sự phân nhóm. Thân thể và linh hồn có liên hệ tương hỗ với nhau. Cái này bổ sung cho cái kia. – Đường Đời củ a con người được xác đ ịn h k h i nào: Trước h ay sau k h i sinh? Và có t h ể làm thay đ ổi nó được không? – Đường đòi được cài đặt vào trước khi sinh và có thể làm thay đổi nó. – Mục đ ích của sự p h á t triển lin h hồn là gì? – Linh hồn sẽ chuyển đến câp độ cao hơn. – Quá trình sản sin h ra các lỉn h hồn mới là vô cùng tận? – Vô cùng tận. – Vậy, có q u á nhiều lin h hồn hay không? – Thế giới là vô cùng tận. – Có t h ể g ieo lin h hồn con người vào động vật hay không? – Trong một sô” trường hợp. Nếu linh hồn con người đó đã làm nhiều chuyện ác nghiệt với thế giới xung quanh. – L in h hồn đi theo con đường p h á t triển từ cây cối, sâu bọ, động vật và sau đó mới được g ieo vào con người? 193

– Không phải tất cả đi theo con đường này. Tùy thuộc vào trình độ hoàn thiện, nó có thể nhảy qua một vài giai đoạn và chuyển lên mức độ cao hơn. – L in h hồn có th ể đầu thai vào mức độ thấp hơn con người hay không? – Không, Linh hồn con người không thể đầu thai vào sâu bọ, chim muông, động vật, vì rằng linh hồn con người cần phải phát triển hoàn thiện. Linh hồn con người chỉ gieo vào động vật trong trường hợp bị trừng phạt. Còn động vật được ban cho thành con người, để trợ giúp nó sản sinh trong mình những lòng tốt và sự chân thành. – C ác g ia i đoạn p h á t triển của linh hồn như t h ế nào? – Linh hồn đi qua rất nhiều chu trình phát triển và nâng cao năng lượng của nó rồi mối được phép chuyển lên thế giới hoàn toàn khác, vói mức độ cao hơn. – K h i lưu trú trong thân th ể con người, linh hển sẽ p h á t triển như t h ế nào? – Linh hồn con người phát triển theo năng lượng, tùy thuộc vào cường độ hoàn thiện – T ất cả sinh linh trên t h ế giới này có lin h hồn hay không? Ví dụ như các hòn đá? – Đúng. Nhưng không thể nói rằng các hòn đá hoặc các thứ khác có linh hồn như con người. Mỗi loại có định hướng của nó. Chất sông nào cũng có linh hồn, nhưng chúng khác nhau. – Vậy cây cối, bụi rậm, cỏ…chúng củng có linh hồn? 194

– Chúng có linh hồn, nhưng không phải giông như con người. Năng lượng của chúng nhỏ và có kết cấu nhất định. •Cây cối và động vật có ý thức h ay k h ô n g ? – Chúng không có ý thức như con người. Cây cổì có cấu trúc đơn giản hơn con người, các động vật cũng không có tiềm thức. * Trái đ ấ t có linh hồn hay k h ô n g ? – Trái đất cũng là một cơ thể sống, không thể làm tổn thương nó được, nhưng con người lại làm điều đó. Trái đâ”t sáng tạo tấ t cả, tạo lên sông núi, rừng rậm, cánh đồng, biển cả… nó cũng tạo lên thời tiết, tác động lên tâm hồn con người. – K h á i niệm “T âm hồn trong sá n g ” có n ghĩa là gỉ? – Đó là những linh hồn không gây ô nhiễm bỏi những suy nghĩ xấu xa. – Tại sao sứ m ệnh của m ỗi người trên trái đ ấ t lạ i bị ẩn dấu? – Nó không bị ẩn dấu. Con người tự chọn nó. Sô” lượng năng lượng cho con ngưòi cần thu thập trong mỗi cuộc đời trên trái đất, hoàn toàn khác nhau. Nhưng chính con người có biết hay không về sứ mệnh này và cố gắng thực hiện nó, hay chỉ sống theo sự thỏa mãn về vật chất của riêng mình. 1 – Tại sa o con người khôn g t h ể n h ớ các cuộc đời trước đầy của m ình? – Nếu như vậy thì con người ta không thể sông bình

195

thưòng được, linh hồn sẽ nhố lại tất cả những con đường mà nó đi qua, khi mà nó được giải thoát khỏi thân thể. – Có k h á c biệt hay không, qu á trình hoàn thiện linh hồn q u a â m n h ạ c ? – Có khác biệt. Âm nhạc khác biệt vối thi ca như thế nào, thì năng lượng của chúng cũng khác biệt như vậy. Nhưng năng lượng còn tùy thuộc vào loại âm nhạc nào. Nếu âm nhạc hòa vào tâm hồn con người, là loại âm nhạc có chất lượng, còn âm nhạc tồi tệ thì năng lượng của nó rất thấp hoặc không có năng lượng. – S ự h oàn thiện linh hồn đi qu a k h ổ đau hay là sự h à i lòn g? – Quá trình hoàn thiện linh hồn, đó là sự lao động vĩ đại. Nó thường đi qua các khổ đau. – Điều g ì sẽ diễn ra trong linh hồn, k h i m à trải qua các k h ổ đ a u ? – Thải ra năng lượng xấu. – N ăn g lượng của những k h ổ đ au đó sẽ đ i đâu? – Những khổ đau tâm linh đó làm thanh sạch linh hồn và nó được gửi vào vũ trụ. – N ếu t h ể chất con người trải qu a nỗi đau, thì linh hồn cố k h ô đ au hay không? – Nếu thể phách khổ đau, thì nhất thiết cả linh hồn cũng đau khổ, bồi lẽ nó là thực thể năng lượng tinh tú. Nỗi đau tâm hồn đôi lúc cảm nhận còn đau đớn hơn nỗi đau thân thể.

196

– Các lin h hồn có ản h hưởng với nhau như t h ế nào? – Có những linh hồn thu hút các linh hồn khác vào các phạm vi thấp hèn. c ầ n biết định hướng việc gì tốt. việc gì xấu. Nhưng cũng có những linh hồn tốt nâng những linh hồn khác lên. – Trên trái đ â t bây g iờ tương q u an như t h ế nào về sô linh hồn h o àn thiện và kh ôn g h o àn thiện? – Nhân loại cứ mỗi một thế kỷ sẽ giành sự chú ý càng nhiều hơn nữa cho linh hồn mình. Những linh hồn hoàn thiện biết rằng, họ cần phải làm gì, nhưng cũng có rất nhiều người họ không nhận thức rõ đang làm gì, họ ngưng phân tích những gì đang xảy ra và những luồng tư tưỏng của họ lan truyền sang người khác như các bệnh dịch bao trùm toàn bộ nhân loại. Từ đây kết luận rằng, các linh hồn hoàn thiện ít hơn các linh hồn chưa hoàn thiện. – Con người cần các căn bện h đ ể làm gì? – Mỗi căn bệnh đều được lập trình. T ất cả các căn bệnh xuất hiện trong kết quả rối loạn sinh trường của con người và không có sự hài hòa giữa tâm hồn và thân thể con người đó. Căn bệnh được cho không phải để trừng phạt, mà là để thử thách. Nhưng nó có thể xuất hiện, và cũng có thể không xuất hiện. T ất cả tùy thuộc vào hành vi ứng xử của con người. – T ại sa o các k h ổ đ au lạ i cần thiết cho con người? – Nếu ban cho con người tất cả sự đầy đủ sung sướng, người ta sẽ ngưng suy ngẫm về sự sống và chỉ 197

sông cho mình. Nhưng nếu người đó dù chỉ một lần khôn khó, thì sẽ nhó chuyện đó rất lâu, và người ta sẽ không bỏ qua những người nghèo khổ. Khi người ta thường xuyên may mắn, họ thường quên mất ý nghĩa của cuộc sốhg, còn khi người ta đau bệnh, họ sẽ hiểu nhiều điều và chỉ có con người hiểu được người khác trong các khổ đau và nỗi đau đớn giày vò của mình, thì người đó sẽ tự chuyển hóa được chúng. Người đó sẽ trở nên chú ý và kiên trì hơn đốĩ vối những người khác, sẽ nhận thức rõ nỗi đau của người khác như của chính mình. – c ỏ th ể g iả i thoát con người kh ỏi sự ác n ghiệt?

.ị

– Không, sự ác nghiệt và lòng tốt cần để tôi luyện > linh hồn và để giáo dục nó hoàn thiện – L u ật nhân quả, trừng p h ạ t như t h ế nào về sự ác nghiệt? – Có nhiều trường hợp trừng phạt trong thời gian cuộc đời, nhưng thường hơn là sự trừng phạt bắt đầu’ sau khi chết. – Có sự th a thứ hay khôn g cho sự á c nghiệt ? – Không có ác nghiệt nào được tha thứ, con người phải trả giá về việc làm ác nghiệt của họ. Trong quyền lực của Đấng Thánh Thiện có cả sự bảo vệ và trừng phạt.

198

Ý THỨC VÀ TIỂM THỨC

f Ngày nay, chúng ta biết rằng nhận thức, hay đời sông nội tâm, được tạo nên bởi các trải nghiệm tinh thần, những suy nghĩ, cảm xúc, sự tưồng tượng và các khát vọng – sâu sắc hơn rất nhiều so với những gì chúng ta hiểu được. Để dễ phân biệt, ta chia nhận thức thành hai câp độ: ý thức và tiềm thức. Trên thực tế, hai cấp độ nhận thức này hết sức gần gũi nhau và không ngừng tương tác lẫn nhau. Nói một cách đơn giản, chức năng của ý thức bao gồm những gì chúng ta nhận biết một cách tự giác, những điều chúng ta tự nguyện và hiểu rõ “một cách có ý thức” rằng chúng ta nên làm, dựa trên cơ sỏ nhận thức lý tính, tri thức, giá trị, logic và các giác quan thông thường. Ý thức cho phép chúng ta lựa chọn những gì chúng ta lĩnh hội, tập trung và kiểm soát được, ý thức giúp chúng ta ghi nhớ và cho phép chúng ta chỉ quan tâm đến những gì liên quan đến mình, loại trừ những thông tin không cần thiết, ý thức cũng giúp chúng ta biết dừng lại, phản ánh, suy ngẫm về bản thân và sử dụng những bài học trong quá khứ để cân nhắc những hồi đáp khác nữa, đánh giá và hình dung được hiệu quả của chúng trong tương lai. ỏ phần còn lại, tiềm thức ghi nhớ một cách vô thức tất cả những trải nghiệm của cuộc đời chúng ta: những gì chúng ta đã từng nhìn thấy, cảm nhận hay những việc chúng ta đã từng làm – những

199

điều tốt và xấu, những niềm vui và nỗi đau. Tất cả đều được lưu trữ trong tiềm thức. Chúng ta cũng có thể tìm được trong ngân hàng ký ức khổng lồ này những niềm tin, quan điểm và truyền thông văn hóa của mình. Hình ảnh cái cây như là một minh họa tiêu biểu cho tiến trình này. Chúng ta có thể nhìn thấy thân cây, cành cây và lá cây, nhưng không nhìn thấy được rễ cây; mặc dù rễ cây chính là nguồn đảm bảo chất dinh dưỡng, sự sinh trưởng cũng như sự vững chãi và sức sống cho cây. Rễ cây ăn sâu vào lòng đất, lan tỏa hệt như những cành cây vươn lên trời cao. Cái cây là minh họa điển hình cho hầu hết các dạng tiến trình phát triển diễn ra khắp nơi trong tự nhiên, bao gồm cả thế giới nội tâm của mỗi chúng ta. Sự sống của mỗi cái cây là sự hợp nhất độc đáo của nhiều yếu tô” khác nhau, một sô” chất dinh dưỡng được hút từ rễ cây, một sô” khác, lại được hấp thu từ lá cây và thân cây. Hệt như vậy, nội dung của ý thức chúng ta cũng là sản phẩm của ba thành phần cô”t lõi sau: – Ký ức được lưu trữ ỏ phần tiềm thức – rễ cây. – Tác nhân kích thích từ các cơ quan giác quan – lá cây. – Kiến thức và khả năng phản ánh từ khu vực cao hơn của ý thức – đó là cách thức riêng biệt do mỗi cá nhân tự tổ chức và xử lý thông tin. Những phần nhìn thấy được của cái cây tiêu biểu cho những phẩm chất bên ngoài của chúng ta: diện mạo, hành vi, tính cách… Không phải lúc nào con người cũng

200

bộc lộ hết những gì bên trong, vì th ế chúng ta cũng có thể bị bất ngờ, thậm chí nản lồng với các hành vi cư xử trái vối những gì chúng ta từng biết ỏ một người nào đó. Nếu muốn là chính mình và giao tiếp được vối người khác, chúng ta cần hiểu rõ tất cả những điều trên. Không nhất thiết phải hiểu quá kỹ càng mà chỉ cần ý thức rằng ẩn bên dưới những hành vi kiềm chế còn có một nền tảng gồm những niềm tin sâu sắc, những giá trị, hoàn cảnh và rất nhiều tô” chất tích cực bẩm sinh khác. I

.

TRƯỜNG XOẮN NGUYÊN PHÁT

Tiến sỹ toán- lý Sipov G. I., Viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học tự nhiên LB Nga, hiện là giám đốc Trung tâm khoa học Vật lý chân không viết về “NHậN THúC Và CáC TRƯỜNG XOắN CủA CON NGƯÒI”. Ông là người đưa ra “Lý thuyết V ật lý chân không” nổi tiếng th ế giới, từ đó có thể nói về sự tồn tại của Chân không Vật lý. Trường xoắn nguyên phát (Tâm-Năng) và Vô vi tuyệt đôi, mà từ đó sinh ra T ất cả (đấng Tốì thượng, trí tuệ thánh thiện cao siêu…), và ông còn lý giải về bản chất xoắn của Trường năng lượng hào quang con người. Đến năm 1993, vật lý cơ bản bằng các phương trình của mình đã mô tả chỉ 4 trạng thái chất hoặc 4 mức độ hiện thực: 1. V ật chất rắn 2. Lỏng 201

3. Dạng khí 4. Dạng Plazma (các hạt cơ bản). Ba trạng thái mới của chất (các mức độ hiện thực) theo lý giải của Viện sỹ Sipov G.I., mà đóng góp vào các tên gọi sau đây: 5. Chân không vật lý (hư không) 6. Các trường xoắn nguyên phát (theo sự hiểu thông thường là tâm năng) 7. Vô vi tuyệt đối, mà từ đó sinh ra tất cả (đấng Tối thương, trí tuệ cao siêu, Thượng đế) Về sự tồn tại của Chân không vật lý, 2000 năm trước đã được nói đến trong các học thuyết Vệ Đà huyền bí (Ân Độ), còn New Ton đã gọi nó là khí năng. Khám phá của Viện sỹ Sipov G.I. đã cho phép mô tả thể khí năng con người, mà sự tồn tại của nó được khoa học chứng minh bằng thực nghiệm. Các trường xoắn xuất hiện khắp nơi, ở đâu có sự quay. Các điện tử quay xung quanh hạt nhân nguyên tử, hạt nhân quay quanh trục của nó, các hành tinh trong Thái dương hệ quay xung quanh Mặt trời. Đốỉ tượng bất kỳ hữu sinh hoặc chất vô sinh – có thể xem xét như nguồn phát chiếu xoắn. Các trường xoắn nguyên phát là nền tảng vật lý của ý thức, Tư duy và Trí nhố. Do đó cả những suy nghĩ của chúng ta có thể xem như trường xoắn vật chất theo phân cực khác nhau được mô thức theo biên độ, tần sô” và pha. 202

. Khám phá của Viện sỹ Sipov G.I. đã xác nhận sự tồn tại của 7 thể ở con người (vật chất, khí năng và 5 thể tinh tú khác), mà nhò chúng, nó tương tác vói không gian Vũ trụ. Chính các nguyên nhân sâu xa của nhiều căn bệnh của con người ở trong các thể tinh tú. ‘ TRạNG TH ál THứ 7 (Hư vô hay vô vi, mà từ đó sinh rá Tất cả) trong con người được kết cấu ở dạng “cái ta cao siêu” – là sự tổng hợp của Linh hồn, Tâm hồn và ý thức. “Cái ta cao siêu” – đó là phần tử Thánh thiện trong con người mà có kênh liên hệ vói Thượng đế. Phần tử Thánh thiện này là đổì tượng nghiên cứu của các nhà thần học thuộc Ấn Độ giáo, Phật giáo và Thiên Chúa giáo trong suốt mấy ngàn năm qua. Đã tích lũy được kinh nghiệm rất phong phú về điều dưỡng – chữa trị theo tín ngưỡng. Nhờ khám phá của Viện sỹ Sipov G.I., không còn cơ sở nữa để đốỉ kháng giữa khoa học và tôn giáo. Kinh nghiệm thực hành cầu nguyện nhiều th ế kỷ có thể và cần thiết nên được sử dụng. Con người (như chất bất kỳ – bao gồm từ các nguyên tử quay) là nguồn phát chiếu xoắn. Các nhà ngoại cảm có sự phát chiếu mạnh mẽ, con người trung bình về tâm- sinh- thể có sự phát chiếu yếu, như các nhà vật lý gọi là phát chiếu phông. Nếu sự phát chiếu phông bao quanh con người (cây thực vật, nhà cửa, đồ gỗ, các đồ dùng khác, thực phẩm…) về vectơ trùng với phát chiếu của riêng người đó, thì nó ảnh hưởng tích cực lên sức 203

khỏe người đó, trong trường hợp ngược lại – ảnh hưởng xấu, âm tính. Sự phát chiếu xoắn có định hướng nhất định (sự phân cực) – phải và trái. Xác định sự định hướng này khá đơn giản, ví dụ, treo chiếc nhẫn dưới sợi chỉ. Chiếc nhẫn bắt đầu quay – trường xoắn thể hiện nó như thế. Đa s ố mọi người có định hướng cực theo chiều phải. Có những người định hướng cực theo chiều trái. Con người như th ế có thể tốt và rất qui củ nề nếp, nhưng trong hội bạn bè của người này – mỗi người sẽ cảm nhận mình khác nhau (tốt hoặc bất ổn). TRƯỜNG XOẮN CÓ VÔ SỐ CÁC TÍNH CHẤT TUYỆT VỜI – Tốc độ lan truyền tín hiệu xoắn vượt trội tốc độ ánh sáng nhiều bậc. – Các trường xoắn có khả năng thâm nhập- thẩm thấu cao và đi qua môi trường thiên nhiên bất kỳ mà không có sự yếu đi. Không thể ngăn chặn chúng bằng màn ảnh làm từ vật liệu thiên nhiên. Chúng không tắt dần đi theo khoảng cách tăng. – Trường xoắn có ký ức- trí nhớ. Nếu đưa nam châm đến gần các mạt sắt, chúng sẽ thiết định theo các đường sức của nam châm. Lấy nam châm đi khỏi – các mạt sắt sẽ tiếp tục biểu thị trường của nó. Có điều gì đó tương tự diễn ra vói trường xoắn – nó sắp xếp (“phân cực”) không i gian mà nó trong đó. Nếu cất nguồn trường xoắn đi, 204

trong không gian vẫn còn lưu lại bản sao dấu ấn, cái bóng chính xác của nó. Dấu ấn này có tên gọi “khuôn mẫu”, và nó ghi nhận được bằng thực nghiệm. Nếu bạn ngồi ở ghế và sau đó đứng dậy – khuôn mẫu của bạn vẫn lưu lại ỏ ghế – cho đến khi các trường xoắn khác chưa phá hủy nó đi, ví dụ như có người khác ngồi lên ghế đó. – Các trường xoắn có thể được sinh ra không chỉ bằng sự quay, mà còn có hình dạng dung khối và dạng hình học (“hiệu ứng hình dạng”)… Như vậy, đốì tượng có bản chất hữu sinh và vô sinh bất kỳ có thể được xem xét như nguồn phát sinh và tương ứng tiếp nhận các phát chiếu xoắn. Do đó con người bất kỳ không tùy thuộc vào mong muốn của người đó – tham gia như là một đôi tượng phát sinh, cũng như tiếp nhận các phát chiếu xoắn. Song mọi người tiếp nhận các phát chiếu từ các đôì tượng xung quanh họ, phản ứng theo một cách khác nhau lên chúng, cảm giác thể chất từ việc tiếp nhận các sóng ỏ dạng ấm áp, lạnh, lâm châm và các cảm ứng khác, được phú bởi thiên nhiên bằng mặt cắt vàng của xương (tương quan độ dài của các xương ống so với đường kính của chúng bằng sô” ồ). Những người như thế trong xã hội không nhiều (1- 4 %).

205

HÀO QUANG VÀ S ự SỐNG CỦA CON NGƯỜI

S ự SONG của con người – đó là sự sông của Linh hồn trong trạng thái Tâm linh và Thân thẻ. Đó là những gì, mà con người thường không cảm nhận thấy về mặt vật lý khi đang ở trong sự sông thân xác, và đó là những gì mà con người sẽ cảm nhận thấy, khi ở trong thế giới tâm linh, bỏi vì rằng thân thể con người thưòng không thể cảm ứng thấy năng lượng sự sống đi đến từ vũ trụ, cũng như cả trưồng hào quang của mình. Theo các nhà nghiên cứu thì linh hồn con ngưòi, có dạng hình cầu năng lượng bao quanh tất cả thân thể và bên trong nó. Nó bao gồm trong mình tất cả các phần cấu thành năng lượng tư duy và cảm giác, vấ do đó đánh giá về tình trạng linh hồn con người khi ỏ sự sông thân thể của nó, về sự khỏe mạnh hoặc bệnh tình, chỉ sau khi đo lường trường hào quang con người và cường độ phát chiếu của nó từ thân thể. HÀO QUANG con ngưòi – đó là lá chắn năng lượng, bảo vệ thân thể con người khỏi các vi khuẩn, mà có thể bao quanh người đó khi xuất hiện hoàn cảnh sinh thái không mong muốn, đó là lá chắn của thân thể và linh hồn con người khỏi các phóng xạ năng lượng khắc nghiệt hoặc các xung động, mà cũng có thể rơi vào cơ thể con người từ các nguồn phát sinh của chúng, đó cũng là lá chắn khỏi năng lượng từ các điểm địa nhiễu của trái đất, mà phát chiếu và hấp thu năng lượng để đáp ứng

206

như cầu sông của các cơ thể sống trong lòng trái đất ỏ độ sâu 50-100m từ bề mặt nó. Nhưng hào quang không chỉ bảo vệ, nó còn nuôi dưỡng cơ thể con người bằng năng lượng sự sống từ không gian Vũ trụ. Năng lượng sự sông thâm nhập vào cơ thể con người theo liều lượng được cơ quan- tạng phủ này hoặc kia yêu cầu, mà đến lượt nó, lại làm ra phần tử của mình vào thành phần của hào quang. Nhưng tình trạng không thuận lợi hay suy yếu của cơ quan nội tạng con người, thì nó càng yêu cầu nhiều hơn liều lượng năng lương sự sống qua hào quang; sự suy yếu hoặc bệnh sẽ làm giảm câ’u thành của nó và làm hư hỏng, tạo lỗ thủng trong hào quang. Nhưng điều đó có cả kết quả ngược lại, lỗ thủng này của hào quang có thể thâm nhập tự do hơn không chỉ năng lượng sự sống, mà còn có bất kỳ loại năng lượng nào khác không mong muốn cho cơ thể, như các thể vi sinh (có hại), vì thế nó bắt đầu phá hủy cả các cơ quan khác của con người, tất cả những bệnh truyền nhiễm này thâm nhập vào cơ thể, còn các luồng năng lượng khắc nghiệt sẽ dẫn đến căn bệnh cho các cơ quan nội tạng của con người, và xuất hiện trong thân thể con người các phân tử có xuất xứ khác lạ, như là các kết cấu thủ tiêu các phân tử (lành mạnh) của thân thể con người, hoặc làm tăng lên sự tái sinh sản chúng không được cho phép, mà dẫn đến các căn bệnh, mà con người gọi là bệnh ung thư, hoặc căn bệnh ung thư đáy da (basalioma). 207

Do đó khi mà con ngưòi bị bệnh, người đó trưốc hết cần chăm lo về việc để làm sao trường hào quang của mình phục hồi hình cầu tự nhiên như của người khỏe mạnh. Nếu trưòng hào quang con người phát tán rộng ra khỏi thân thể con người ở khoảng cách bằng bề rộng thân thể hoặc lớn hơn, thì linh hồn trong trường hợp này ỏ trong tình trạng tốt lành. Con người cảm nhận những gì diễn ra xung quanh mình với sự nhiệt tình phấn chấn hoặc vói cảm xúc mạnh mẽ, không sai lệch hiện thực. Nếu trường hào quang con người có khối hình dạng quả trứng, vượt ra khỏi thân thể nhỏ hơn 1/3 bề rộng của nó, thì người này ỏ trong tình trạng tâm thần có sai lệch, khi mà tất cả những gì diễn ra xung quanh người đó được cảm nhận ỏ dạng sai lệch, người đó không có những cảm nhận vui mừng, và những cảm xúc mạnh mẽ tốt đẹp Nếu trường hào quang của người đó còn có cả các chỗ ứ đọng, thì điều đó nói rằng người này còn có các cơ quan nội tạng bị bệnh. Nếu chỗ ứ đọng ỏ mức ngang đầu, thì cần lưu ý ỏ tình trạng bệnh tật của não và các mạch máu, nếu ở mức ngang ngực, thì điều này có thể tim, phổi và tuyến giáp bị bệnh. Làm sao có thể điều trị năng lượng con ngưồi, tức là phục hồi trường hào quang, trong khi không chạy theo việc dùng thuốc. Chỉ có năng lượng sự sông Vũ trụ có thể làm việc đó. Làm th ế nào người đó có thể phục hồi trưồng hào quang để nó đốì vói cơ thể con người là lá chắn thực sự 208

của mình, và các loại thuốc nào có thể tác động lên các cơ quan con người, mà ở ngưòi bị đau bệnh, được phục hồi và gửi thêm các phần cấu thành năng lượng tối ưu vào trường hào quang của con người bị bệnh. Trong trường hợp này cơ thể con người nhanh chóng được chỉnh đôn với căn bệnh và áp chế trong nó tất cả các vi khuẩn và kết tử đã gây ra các căn bệnh ỏ ngưòi đó. Nhưng ỗ đây ngoài các loại thuốc được con người tạo nên, chúng ta sẽ làm để cho cơ thể ngưòi bị bệnh dung nạp những nguồn nước hoặc các dung tích dịch lỏng bất kỳ chứa đầy năng lượng Vũ trụ Các nguồn nước này không chỉ là các mạch nước suối, mà còn cả các giếng nước hoặc đơn giản chỉ là các bình chứa các dịch lỏng, được phát chiếu bỏi năng lượng Vũ trụ, theo sự thỉnh cầu của con người, mà trí tuệ cao siêu đã cho quyền giao tiếp với họ.

209

Phần IV TRI ÂN

NGƯỜI LUÔN VẪN ở TRONG TRÁI TIM CHÚNG TA

Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh cụ Nguyễn Đức Cần – một người thầy chữa bệnh không dùng thuốc (1909 2009), ngày 25 tháng 7 năm 2009 (tức ngày mùng 4 tháng 6 năm Kỷ Sửu) tại cánh đồng lúa làng Thanh Mai, huyện Thanh Oai Hà Nội, Bộ môn Thông tin dự báo (do ống Nguyễn Phúc Giác Hải làm chủ nhiệm) Trung tâm nghiên cứu tiềm ỉiăĩig con người đã cùng thân nhân trong gia đình cụ, tổ chức L ễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cụ. –

Từ sáng sớm hàng trăm bà con cô bác, những bệnh nhân, những người chịu ơn, những người biết đến danh cụ, đã tề tựu về đây, nơi cụ đang an nghỉ đ ể tưởng niệm và tri ân cụ. Chúng tôi xin giới thiệu bài phát biểu của ông Nguyễn Phúc Giác Hải, Chủ nhiệm Bộ môn thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, trong buổi lễ Kỷ niệm.

210

Thưa tấ t cả các bác, các anh, các chị. Thưa tấ t cả các bạn. Thưa tấ t cả gia đình, con cháu nhà chữa bệnh Nguyễn Đức cần . Hôm nay chúng ta có mặt tại đây để tưởng niệm và tri ân một con người đặc biệt, đã cống hiến suốt đời mình, với năng lực siêu thường cho sức khỏe và hạnh phúc của nhiều người, và đã hé mỏ ra cho khoa học một hưổng nghiên cứu mới về những tiềm năng đặc biệt của con người: Đó là nhà chữa bệnh Nguyễn Đức c ầ n ỏ Đại Yên – Hà Nội. Cách đây 26 năm, ngày 13 tháng 7 năm 1983 (tức ngày mùng 4 tháng 6 năm Quý Hợi), nhà chữa bệnh Nguyễn Đức c ầ n đã từ biệt chúng ta và ba ngày sau, ngày 16 tháng 7 năm 1983 một đám tang trọng thể đã diễn ra từ làng Đại Yên – Hà Nội. Hàng ngàn con người đã khóc thương cho sự ra đi của cụ, chậm rãi bước đi sau xe tang, hàng chục chiếc xe hơi lớn nhỏ, đưa hàng trăm con người về nơi đây là nơi an nghỉ cuối cùng của Người. Trước khi đi xa, Người đã chọn cho mình nơi an nghỉ cuối cùng này, một vùng quê ỏ gần Bình Đà, không xa thủ đô Hà Nội, nơi quê của một trong những người con rể và con gái của cụ, và hôm nay anh chị cũng đang có mặt tại đây. Từ bấy đến nay, đã 26 năm trôi qua. Năm nay là ngày giỗ lần thứ 25 của cụ. Một phần tư th ế kỷ, các con cháu cụ, những người chịu ơn cụ, đã xây dựng nơi đây 211

thành một khuôn viên xanh tươi, để cụ làm bạn với đồng quê, với những khóm lúa, những hàng cau, vói’ những bông hoa đại như đã từng có ỏ vườn Đại Yên của cụ. Đó chính là hồn của đất, hồn của nước, đế cụ làm bạn với trăng sao, với ánh thái dương và gió mát, cùng hòa mình vói vũ trụ. Và đây là bức tượng bán thân của cụ do nghệ sỹ Trần Tuy tạc nên, để thay mặt chúng ta, thay mặt cho những người chịu ơn cụ, tri ân và vinh danh cụ vổi hàng chữ Cụ N guyễn Đức c ầ n – N hà chữa bệnh (1909-1983). Từ khi cụ về an nghỉ tại vùng quê này, nơi đây đã trỗ thành là nơi hành hương của tất cả chúng ta, và nhiều người khi đến đây đã cảm thấy như lời thơ của nhà thơ Tô” Hữu đã viết: Ta bên Người, Người tỏơ sáng trong ta Ta bồng ìớn ở bên Người một chút Và nhiều người đã thấy khỏe khoắn hơn, một số bệnh đã mất đi, y như Người vẫn đang tồn tại, và vẫn tiếp tục chữa bệnh cho chúng ta. Do đó nhiều người vẫn tìm đến nơi đây để được an ủi. Kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cụ. Nhân dịp này xin cho phép chúng tôi được nhắc lại một vài sự kiện về cuộc đời và ảnh hưởng của cụ đến nền khoa học tâm linh của th ế kỷ XXI này. Như chúng ta đã biết: cụ Nguyễn Đức cần sinh ra trong một gia đình khá giả ồ Đại Yên – Hà Nội. Cụ là ngưòi con trưởng nên người ta thường gọi là cụ Trưởng cần. 212

! Từ thuở nhỏ cụ đã sớm thoát ly gia đình để đi tìm thầy 1ỌC đạo và được khai mở một khả năng đặc biệt. Đó là khả lăng có thể chữa bệnh cho những người khác không dùng huôc, chữa từ xa, không cần động chạm vào bệnh nhân. Cụ đã đi những đâu, tu luyện ỏ đâu để có được khả năng đặc biệt như vậy, đó còn là một điều bí ẩn. Và chúng ta chỉ có thể hỏi như nhà thơ Tô” Hữu đã viết: Hỏi cỉồììg sông ấy, hỏi tre lau Những thủng ngày xưa bác ở đâu? Và như lời cụ kể lại: cụ đã làm việc ỏ trên núi rừng, học tập và sau đó cụ được Thầy cho hạ sơn. Suốt đời, tại ngôi nhà ỏ làng Đại Yên – Hà Nội, từ những năm 1940, cụ đã chữa bệnh cho nhiều người, không dùng thuốc, có khi chỉ một miếng giây mà cụ ký tên vào đấy, người ốm cũng khỏi bệnh. Cho đến năm 1974, khi ấy tôi đang công tác tại Viện Khoa học Việt Nam, được nghe nói về khả năng đặc biệt này. Là một người quan tâm đến các hiện tượng đặc biệt của sinh học cho nên chúng tôi không thể không quan tâm đến hiện tượng đặc biệt của cụ. Chúng tôi đã đến gặp cụ vào một ngày đầu xuân, mùng 6 Tết năm Giáp Dần, 1974. Trong buổi gặp này cụ đã nói vối tôi: “Tôi chữa bệnh bằng cái đầu nhưng người ta cứ gọi tôi là phù thủy”. Sau đó chúng tôi đã được tiếp cận, được cụ tạo điều kiện gặp gổ, tiếp xúc với các bệnh nhân và chứng kiến việc cụ chữa bệnh. 213

Việc nghiên cứu của chúng tôi do chính Phó chủ nhiệm, B í thư Ipảng đoàn của ứy ban Khoa học nhà nước cho phép. Ngày 26 tháng 4 năm 1974, ‘tôi đã báo cáo tại Bộ Công an về khả năng đặc biệt của cụ, ao yêu cầu của Bộ Công an, vì một mặt nào đó có liên quan đến quốc phòng và an ninh quốc gia. Ngày 30 tháng 4 năm 1974, một cuộc quay phim khảo sát chữa bệnh của cụ, trước sự chững kiến của đông đảo quan chức nhà nưổc và giới khoa học. Cụ đã chữa tại chỗ một ca bệnh tóc kết và một ca bại liệt thành công. Thế nhưng, sau đó giới y tế lại cho rằng việc chữa bệnh này do tự kỷ ám thị và đã có thông báo cấm cụ hành nghề. Rồi một tờ báo đã viết có tính chất châm biếm. Lão Trưởng cần không cần tiền Lão chỉ cần cứu nhân độ thế Lão chỉ cần chữa bệnh bằng trỏ tay Bịp bợm kiếm ăn sao quá dễ Lão chỉ cần vài chú cò mồi Nhà khoa học gà mờ quá tệ. Bài báo đó có đầu đề “Lão phù thủy và nhà khoa học’. Ý nói chúng tôi và anh Hoàng Phương là những người nghiên cứu gà mờ. Nhưng chúng tôi đã chứng minh, bảo vệ chân lý khoa học đó bằng tất cả các biên bản, băng ghi âm và tài liệu quốc tế. Mặc dầu như vậy, ngày 1 tháng 5 năm 1976 tôi đã 214

bị kiểm điểm, nếu không nhận mình sai lầm thì sẽ phải ròi khỏi Viện Khoa học Việt Nam. Nhưng tôi đã kiên quyết bảo vệ chân lý của cụ và chấp nhận ra khỏi Viện Khoa học Việt Nam, tiếp tục đấu tranh. Sau 15 năm, ngày 1 tháng 5 năm 1990, tôi được trở lại Viện, và vấn đề của cụ đã được làm sáng tỏ. Ngày nay, vấn đề ngoại cảm và tâm linh đã được Đảng và Nhà nước ta cho phép thành lập một Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người thuộc Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Việt Nam. Được sự chấp nhận của nguyên Tổng B í thư Lê khả Phiêu, cách đây 10 năm cho phép thành lập Trung tâm đó. Trong Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, có một Bộ môn nghiên cứu về năng lượng chữa bệnh sinh học. Từ khi được gặp cụ, chúng tôi đã thấy cuộc đời của mình bước sang một trang mối, tức là chúng tôi đã chuyển việc nghiên cứu di truyền học sang hướng nghiên cứu khoa học ngoại cảm. Và trong bài viết đọc trong tang lễ của cụ, tôi đã nói: K ể từ khi ấy trong tôi Trái tim nắng hạ, mặt trời bừng lên Hồn tôi hoa thắm tươi thêm Ngát hương rộn tiếng chim kêu hót mừng Lòng vui lòng lại hẹn lòng Đ ể sao vui ấy vui chung mọi người Con đường chữa bệnh tuyệt vời Góp thêm hạnh phúc cho đời hôm mai.

215

Nhà báo Vitali Moiep của Thông tấn xã Liên Xô trước đây, sau khi nghe được những tin tức về việc chữa bệnh đặc biệt của cụ, đã tìm đến. Nhưng thật đáng tiếc, cụ đã mất trước đó một tuần. Ong đã viết một bài trên báo Văn nghệ nói rằng: Rất tiếc là khi tôi đến ngôi nhà 86 Đại Yên, thì nhà chữa bệnh đã qua đời được một tuần. Hôm nay nhân ngày giỗ cụ, chúng ta có mặt tại đây, một ngày giỗ đặc biệt nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cụ. Chúng tôi rất vui mừng thấy đông đảo các bác, các anh chị em, có mặt tại đây để chúng ta tưồng niệm và tri ân cụ, một con người đặc biệt của đất nước ta và cũng là đặc biệt của th ế giới, đã có một khả năng siêu thường, mỏ đường ra cho một bước đi mới của khoa học ngoại cảm và tâm linh của nước ta: N hà chữa bệnh Nguyễn Đức Cần. Chúng ta tin rằng anh linh của Người sẽ vẫn theo dõi chúng ta, và cụ N gu yễn Đ ứ c c ầ n v ẫ n m ã i m ã i ở tr o n g t r á i tim c ủ a c h ú n g ta, Xin chân thành cảm ơn tất cả các bác, các anh chị đã đóng góp vào việc xây dựng nên khu tưởng niệm này. Xin chân thành cảm ơn các bác, các anh chị đã có mặt tại đây.

216

Sáng ngày 22 tháng 11 năm 2009, tại Hội trường lớn Học viện Hành chính Quốc gia, Câu lạc bộ thuộc T ĩ’U 7 ig tâm nghiên cứu tiềm năng con người đã tô chức lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà ngoại cảm chữa bệnh Nguyễn Đức cần (1909-2009). Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bài phát biêu của ông Nguyễn Tài Đức và Đại tá Lưu Huy Chao, anh hùng lực lượng vủ trang nhân dân.

RẠNG DANH HAI CHỮ ĐẠI YÊN

Kính thưa Ban lãnh đạo Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Kính thưa quý vị đại biểu. Trước tiên tôi xin phép được tự giói thiệu. Tôi là Nguyễn Tài Đức, trước đây công tác tại cửa hàng Intershop Giảng Võ, Hà Nội, nay đã nghỉ hưu. Bố tôi là liệt sĩ, hy sinh năm 1952 trong kháng chiến chống Pháp. Em trai tôi là Nguyễn Tài Hải, liệt sĩ, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, hy sinh năm 1981 trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc. Gia đình tôi là những người chịu ơn cụ Nguyễn đức Cần. Chúng tôi được biết đến danh cụ từ những năm 1970. Vào khoảng năm 1978, mẹ tôi bị ngã gãy xương háng, phải bó bột tại bệnh viện Xanh Pôn. Sau hai tháng bệnh viện cho tháo bột, chỗ xương gãy đã liền, nhưng toàn bộ khớp háng, đầu gôì, mắt cá chân bên bị

217

gãy đó bỉ cứng lại như khúc gỗ, không thể cử động đươc gây cho mẹ tôi nhiều khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày. Và bệnh viện cũng không có cách nào chữa được. Lúc đó, hàng ngày sau giờ làm việc tôi thường lên thăm cụ và xem cụ chữa bệnh như th ế nào (vì tuổi trẻ nên cũng có tính tò mò). Thây mẹ tôi khố quá, vì mỗi khi muốn ngồi thì rất khó khăn, nhất là khi đi vệ sinh hàng ngày. Tôi liền mạnh dạn thưa chuyện với cụ. Nghe tôi trình bày xong, cụ cho tôi một mảnh giấy có chữ ký của cụ và dặn đem về đặt vào chỗ chân bị gãy một phút rồi bỏ ra. Tôi về nhà, làm đúng như lời cụ dặn. Độ ba, bốn hôm sau, khi tôi vừa từ trên nhà cụ về thì mẹ tôi mừng rỡ khoe là bên chân gãy đã cử động được. Và bà thử ngồi cho tôi xem. Mẹ tôi kể, khi từ thềm bước xuống sân nhà thì nghe “khực” một cái, toàn bộ bên chân gãy bị tê đi, và từ đó, các khớp liền cử động được. Thật là một điều kỳ diệu. Cũng từ đó, tôi có ý nghĩ là phải theo dõi, ghi chép lại những gì mình đã được chứng kiến về việc chữa bệnh giúp dân của cụ. Những bệnh nhân đã được cụ cứu chữa thì quả thật, không ghi hết được. Sau khi cụ mất năm 1983, tôi có đi tìm hiểu, phỏng vân, ghi chép về cuộc đời và thân th ế của cụ. Trong lịch sử hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, thòi nào cũng có những bậc kỳ tài ra đời để giúp dân, giúp nước. Trong thế kỷ XX vừa qua, đất nước ta cũng xuất hiện những con người như vậy. Và hôm nay, trong buổi 218

gặp mặt này, chúng tôi muôn nói đến một con người đặc biệt. Người đã cống hiến suốt đời mình vối khả năng siêu phàm cho sức khỏe và hạnh phúc của nhiều người. Đó là cụ Nguyễn Đức cần ở làng Đại Yên – Hà Nội. Làng Đại Yên là một làng trại thuộc Tổng Nội của kinh thành Thăng Long xưa. Trước đây làng có tên là trại Đại Bi, đến khoảng cuối thời hậu Lê, thì đổi tên là trại Đại Yên. Nay làng Đại Yên thuộc phường Ngọc Hà, quận Ba Đình, thành phô” Hà Nội. Cụ Nguyễn Đức c ầ n sinh vào đêm 30 Tết Kỷ Dậu (1909) tại làng Đại Yên và mất ngày 13 tháng 7 năm 1983 (tức ngày mùng 4 tháng 6 năm Quý Hợi). Vậy năm nay là tròn 100 năm kỷ niệm ngày sinh của cụ (1909- 2009). Cụ Nguyễn Đức cầ n sinh trưởng trong một gia đình nhà nho có truyền thống yêu nước. Ông nội của cụ – cụ Nguyễn Phúc Toàn đã tham gia hoạt động trong phong trào Đông kinh nghĩa thục, mang những tư tưởng tiến bộ, động viên dân ta chông lại các lề thói phong kiến lạc hậu, phát triển nền văn hóa dân tộc, đề cao tinh thần chống thực dân. Sau khi thực dân Pháp đàn áp phong trào và đóng cửa trường tháng 12 năm 1907, cụ Toàn đã cùng một sô” sỹ phu yêu nước lên Yên Thê”, tham gia cuộc khỗi nghĩa chông Pháp do cụ Đề Thám lãnh đạo. Cụ là người cộng sự đắc lực, và là mưu sỹ sô” hai của lãnh tụ Hoàng Hoa Thám.

219

Khi cuộc khởi nghĩa Yên Thế bị thất bại năm 1913, cụ Nguyễn Phúc Toàn đã anh dũng hy sinh. Ông thân sinh ra Cụ Nguyễn Đức cầ n – cụ Nguyễn Đức Nhuận cũng bị giặc Pháp giết hại tại khu vực phố Hàng Bún ngày 17 tháng 12 năm 1946, mở đầu cho cuộc toàn quốíc kháng chiến. Cụ Nguyễn Đức Nhuận đẹp duyên cùng cụ Hoàng Thị Khế và hai cụ sinh được năm người con. Người con đầu là con gái, gọi là cô Nhuần hay còn gọi là cô Chín, vì cô mất lúc mới được 9 tuổi. Sau cô Chín là ba đốt con trai, nhưng các cậu đều bỏ đi từ sớm. Vào đêm 30 Tết Kỷ Dậu (1909), cụ Hoàng Thị Khế sinh lần thứ năm là con trai, đặt tên con là Nguyễn Đức cần. Thưa quý vị đại biểu. Những con người đặc biệt thì khi sinh ra cũng có những điềm kỳ lạ. Chúng ta biết rằng, vào những đêm 30 tết thì trời rất tối, người ta thường nói tốì như đêm 30. Nhưng theo lời truyền lại của các cụ già trong làng Đại Yên, khi bà cụ Khế sinh người con trai này thì đêm 30 tết năm ấy, trời lại sáng trưng như có trăng rằm. Phải chăng đó là một điềm lành báo rằng có một bậc dị nhân ra đòi. Và người đó đã làm rạng danh cho hai chữ: Đại Yên. Ngay từ lúc còn nhỏ tuổi, cậu bé Nguyễn Đức cần đã có duyên may gặp được một vị Thầy đạo cao đức trọng. Cậu đã theo vị Thầy đó đi đến những đâu, đã học như th ế nào. Đến nay vẫn còn nhiều điều bí ẩn. 220

Sau này, cụ Nguyễn Đức cầ n có kể lại: Cụ đă đi đến vùng Ba Vì – Sơn Tây, rồi đến Thác Bờ – Hòa Bình, qua các vùng núi miền Tây Bắc xa xôi, sang cả vùng thượng Lào, Phong Xa Lỳ… Khi ở chiến khu Việt Bắc, cụ đã gặp được một vị thầy ở Thái Nguyên, được thầy truyền cho phương pháp chữa bệnh để về giúp dân. Và một trong những phương pháp học của cụ là luyện đôi mắt nhìn thẳng vào mặt trời lúc bình minh… Do vậy, những người đã từng được gặp cụ đều nhận thấy rằng cụ có đôi mắt rất sáng. Sau những tháng năm gian khổ, đi rất nhiều nơi và sông trong những vùng núi cao rừng thẳm, mùa xuân năm 1926 chàng thanh niên Nguyễn Đức c ầ n đã trỏ về làng. Năm 1927, vợ anh Nguyễn Đức c ầ n sinh người con trai đầu lòng, đặt tên là Nguyễn Đức Mẫn. Sau này hai vợ chồng cụ có thêm được ba người con gái nữa, Nguyễn Thị Chuyên (1938), Nguyễn Thị Sinh (1947), và Nguyễn Thị Lê (1950). Từ những năm 1940, cụ Nguyễn Đức cầ n đã chữa bệnh giúp cho nhiều người. Lúc đầu cụ chữa trị bệnh cho những người trong họ tộc thân quen, nhưng sau đấy do chiến tranh loạn lạc, cuộc sông của gia đình cụ cũng bị cuốn trôi theo dòng thời cuộc ở Hà Nội, từ sau ngày Nhật đảo chính Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, không khí cách mạng càng thêm sôi động. Sông trong cao trào cách mạng sục sôi đó, tại ngôi nhà 86 làng Đại Yên, anh Nguyễn Đức cầ n đã mau chóng tập hợp đông đảo quần chúng, những người lao 221

động nghèo khổ, đêm đêm luyện tập quân sự, mua sắm vũ khí, may cờ đỏ sao vàng năm cánh để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa. Sau này, trên bức tường trong ngôi nhà 86 Đại Yên vẫn còn thấy rõ dòng chữ đã ghi ngày ấy: “Vì Tổ quốc, quyết hy sinh đến giọt máu cuối cùng”. Ngày 8 tháng 6 năm 1945 (tức ngày 28 tháng 4 năm At Dậu), một cái tang bất ngờ đã đổ xuống gia đình. Thân mẫu anh Nguyễn Đức cần – cụ Hoàng Thị Khế đã qua đời. Sau khi chu tất xong lễ tang mẹ, anh Nguyễn Đức cần nén đau thương để cùng các đồng chí lo toan việc nước. Sáng ngày 19 tháng 8 năm 1945, cả Hà Nội ngập tràn khí thế cách mạng. Đồng bào rầm rộ kéo đến quảng trường Nhà hát lốn dự cuộc mít tinh lớn do Mặt trận Việt Minh tổ chức. Cuộc mít tinh nhanh chóng chuyển thành biểu tình, đoàn người trùng điệp chia ra nhiều ngả đi chiếm phủ Khâm sai, tòa thị chính, trại lính bảo an… Anh Nguyễn Đức Cần lúc đó là Đại đội trưỏng Đại đội Lam Sơn cũng có mặt trong ngày trọng đại của dân tộc. Và anh là một trong những người đầu tiên vượt qua hàng rào vào chiếm Bắc Bộ phủ. Cuộc khởi nghĩa ngày 19 tháng 8 năm 1945 tại Hà Nội đã mau chóng giành được thắng lợi. Cụ Nguyễn Đức c ầ n nói rằng: “Nước nhà nay đã giành được độc lập, nhưng người dân còn chưa được hạnh phúc, muôn có hạnh phúc trước hết phải có sức khỏe, không ốm đau. Nay ta đi theo con đường khác, con đường mang lại sức khỏe cho nhân dân”. Sau khi từ chiến khu trỏ về Hà Nội năm 1950, khi công việc trong gia đình đã ổn định, cụ bắt đầu nhận chữa bệnh 222

rộng rãi, nhiều người đã biết đến danh cụ, người bệnh từ nhiều nơi tìm đến cửa cụ để xin chữa bệnh. Cụ chữa bệnh theo một phương pháp rất đặc biệt: Không cần khám hoặc hỏi bệnh, người bệnh hoặc người nhà bệnh nhân đến gặp cụ, nếu được cụ nhận lời hoặc cụ cho một mảnh giấy có chữ ký của cụ mang về, thì bệnh có thể khỏi. Cụ chữa bệnh không dùng thuốc và có thể chữa bệnh từ xa . Cụ chữa nhiều loại bệnh như: Điên, ung thư, đau dạ dày, sơ gan cổ trướng, máu trắng, thấp khốp, vẩy nến, phù thận, méo mồm, trĩ, uốn ván, huyết áp, tim, liệt tay chân, câm, điếc, hen, đẻ ngược, viêm não… Đã có hàng nghìn bức thư của những người bệnh có dán ảnh gửi đến cảm tạ và ca ngợi công đức của cụ. Cụ hết lòng thương yêu, cứu chữa bệnh nhân, có nhiều khi đêm khuya, không ngại khó khăn, cụ còn đi đến các làng ngoại thành như Thạch Bàn, Kim Quan, Văn Đức, Hoàng Mai… để cứu chữa bệnh nhân, thực hiện “cứu bệnh như cứu hỏa”. Chữa bệnh thì tận tâm vất vả như vậy, nhưng cụ không hề nhận tiền của ai. Bệnh nhân khỏi là cụ vui mừng. Bệnh nhân đến cửa cụ có đến hàng vạn người gồm đủ các tầng lớp, nhưng đa sô” là những người lao động nghèo khổ. Cuộc đời của cụ đã trải qua những tháng năm lao động cực nhọc, cuốc đất trồng cây, gồng gánh trong nắng lửa mưa rầu. Chính vì vậy cụ đã cảm thông sâu sắc với 223

những nỗi đau khổ của quần ‘chúng lao động, thiếu cơm ăn áo mặc, ôm đau bệnh tật không thuốc thang. Nhưng cái mà cụ đã cảm hóa đến ruột gan, tim óc người bệnh là đức độ của cụ. Nó không phải là những khuôn sáo của đạo lý sách vở, mà chính là nguyên tắc trong cuộc sống hàng ngày của cụ. Cụ nói: Tĩ’ọng n hân nghĩa, sống nhân n ghĩa và làm điều nhân nghĩa. Cụ đã thực hiện nguyên tắc sông cao đẹp: cần kiệm – liêm – chính chí công vô tư. Bữa ăn thường ngày của cụ vẻn vẹn một lưng cơm, mấy quả cà vối chén rượu. Cụ nói: Thế là quá đủ, dân còn khổ, mình sông sung sưống sao đang. Có nhiều người bệnh, khi được cụ chữa khỏi, vối tấm lòng biết ơn chân thành đã mang quà và nhiều đồ quý giá đến biếu cụ. Nhưng cụ đều từ chốỉ và kiên quyết trả lại. Bao người đã khóc vì cảm động trước tình thương mênh mang đó. Cụ nói: Người ta đau khổ vì bệnh tật lâu rồi, nay được cứu giải thì ân sâu nghĩa nặng, mong muốn được đền ơn trả nghĩa. Nhưng ta quyết không tham. Trước mắt cụ, mọi bệnh nhân đều bình đẳng, nhưng trong quá trình chữa bệnh, cụ yêu cầu bệnh nhân phải sửa chữa những thiếu sót của bản thân trong quan hệ vối gia đình và xã hội. Cụ nói, nghĩ đẹp, làm đẹp thì cuộc sông sẽ tốt đẹp. Cuộc đời của cụ Sống chữa bệnh cứu đời, vì nước vì dân phục vụ Chết nêu gương trong sáng, vinh hoa phú quỷ không màng. 224

Ngày 13 tháng 7 năm 1983 (tức ngày mùng 4 tháng 6 năm Quý Hợi), cụ Nguyễn Đức c ầ n đã từ biệt con cháu trở về cõi trường sinh. Cụ đã về an nghỉ ỏ một nơi có cánh đồng rộng rãi và không xa Hà Nội. Hàng ngàn người bệnh đã chịu tang cụ, chít khăn tang trắng trên đầu đến dự lễ truy điệu và đưa cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng tại cánh đồng làng Thanh Mai, huyện Thanh Oai, tính Hà Tây (cũ), nơi quê của người con rể thứ hai của cụ. Từ ngày đó đến nay, đã 26 năm trôi qua, nơi cụ an nghỉ đã trỏ thành một khuôn viên vổi những hàng cau tươi tốt. Cụ về an nghỉ giữa đồng quê thanh bình và những người chịu ơn cụ, những ngưòi biết đến danh cụ thường vẫn về nơi đây, thắp những nén hương thơm ngát đề tưởng nhớ, để tri ân cụ – một con người đã suốt đòi vì nước vì dân phục vụ. Cuối cùng tôi xin trân trọng cảm ơn Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người đã cho phép tôi được phát biểu trong buổi họp ngày hôm nay. Xin gửi tới quý vị đại biểu lời chúc sức khỏe và hạnh phúc. Xin trân trọng cảm ơn. NGUYỄN TÀI ĐỨC

225

VINH D ự TRONG ĐỜI TÔI

Kính thưa Giáo sư – Tiến sỹ Đào Vọng Đức cùng các đồng chí cán bộ Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Kính thưa các vị khách quý. Kính thưa thân nhân gia đình cụ và các bệnh nhân của cụ Tôi là Lưu Huy Chao, sinh năm 1933, nguyên là Đại tá, phi công MIC 17, được Nhà nước tuyên dương phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngày 22 tháng 12 năm 1969. Tôi đã cùng đồng đội xuất kích chiến đấu 105 lần, gặp địch 32 lần, đánh 19 trận trên không, 7 lần nổ súng và đã bắn rơi 6 máy bay của không lực Hoa Kỳ. Chỉ huy yểm hộ đồng đội bắn rơi 18 chiếc khác. Vinh dự lớn nhất đổi với tôi là hai lần được gặp Bác Hồ, được chụp ảnh chung với Bác, và được tặng 7 huy hiệu của Người. Tôi cũng được Đảng và Nhà nước tặng nhiều huân, huy chương, kỷ niệm chương. Năm 1956, tôi trúng tuyển vào phi công. Sau tám năm học tập tại Trung Quốc, tháng 4 năm 1965, tôi cùng đồng đội trỏ về Tổ quốc tham gia chiến đấu cho đến kết thúc cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Một vinh dự nữa trong đời tôi là hai lần được cụ Nguyễn Đức c ầ n trực tiếp chữa bệnh.

226

Năm 1979, khi vừa ỏ chiến trường Campuchia về, tôi bị mất ngủ liên tục. Trong hơn hai năm, tôi đã được điều trị tại các bệnh viện trong quân đội như: Bệnh viện 7 ỏ Đà Nang, bệnh viện Sài Gòn, nhất là viện quân y 108. Có thòi kỳ tôi nằm ỏ đó đến bốn tháng mà bệnh cũng chưa thuyên giảm. Có một ngươi bạn thấy tôi điều trị đã lâu mà không có kết quả, nói với tôi là nên đến nhà cụ Nguyễn Đức Cần, nhờ cụ xem và chữa giúp. Tôi nghĩ, nếu nằm ỏ viện 108 tiếp tục điều trị chắc cũng khỏi thôi, nhưng thồi gian quá lâu rồi, mà lúc đó tôi vẫn đang bay. Tôi lên lấy giấy xin ra viện, và hỏi đến nhà cụ Trưỗng Cần. Lần đầu tiên gặp cụ, tôi thấy cụ là một con người có dáng vẻ khác thường. Hai tay cụ như dài hơn người thường. Khi gặp cụ, tôi cảm động lắm, không biết nói gì. Tôi nói: – Thưa cụ, cháu mỗi đêm chỉ ngủ được một đến hai giờ thôi, mà cũng đến hơn hai năm nay rồi. Cụ bảo: – Thôi được, chú cứ ngồi đấy. Rồi cụ lấy một tờ giấy nhỏ như bao thuốc lá, và viết chữ vào đấy, đưa cho tôi. Cụ dặn trước khi ngủ thì đặt tờ giấy lên trán. Tôi về nhà, làm theo lời dặn của cụ. Sau một tuần lễ, mỗi đêm tôi đã ngủ được từ ba đến năm tiếng đồng hồ. Tôi mừng lắm và tiếp tục. Chỉ độ

227

chừng mươi, mười lăm ngày nữa thì tôi đã ngủ được bình thường và sức khỏe hồi phục. Sau hai tháng đi an dưdng nghỉ ngơi, tôi tiêp tục được lái máy bay. Lần thứ hai, tôi bị đâm xe ngã, bị rạn xương vai. Nằm viện 108 một tuần mà tôi thấy vẫn đau quá. Tôi chợt nhớ đến cụ Trưởng cần. Tôi lên xin phép bệnh viện để về. Tôi gọi xe để lên thẳng nhà cụ. Cụ vẫn còn nhớ tôi. Khi thấy tôi, cụ bảo: – Anh đến đây à, có việc gì đấy. Tôi cảm động quá. Lái xe dìu tôi lên nhà. Tôi thưa với cụ là bị xe đâm, phải nằm viện 108 hơn một tuần khổng đi lại được. Nay lên xin cụ giúp cho. Lúc đó bệnh nhân rất đông. Cụ bảo, thôi được rồi. Cụ viết vào tờ giây và đưa cho tôi, dặn để vào chỗ đau. T hế rồi tôi về. Đầu tiên độ bảy ngày thôi, tôi thấy đỡ và đứng dậy đi được. Chỉ sau mươi ngày thì tôi trỏ về bình thường và khỏi hẳn. Tôi tiếp tục bay hồi phục, và sau hai năm tôi mới nghỉ bay, lúc 55 tuổi. Trong cuộc đời của một phi công phản lực, tôi đã bay được 28 năm. Thật là hiếm có. Vì thời trước đây, chúng tôi còn nhiều khó khăn, thiếu thốn và gian khổ lắm. Nhưng lốp phi công bây giờ, trong điều kiện thuận lợi hơn thế hệ cha anh, nhiều nhất cũng chỉ được 25 năm thôi. 228

Tôi thấy cụ chữa tài thật, riêng tôi cảm thấy như vậy. Và gia đình tôi rất vinh dự là đã được chụp ảnh chung cùng vối cụ. Kính thưa quý vị khách quý! Vợ chồng tôi rất vinh dự được Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người mòi đến dự buổi lễ trọng thể này, cho tôi được phát biểu những điều mà bản thân được trực tiếp chiêm nghiệm, được cụ tận tình chữa cho khỏi bệnh, để tôi được tiếp tục cống hiến sức lực cho sự nghiệp của một chiến sĩ lái máy bay chiến đấu. Tôi thay mặt gia đình cảm ơn Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, cảm ơn cụ Trưỏng c ầ n và gia đình. Kính chúc Trung tâm và các vị khách quý có một sức khỏe dồi dào, tiếp tục công hiến trí tuệ, sức lực, để góp phần xây dựng ngành khoa học mới này cho đất nước, cho dân tộc. Tiếp tục k ế thừa truyền thông của Cụ Nguyễn Đức c ầ n để lại cho chúng ta. Xin kính chào Trung tâm. Kính chúc quý vị sức khỏe và hạnh phúc.

TÌNH SÂU NGHĨA NẶNG Trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ của mỗi người, thường những kỷ niệm sâu sắc là nhổ lâu nhất. 229

ĐỐI vói tôi, việc may mắn được cụ cầ n cho theo cụ sang thăm bà con thôn Ngô, xã Thạch Bàn, huyện Gia Lâm ngày 14 tháng 7 năm Quý Sửu (tức ngày 12 tháng 8 năm 1973), là một trong những ngày đẹp đẽ, sẽ không bao giờ phai mò trong tâm trí tôi. Điều làm tôi cảm xúc sâu sắc là được chứng kiến sự gặp gỡ giữa cụ Cần với bà con thôn Ngô, thể hiện những tình cảm đặc biệt chưa từng có trong môi quan hệ giữa người chữa bệnh và người có bệnh Tiếc rằng, tôi không biết làm thơ, viết văn, mà chỉ có thể diễn đạt một sô” ý kiến chân thành, góp phần nhỏ vào sự quý trọng chung của những người được cụ chữa bệnh, đối vói đạo đức trong sáng và tài năng kiệt xuất của cụ. Tôi được cụ cho biết tin sẽ đi thăm, khi cơn bão sô” 4 đang tiến vào vịnh Bắc Bộ. Tôi có e ngại vì sợ có thể có mưa gió lốn. Khi thấy cụ nói đi được, tôi rất phấn khỏi và thầm mong dự kiến thiên văn của cụ sẽ thành sự thật. May mắn thay, chúng tôi đã được sự ưu đãi của thiên nhiên: ngày 12 tháng 8 năm 1973, chúng tôi đã được đi cùng cụ trong một ngày thu nắng đẹp. Tôi phấn khỏi được đi cùng cụ, hơn nữa nơi mà cụ đến thăm là bà con nông dân lao động, những người mà tôi quý mến. Tuy tôi sinh trưởng ỏ thành phô”, nhưng công tác trong quân đội, phần lớn thời gian tôi đi lại ỏ những vùng nông thôn. Đốỉ với tôi, bà con nông dân lao

230

động là nơi tập trung nhiều đức tính quý của dân tộc ta trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Tất cả những gì tôi đã thấy, đã nghe ngày hôm đó tại thôn Ngô thật đã vượt qua sự tưởng tượng của tôi. Có thể nói là bà con thôn Ngô đã tiếp cụ với tình cảm râ’t thắm thiết, từ đáy lòng. 1 Thật là tình sâu nghĩa nặng, chan hoà chưa từng có giữa người bệnh và người chữa bệnh. Khi cụ đến đầu làng thì đã có hai cụ và chị Bái ra đón, dọc đường vào thôn nhiều người trông thấy cụ rất vui mừng và gọi nhau ra đón cụ. Khi cụ vào nhà chị Bái thì chỉ ít phút sau, ngôi nhà đã chật ních ngưòi. Các cụ, các chị, các cháu ríu rít kể về tình hình những người thân đã được cụ cứu sốhg, về đời sống gia đình ngày càng khá hơn… Qua tìm hiểu của tôi, riêng ỏ thôn này, cụ đã chữa khỏi hàng chục trường hợp, như bác Dương (điện 7 năm), bác Lê (ốm nặng 6 năm), cô Thủa (u sọ não), bác Thục (động kinh), cô Bái (suy tuỷ)… Mọi người nói với tôi: “Cụ c ầ n chữa cho chúng tôi khỏi bệnh mà không dùng thuốc, không lấy tiền. Cụ khuyên mọi người khoẻ rồi thì hăng hái sản xuất, thương yêu đoàn kết giúp đỡ nhau vừa ích nước vừa lợi nhà”. Trông cụ ngồi nói chuyện thân mật cùng bà con nông dân, làm tôi quên bẵng rằng cụ là người đã cứu sông cho bao người đang ngồi trước cụ, tôi có cảm giác cụ như một người trong họ hàng thân thích đến chơi nhà…

231

Hôm nay khi ngồi viết những dòng chữ này, trong tâm trí tôi vẫn hiện rõ những hình ảnh đẹp đẽ về cuộc gặp gõ đầy tình sâu nghĩa nặng giữa bà con thôn Ngô với cụ Nguyễn Đức cần . Tôi xin ghi lại câu nói của các bà, các chị nơi thôn Ngô xinh đẹp ven con sông Hồng, khi kết thúc bài viết này: Chỉ ước mong cụ cầ n sông lâu và mạnh khoẻ, cứu chữa cho chúng tôi, những bà con lao động khỏi những bệnh hiểm nghèo và được sông hạnh phúc. H à Nội ngày 2 7 tháng 8 năm 1973 LÊ NGỌC VÂN Công tá c tại Bộ tổng tham mứu QĐNDVN

THẬT LÀ HẠNH PHÚC H à N ội ngày 15 thán g 8 năm 1970 Kính gửi: cụ Nguyễn Đức cần, làng Đại Yên – Hà Nội Kính thưa cụ. Chúng cháu có đại hồng phúc được gặp cụ đã ngót hai chục năm nay, được biết cụ đã làm phúc cứu chữa rất nhiều bệnh nhân và nhiều loại bệnh. Hôm nay hồi tưởng lại cháu xin ghi lại những cảm xúc của cháu vê’ những việc phúc đức cụ đã thực hiện. Thời gian đầu mới đến nhà cụ, cháu thấy cụ bày dọc

232

theo đường đi từng dãy không biết bao là những bát hương to, nhỏ. Sau mới rõ là cụ bài trừ mê tín, đã hạ những bát hương tại những điện thờ tư nhân. Cụ lại giải đồng cho bao nhiêu người, suốt năm phải đi hầu đền nọ phủ kia, hao tôn tiền của, đến khi hết của, th ất cơ lõ vận, nghèo túng khổ sở. Người được giải đồng lại yên tâm sản xuất, gia đình xum họp, lợi nước lợi nhà. Thật là đại hạnh phúc cho bệnh nhân. Một điều đặc biệt là cụ hết lòng cứu chữa bệnh nhân, thương yêu bệnh nhân như người trong gia đình, có khi đêm khuya, một hai giờ sáng cụ đi bộ đến các làng như Thạch Bàn, Kim Quan hay Văn Đức, Hoàng Mai… để cứu chữa bệnh nhân đang quằn quại trên giường bệnh, thập tử nhất sinh, thực hiện cứu bệnh như cứu hỏa, lương y như từ mẫu. Chữa bệnh thì tận tâm vất vả như vậy nhưng cụ không lấy tiền của ai vì phần lớn cụ chữa bệnh cho người nghèo. Bệnh nhân khỏi là cụ vui mừng. Cụ chữa bệnh không cần phải có thuốc và cúng lễ gì cả. Cụ dạy: “Người nghèo đã ôm thì làm gì còn tiền nuôi con cái, vậy tiền đâu mà trả cho ông thầy. Hơn nữa, tôi chữa bệnh không cần đến thuốc và bản tâm không muôn bóc lột người bệnh nên không lấy tiền”. Cụ lại còn nuôi một sô” bệnh nhân nghèo túng, người thì một vài tháng, người thì một vài năm, lúc về lại giúp cho tiền vốn làm ăn sinh sông. Cụ chữa được nhiều loại bệnh, đặc biệt khó như điên 233

và ung thư, bệnh nhân khỏi rất tự nhiên. Trước kia hồi tạm chiếm, cụ lại còn đi quyên áo rét và bẳn thân cụ đã giúp áo rét cho người mù và người nghèo ở chợ Mơ, tổng cộng đến hơn 400 chiếc. Ôi! Công đức của cụ kể ra không xiết. Chính bản thân cháu hay ốm đau cũng được nhờ cụ tác phúc cho được sức khoẻ đi làm nuôi các cháu. Công ơn của cụ cháu xin ghi nhổ đời đời, kiếp kiếp và ở đây cháu xin ghi lại những dòng chí thành và chí kính để tỏ lòng biết ơn cụ. Kính chúc cụ luôn mạnh khoẻ để cứu bệnh nhân được nhiều hơn nữa. C háu

NGUYỄN CÔNG THỊNH (THANH)

LẦN ĐẦU PHỎNG VẤN c ụ NGUYEN ĐỨC CẦN Trong gần 40 năm làm báo, tôi đã phỏng vấn nhiều nhân vật trong và ngoài nước, nhưng cuộc phỏng vấn cụ Nguyễn Đức c ầ n 17 năm về trước đã để lại trong tôi một dấu ấn sâu đậm nhất. Đến tận nay, tôi vẫn giữ ba cuộn băng ghi âm cuộc phỏng vấn ây như giữ một kỷ vật vô giá trong đời làm báo của mình. Sáng ngày 17 tháng 6 năm 1982, trong dịp ra Hà Nội công tác, tôi đã đến thăm cụ Nguyễn Đức cần ỏ làng Đại Yên, quận Ba Đình, và xin phép cụ cho được 234

phỏng vấn trực tiếp về phương pháp chữa bệnh đặc biệt không dùng thuốc của cụ, mà tôi cũng như nhiều người khác ỏ trong Nam, ngoài Bắc đã được nghe nói từ lâu. Bước vào căn nhà của cụ ở ngoại vi Hà Nội, căn nhà mang nhiều dáng dấp thôn quê Việt Nam quen thuộc, một cảnh đập ngay vào mắt tôi là có nhiều bát bình hương để ngoài sân. Điều này làm cho tôi cảm thấy rất lạ và tôi muốn mỏ đầu cuộc phỏng vấn bằng cách hỏi cụ về các bát bình hương đó. – Thưa cụ, xin cụ cho con được hỏi tại sao cụ lại đưa các bát bình hương ra ngoài sân? Và tại sao trong khi đó người ta lại bảo cụ là người mê tín dị đoan? – Tôi xin nói thế này. Không phải bây giờ tôi mới bỏ bát hương, tôi bỏ từ xưa, mấy chục năm rồi chứ không phải bây giờ. Nghĩa là ôm là phải chữa bệnh, một mặt tôi bỏ mê tín dị đoan, trong khi đó, chính những kẻ mê tín dị đoan lại đả kích tôi, họ là s ố đông… – Thưa cụ, các bát bình hương này là của bệnh nhân? – Đúng, của các điện thờ đấy. – Chính những người thờ cúng ấy đã được cụ chữa bệnh? – Vâng, bây giờ khỏi rồi thì người ta mang lên, người ta biết nghe lời tôi, ôm là phải đi chữa bệnh chứ không phải cúng thờ hàng năm, tôn phí biết bao nhiêu tiền. – Có trường hợp nào gần đây nhất, bệnh nhân cúng bái rất nhiều nhưng được cụ chữa khỏi, đã bỏ bát bình hương? 235

– Kể thì có nhiều lắm. Chẳng hạn như bà này đây. Cụ đưa cho tôi xem cuốn sổ ghi cảm tưởng của gia đình bệnh nhân bị ung thư lưỡi đã được cụ -chữa khỏi. Xem lướt qua tôi thấy có hai ảnh chụp điện thờ cùng bát bình hương trong nhà và ngoài trời. Sau khi được cụ chữa khỏi, gia đình bệnh nhân đã bỏ điện thờ này. Tôi lại hỏi cụ: – Trong phương pháp chữa bệnh của cụ, cụ hay nhấn mạnh về đức của người bệnh. Nhân đây, cụ có thể nói rõ hơn về vấn đề này không ạ? – Đức là gốc của con người. Nếu anh sửa được thì dù anh nghèo anh cũng không khổ. Giàu mà cái gốc không còn, đức hết, anh khổ cũng là tại anh. Điều cụ nói, tôi thấy ngay bằng chứng trong sổ ghi cảm tưởng của gia đình bệnh nhân: “Cụ dạy ỏ đây không có cúng lễ gì cả, nếu hiểu và biết sửa mình, ăn ỗ đối xử cho đúng nghĩa thì mọi việc đều tốt cả, khỏi hay không là ở mình, tôi không có thuốc thang gì cả, cứ biết tu sửa mình, ăn ở cho có đạo đức là được, tốt đẹp hay không là ở mình”. Để hiểu rõ hơn về cách chữa bệnh của cụ, tôi hỏi tiếp: – Cụ cho con hỏi thêm về cách chữa bệnh, Gần đây con nghe nói về phương pháp chữa bệnh bằng trường sinh học, ở trong Nam có người chữa bệnh không dùng thuốc nhưng phải gặp trực tiếp bệnh nhân và phải dùng bàn tay tác động.

236

– Cách chữa của tôi không học một trường nào cả. Từ khi còn ít tuổi, tôi đã phải bỏ nhà ra đi, mặc dù nhà rất giàu có. Tôi phải chịu khổ lên rừng mà học mối có thầy dạy, phải học khó lắm. – Con nghe nói cụ chữa bệnh từ xa? – Vâng, tôi có chữa bệnh từ xa. Đây, thư của các cháu đây. – Vậy, thưa cụ, có khoảng cách giới hạn không? – Không, tôi chữa bệnh ỏ tận Canada, Tiệp Khắc, Đức… – T h ế người bệnh liên lạc với cụ thông qua con đưòng nào? – Bằng thư từ. – Bệnh nhân ỏ Canada mắc bệnh gì, thưa cụ? – Họ viết về đây bảo đau đầu. Tôi trả lời: Sẽ khỏi. Thế là bên đó ngưòi ta khỏi. – Con nghe nói trước đây gia đình cụ cũng tham gia cách mạng? – Ông nội tôi xưa chết vì Pháp, bô’ tôi lúc tôi làm việc ố Thái Nguyên cũng bị Pháp bắn chết. Năm 1945, tôi có hoạt động trong thành Hà Nội, tôi ở trong đại đội Lam Sơn đầu tiên. Sau đó, tôi xin phép cụ phỏng vấn các bệnh nhân có mặt ở nhà cụ. – Xin anh cho biết quý danh, địa chỉ? – Tôi là Vũ Như Lộc, ở sô’ nhà 33 phô’ Trương Hán Siêu, 237

Hà Nội. Tôi là bệnh nhân lâu năm của cụ, tôi đã lên cụ 13, 14 năm nay rồi. Tại sao tôi lên cụ? Vì vợ tôi bị tâm thần từ năm 1958 đến năm 1960, được bác.sỹ Đặng Văn Chung chữa trị nhưng không khỏi, phải bán cả nhà đi. Có người mách phải ra đồng. Ra đồng thật tôn kém, nhưng vợ tôi đỡ hơn. Song chỉ được một thời gian, bệnh lại tái phát. Lên cụ, cụ cho giải đồng, chỉ sau một thòi gian ngắn vợ tôi ổn định. Đến năm 1974, được tin con hy sinh ỏ miền Nam thì lại bị bệnh. Tôi đưa vợ lên cụ chữa tiếp, bây giờ đã bình thường. – Bản thân anh có được cụ chữa trị không? – Tôi bị thấp khớp, sưng tay cụ đều chữa cho, từ hồi lên cụ, tôi hoàn toàn bỏ thuốc chữa bệnh. Có điều rất kỳ lạ là cụ hẹn giờ cho khỏi. Tôi bị viêm bàng quang, mỗi khi đi tiểu là buốt vô cùng và chỉ dám mặc quần đùi thôi. Tôi lên cụ, cụ hẹn 7 giờ tốì mai sẽ khỏi, thì đúng 7 giờ tốĩ hôm sau tôi đi tiểu, một viên sỏi to như hạt ngô bắn ra, và tôi khỏi luôn bệnh viêm bàng quang. Con dâu tôi đẻ ở viện c, bị sót rau máu ra nhiều và sốt nhưng tôi không cho cháu nạo. Tôi lên cụ, cụ cho mảnh giấy đề chữ “sót rau”, th ế là hôm sau cháu khỏi. Cháu nội tôi bị chàm, cụ cho miếng giấy đặt lên trán, thế là khỏi. Đúng là một sự kỳ lạ. – Tờ giấy đó có người cho rằng đó là một thứ bùa, theo anh, anh thấy tác dụng như th ế nào? – Tờ giấy đó không phải bùa phép gì đâu. Với nhiều người, cụ chỉ nói một câu về nhà là khỏi bệnh, như vợ đại sứ Nguyễn Tiến Thông là chị Sâm, chín tháng trời ỏ 238

Tiệp Khắc (cũ) chị bị mất ngủ. Chị ấy lên cụ và nói: “Chín tháng nay con không biết giấc ngủ là gì, hoàn toàn ngủ là do thuốc”. Cụ bảo: “À, nếu vậy tôi sẽ chữa cho bà biết là Việt Nam còn giỏi hơn cả Tiệp Khắc. Tốì nay tôi sẽ cho bà ngủ”. Đến 7 giờ tốì hôm đó, chị ngáp lên ngáp xuống rồi lên giường ngủ một lèo tới sáng. Chị nói ba năm nay tôi không có một giấc ngủ ngon như vậy. Có thư cảm ơn của gia đình chị Sâm đây. – Anh có thể kể một sô”trường hợp cụ chữa mà anh biết được không? – Làm sao mà kể cho hết, vì có rất nhiều, nhìn những bọc thư cảm ơn kia thì anh biết. Tôi kể một trường hợp điển hình là trung tướng Phạm Kiệt bị ung thư ruột đã được mổ ở Đức, họ bảo là không sống quá tháng 5 – 1974. Anh Phạm Kiệt nhờ tôi đưa lên cụ. Cụ bảo không chữa được nữa, nhưng mỗi khi lên cụ về anh nói là cảm thấy khoẻ hơn, vết thương không ra mủ máu. Anh xin cụ kéo dài thời gian ra cho anh, vì anh cần có việc phải giải quyết. Cụ nhận lời, và đến cuối năm anh mới mất, tức là kéo dài thêm được 7 tháng. Đây là thư cảm ơn của anh Phạm Kiệt. Tôi xin phép hỏi thêm cụ. – Thưa cụ, trong thời gian gần đây các bệnh nhân đến thì cụ giải quyết như th ế nào? – Theo tôi ồ đây có người đã hai, ba mươi năm. Các bệnh nhân đến thì tôi làm cho người ta mạnh khoẻ để làm việc, lao động. Tôi làm theo lẽ phải, vì dân. 239

Cuốỉ cuộc phỏng vấn, cụ Nguyễn Đức cần nói: “Tôi chữa bệnh không lấy tiền, như vậy tôi đã làm lợi cho dân. Đó là điều làm tôi sung sướng. Tôi chỉ muôn mọi người đều có cơm no, áo ấm, không bị ốm đau, thế thôi”. N gười thực hiện p hỏ n g vấn MINH ĐĂNG KHÁNH(I)

CỤ LÀ ÁNH MẶT TRỜI Kính gửi: Cụ Nguyễn Đức cần Kính thưa cụ, Con là Phạm Hùng, ngụ tại tỉnh Zurich, nước Thụy Sĩ, con đã được diễm phúc tới hầu cụ hồi đầu tháng 3 dương lịch khi con về thăm quê nhà. Cụ có dạy rằng, khi về Thuỵ Sĩ, con được cụ cho phép ngợi danh và đức của cụ, để nhiều người sẽ được cụ cứu giúp. Nay con có vài dòng đa tạ lời dạy bảo đó, cùng tỏ lòng biết ơn của con.

o Ông Minh Đăng Khánh sinh năm 1941, đã có gần 100 đầu sách dịch và biên soạn từ tiếng Nga, Pháp và Tây Ban Nha, trong đó nổi tiếng nhất là tác phẩm dành cho thiếu nhi Ong già Khôi-ta-bít. Ong hiện sống ở thành phố’ Hồ Chí Minh.

240

Thưa cụ Hiện có hai người Việt đang mắc bệnh, con xin cụ rủ lòng thương, cứu cho hai người này, con gửi kèm theo đây tên tuổi và chứng bệnh của hai người. Xin cụ nhận nơi đây tấm lòng biết ơn của con Nay kính Zurich ngày 10 thán g 5 n ăm 1981 Thưa cụ Con đã nhận được thư của cụ đề ngày 16 tháng 4 năm 1981, như vậy là một sự lạ, vì thư từ Việt Nam qua đây thường xuyên mất hai tháng, có khi đến ba tháng. Con chờ tin cụ như con mong mẹ về chợ. Thư cụ đến sốm ngày nào là phúc cho mọi người ngày đó. Tuy con ỏ châu Au đã 30 năm rồi, đi đây đi đó nhiều, nhưng tâm con luôn hướng về Tổ quốc, về nước Việt, con sẽ về luôn luôn. Vậy con xin cụ giúp con trong việc đi lại, xin phép của chính phủ và trong việc xã hội từ thiện mà con đang làm. Con đa tạ ơn cụ. Con đã chuyển hai lá đạo của cụ cho hai người bệnh rồi. Con xin kính tặng cụ hai câu thơ: Đất Việt anh tài gồm chữ Đức Năm châu hác ái nổi danh Cần.

241

Zurich ngày 18 tháng 5 năm 1981 Thưa cụ Xin cụ thương cho hai bệnh nhân sau đây: – Ông Nguyễn Văn Năng bị nhức đầu, đau dạ dày đã nhiều năm. – Ông Max Von Prankenberg bị sỏi trong thận, nửa mặt bên phải và nửa người bị đau, cử động khó khăn. Con xin cụ thương cho hai bệnh nhân này, con xin cảm ơn cụ. Nay kính Zurich ngày 22 tháng 10 năm 1981 Kính thưa cụ Hôm nay con đi làm về, con nhận được thư cụ, con mừng quá. Con đợi thư cụ như hạn hán chờ mưa vậy. Con xin cụ chứng nhận cho lòng biết ơn của con. Tuy ỏ châu Âu đã hơn 30 năm, nhưng con vẫn tu theo Phật, tốì con vẫn ngồi thiền. Con kính trọng các vị đại đức, cô” gắng giúp những người bị vận nạn. Hiện nay con đang lo giúp cho một bệnh viện nhi đồng miền Bắc. Khi công việc đó hoàn thành con sẽ về. Trưốc nhất là dâng biếu Chính phủ, sau được tới hầu cụ và thăm gia đình anh em. Câu “Nhớ nưốe đau lòng con quốc quốc” vẫn canh 242

cánh bên lòng con. Con chỉ mong được làm dụng cụ của Trời, Phật để giúp đỡ cho mọi người. Thưa cụ Công danh, tài sản như bèo nổi, mây trôi, nay còn, mai mất. Con không thiết gì những cái đó. ?ỉl: Cụ đã soi đường cho con theo. Cụ là ánh mặt tròi, phá màn đêm u ám. Cứu người là thương nước giúp dân, mấy ai đã hiếu thấu lòng yêu nước thương’ người của cụ ạ! Zurich ngày 18 thán g In ă m 1982 Kính thưa cụ Thấm thoát còn vài ngày nữa là Tết. Con kính chúc cụ cùng bảo quyến năm Nhâm Tuất được mạnh khoẻ, vạn sự như ý. Con nhố quê hương, nhớ nhà, nhớ cụ quá. Trong đầu óc con, con vẫn nhớ khi con tới hầu cụ, nhớ hình ảnh thanh tao, lòng đại lượng của cụ. Ước gì con chóng được về, để lại được tới hầu cụ. Con yêu mọi đồng bào, con yêu từng khóm cây, ngọn cỏ nơi quê nhà. Con xin kính chúc cụ vạn an. Nay kính C on

PHẠM HÙNG

243

TẤM LÒNG CAO CẲ Ngày 22 thán g 1 năm 1982 Kính thưa: Cụ Nguyễn Đức c ầ n kính mến Con vô cùng cảm xúc và kính mến cụ vối ơn thiêng và sự hưống dẫn của anh Vũ Như Lộc, đưa con đến với cụ. Với tấm lòng bác ái vô biên, tình thương mà cụ đã thấu suốt lòng con. Ưốc nguyện của con từ thành phô” Iiồ Chí Minh, con đã nghe danh và mến mộ cụ, con ưốc mong được diện kiến cụ để thoả lòng ngưỡng mộ. Lần đầu tiên con gặp cụ, nhờ ơn thiêng, vối tình thương cao cả , cụ đã nhận trợ lực con, để an ủi, giúp đõ cho những anh chị em bị bệnh phong, cùi khắp nơi và cho những người đau khổ ỏ trần gian này. Con nguyện với trời, con thưa với cụ, con xin noi theo nhân đức và lòng thương hải hà của cụ, mà con sẽ tận tâm săn sóc an ủi anh chị em bệnh nhân phong cùi khắp nơi, mà hơn 20 năm qua con đã sống gắn bó và săn sóc họ. Như lời dạy bảo của cụ là khi nào gặp những bệnh khó khăn thì viết thư trình cụ, qua thơ cụ sẽ dạy bảo cho. Con xin muôn vàn tạ ơn cụ. Hôm nay, người bệnh nhân mà con thưa với cụ là anh Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Quốc hội, Phó chủ tịch Hội đồng nhà nước. Anh Thọ đang mắc các chứng bệnh 244

như sau: Huyết áp cao, thường khi tim bị loạn nhịp, thận có sạn. 1 Do đó sức khoẻ của anh kém, ảnh hưỏng đến việc lãnh đạo và phục vụ Tổ quốc. Con xin cụ thương và giúp cho anh Thọ được mạnh khoẻ để anh phục vụ đồng bào và Tổ quốc được tốt hơn. Đáng lý anh Thọ phải tới cụ, nhưng vì nhiều việc và có những điều bất tiện, nên anh không đến cụ được, nhưng anh mong muôn cụ vui lòng giúp đỡ cho. Phần con, khi về Sài Gòn, con cô” gắng tới các bệnh viện phong cùi tiếp tục săn sóc bệnh nhân, những người xấu sô” nhất loài người. Xin cụ ban phát, điều trị cho những bệnh nhân đau khổ. Sang năm mối, con xin chúc cụ và quý quyến an khang, vạn thọ. Con của cụ NGUYỄN VĂN MINH Văn phòng Quốc Hội tại T P Hồ Chí Minh

CON LÀ MỘT KỸ SƯ H à N ội ngày 23 thán g 8 năm 1981 Kính gửi: Cụ Nguyễn Đức c ầ n

245

Thưa cụ

;fị

Con là Trần Mạnh Phùng, tốt nghiệp kỹ sư cơ khí tại nước Cộng hoà XHCN Tiệp Khắc năm 1969, hiện nay con đang phụ trách toà soạn báo Kỹ thuật cơ k h í của Bộ1 Cơ khí và luyện kim. Thưa cụ Con đã được biết danh tiếng cụ từ năm 1973, và từ đó lòng ngưỡng mộ cụ trong con mỗi ngày càng mãnh liệt. Con nghĩ rằng một lần thấy bằng trăm lần nghe cụ ạ. Với tấm lòng chân thành thương cháu Tuâ”n, cháu nội của anh Thuần, viện trưởng Viện Thông tin Khoa học kỹ thuật, một cháu bé ba tuổi mà vẫn không biết bò, không biết lẫy, cổ cháu mềm không mang nổi đầu, các đầu ngón tay, ngón chân luôn co quắp, mặc dù đã được gia đình và các bệnh viện hết lòng chăm sóc và cứu chữa. Con đã cô” gắng tìm đường tới cửa cụ và đã được cụ rộng lòng thương yêu trông nom cho cháu, thời gian đó vào cuối tháng 10 – 1979. Kính thưa cụ Được cụ trông nom cho, đến nay cháu Tuấn đã có nhiều tiến bộ rõ rệt: Các ngón tay co quắp nay đã duỗi thẳng, chân cháu co đạp khoẻ, tay cháu đã biết chào, bắt tay ông bà, cổ cháu đã cứng mang được đầu, cháu đã lẫy được và ngồi được. Cháu cười rất to và đang tập nói. Những tiến triển của cháu đã làm bầu không khí trong gia đình ngày thêm vui vẻ.

246

Kính thưa cụ Bẳn thân những người trong gia đình con cũng được cụ chăm sóc. Vợ con có bệnh nhức đầu, rất sợ nắng và chỗ đông người, may nhờ cụ nay đã khỏi bệnh. Đứa con đầu của con, cháu bị mọc một cái mụn rất to ở gần mắt và mụn đă có mủ. Sau khi con lên trình cụ, chỉ hai ngày sau là cháu khỏi. Một lần cháu thứ hai của con bị đi ỉa chảy rất nặng ra cả máu, con sợ quá vội lên trình cụ và chỉ sau hai ngày là cháu khỏi hẳn. Không những chữa bệnh cho người, mà cụ còn chữa bệnh cho cả loài vật. Vì đất nước còn gặp nhiều khó khăn, chúng con phải nuôi lợn để cải thiện đời sống, chúng con phải vay tiền mua giống lợn, vì vậy đôi khi phải chăm lợn hơn cả chăm con, lợn ốm còn lo hơn con ôm. Tết vừa qua chúng con rất lo vì hai lứa lợn nuôi đầu tay bị đi tiêu chảy và ghẻ nhọt, chúng con lên xin cụ và cụ đã cứu chữa cho chúng đều khỏi bệnh và lên cân. Chúng con là những kỹ sư trẻ không dễ gì mê tín và con chỉ biết nói những điều mắt thấy tai nghe và cụ đã bỏ bát hương cho nhiều gia đình bệnh nhân thờ cúng không đúng, sau khi họ đã khỏi bệnh. Kính thưa cụ Phương pháp chữa bệnh của cụ ngày nay chưa giải thích được, nhưng vô cùng hiệu quả. Vì khó hiểu và chưa giải thích được nên có người chưa tin và cho là mê tín. Nhưng sự thật là thước đo, là cơ sở của mọi luận cứ. Cụ là người thầy của ngày nay và của cả tương lai.

247

Con kính chúc cụ luôn luôn mạnh khoẻ để nhân dân được hưởng nhờ. Kính thư C on

TRÂN MẠNH PHÙNG

CẲI TỬ HOÀN SINH Kính gửi: Cụ Nguyễn Đức cầ n Kính thưa cụ Lần đầu tiên con đã tỉnh lại và cầm được bút, con viết mấy dòng lên kính thăm sức khỏe của cụ và toàn gia quyến được mạnh khỏe. Kính thưa cụ Con xin phép cụ được nói lên bệnh tật của con mà đã được cụ hết lòng cứu chữa. Quê quán con ỗ Sơn Tây, cấp bậc thiếu tá, con công tác ỗ Quân khu III. Con mắc bệnh quá hiểm nghèo là bị viêm màng não mủ, nhiễm khuẩn huyết.’ Sốt miên man một tháng rưỡi, bệnh viện Quân đội điều trị không khỏi. Con đã bị Iiìế man bất tỉnh và hôn mê hoàn toàn. Đơn vị và gia đình con đã chuẩn bị tang lễ vào ngày 25 tháng 12 năm 1982.

248

Thật là phúc đức, nhờ có bà dì ruột dẫn nhà con vào xin cụ và đã được cụ nhận cứu chữa. Từ đó con tỉnh lại, bệnh đấ khỏi, con ăn ngủ được và đã đi lại được. Kính thưa cụ Con và cả gia đình con vô cùng cảm động và biết ơn cụ đã cứu con sống lại. ơn nghĩa này gia đình con biết lấy gì đền đáp. Con xin chân thành cảm ơn cụ N gày 13 th áng 3 năm 1983 Con

NGUYỄNHữu THÁI

T ru n g đ o à n p h ó T ru n g đ o àn 151, Q K III

Kính gửi: Cụ Nguyễn Đức c ầ n Kính thưa cụ Chồng con là Nguyễn Quang Chiểu, Giám đốc nhà máy cơ khí nông nghiệp, tháng 2 năm 1982 khi đưa nhà con vào bệnh viện Bạch Mai, bác sỹ chẩn đoán là viêm gan siêu vi trùng và chuyển xuống khoa A5. Tại đó các bác sỹ lại nói không phải bệnh gan mà bị tắc mật nhưng chưa rõ nguyên nhân. Các bác sỹ nói mật đã sưng to hơn bình thường 250 lần. Sau đó lại chuyển nhà con sang khoa B2, chẩn đoán là ung thư gan và đến ngày 4 tháng 2 năm 1982 thì mổ mật. Sau khi mổ, tình trạng nhà con rất nguy ngập, các bác sỹ nói bệnh đã di căn lên não, chẳng còn một phần nào còn sông nữa, mà chỉ đợi chết mà thôi. 249

Lạy cụ Hôm ngày 7 tháng 2 năm 1982, chú Dụ là một bệnh nhân của cụ (đã được cụ chữa khỏi bệnh hen) tự nhiên thấy nóng ruột, đến nhà con chơi. Nghe nói nhà con bị bệnh nặng thế là chú vào ngay bệnh viện, nhìn thấy cảnh gia đình con mang quần áo vào chuẩn bị khâm liệm cho nhà con, chú Dụ cũng không cầm được nước mắt, còn con thì không biết gì cả mà bị ngất liên tục. Thưa cụ Thấy tình thế khẩn cấp như vậy, chú Dụ và cháu thứ hai của con lên cầu xin cụ. Cụ cho một tờ giấy có chữ ký của cụ mang về. Chúng con đã hóa tờ giấy đó ngay trước phòng hồi sức. Khi hóa xong, thì nhà con đã hé mỏ được mắt ra và người ấm dần lên. Con lạy cụ Nhờ ơn cụ, nhà con từ chỗ chẳng còn một hy vọng nào sống được, nay đã dần bình phục. Bây giờ mỗi bữa đã ăn được cơm, đã đi lại được. ơ n cụ, gia đình con chẳng bao giò dám quên, một người thầy cao cả và nhân đạo cứu chữa cho dân. Chúng con sẽ chụp một pô ảnh bên linh cữu gửi tới cụ để ghi nhố công ơn của cụ H à Nội ngày 18 tháng 3 năm 1983 Con

NGUYỄNTHỊ HỢI 250

K ín h t h ư a ô n g

Cháu là Nguyễn Hữu Tráng, cháu rất sung sướng là đã được sống lại, nên mối có ngày hôm nay được ngồi viết thư gửi tối ông. Xin ông cho phép cháu được kính chúc ông mạnh khỏe mãi mãi để cứu giúp nhân dân. Thưa ông Cách đây mấy tháng, cháu bị bệnh thận, mặt thì sưng to như cái thớt, nước cháo cũng không uôhg được, chỉ còn có 32 cân thôi và cháu chỉ còn chò chết. Thế rồi lihờ hồng phúc cháu đã được ông nhận lời cứu chữa, chỉ sau một tháng mặt cháu đã hết sưng, mỗi bữa cháu ăn được bảy bát cơm và ngày ăn ba bữa không biết no. Ông ạ, cháu từ 32 cân nay đã lên được 60 cân rồi. Cháu đã khỏe mạnh và đã đi làm rồi. Bệnh tưồng chừng chết không thể sống được nữa mà ông đã cứu chữa cho cháu sống lại và khỏe mạnh. Thưa ông Vì bô” mẹ cháu chết sớm nên nhà nghèo không được đi học nên cháu chỉ biết nói mộc mạc, xuất phát từ đáy lòng của cháu nói ra. Xin ông tha thứ cho cháu. Lời cuối cùng kính chúc ông sống lâu muôn tuổi và khỏe mạnh mãi mãi để cửu chữa cho mọi người. H à N ội n g ày 1 th á n g 4 n ăm 1982

Cháu NGUYỄN HỪU TRÁNG 106 Linh Quang, Dông Đa, Hà Nội.

251

NƠI ĐÂY ĐẠI YÊN Kính thưa cụ Nguyễn Đức cầ n Con rất sung sưống và hồi tưỏng lại 14 năm qua con được biết và được hầu cụ. Hôm nay, con xin phép viết lên đây đê luôn luôn tưởng nhớ và cũng là biết ơn cho đến trọn đời. Thưa cụ Năm 1954 được mẹ con đưa hầu cụ, nhưng lúc đó con còn tuổi thanh niên, tuổi đời chưa hiểu, còn bán tín bán nghi. Đến năm 1957 con xin phép bô” mẹ cho đi theo anh rể buôn bè trên rừng núi xa xôi, những nơi con chưa từng bước chân tói, đúng là nơi rừng thiêng nước độc. Không may cho con, mắc phải bệnh sốt rét ngã nước. Trỏ về nhà cứ cách một ngày lại lên cơn sốt, hết sốt rét lại sốt nóng đến 40 độ, sau đó lại buốt đầu, mỗi cơn sốt kéo dài đến nửa ngấy, cứ thế kéo dài suốt 3 tháng liền. Hết tiêm thuốc lại uống ký ninh vàng cả mắt, hết thuốc tây lại thuốc ta rồi quay ra cúng lễ, đều cũng không khỏi. Sau có người mách là đào giun đất mà nuốt thì sẽ khỏi, con sợ quá không dám nuốt, lúc bấy giờ người con chỉ còn cái da bọc cái xương, phải chông gậy mới đi nổi. Con tưởng như không thể sống được nữa. Khi mẹ con lên nói với cụ và cụ nhận lời giúp đỡ, thế là từ đó bệnh bót dần và ít lâu sau con khỏi hẳn, sức khỏe được hồi phục. Con tự nghĩ đúng là cụ đã cải tử hoàn sinh cho con. Con cảm thấy rất sung sướng Từ năm 1960 đến nay con được gần gũi cụ, được cụ 252

chăm lo săn sóc, được cụ chỉ bảo dạy dỗ đến nơi đến chôn. Cụ đã cho con biết sống có đạo đức, biết thương yêu đùm bọc nhau trong cơn hoạn nạn. Thưa cụ. Công ơn của cụ đổi với con thật là vô hạn, con cũng đã được mắt thấy tai nghe những việc làm đạo đức cứu người mà không màng danh lợi của cụ. Vậy con xin phép được viết nên mấy vần thơ để nói lên điều đó Bài thơ xin dâng cụ: Ba Đình có xã Đại Yên Cụ Cân như thể một vị tiên Thương người cứu giúp cho trăm bệnh Giúp kẻ cơ hờn, khách hữu duyên. Xa xôi muôn dậm cũng biết tin Trên ngược dưới xuôi khắp mọi miền Việt, Hoa, Lương, Giáo, ngàn trâm họ ơn cụ ra tay khắc khỏi liền. Cao quỷ thay, bậc thánh hiền Mật trời soi tỏa khắp thiên niên Công ơn so sánh như trời biển Đao đức vô vàn, đạo đức tiên. H à Nội ngày 21 tháng 11 năm 1971 K ính thư Con của cụ

HOÀNG TRUNG

253

SUỐT ĐỜI CON GHI NHỚ Kính gửi: cụ Nguyễn Đức cầ n Kính thưa cụ Nay con có lời thăm hỏi sức khoẻ cụ được bình an thì con mừng và con có lời thăm hỏi gia quyến hồng phúc vạn đại. Thưa cụ Gia đình con vừa qua mắc tai hoạ lớn, khi mẹ già vừa qua đời thì vợ con mắc bệnh thần kinh điên cuồng. Thưa cụ Đời con và gia đình con không gặp được cụ tác phúc cho thì tai hoạ còn lốn biết bao. Cộng ơn của cụ thật là to lớn. Con không biết lấy gì để hậu tạ cụ. Nay bằng chi nói lên tự đáy lòng con cảm phục lòng bác ái, cứu vớt nạn nhân, con thấy có một không hai. Thưa cụ, con xin phép nói lại quá trình gặp nạn của gia đình con: Ngày 16 tháng 2 (dương lịch) năm 1970 là ngày mẹ con mất, vợ chồng con rất lo, vì trong tay không có đồng tiền nào, chúng con phải đi vay mượn. Nhưng không ngờ, sau ngày mai táng mẹ xong thì vợ con bị mắc bệnh phải đi cấp cứu. Thật là nước mắt chưa ráo thì lại lo lắng buồn phiền vì vợ, cháu gái lớn lại bị cảm nặng phải đi cấp cứu nữa làm ruột gan con rốì bời. Cụ ạ, sao cuộc đời con lại cực khổ thế, đang yên ổn làm 254

ăn thì đột nhiên hoạn nạn kéo đến, vợ con bị cảm sốt liên miên, ai mách đâu, chạy chữa đó, bốn phương tìm thầy… lúc đầu còn khoẻ thì đèo xe đạp, sau phải thuê xe xích lô, đi cắt thuốc bắc, châm cứu mỗi ngày mất bao nhiêu tiền không đõ, sau chuyển sang tiêm thuốc tây, hôm đầu bệnh giảm thì đã mừng, hôm sau chị y tá cứ loay hoay tìm ven suốt một tiếng không tìm được, đành chịu, bảo phải đi viện ngay. Vào viện, bác sỹ đông y kết luận là cảm nhập tâm và cắt thuốc cho uống, uống được mấy thang, vợ con kêu khó chịu lắm đòi đưa đi cấp cứu. Vào bệnh viện Quy Ba, bác sỹ chuyên khoa thần kinh khám cho thuốc uống nhưng không thấy đố. Con lại nhờ người quen đưa nhà con vào bệnh viện Việt Đức khám bệnh. Khi vào viện, vợ con cởi chiếc nhẫn ra đưa cho con rồi nói, thôi anh ạ, cầm lây mà lo liệu, em không thể sống được nữa đâu. Lúc đó con cầm lấy chiếc nhẫn mà nước mắt cứ chảy ra… Đột nhiên, vợ con lại kêu la lên là tại sao không khám cho tôi, tôi nhiều bệnh lắm, tim van của tôi đứt rồi, khổ quá , tôi chết mất thôi… các bác sỹ khám xong thì tiêm thuốc cho vợ con, rồi hỏi chuyện gia đình. Con trình bày các việc trong gia đình là mẹ vừa mới chết, từ đó vợ sinh bệnh liên miên, cấp cứu hết viện này đến viện khác mà bệnh tình lúc tăng lúc giảm, không hiểu tại sao? Các bác sỹ viết giấy giới thiệu sang bệnh viện thần kinh Gia Lâm… Lúc đó con thật bi quan quá, như vậy là nhà con bị mắc bệnh thần kinh rồi ư, con không biết nên xử sự như th ế nào… 255

Hôm sau có bác Thịnh đến thăm nhà và nói tìm thày chữa cho, vì có người cho là bị trùng tang. Tốĩ hôm đó đột nhiên vợ con bắt đầu nói lẫn không bình thường con phải canh giữ, hàng xóm cho là nhà con bị ma tàjkhông ai dám đến hỏi thăm… í Gia đình con mòi một ông thày lập đàn cúng và dâng hình nhân, tiền vàng, theo đuổi mấy ngày đêm. M ặt khác lại yểm chú cấm nhà, an mộ đủ lệ, nhưng cũng không thấy chuyển biến gì. Sau bác Thịnh thấy không ổn, nói là nếu gia đình nhất trí thì bác sẽ giối thiệu và xin cụ tác phúc. Con thấy không còn do dự gì nữa, đồng ý nhất trí lên xin cầu cụ Thưa cụ Bữa đầu bác Thịnh đưa ông nhà con lên xin cầu cứu cửa cụ, đã chứng kiến cụ chữa bệnh cho một cháu bị liệt ở dưới làng Hoàng Mai đi được ngay, thần kỳ như thế. Thưa cụ Gia đình con trải qua bao ngày tháng khổ sỏ, lại thêm lòi này tiếng khác gièm pha, tiền cạn chí kiệt. Quả thực nay được gặp cụ cứu chữa, khác gì cây khô lại được gặp nưốc nguồn. Thưa cụ Đời con, nay mới được sáng con ngươi ra. Nay vợ con được khỏi bệnh, cả gia đình con được nhờ ơn cụ trông nom sức khoẻ cho, còn gì quý bằng. Thưa cụ, con suy nghĩ những lời cụ dạy bảo nhiều 256

điều: Đòi người phải có thuỷ có chung, có hiếu có nghĩa. Phải biết cái xấu, cái đẹp, thấy được cái xấu thì phải sửa… Con nguyện suốt đòi ghi nhớ những lời cụ dạy và giáo huấn cho con cháu học làm người. Thưa cụ, nay con viết đôi lòi. Chúc cụ sông lâu trăm tuổi, để cứu vớt trăm họ. H à Nội ngày 1 tháng 8 năm 1971 K ính thư Con ĐƯỜNG QUANG VINH

NGƯỜI MÀ TÔI VÔ CÙNG BIẾT ƠN H à nội ngày 28 thán g 5 n ăm 1999 Cụ Nguyễn Đức c ầ n – người mà tôi vô cùng biết ơn, kính trọng và yêu thương như cha mẹ của tôi. Đã 16 năm qua, kể từ ngày con được thầy chữa cho con khỏi bệnh, cứ mỗi lần cất tiếng hát, con lại thầm nhớ ơn thầy, nhớ lời thầy dạy bảo:“Ta chữa cho con khỏi bệnh, mong con hãy hát mãi để làm đẹp cho đòi”. Từ ngày đó đến nay, con chưa bị tái phát lần nào, và cho đến bây giờ gần 70 tuổi, con vẫn hát như lòng thầy mong muôn. Nhớ lại ngày mồng 8 tháng 3 năm 1983, vào buổi sớm vừa thức dậy, tôi thấy mặt nặng như đeo đá về phía

257

bên trái, mồm méo xệch, nước mắt chảy giàn giụa, trong đầu nhức nhối đau đớn, sắp sửa đến giờ dạy học, mà tôi thì không cất lên tiếng hát được nữa rồi. Theo lời mọi người mách bảo, tôi vội đeo băng miệng, rồi đạp xe lên nhà cụ Nguyễn Đức cần , trên đường đi tôi lo lắng, không biết cụ có nhận chữa cho tôi hay không? Vào nhà cụ, tôi bưóc lên bậc thềm, miệng thưa: – Con lạy cụ, xin cụ chữa bệnh cho con. Cụ trả lời rất ngắn gọn: – Tôi biết bệnh của bà rồi, bà cứ về nhà đi, trong thời gian tôi nhận chữa, bà cứ ỏ nhà. Khi nào hết méo mồm, hết đau và hát lại được, thì hãy lên đây, hát cho mọi người cùng nghe. Sau chín ngày ỏ nhà, cứ từng ngày soi gương, tôi thấy tiến bộ rõ ràng, rồi hết chín ngày tôi khỏi hẳn, tôi lại hát được, dạy học sinh được như xưa. Kỳ diệu thật, từ khi mắc bệnh đến khi khỏi hẳn, tôi không hễ dùng một viên thuốc, không xoa bóp, không bùa ngải. Đúng mười ngày, tôi đã lên nhà để tạ ơn cụ và tôi đã hát “Bài ca hy vọng” để tỏ lòng biết ơn sâu sắc. Sau này, tôi thường lên thăm cụ và để được nghe những điều răn dạy đầy tâm đức và nhân hậu của cụ. Không bao giờ tôi có thể quên ơn của cụ. Thầy ơi! Con gửi tới Thầy lòng nhớ thương vô hạn

258

của con. Con vẫn cầu xin Thầy luôn phù hộ, độ trì cho con và gia đình con. Con của thầy NGUYỄN KIM NGỌC N ghệ sỳ ư u tú

ĐỜI CON ĐÃ CHUYỂN SANG TRANG MỚI Q uảng N inh ngày 8 thán g 8 năm 1981 Kính thưa ông Theo lời dạy của ông, hôm nay đã gần hai tháng ông chữa bệnh cho con. Con cầm bút viết thư lên kính thăm sức khoẻ của ông, và cúi xin ông cho con “Đạo” chữa bệnh tiếp. Thưa ông Từ ngày ông chữa bệnh cho con, ông đã ban cho con một sức khoẻ diệu kỳ. Mới hai tháng trước đây, cũng vào đúng ngày này, cơn bệnh hạ can- xi đột ngột của con mà bệnh viện gọi là cơn Têtani (động kinh) vẫn còn đang hành hạ con. Khi ngủ thì ngất đi ngâT lại nhiều lần, rồi cơn co toàn bộ các cơ trong cơ thể, co rút đau không thể chịu nổi, rồi khó thỏ, thỏ gấp và có khi con cảm thây không thỏ được nữa. Có nhiều cơn con tưởng mình sẽ chết. Đã th ế lại cộng thêm bệnh loét sơ trai hành tá tràng cũng không

259

ngớt làm con khổ. Khi đau bụng, lúc đau đầu, lúc rùng mình choáng váng… Nói chung con chẳng mấy khi thấy mình thư thái khoẻ mạnh, ăn ngủ thất thường và làm việc kém sút. Con đã phải chịu đựng hai thứ bệnh khốn khổ này đã 13 năm. Bệnh mỗi ngày mỗi nặng. Cho đến đầu năm 1980 thì bệnh con nặng quá, lên cơn phải cấp cứu liên tục… con đã điều trị ỏ bệnh viện Bạch Mai đúng 6 tháng nhưng kết quả chẳng được là bao. Các giáo sư, bác sỹ đều bảo là bệnh của con không thể chữa khỏi ỏ Việt Nam mình được vì không có loại hoóc môn đặc biệt chuyên trị, vì thế con phải chịu cả đòi bệnh này, và bệnh viện chỉ có khả năng làm bệnh tạm ổn định một thời gian thôi. Khi nào bệnh tái phát, con lại phải đi nằm viện. Kính thưa ông Mấy tháng trước đây con đã bi quan vô cùng, thế là đời con phải gắn liền với bệnh viện. Con thật khổ tâm vì mình còn trẻ, còn khả năng để cống hiến cho xã hội và con rất yêu nghề của mình là truyền lại kiến thức cho lốp cán bộ kỹ thuật tương lai cho ngành mỏ của nước mình. Con rất buồn vì con đã ngỡ rằng thế là đời mình đã bỏ đi vì bệnh tật. Nhưng, thưa ông kính yêu. Từ ngày được gặp ông, đời con đã chuyển sang trang mới. Ông đã có công tái tạo lại con, ổng đã ban cho con sức khoẻ mà con đã tưởng mất đi vĩnh viễn. Ông ơi ! ơ n ấy của ông, con không bao giờ quên

260

được, con chỉ có thể trả ơn ông như những đứa con hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ. Cả hai vợ chồng chúng con đều có mơ ưốc được ông coi mình như những đứa con ngoan, để được thường xuyên về thăm ông như những đứa con xa về thăm cha mẹ và được ông dạy bảo, chăm nom. Kính thưa ông. Hiện nay con rấ t khoẻ và con thấy mình rất thư thái, không còn cảm giác ôm đau mệt mỏi, bệnh tật như xưa nữa. Con làm việc liên tục kể cả việc lao động chân tay. Con có thể một lúc gánh hàng chục gánh nưóe và con ăn ngủ đều. Trước đây con không thế làm nổi việc gì nặng, vì làm nặng một tí là thỏ gấp rồi lên cơn lại phải cấp cứu. Thế mà nay con đã có thể cuốc đất, gánh nước như một người bình thường khoẻ mạnh. Kết quả ông chữa cho con thật diệu kỳ, làm mọi người phải ngạc nhiên, còn vợ chồng con và toàn thể gia đình nội ngoại của chúng con thì vui mừng khôn kể. Kính thưa ông. Từ hôm cả hai vợ chồng chúng con thăm ông về tới nay, sức khoẻ của con ngày càng tốt, người con đã gọn gàng chắc khoẻ, da dẻ sáng sủa hồng hào, chúng con sung sướng quá. Kính thưa ông. Thư con viết đã dài, ông cho phép con tạm ngừng. Cúi xin ông ban cho con “Đạo” tiếp tục chữa bệnh và cho con nhiều sức khoẻ.

261

Xin ông nhận ở con lời cảm tạ chân thành và tôn kính gửi tới ông Con kính thư PHẠM TRIỀU AN Giáo viên trường trung học Mỏ Quảng Ninh

BÀI TRỪ MÊ TÍN

Kính gửi: Cụ Nguyễn Đức cần Kính thưa cụ. Con là Nguyễn Văn Dốc, ỏ sô” nhà 378 Bạch Mai Hà Nội. Thưa cụ, nhà con là Nguyễn Thị Lũng bị bệnh ung thư lưỡi, đã được cụ cứu giúp và đã khỏi bệnh.

Toàn thể gia đình chúng con vui mừng được dội dn cụ và xin phép cụ cho chúng con được tạ ơn cụ bằng sự trình bày tình tiết bệnh của nhà con như sau: Kể từ tháng 12 năm 1980, nhà con tự nhiên sinh bệnh. Lúc đầu chỉ là một cái nhọt ở má, sau lan sang lưỡi, làm lưõi bị nứt và có một nốt mụn ỏ giữa, ăn uôhg không thấy ngon, không nhận biết được hương vị mặn ngọt ra sao cả. Ngày không ăn được, đêm lại nói năng lung tung, hò hát như người điên. Thật là khác thường. Gia đình chúng con hết lòng lo chạy chữa thuốc

262

thang. Con đã đưa vợ con đến bệnh viện K, các bác sỹ xét nghiệm, kết luận là ung thư lưỡi. Bệnh viện K đã điều trị bằng những loại thuốc chữa bệnh ung thư và cắm kim truyền, nhưng bệnh trạng của nhà con không có hiện tượng thuyên giảm. Chúng con phải cầu cứu sang cả bệnh viện Việt – Đức, được bác sỹ Tôn Thất Tùng và bác sỹ Vân khám, và kết luận là ung thư lưỡi, cho tiêm thuốc. Bác sỹ Diệp trực tiếp trông nom điều trị, đã cấy thuốc miễn dịch vào lưỡi cho nhà con. Nhưng bệnh của nhà con không thấy thuyên giảm mà ngày càng nặng thêm. Chúng con cũng hiểu về bệnh ung thư, trên thế giới chưa có thể chữa khỏi, như thế chỉ còn chờ chết. Ngoài việc thuốc thang không khỏi, gia đình chúng con cũng nghe bà con mách bảo đến việc lễ bái mọi nơi và bốc bát nhang thờ cúng. Đầu tiên phải bốc hai bát hương thờ, dần dần thành sáu bát và lập thêm một bát hương ồ ngoài trời, hàng ngày phải hương hoa, vào ngày rằm, mồng một phải sửa lễ mỗi lần là bảy con gà, thậm chí phải đưa lễ bằng một đồng cân vàng và tiền mặt. Song song cả hai việc chữa bệnh ở bệnh viện và lễ bái thường xuyên nhưng bệnh tình của nhà con vẫn không khỏi. Phúc duyên sao, con lại được chính bác sĩ Dậu ở bệnh viện K mách bảo cho con chỉ còn một con đường tìm đến cửa cụ, nếu được cụ nhận lời cứu giúp thì mối khỏi được.

263

Lần đầu tiên chúng con đến, cụ chưa nhận lòi, cụ bảo cứ về. Tuy vậy, chúng con cứ liên tục tới cửa cụ vài ba ngày một lần để kêu xin cụ. Cuối cùng cụ đã nhận lời và hẹn đến đầu tháng tám âm lịch năm Tân Dậu. Kể từ ngày cụ nhận lời, từ hôm đó nhà con đã bắt đầu ngủ được và đến ngày mồng hai tháng tám âm lịch, vợ chồng con đến để kêu xin cụ. Cụ dạy: ở đây không có cúng lễ gì cả, nếu hiểu và biết sửa mình, ăn ở đối xử sao cho đúng nghĩa, thì mọi việc đều tốt cả. Khỏi hay không là ỏ mình. Qua những lời dạy quí báu của cụ, ngay lúc đó, nhà con đã chắp tay quỳ xuống xin cụ thương cho, để tự mình tu sửa cho được tốt đẹp như lời cụ dạy. Kể từ ngày mồng hai tháng tám âm lịch, bệnh tình của vợ con ngày được khỏi dần, bắt đầu ngủ được, và lưỡi bắt đầu dần dần nhận biết được các hương vị của món ăn, đêm không còn hò hát như trước nữa. Đặc biệt, gia đình chúng con không còn thắp hương ỏ sáu bát hương thờ và hàng tuần không phải tôn kém sửa lễ, không phải đi lễ bái kêu cầu ỏ đâu cả. Chúng con đã nghĩ và xác định chỉ còn cầu cụ là xong. Mỗi ngày, gia đình chúng con càng thêm phấn khỏi vì sự tiến triển khỏi bệnh của nhà con, cụ đã cho nhà con có sức khoẻ bình thường, có thể đi xe đạp hàng chục cây sô” về quê thăm bà con họ hàng. Trong quá trình con đưa vợ lên xin cụ chữa bệnh, chính

264

con cũng có bệnh ồ gan, vì trước con đã mổ ở bệnh viện 103, khi mổ xong con vẫn cứ tiếp tục đau, đi chụp điện lại, phát hiện là phổi dính vào lá lách, thành ra rất khó thồ, lại thêm chứng bệnh đau dạ dày gần 20 năm nay. Cụ đã cho con khỏi hết các bệnh và có sức khoẻ bình thường. Tiếp đến các con cháu của con, từ đó đến nay nếu có bệnh tật ốm đau đều lên xin cụ và về thì các cháu, con đều khỏi bệnh. Toàn gia đình con, nhờ cụ đều được khoẻ mạnh, có sức khoẻ làm ăn và học hành tiến bộ. Chúng con đã được nghe và chính mắt nhìn thấy cụ đã giải cho nhiều gia đình ốm đau, điên rồ, thờ cúng linh tinh, sinh mê tín và tốn kém biết bao tiền của. Do đó, chúng con làm đơn trình xin cụ giải cho gia đình chúng con và cụ đã chấp nhận. Ngày 25 tháng chạp, cụ đã cho phép chúng con hạ sáu bát hương thờ tại gia và mang đến cửa cụ. Cụ dạy cho phép bày những bát hương ỏ ngoài sân, để ngày Tết bà con đến xem. Trước khi cụ nhận lời cho hạ bát hương, gia đình chúng con suy nghĩ, khi bắt đầu trân trọng đặt bát hương thờ và khi muốn hạ xuốíng không phải tuỳ thích hay tự nhiên mà làm được. Nếu không được cụ thương mà giải cứu cho, chắc chắn không ai dám hạ. Chúng con hiểu rằng, phúc duyên không phải là một chuyện đơn giản và phải biết nghe lời cụ dạy bảo, biết tự sửa mình, chứ tiền bạc nào có thể mua được

265

Thưa cụ, chúng con không biết nói gì hơn và cầu chúc cụ sông mãi để cứu độ cho mọi người có phúc, có duyên. Hà Nội ngày 22 tháng 4 năm 1982 Con NGUYỄN VĂN DỐC

HỌA VÔ ĐƠN CHÍ, PHÚC BẤT t r ù n g

l a i?

Kính thưa: Cụ Nguyễn Đức cần Thưa cụ Dạo này chúng con vì bận dọn về nhà mới và sửa chữa vài thứ, đến nay công việc đã ổn định, nên có vài lời lên chúc hai cụ cùng gia quyến khoẻ mạnh thì vợ chồng chúng con rất mừng, v ề phần vợ chồng con cùng các cháu đều vui vẻ, khoẻ mạnh, hơn nữa lại được ở nhà mới. Điều đó nhờ công ơn của cụ tác phúc cho chúng con. Nếu không được cụ cứu chữa cho hai bô” con, thì chắc rằng gia đình con đã bị tan vỡ, còn đâu là sự ấm cúng, hạnh phúc như ngày nay. Nên mỗi khi bữa cơm ăn, trông thấy cháu khoẻ mạnh, vợ chồng con lại nhắc đến ơn cụ. Hồi tưởng lại hồi cháu bị bệnh, khóc sa sả 7 đêm ngày, đại tiểu tiện đều bí, thuốc đông, thuốc tây đều vô hiệu, thôi thì bói có, cúng có. Kẻ nói mang cháu đi bán khoán thì khỏi, người bảo chạm vía phủ nọ đền kia, thôi

266

thì trăm cấp, rút cục bệnh trầm trọng thêm, tưỏng chừng không nuôi được cháu. May thay gặp cụ nhủ lòng cứu cháu, bệnh não phút chốc tiêu tan, tôi đến ngủ yên ngon giấc. Thật quá thần dược, chả khác cô mộc lại gặp mưa xuân. Xin phép cụ cho con thưa hết: Con ở vào ngành đông y, đứng trưốc bệnh trạng cháu, con cũng vô kế khả thi, đành chịu thúc thủ. Sau khi cháu khỏi bệnh, con có lên cụ để tạ công ơn cụ, cụ đều từ chổĩ không nhận, miễn là người khỏi bệnh lên báo cáo lại là cụ mừng. Thưa cụ, hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai. Hết cháu lại đến bản thân mình, con vốn có bệnh áp huyết cao. Đầu mùa hè vừa qua con đang ngồi thì thấy đầu óc choáng váng, sau đó rức đầu chóng mặt, khó thỏ, bụng chướng lên, nằm vật xuống thì bất tĩnh nhân sự. Nhà con sợ quá vội nhờ người lên báo với cụ, được một lúc thì cụ xuống chữa cho con. Ôi! Sự màu nhiệm làm sao. Sau phút chốc con đã nôn thốc, nôn tháo, bụng chưống xẹp xuống, hơi thỏ dễ chịu, đầu khỏi rức và mồ hôi ra như tắm, cảm thấy trong người nhẹ nhõm, ngồi ngay dậy, và thế là khỏi bệnh. Thưa cụ, bệnh này rất nguy hiểm, dễ bị đứt mạnh mậu não, vì thế hoạ phúc vô lường, Nếu con có mệnh hệ nào, như con chim đầu đàn đã bị gãy cánh, còn những chim lau nhau kia, tránh sao khỏi sẩy đàn tan nghé.

267

Đến nay, nhờ công ơn cụ, gia đình chúng con được tươi vui, êm đẹp. Chúng con xin ghi lòng tạc dạ, và lúc nào cũng ca tụng công đức của cụ. Điều lạ lùng nhất là cách chữa của cụ thoát hẳn với tục không cúng, không lễ, không thuốc, không thang, bệnh nhân không mất tiền mà bệnh lại chóng khỏi, điều đó thật là hiếm thấy. Một lần nữa, chúng con chân thành chúc cụ sống lâu và khoẻ mạnh Hà Nội ngày 29 tháng 8 năm 1971 Con HÀ KIM LẢNG 22 Hàng Giấy – Hà Nội

BỨC THƯ CỦA VỊ LÃO THÀNH CÁCH MẠNG Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu bức thư của một vị lão thành cách mạng, cụ Phan Văn Tỉnh, nguyên Phó Bí thư Khu ủy Khu Tự trị Việt Bắc gửi cho Giáo sư Vũ Khiêu.

Kính gửi: Đồng chí Vũ Khiêu – Giáo sư khoa triết Mác – Lê Nin, Phó Chủ nhiệm ủ y ban Khoa học kỹ thuật Nhà nưốc kính mến Từ sau khi được gặp lại trong lớp học tại chức Đại học Kinh tế của Tỉnh ủy Bắc Thái(1), tôi vẫn được tin đồng chí còn khỏe, đang công tác và giúp được nhiều •

(1> Nay là tỉnh Thái Nguyên

268

1

việc to lớn thiết thực cho Trung ương, trong lòng rất mừng rằng chúng ta, loại kinh điển vẫn tác dụng, mặc dù cách mạng đã chuyển rất nhanh sang giai đoạn mối, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ tổ quốc, nâng cao mức sống vật chất văn hóa cho người lao động. Hiện nay tôi đang có một sô” mắc mứu trong tâm trí, chưa giải quyết được, tôi sẽ nói, mong đồng chí giải đáp. Có thể người khác chưa biết, họ lại cho tôi thiên lệch gì chăng. Tôi ỏ vùng dân tộc được biết rằng đồng bào biết cách chữa bọ dòi ỏ trâu rất lạ. Khi nhà nào đó, trâu có bọ dòi, chỉ dặn bảo trẻ, rút nắm rạ mái chuồng trâu đem đến nhà bà lang trong bản… nhờ bà chữa cho. Bà lang cầm nắm rạ vứt vào chuồng trâu nhà bà ấy và bảo trẻ cứ về đi, được rồi. Khi trẻ về đến nhà thì bọ dòi, nơi chỗ đau của con trâu không còn con nào nữa và trâu lại ra đồng cay roi. Nghe nói xã Xuân Biền, Hiệp Hòa, Hà Bắc cũng có một cụ ông biết cách chữa này. Vấn đề trên, nghe thì thấy thật là đơn giản, nhưng lại không đơn giản như vậy. Ta phải lo tìm mọi cách mối nhằm nâng cao khoa học kỹ thuật phục vụ đồng bào. Tại sao lại chỉ chữa được cho trâu, có thể chữa cho bò, cho ngựa được không và cho người nữa chứ? Tôi sinh ra từ làng Hữu Tiệp, xã Ngọc Hà hàng hoa,nơi có pháo đài bay B52 mà quân dân thủ đô Hà Nội bắn hạ trong trận Điện Biên Phủ trên không năm 1972.

269

Làng tôi có cụ lang cần chữa bệnh cho nhiều người khỏi rất lạ, ông ta không có thuốc, không lấy tiền, cũng không phải lễ bái hương hoa bùa chú gì cả. Người đến chữa, ông lang không ghi chép, kể bệnh cũng chẳng có, ông ta chỉ có nghe không. Ông có một yêu cầu đối với người bệnh: Đã lên chữa bệnh nhà tôi, chỉ cần có một niềm tin là tôi cho khỏi bệnh. Đơn giản vậy thôi. Bệnh viện lao Bắc Thái có một cô bác sỹ xuống xin chữa vì bị điên, đã chữa ba năm ở bệnh viện Bắc Thái và một sô” bệnh viện khác ở Hà Nội không khỏi, xuống nhờ ông lang cần chữa nay cô đã khỏi, hết điên, đã đi làm ba năm nay rồi. Lần đầu cô này xuống mang mấy lạng chè búp Tân Cương biếu, ông lang nói: chè Bắc Thái ngon và đắt đấy, cô mang ra chợ bán lấy tiền tàu xe và mua quà về cho cháu. Lần sau xuống, cô bác sỹ Diệp mang 5kg sắn củ, mấy cây mía, ông lang bảo bóc vỏ sắn luộc, dóc mía mời mọi người có mặt cùng ăn. Vì cô Diệp là người từ Bắc Thái xuống, nên ông lang bảo: Tôi cũng có người làng ỏ đó, ông Tỉnh ấy mà, cô có gặp thì bảo ông Tỉnh về tôi giúp. Tôi có biết ông lang cần, nhà tôi cách nhà ông ta độ 1200m, sau lưng nhà cũ của tôi (làng Hữu Tiệp – Hà Nội) là nhà bô” vợ ông lang cần. Tôi khi thì bận, khi lại không khỏe, nên chẳng về được. Khi ông lang cầ n có nhiều ngưòi đến xin chữa bệnh, một sô” cán bộ chúng ta lại cho rằng ông lang là phù thủy. Trong cán bộ có giáo sư dạy Đại học Tổng hợp Hà

270

Nội là ông Hoàng Phương nói rằng: Đây là’ cách chữa bệnh rất mói. Cụ lang cầ n đã mất, nhưng sự việc của cụ ấy, ta không để cho chết đi một cách đơn giản nữa. Ớ nhiều nước trên thế giới đã có những phát minh khoa học kỹ tnuật rất lạ, rất mới, đưa công dụng của nó phục vụ cuộc sống của con người. Đồng chí Vũ Khiêu kính mến Tôi năm nay đã bước sang năm thứ 75 của cuộc đời mình, tuy không được khỏe lắm, nhưng còn sức xem dược sách triết học, khoa học kỹ thuật, văn học nghệ thuật. Tôi đang muốn xem lại cuốn nội chiến ỏ Pháp, cuốn tuyển tập Mác – Ănghen tập II, tập đã mượn và xem rồi. Biên thư cho đồng chí, mong đồng chí hiểu, giải đáp những thắc mắc và một sô” đề nghị của tôi. Mong đồng chí mạnh khỏe và hạnh phúc. Tôi vẫn ỏ văn phòng Tỉnh ủy Bắc Thái, thành phô” Thái Nguyên. Bắc Thái ngày 31 tháng 1 năm 1984 K ính thư Phan Văn Tĩnh (Bức thư trên đo giáo sư Vũ Khiêu chuyển cho Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, ngày 1 tháng 4 năm 2004 )

271

MÃI MÃI BIẾT ƠN CỤ NGUYỄN ĐỨC CAN Tôi là Nguyễn Thị Hảo, năm nay 82 tuổi, nguyên ồ 63 ngõ Huế, thành phô” Hà Nội. Tháng 6 năm 1973, tôi bị một cái nhọt ỗ giữa bụng, mé trên rốn. Nhọt ngày càng sưng tấy, chồi lên như một bát cơm úp ngược, nó làm tôi đau đớn, nhức nhối, không ăn, ngủ được, người gầy rộc hẳn. Vì quá đau, tôi không thể trực tiếp đến cụ được, đành phải nhờ người nhà lên xin cụ chữa cho. Cụ gửi cho tôi một mảnh giấy nhỏ bằng bao diêm trong đó có ghi chữ của cụ và dặn tôi đặt mảnh giấy đó lên miệng nhọt khoảng 5 đến 10 phút. Kỳ lạ thay! Khi tôi đặt mảnh giấy đó lên miêng nhọt vài phút thì tôi ngủ thiếp đi. Sáng ra thì chiếc nhọt đã vỡ, có một cái ngòi xanh bằng một quả mận. Sau khi dùng nước muôi rửa sạch, tôi đặt tiếp mảnh giấy cụ cho lên trên miếng gạc ỏ miệng nhọt. Khoảng sáu ngày sau, miệng nhọt đã khép lại và khỏi hẳn. Bà con quen biết tới thăm tôi đều rất mừng cho tôi được cụ cứu cho. Chồng tôi là Bùi Quang cảnh, cùng năm trên bị bệnh trĩ ngoại từ lâu. Trước đó 30 năm, nhà tôi đã nhờ một bác sỹ người Pháp (Roa de Ba) dùng điện đốt, nhưng không khỏi. Suốt mấy chục năm, nhà tôi đi ngoài là ra máu. Được cụ nhận lời chữa cho, nhà tôi đặt mảnh giấy cụ cho mỗi ngày hai lần, mỗi lần 5 phút lên cửa hậu môn. Sau năm ngày, chỗ đau của chồng tôi từ đó khỏi hẳn.

272

Cuối tháng 6 năm 1974, có hai ông bác sỹ do cơ quan y tế cử đến nhà tôi để khảo sát kết quả chữa bệnh của cụ. Họ đã xem xét kỹ nơi đau cũ của vợ chồng tôi đã được cụ chữa khỏi, thừa nhận lời trình bày của chúng tôi là đúng sự thật. Trong suốt quá trình chúng tôi chữa bệnh, cụ và gia dinh không hề nhận bất cứ thứ gì, dù chỉ là cân đường hoặc hoa quả do chúng tôi mang lên gọi là tấm lòng thành biết ơn cụ. í Hiện nay, tôi đã 82 tuổi, người vẫn khoẻ mạnh. Chúng tôi cùng gia đình luôn luôn tu dưỡng tâm đức, để thiết thực tưỏng niệm, biết ơn công đức của cụ Nguyễn Đức cần. Hà Nội, tháng 7 năm 1999 NGUYỄN THỊ HẢO Ngõ Đông Xuyên, Phố Huế, Hà Nội

(i

ĐỨC PHẬT NGÀY NAY

Hà nội ngày 2 5 tháng 6 năm 1975 Kính gửi: Cụ Nguyễn Đức cần Làng Đại Yên – Hà Nội Thưa cụ Con viết những dòng này để bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và lòng kính yêu vô hạn của con đốì vổi cụ. Thưa cụ. Mẹ chồng con bị đau bụng nặng, uống mãi thuốc không khỏi. Mẹ con đau lả đi. Con đến xin cụ giúp

273

đỡ. Thật là màu nhiệm và kỳ diệu thay, chỉ cần cụ gật đầu và nhận lòi là ỏ nhà mẹ con đã khỏi và khỏi hắn. Con đã tận mắt thấy biết bao con người mắc phải những bệnh hiểm nghèo. Họ đã đem bệnh tật của họ lê từ bệnh viện này đến bệnh viện khác để rồi cuối cùng đều vô ích. Những thầy thuốc tài giỏi đành chịu bó tay trước bệnh tật của họ, tất cả các loại thuốc đông, tây y đều không có tác dụng gì với bệnh tật của họ. Những con người hoàn toàn tuyệt vọng đó đã tìm đến cửa cụ. Họ đã được cụ cải tử hoàn sinh và đã được cụ cho đẹp cả về thể xác lẫn tâm hồn. Không phải đi bệnh viện, không phải uống thuốc, lại chẳng mất một đồng xu nhỏ mà được sống lại, được đẹp. Những con người đó biết làm gì để có thể bày tỏ hết lòng biết ơn sâu nặng đốĩ với cụ. Bỗi vì cụ kiên quyết không nhận bâ’t kỳ một hình thức trả ơn nào, dù là rất nhỏ. Trưốc đức độ của cụ, trước cuộc sông trong sạch và thanh bạch của cụ, trước tâm hồn thanh cao của cụ. Mọi người có lẽ chỉ biết tỏ lòng biết ơn của mình bằng cách cố gắng sống cho đẹp. Hãy sống cho đẹp như lời cụ thường khuyên dạy. Cụ thường mong cho nhân loại, cho mọi cuộc đòi đều được đẹp. Kính thưa cụ Con cũng là một bệnh nhân, con có đủ mọi thứ bệnh kinh niên trong người. CoiỊ cũng đã đi mọi bệnh viện, đã

274

dùng mọi thứ thuốc mà mười mấy năm nay bệnh cứ mỗi ngày một nặng. Nay phúc đức được đến cụ và được cụ nhận lời giúp đỡ. Con vô cùng xúc động và sung sưóng. Con người ta, cần phải có một niềm tin để sông. Con đă chọn Đức Phật dể tin. Con tin vào đạo đức của nhà Phật và con thường đi lễ chùa. Nhưng dù sao Đức Phật cũng chỉ là một cái gì hết sức trừu tượng. Còn khi con đến với cụ, con đã được thấy một Đức Phật bằng xương, bằng thịt. Có điều Đức Phật này đã dạy con đừng mê tín, hãy tin vào những việc làm tốt đẹp của cuộc đời. Thật là một Đức Phật hiện đại với tấ t cả đức độ cao đẹp của Người. Được ỏ bên Người, con thấy như tâm hồn mình cũng được sảng khoái và thanh cao hơn. Mặt trời còn khi mọc khi lặn. Mặt trăng còn khi khuyết khi tròn, khi mò, khi tỏ. Cụ là mặt trời sáng mãi trong lòng người – những người mang ơn và kính yêu cụ. Một mặt trời vĩnh cửu như chân lý, không một đám mây nào có thể che lâp được. Kính thư Con NGUYỄN THỊ VÂN 107 Yên Phụ – Hà Nội

275

NHỚ LỜI THẦY DẠY

Bà Phạm Thị Hồng Hà, sinh năm 1943, hiện ỗ tại khu tập thể Kim Giang, nhà E3, phòng 205, kể lại: Gia đình tôi là một gia đình công giáo, trước đây tôi ỏ phô” Khâm Thiên cùng bô” mẹ, sau do là gia đình liệt sỹ, nên tôi được cấp nhà tại khu tập thể Kim Giang, Hà Nội. Vào khoảng năm 1968 -1969, mẹ tôi bị ô”m liệt giường, người bị đau như có hàng nghìn mũi kim châm, hễ giở mình là kêu đau buốt không thể chịu được… Một hôm, có bà hàng xóm đến chơi, thấy mẹ tôi như vậy, bà nói nên lên xin cụ chữa bệnh giúp, nếu khỏi thì là cái phúc nhà mình, nếu không khỏi thì phải chịu. Sáng hôm sau, độ 9 giờ tôi đèo bà lên Đại Yên, để xin cụ. Lúc tôi vào nhà, thì cụ đang ngồi tiếp chuyện những bệnh nhân. Tôi ngồi chờ đến khi vãn khách thì trình bày và xin cụ cứu giúp. Cụ dạy tôi: – Thôi được, tôi sẽ giúp cô, mẹ cô năm ngày thì đi lại được. Cụ đưa cho tôi một tờ giây nhỏ có ghi chữ của cụ và dặn đặt vào chỗ đau của người bệnh, v ề nhà, tôi làm theo đúng như lời cụ dặn. Ngày ấy, lúc mẹ tôi ôm liệt thì bô” tôi vẫn còn khoẻ mạnh, nên khi đi ngủ bô” tôi nằm cạnh ỏ bên ngoài trông nom, đỡ đần cho mẹ tôi lúc đêm hôm, lúc muôn trỏ

276

mình. Được ba hôm, kể từ ngày tôi lên xin cụ, sáng sớm mẹ tôi tự trỏ dậy và đi ra ngoài. Bô” tôi đang ngủ, choàng dậy hỏi: – Bà đi đâu đấy? Mẹ tôi trả lời: – Tôi đi ra ngoài vệ sinh, có làm sao đâu? Thây vậy, bô” tôi mừng quá gọi cả nhà: – Các con ơi, mẹ mày dậy đi được rồi. Thê” là cả nhà, các con các cháu đều choàng dậy, ai cũng lấy làm vui mừng khi thấy mẹ tôi đã được cụ cho khỏi bệnh. Khi lên cụ, tôi thấy rất đông người đến xin chữa bệnh, cụ không phân biệt giàu nghèo hoặc theo đạo Phật hay theo công giáo. Nhưng tôi thấy, có người thì cụ nhận ngay, có người thì cụ hẹn, bảo cứ về đi. Từ sau khi mẹ tôi khỏi bệnh, gia đình tôi có lên tạ ơn cụ, nhưng cụ không nhận thứ gì cả. Tôi về thưa chuyện với bô” mẹ tôi, xin phép cụ lên trên Đại Yên để giúp thêm việc nhà cho cụ, như quyết cái nhà, nấu giúp cho cụ ấm nước để cụ tiếp khách, coi như đó là một việc trậ ơn cụ. ,T

Tôi thây cụ sông rất giản dị, có cái gì cũng nhường lại cho mọi người, trong nhà chỉ thổi một niêu cơm nhỏ, bữa cơm có lúc chỉ có quả cà chan với nước bể. Cụ vẫn thường dạy chúng tôi: Ăn ỗ thật thà, thẳng thắn, làm cậc điều thiện, còn những điều ác tâm, ai có xui mình

277

cũng không làm. Tôi thấy những lời dạy của cụ cũng giông như mười điều răn trong nhà thờ. Trước đây, gia đình tôi có sản xụất dầu bóng để ‘ quang nón. Một hôm do sơ suất, dầu đang nấu thì bùng cháy, bô” tôi vội bê cái nồi dầu ra. Lúc đó dầu đang sôi, trào ra, đổ suốt từ khuỷu tay đến mu bàn tay của bô” tôi. Bô” tôi kêu lên. Các em tôi chạy ra, mọi người thây cả cánh tay của bô” tôi bọc kín một lớp dầu. Tôi vội lấy xe đạp phóng lên trên cụ. May phúc cho nhà tôi, lúc đó cụ lại có nhà, vì thỉnh thoảng cụ đi chơi. Cụ dạy: – Không sao, cứ về đi, tôi cho khỏi. Khi tôi về đến nhà, thì các em tôi nói bô” đang ngủ. Đúng là cụ đã cứu cho, bô” tôi không hề bị đau đớn gì cả, mấy ngày sau còn đi xách được nước, cả cánh tay vẫn bọc một lớp dầu bóng như vậy. Được hơn một tháng thì nó tự bong ra, trông như người ta bó bột. Thế rồi bô” tôi qua khỏi. Tôi thây cụ chữa bệnh thật kỳ diệu, bô” tôi bị bỏng nặng như vậy, mà khỏi một cách dễ dàng. Hàng’ xóm cũng phải ngạc nhiên. Hàng ngày, khi lên nhà cụ, tôi đã chứng kiến biết bao chuyện cảm động về tình thương của cụ với người bệnh và lòng biết ơn vô hạn của họ đối vối cụ, nhất là vào những ngày Tết Nguyên đán, ngày Tết của dân tộc, ỗ đây rất vui. Từ khoảng 25 Tết là người ra, người vào tấp nập, nhà lúc nào cũng có mấy chục người, ai cũng háo hức được lên cụ. Người thì mang cân gạo, người con gà, người mang mớ củi… Việc nâ”u cháo đêm 30 Tết và

278

làm cỗ mấy ngày Tết có tôi, chị Chinh, chị Xuân, bà Khôi, cô Ngọc, cô Bình… Ai lên đây tốì 30 Tết thì cũng được một bát cháo gọi là xin lộc cụ đầu xuân. Sáng mùng một Tết cũng phải có mười mâm cỗ, đến sáng ngày mùng hai là Tết thiếu nhi cũng phải có hơn hai mươi mâm cỗ, các vợ chồng con cái bệnh nhân mang nhau lên đây để xin lộc cụ đầu xuân. Cụ ra đứng ỏ sân, trìu mến nhìn các con các cháu, những người bệnh ngồi quây kín cả trước sân rộng. Tôi nghĩ không ở đâu có được khung cảnh đầm ấm, vui tươi trong những ngày xuân như vậy. Sang đến ngày mùng ba, khi tôi làm cơm trưa, trong trạn nhà cụ chỉ còn lại vài quả cà chua, cụ bảo, thế là tốt rồi, cô đi rang cho thầy bát cơm nguội. Khi cụ mất, chúng tôi rất buồn, cảm tưỏng như mất đi người ông, người cha kính yêu của mình. Ngày đó tôi vẫn lên nhà cụ làm cơm, thắp hương cúng cụ cho đến hết 100 ngày. Đó là phong tục của người Việt Nam mình. Sau khi cụ mất, khung cảnh ỏ đây khác xưa nhiều lắm, tôi thây buồn nhưng nghĩ, sống làm sao cho trọn đạo, lại nhớ lời cụ dạy khi xưa: “Giữ được trước sau như một thì nó bền, con ạ”. Phạm Thị Hồng Hà

279

CON LÀ MỘT BÁC SỸ

Hà Nội, ngày 14 tháng 11 năm 1982 Kính gửi: Cụ Nguyễn Đức cần Thưa cụ. Con tên là Hoàng Thị Phúc, ỏ sô” nhà 25k phố Phan Đình Phùng, Hà Nội. Con công tác từ năm 1945 trong quân đội suốt thời kỳ chiến tranh chông Pháp. Sau con về làm trong cơ quan y tế, là một bác sỹ nội khoa. Con có bệnh tim mạch, năm 1970 con đã có cơn đau tim. Do là bác sỹ nên con biết giữ gìn sức khoẻ, khi có những cơn đau tim, con đều ngậm thuốc thì cơn đau giảm. Năm 1978, con phải nằm điều trị tại bệnh viện E và thường xuyên phải cấp cứu, cơ thể bị suy sụp nhiều nên phải nghỉ hưu cuối năm 1979. Cứ độ ba, bốn hôm con lại bị một cơn đau tim, thắt1 ngực, rất ghê sợ, ngậm thuốc lại bị mệt do thuốc, nên con quá yếu, tưởng là không sao khỏi được. Vào một ngày chủ nhật, được một người bạn trong quân đội giói thiệu lên cụ Nguyễn Đức cần để chữa, lúc đầu con hoàn toàn không tin tưởng, cho là mê tín dị đoan. Sau một đêm suy nghĩ đâu tranh giữa sự sống và cái chết, hôm sau con quyết định lên để nhờ cụ giúp đõ. Lần đầu gặp cụ, cụ dạy, tất cả là do cái đầu, khi cái đầu ổn định, thì mọi việc đều giải quyết được. Cụ còn

280

nói: Tôi chữa bệnh không lấy tiền, nếu bà khỏi thì thôi, nếu chưa khỏi thì một tháng sau lên tôi chữa giúp tiếp. Rồi cụ bảo đi về. Con tưỏng không thể đi được, phải gọi xe chỗ, nhưng không hiểu sao ra khỏi cửa nhà cụ, con cứ thấy khoẻ ra và cứ từ từ đi bộ về nhà. Về nhà rồi, con cứ chờ đợi những cơn đau tim đến như mọi lần. Nhưng sau hai ngày, ba ngày, rồi hàng tuần trôi qua cũng không có cơn đau nào. Con đã làm được một sổ việc nhà. Hết năm 1980 con chỉ bị độ ba, bốn cơn rất nhẹ, đến năm 1981-1982 hầu như không còn cơn đau tim nào. Ngoài bệnh đau tim, con còn có mấy bệnh đã được cụ chữa cho như sau: Con bị bệnh thần kinh tọa, đi lại, đứng ngồi khó khăn. Tháng 6 năm 1981, con đến xin cụ vào buổi sáng thì đến chiều toàn bộ sự đau đốn dồn xuống chân, đến sáng hôm sau thì con đã đi lại được bình thường. Tháng 7 năm 1982, con bị bại một cánh tay phải, không thể giơ lên được. Khi buổi sáng con lên xin cụ thì cụ dạy: Thôi cứ về đi, ông cho khoẻ mà dọn nhà. Con về đến nhà thì ngủ luôn một giấc, đến 2 giờ chiều thì có một cơn mưa lớn, con tỉnh dậy, chẳng còn thấy đau đớn gì cả và còn đi hứng nước mưa vào cọ rửa nhà, Con đã xách hàng mấy chục xô nước, vừa dội vừa cọ rửa nhà một mình, chưa bao giờ con có thể làm được như vậy, kể cả lúc khoẻ nhất thời thanh niên.

281

Ngoài ra con còn có một cháu gái, cách đây hai tháng cháu bị mọc đầy hạch ỏ cổ họng, ăn uống khó khăn, đi khám có ý kiến cho là ung thư vòm họng làm cả nhà SỢ hãi. Sau khi cháu lên xin cụ về, thì đến nay các hạch đó tự nhiên tiêu đi, ăn uống đã trỏ lại bình thường, c ả nhà con đều vui mừng. Từ ngày con lên xin cụ chữa bệnh đến nay đã được ba năm, nhưng chưa bao giờ cụ nhận quà, khi con mang lên biếu, thì cụ đều cho lại mang về. Qua những sự việc cứu giúp tận tình của cụ Nguyễn Đức cần, thật khó diễn đạt được những tình cảm của gia đình chúng con. Con chỉ xin trung thực ghi lại đây đôi dòng với sự biết ơn cụ mãi mãi. Kính thư

Con Hoàng Thị Phúc

CỤ LÀ VỊ CỨU TINH Kính gử i: Cụ Nguyễn Đức cần Cháu là Nguyễn Thị Chung, hiện nay ỗ sô” nhà 34 ngõ Hòa Bình, phô” Khâm Thiên, Hà Nội. Cháu viết thư này lên trình cụ, xin được nói lên tấm

282

lòng thành của gia đình cháu nhớ tới công ơn trời bể của cụ Cụ đã chữa cho gia đình cháu khỏi những bệnh hiểm nghèo. .Vào năm 1977, cháu bị mắc bệnh thần kinh, được điều trị ỏ bệnh viện Bạch Mai, nhưng bệnh tình không thuyên giảm, mà ngày càng tăng thêm. Gia đình cháu vô cùng lo sỢ. May sao, gia đình cháu ở hiền gặp lành, được bà con cùng phô” dẫn đến gặp cụ để xin cụ cứu chữa. Được cụ nhận lòi, cháu và chồng cháu vô cùng mừng rỡ. Từ khi gặp cụ, bệnh tình của cháu đỡ dần mà không phải tiêm hoặc uốhg thuốc gì cả. Cháu khỏi bệnh rất nhanh, chỉ sau khoảng một tháng là hết bệnh. Cũng trong thời gian đó, cháu lại đang mang thai, các bác sỹ tại bệnh viện liên tục vận động cháu nạo thai, họ bảo nếu để đẻ thì sẽ bị quái thai. Nhưng cháu lên xin cụ, được cụ căn dặn, cháu không nạo thai. Nhò cụ chăm nom và cứu chữa, cháu khỏi bệnh thần kinh, đứa con của chầu ra đời nguyên vẹn, khỏe mạnh. Thế là một lúc cụ đã cứu hai mạng người. Gia đình cháu mang ơn cụ suốt đời. Cụ thật là một vị cứu tinh, đã sinh ra cháu lần thứ hai. Kính thưa cụ. Lúc chắt của cụ được hơn một năm tuổi, mà vẫn chưa biết đi. Cháu mang con lên trình cụ. Cụ dạy, về nhà là đi được. Khi về đến nhà, tự nhiên chắt của cụ chỉ tay xuống đất và đòi đi. Từ đấy, con của cháu biết đi rất nhanh. Thật là như một phép tiên.

283

Chồng của cháu bị mắc bệnh nấm ngoài da, nấm mọc trắng đầy người và rất ngứa, đã chữa gần mười năm ỏ nhiều bệnh viện mà không khỏi. Chúng cháu lên xin cụ, cụ cho một miếng giấy có chữ ký của cụ, rồi về nhà hóa trên chậu nước, sau đó lấy nước đó lau ngưòi, thế là bệnh khỏi hết. Ngoài ra, cụ còn chữa bệnh cho cả gia súc. Mẹ cháu có nuôi một con lợn khoảng năm mươi cân, tự nhiên nó bỏ ăn và sút cân nhanh, cháu lên xin cụ, cụ cho một tờ giây về hóa ỏ cửa chuồng, thế là nó lại ăn khỏe và lổn nhanh. Rồi đến con bò của anh cháu, cũng tự nhiên bỏ ăn đến gần một tuần lễ, mà con bò đó, nó kéo xe, giúp gia đình anh cháu kiếm sông hàng ngày. Gia đình cháu đến xin cụ, nhờ cụ cứu chữa, con bò khỏi ốm và lại khỏe mạnh hơn cả lúc trước. Được gặp cụ, cháu học được ỏ cụ đức tính cao cả, lòng thương ngưòi. Cụ luôn căn dặn mọi người ăn ỏ đạo đức, hiền lành. Cụ là hiện thân của lòng nhân đạo. Trong trang giấy này, cháu không biết viết gì hơn, trước lòng thương mênh mang và công ơn trời biển của.’ cụ. Chúng cháu xin cô” gắng tu dưỡng đạo đức để đền đáp lại công ơn của cụ. Chúng cháu mong sao, cụ sồng mãi trên cõi đời này để mang lại cuộc sông ấm no và hạnh phúc cho mọi người. Vợ chồng cháu xin được lạy cụ ngàn cái lạy. Hà Nội, ngày 12 tháng 9 năm. 1980 C háu củ a cụ Nguyễn Thị Chung

284

XIN NGUYỆN CÙNG NGƯỜI Bài phát biểu của đại diện những người chịu ơn, trong lễ tang cụ Nguyễn Đức Cần, ngày 16 tháng 7 năm 1983. •if!

Kính thưa hương hồn cụ Nguyễn Đức cầ n ;;! Thưa các bạn Giờ phút này, chúng ta tề tựu tại đây, kính cẩn nghiêng mình trước thi hài của một người mà tất cả chúng ta đều tôn kính – cụ Nguyễn Đức cần , người thầy chữa bệnh của chúng ta và gia đình ta. Người đã vĩnh viễn từ biệt chúng ta để đi vào cõi trường sinh kể từ 19 giờ 4 phút ngày 13 tháng 7 năm 1983, tức ngày mồng 4 tháng 6 năm Quý Hợi, hưỏng thọ 75 tuổi. Người mất đi, để lại trong lòng chúng ta một khoảng trống lớn lao, sự tiếc thương vô hạn, một nỗi đau tê tái, một mất mát không thể gì bù đắp được. Sinh trưởng trong một gia đình có truyền thông yêu nước, ông nội của Người, cụ cô’ Nguyễn Đức Toàn là mưu sỹ sô’ hai của cụ Đề Thám, đã hy sinh ở Yên Thế. /1

Ông thân sinh ra Người, cụ Nguyễn Đức Nhuận tham gia phong trào Đông kinh nghĩa thục cũng hy sinh trong vụ Hàng Bún ngày 17 tháng 12 năm 1946, mỏ đầu cho cuộc toàn quốc kháng chiến. Bản thân cụ cũng tham

285

gia cách mạng, là Đại đội trưởng đại đội Lam Sơn, đóng tại thôn Đại Yên này, đại đội đã tham gia cưốp Bắc Bộ phủ trong ngày 19 tháng 8 năm 1945. Thầy ta, ân nhân của chúng ta, tuy sinh ra trong một gia đình khá giả, nhưng đã sốm thoát ly để chung sông với nhân dân lao động. Người đã từng trải qua những tháng năm lao động cực nhọc, cuốc đất, đôn cây, gồng gánh trong nắng lửa mưa rầu của vùng mỏ, vùng biển và nhiều nhất là các miền rẻo cao Việt Bắc. Người đã được đồng bào các dân tộc ít người thương yêu, quý trọng… Chính vì vậy, Người đã thông cảm sâu sắc với những nỗi đau khổ của quần chúng lao động nghèo khổ, thiếu cơm ăn, áo mặc, ốin đau không thuốc thang. Ngưòi đã khổ luyện để có một năng lực đặc biệt: Chữa bệnh không dùng thuốc. Người thường nói: “Chỉ có phương pháp này mới cứu bệnh được cho nhiều người”. Năng lực của Người về phương pháp trị bệnh này thật là siêu phàm, xuất chúng. Tất cả chúng ta ở đây đều thừa nhận, và chúng ta vô cùng biết ơn Người. Vì Người đã cứu chúng ta, người thân chúng ta thoát khỏi những căn bệnh hiểm nghèo. Trong hàng vạn lá thư của người bệnh, có hàng nghìn lá thư có dán ảnh đề rõ họ tên, chức vụ. Chúng ta đã đọc được những dòng địa chỉ của các phô” phưòng Hà Nội, của các tỉnh, huyện trên miền Bắc, miền Trung, miền Nam, thậm chí của cả những người từ Liên Xô, Tiệp Khắc,

286

Ba Lan, Cộng hoà dân chủ Đức, Pháp, Anh, Thụy Sỹ, Hồng Kông,… Có biết bao nhiêu lời hay ý đẹp, trong nhiều bài thơ chữ Nôm, chữ Hán, câu đối ngợi ca cách trị bệnh thần diệu của Người, trong nhiều tình huống khác nhau… chỉ xin trích hai câu đốỉ trong lời chúc Người, của một bệnh nhân, viết năm năm về trước, vì nó mang tính khái quát: – Bệnh hiểm mấy củng trừ xong. Xuân •tới nắng hồng tràn lối ngõ. Một Hoa Đà, một Biển Thước, một Hải Thượng Lẫn Ồng, kính cẩn đứng khoanh tay, hầu trước cửa. – Tài cao đâu nhường tạo hóa, đức nhân nhuần, thấm khắp muôn trùng. Hỏi Lão Tử, hỏi Giê-su, hỏi Thích Ca Mầu Ni, diệu pháp thiêng giáng hạ cứu hao người. Nhiều người khâm phục trước năng lực kỳ diệu của Người, đã suy tôn Người lên ngôi thần thánh. Nhưng Người nói: “Tôi chỉ là người, cũng ăn uống sống chết như mọi người khác”. Người khôi hài: “Tôi sợ đinh câu rút lắm”. Người giễu cợt mọi trò mê tín dị đoan, chính tay Người đã hạ không biết bao nhiêu bát hương, mà một sô’ đang nằm la liệt dưối chân các bạn. Ngưòi giải thích: Người Việt Nam chỉ có một Đạo, là Tổ quốc Việt Nam. «• Người ra tay chữa bệnh đã gần năm chục năm, bệnh

287

nhân đến cửa Ngưòi có hàng vạn người, gồm đủ các tầng lớp, đa sô” là những nông dân, công nhân, dân nghèọ thành phô”, những cán bộ các cấp, các ngành trong bộ máy Nhà nưốc ta, có cả những cán bộ lão thành thuộc thê” hệ đảng viên đầu tiên như cụ Trần Phượng (em ruột đồng chí Trần Phú, Tổng bí thư đầu tiên của Đảng) là một trong Xứ uỷ đầu tiên của xứ Trung Kỳ, nhớ ơn Người, mang vòng hoa đến viếng hôm nay. Người đặc biệt chú ý đến ngành y, nhiều bác sỹ, y sỹ, dược sỹ, y tá, hộ lý dân y và quân đội đã được Người cứu chữa những căn bệnh nan giải như: ung thư máu, hen, tâm thần, rốỉ loạn nhịp tim, liệt, méo mồm, tắc ruột… Người thường nói: Chữa bệnh cho các cô chú, để các cô chú có sức khoẻ chữa bệnh cho dân, nhưng phải nhố là “Lương y như từ mẫu”. Rất nhiều nhạc sỹ, nhạc công hay ca sỹ cũng được Người yêu mến. Người thường nói: “Chữa bệnh cho các cô chú, để các cô chú đem câu hát tiếng đàn làm đẹp cho đời”. Rung cảm trước tài năng và đức độ của Người, có nhạc sỹ đã sáng tác tối 16 bài ca, ca ngợi công ơn trời bể của Người. Nhưng phải nói, được Người thương nhất là các anh bộ đội, những người có công hiến nhiều cho dân, cho nước. Ngưòi nói: Bộ đội vì nước, vì dân đã phải chịu nhiều gian khổ, hy sinh, cần cứu cho ngưòi ta mau lành bệnh. Đã chữa bệnh cho một người, Người thường chữa bệnh cho cả nhà, rất nhiều gia đình chúng ta ở đây được Người

288

chữa bệnh cho ba, bôn thế hệ. Có nhiều cháu bị câm từ lúc mới lọt lòng, Người đã điều khiển cho nói được. Người đã đem lại ánh sáng cho nhiều đôi mắt bị mù, đã cứu sổng hàng trăm người tiếp cận với cái chết vì những chứng ung thư, sơ gan cổ trướng, thận nhiễm mỡ, hỏ van tim… mà bệnh viện đã trả về. !!’ Phải nhận thấy rằng, trong lịch sử của dân tộc ta cũng như của nhiều dân tộc trên thế giói ít có một nhà chữa bệnh nào có tầm cố như vậy. Cho nên được đến cửa Người, được Người chữa bệnh cho, là một vinh dự lốn. Nhưng cái mà Người cảm hoá đến ruột gan tim óc chúng ta là đức độ của Người. Người sông theo một nguyên tắc đạo lý rất rạch ròi và nghiêm khắc. Kết hợp vối quá trình trị bệnh là quá trình Người yêu cầu bệnh nhân sửa chữa những thiếu sót của bản thân trong quan hệ với gia đình, bạn bè, thôn xóm, xã hội nói chung. Trước mắt Người mọi bệnh nhân đều bình đẳng. Người rất thương những người lao động nghèo khổ. Người muôn ai cũng được chia phần hạnh phúc trong cuộc sông. Những kẻ giàu có ích kỷ, những kẻ bạc ác bất lương dù có đi mòn gót cũng không bao giò được Người cứu chữa. Người nói: Chữa bệnh cho họ để họ có thêm sức khoẻ làm điều ác, cứu làm chi! Bữa ăn thường ngày của Người không có gì cao sang,

289

vẻn vẹn một lưng cơm, vài sợi rau, mấy quả cà, hoạ hoằn đôi ba miếng thịt, chén rượu. Người bảo: Thế là đủ quá rồi. Dân còn khổ, mình sông sung sướng sao đang. Chúng ta đều biết có nhiều người với lòng biết ơn chân thành đã mang tiền hoặc nhiều đồ quý giá đến biếu Người. Nhưng Người đều từ chối và kiên quyết trả lại. Nhiều người trong chúng ta đã phải vâng lệnh Người, mang trả lại tận nhà những người cô” tình bỏ lại gói tiền hoặc những quà biếu có giá trị mà Người khưốc từ. Chúng ta cũng đã từng chứng kiến bao người phải khóc vì cảm động trước tấm lòng thương người mênh mang đó. Ngưòi nói: Người ta đau khổ vì bệnh tật lâu rồi, nay được cứu giải thì ân sâu nghĩa nặng, muốn mong được đền ơn trả nghĩa. Nhưng ta quyết không tham. Người đã thực hiện triệt để nguyên tắc sông cao đẹp: cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Người là tấm gương chói lọi ngay giữa cuộc đòi. Người thường dạy chúng ta: Trọng nhân nghĩa, sống nhân nghĩa và làm điều nhân nghĩa. Người nói: “Nghĩ đẹp, làm đẹp, cuộc sông sẽ đẹp”. Lời dạy của Người không còn là những khuôn sáo mòn vẹt của đạo lý sách vở mà thực sự đã trỏ thành những nguyên tắc sống động trong tâm hồn tình cảm chúng ta, nó bắt nguồn cho những hành động đẹp đẽ, cao cả mà mỗi chúng ta có được trong cuộc sông hàng ngày.

290

Do đó mỗi khi được tiếp xúc với Người, ta thường có cảm xúc khoan khoái, nhẹ nhàng như được cởi mở khỏi những mắc mứu. Lòng ta hướng về cái thiện Than ôi! Còn có bao giờ chúng ta được diễm phúc ngồi quanh Người, mắt hưóng về Người và ánh sáng kỳ diệu, lấp lánh, tươi vui của đôi mắt Người dọi đến làm rạng rỡ tâm hồn của mỗi một chúng ta. Cũng hết rồi những đêm giao thừa trang trọng, thiêng liêng và ấm áp tình người. Chúng ta, những bệnh nhân, người của bổh phương nhưng yêu thương nhau như con cùng một mẹ, tụ tập ở nơi đây chúc tụng Người và nghe Người chúc Tết nhân dịp xuân sang. Và chắc rằng cũng không bao giờ còn nữa, những buổi du xuân tươi vui trên Ba Đai. Thầy đi trước, trò đoàn đoàn, lũ lũ theo sau, lòng vui như mổ hội đón chờ một năm mối tốt lành. Càng nghĩ về Người, mỗi chúng ta càng thây cái mất mát hôm nay của mỗi ngưòi chúng ta thật lớn lao, đau thương chúng ta đang chịu thật là vô hạn. Nhưng chúng ta cũng tự hào về cuộc sổng của Thầy ta:

1

.

Sống chữa bệnh cứu đời, vì nước vì dân phục vụ Chết nêu gương trong sáng, vinh hoa phú quý không màng

Và chúng ta, những bệnh nhân được Người cứu chữa, qua cơn bệnh hoạn, kẻ tật nguyền, người mất trí, cổ, lại, phong lao, ôm đau sa sẩy, từ bóng tôi âm u, được Người trả về với cuộc sổng lao động tươi vui.

291

Xin ghi xương, khắc cốt công ơn trời bể của Người. Xin nguyện cùng Người sống nhân nghĩa, thỉiỷ chung, làm việc hết mình vì xã lĩộỉ. Chê? quang minh chính đại, cố bao nhiêu dâng cả cho đòi,

Một tấm lòng thành Đôi lời mộc mạc Xin Người chứng giám. Hà Nội, ngày 16 tháng 7 năm 1983 VŨ VĂN N G Ọ C

CỤ CHỈ LÀM PHÚC CÚXJ d â n Sơn Tây, ngày 15 tháng 7 năm 2010

Tôi là Nguyễn Văn Dự, 77 tuổi, trước đây công tác tại Úy ban nhân dân Thị xã Sơn Tây, quê quán thôn Tiền Huân, phường Viên Sơn, thị xã Sơn Tây, xin kể lại việc cụ Nguyễn Đức Cần ở sô” nhà 86 làng Đại Yên, Hà Nội đã chữa khỏi bệnh cho con gái tôi là Nguyễn Thị Kim Tuyến. Cháu Tuyến, con gái tôi sinh năm 1969, đến cuốỉ năm 1971, khi cháu gần 3 tuổi đang ăn chơi đi lại bình thường như bao đứa trẻ khác, thì không may cháu bị một cơn sốt cao, co giật, sau đó bị liệt cả hai chân không đi lại được, cứ phải chông hai tay để lê đi trông thật thương cảm. Gia đình chúng tôi đưa cháu đi chữa ỏ bệnh viện đa

292

khoa Sơn Tây, bệnh viện đông y Sơn Tây, bệnh viện tỉnh Hà Tây (tại Hà Đông) nhưng cháu vẫn không khỏi bệnh. Sau đó ở bệnh viện Bạch Mai, cháu điều trị 5 tháng, rồi lại sang bệnh viện Việt Đức chữa cũng không khỏi. Các bác sỹ ở bệnh viện Việt Đức giới thiệu sang Bắc Ninh để làrn nẹp chỉnh hình,, nhưng do điều kiện khó khăn nên gia đình chúng tôi đã xin cho cháu ra viện, về chữa thuốc nam. Chúng tôi nghe ai mách ông lang nào hay thì lại đưa cháu đi, hoặc đón thày về chữa, nhưng cũng không khỏi. Thật rấ t may và phúc đức cho gia đình chúng tôi, nghe tin ỏ Đại Yên, Hà Nội có cụ Nguyễn Đức cần chữa bệnh cho nhân dân làm phúc không lấy tiền mà nhiều người đã khỏi bệnh. Tôi liền đưa cháu đến gặp cụ, trình bày vối cụ về bệnh tình của cháu và xin cụ làm phúc cứu cháu. Cụ nhận lời ngay và nói với cháu: Ong chữa cho cháu chỉ trong ba tuần là cháu đi lại bình thường được. Cụ cho tôi một mảnh giấy có chữ ký của cụ mang về và dặn tốì để lên đầu cháu khi đi ngủ. Tôi đưa cháu về và làm theo lời cụ dặn. Độ hai tuần thì một hôm cháu thoắt đứng lên tênh tênh, sau rồi cháu bước đi được như bình thường. Thế là: chưa đầy ba tuần cháu đã khỏi hẳn bệnh, đi lại bình thường như mọi đứa trẻ khỏe mạnh khác. Gia đình chúng tôi vô cùng vui mừng và ngay đầu tuần thứ ba, tôi đưa cháu về thăm cụ và báo cáo là cụ cứu cháu Tuyến đã khỏi bệnh. Chúng tôi là bô” mẹ cháu xin cảm ơn cụ, nhưng cụ

293

không nhận một đồng tiền nào. Cụ bảo, cụ chỉ làm phúc các bệnh nhân khỏi bệnh là cụ mừng. Vào khoảng năm 1974, sở Y tế Hà Nội cử hai cán bộ lên gặp chúng tôi để điều tra, rồi ra bệnh viện Sơn Tây xem bệnh án của cháu Tuyến. Gia đình chúng tôi đã trình bày cụ thể, từ lúc cháu bị bệnh rồi đưa cháu đi điều trị ỏ nhiều bệnh viện mà cháu không khỏi bệnh, và cuối cùng cụ đã chữa khỏi bệnh cho cháu. Tôi là một đảng viên, một cán bộ của Nhà nước, tôi không mê tín, nhưng tôi thấy cách cụ chữa bệnh không dùng thuốc, không cúng vái chiêng trống vàng mã, không lấy tiền của nhân dân mà nhiều bệnh khỏi. Thật là một trường hợp đặc biệt, một biệt tài có một không hai ỏ đất nước ta, tôi đề nghị với Nhà nước nên để cụ chữa bệnh cho nhân dân, đó là điều có lợi cho nước cho dân. Năm 1983 cụ Nguyễn Đức cần đã qua đời. 27 năm trôi qua, nhưng đối với gia đình chúng tôi, cụ vẫn mãi mãi là vị ân nhân. Hiện nay, con gái chúng tôi đã lập gia đình riêng ỏ tại phô” Bạch Đằng, Hà Nội. Cháu ngoại của tôi đã là một chàng thanh niên tuổi hai mươi đang học trong ngành công an. Có được ngày hôm nay, chúng tôi luôn ghi nhớ và dâng lên cụ những nén hương thơm ngát để tưỏng nhớ đến công lao và đức độ của cụ – một người Thầy làm phúc chữa bệnh giúp dân. Nguyễn Văn Dự

294

NGƯỜI THẦY ĐỨC RỘNG TÀI CAO

Kính thưa thầy, Con là Chu Thị Bài, trước đây làm việc tại trường Đại học Nông nghiệp I, nay con đã nghỉ hưu, ỏ tại tổ 8 phường Thạch Bàn, quận Long Biên, Hà N ộ i. Năm 1971 con bị thấp khớp rất nặng, cơ quan cho đi chữa ỏ bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Việt Trung, rồi bệnh viện Xanh Pôn nhưng vẫn không khỏi. Hoàn cảnh gia đình con lúc đó có nhiều khó khăn, lại còn đông con, nếu cứ ốm đau bệnh tật như thế thì rồi không biết sẽ còn cơ cực đến thế nào. May sao có anh Nguyễn Văn Tuấn lúc đó là Quản đốc, kiêm bí thư của ngành chăn nuôi trong trường Đại học Nông nghiệp I, mách con sang gặp cụ Nguyễn Đức cần, may ra thì khỏi. Thế là con vội sang ngay nhà để mong gặp cụ. Con còn nhố rõ, khi lần đầu tiên con đến nhà cụ ỏ 86 làng Đại Yên, Hà Nội, cụ hỏi con: – Cô đến có việc gì? Con nói: – Thưa cụ, con mắc bệnh thấp khớp đã lâu, đi các bệnh viện không chữa được, cơ quan con định cho về mất sức, nhưng con không thể về được (vì nhà đông các cháu). Xin cụ cứu con. Cụ hỏi, nguyện vọng cô thế nào? Con nói: Xin cụ cứu giúp con khỏi bệnh, để con còn đi làm tiếp, lấy tiền nuôi các cháu, khi nào đủ 25 năm thì con mới xin về.

295

Cụ nói: Thôi được, tôi sẽ trông nom cho cô, rồi cô sẽ đẹp. Thế rồi cụ cho con một mảnh giấy bằng bàn tay có nhiều chữ ký của cụ. Cụ dặn mỗi ngày uống một chữ thôi. Con thật mừng rỡ khi được cụ nhận lòi chữa, v ề nhà con vừa uống chữ của cụ vừa đi làm tiếp, cứ thế là khỏe dần lên và bệnh khỏi lúc nào cũng không biết nữa. Sau đó con thường xuyên sang nhà thăm cụ để được nghe cụ dạy bảo những điều đạo đức, tốt đẹp. Năm 1981, sau khi mẹ con mất, con xin nghỉ không ăn lương, nhưng cơ quan xét thấy con có nhiều cô” gắng, đóng góp, nên đã thu xếp cho con được nghỉ theo chế độ hưu trí. Mùa hè năm 1983, Thầy qua đời. Chúng con thấy hụt hẫng như đứa trẻ bơ vơ mất mẹ mất cha, không còn biết bấu víu vào đâu, chỉ còn biết vào trong mộ Thầy để tìm sự chở che, an ‘ủi. Con thấy mình phải làm một việc gì đó để đền ơn công đức của Thầy. Thế là con đi tìm gặp những đồng chí lãnh đạo và bà con xã viên của thôn My Hạ để xin đất, mỏ rộng thêm chỗ Thầy an nghỉ, và làm con đường từ ngoài đi vào. Ý nguyện của con đã được nhiều người đồng tâm giúp đõ, đóng góp sức người sức của. Ngày 23 tháng 11 năm 1993 (tức ngày 10 tháng 10 năm Quý Dậu) lần đầu tiên lát gạch chung quanh khu mộ của Thầy, mỗi chiều đo được là 7m.

296

Ngày 21 tháng 6 năm 1994 (tức ngày 13 tháng 5 năm Giáp Tuất) bắt đầu làm con đường lát gạch từ khu mộ Thầy đi ra. Thưa thầy! Cuộc đời con đă có Thầy chăm lo che chỏ. Bây giò chúng con không còn khổ nữa, các cháu đã lốn khôn trưỏng thành, gia đình no ấm, khang trang. On này, chúng con xin mãi nhổ ghi trong lòng. Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Thầy, con xin chí thành, chí kính, ân sâu nghĩa nặng, viết lên vài dòng, kính xin Thầy chứng giám. Thạch Bàn, ngày 25 tháng 7 năm 2009 Con kính tạ Thầy CHƯ THỊ BÀI

NGƯỜI THẦY CỦA CHÚNG TA Hôm ìiay, nhân ngày nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1996, chúng tôi tới thăm ông Vũ Văn Ngọc. Ông Ngọc nguyên là một thầy giáo dạy văn tại trường cấp III Chu Văn An, Hà Nội, nay đã về nghỉ hưu, ở tại phố Thụy Khuê, Hà Nội.

– Thưa ông, được biết vào năm 1983, ông đã viết và thay mặt cho những người chịu ơn đọc bài phát biểu

297

trong buổi tang lễ cụ Nguyễn Đức cầ n ngày 16 tháng 7 năm 1983. Xỉn ông cho biết cảm xúc và bối cảnh lúc đó? – Cụ mất rất đột ngột, khi cụ mất đi, tôi cũng như tất cả anh chị em bệnh nhân đã được đến cửa cụ đều sững sờ trưóc cái tang đột ngột ấy. Chúng tôi nghĩ rằng đây là một tổn thất, một mất mát rất lốn đối vối nhân dân ta, đốỉ vối những bệnh nhân đã từng được đên cửa cụ. – Thưa ông, trong buổi sáng hôm lễ tang đố, hàng nghìn người chịu ơn đã đứng kín trong nhà, ngoài sân lắng nghe băi điếu văn đầy xúc động. Xin ông cho biết tâm trạng và tình cảm của ông lúc đó. – Thực ra, suốt mấy ngày trước đó, từ khi được tin cụ lâm bệnh nặng, chúng tôi đã có mặt. Rồi khi cụ đột ngột mất đi, ai nấy đều xót thương, nuôi tiếc một con người cao quý có nhiều năng lực như thế, mà ra đi sớm quá. Khi đọc, tôi đã thể hiện được phần nào nỗi niềm của mình. Hôm đó tất cả bệnh nhân không ai khóc to cả, nhưng mọi người đều giàn giụa nước mắt. – Thưa ông, xin ông cho biết, nhân duyên nào mà ông được biết đến cụ? – Chúng tôi được biết đến cụ là bỗi gia đình tôi có một người con trai bị bệnh gọi là thần kinh phân liệt. Lúc đó cháu đang học cấp I trường Thụy Khuê, Hà Nội. Khi bị bệnh, cháu thường cho rằng thức ăn bị nhiễm vi trùng, ví dụ như khi mẹ cháu nấu canh, sắp sửa được ăn thì cháu bảo là canh nhiều vi trùng quá, bắt đổ hết đi. Chúng tôi đã đưa cháu đi chữa ỏ bệnh viện Bạch Mai,

298

rồi vào bệnh viện tâm thần Hà Đông và đi chữa ở nhiều nơi, người ta cho cháu uống rất nhiều thuốc, nhưng không có hiệu quả gì cả. Qua một người quen ở bên làng Ngọc Hà giới thiệu, bà vợtôi lần đầu tiên lên cụ, được cụ nhận lời ngay. 1 Sau đó vợ chồng chúng tôi mang cháu sang gặp cụ. Cụ dạy: Cứ yên tâm, cô chú sống rất hạnh phúc. Tôi sẽ giúp cô chú trị bệnh cho cháu, mà dứt khoát là cháu sỗ khỏi. Cụ cho một tờ đạo, đó là một tờ giấy trắng nhỏ bằng cái nhãn vỏ học sinh, cụ ghi ký hiệu vào đấy, và dặn, tối, mỗi khi cháu ngủ thì đặt tờ giấy đó lên trán cháu độ một phút, sau đó thì bỏ xuống. Chúng tôi về làm đúng theo lời cụ dạy, chỉ ba ngày sau thì cháu hết bệnh. Nhưng vẫn có một hiện tượng hơi kỳ lạ, là cháu trông thấy hình những đứa trẻ kỳ hình dị tướng. Cháu rất sợ, cứ run lên, nép vào chúng tôi. Chúng tôi lại sang thưa với cụ. Cụ cho tiếp một tò đạo nữa. Cụ dạy: Không lo gì cả, cháu dứt khoát sẽ khỏi bệnh, cô chú cứ yên tâm. Sau một tuần thì cháu hết bệnh và trở lại bình thường. Tôi sang báo cáo với cụ và xin phép cụ cho cháu được đi học. Chúng tôi có suy nghĩ về việc làm của cụ, và cho rằng cụ đã điều khiển một lực lượng siêu nhiên nào đó để trị bệnh cho cháu, bởi vì cháu đã đi nhiều bệnh viện, uôhg nhiều loại thuốc, nhưng không ăn thua gì. Chỉ đến khi gặp

299

được cụ, cụ chữa trong khoảng thời gian hơn một tuần thì cháu hết bệnh. Tôi rất cảm động trước năng lực thần diệu của cụ. Tôi cũng là người ham đọc sách, nên cũng biết nhiều chuyện về tôn giáo, về các vĩ nhân đã làm việc chữa bệnh. Tôi thấy cụ là một hiện tượng rất đặc biệt. Bỏi vì những người như Đức chúa Giêsu, như là Đức Thích Ca Mầu Ni, thì lúc bắt đẩu đi vào truyền bá Đạo của mình, cũng mỏ đầu bằng chữa bệnh, song sô” lượng không có nhiều. Nhưng khi được biết đến cụ, thấy cụ đã cứu cho hàng ngàn, hàng vạn ngưòi, mà có những người ỏ rất xa đều khỏi bệnh và họ có thư cảm ơn cụ. Tôi cũng may mắn được cụ cho xem một chồng thư, trong đó tất cả đều nói lên lòng biết ơn và khâm phục năng lực kỳ diệu của cụ trong việc chữa bệnh. Chúng tôi liên hệ đến trường hợp của con tôi, thấy việc làm của cụ quả là diệu pháp thật. Năm đó, vào tháng chạp, sắp sửa đón xuân, nghĩ đến công ơn của cụ, tôi thấy, với cụ thì không có thể dùng lễ vật hoặc tiền bạc để tạ ơn cụ được. Bởi cụ hành đạo không phải vì lợi ích vật chất. Nên tôi đã nghĩ, viết một đôi câu đối dâng lên cụ. Tôi nghĩ thế nào thì viết nên thế. Tôi viết như thế này: Bệnh hiểm mấy củng trừ xong, Xuân tă nắng hồng tràn lối ngõ. Một Hoa Đà, một Biển Thước, một Hải Thượng Lãn Ông, kính cẩn đứng khoanh tay hầu trước cửa. Tài cao đâu nhường tạo hóa, đức nhân nhuần thấm

300

khắp muôn trùng. Hỏi Lão Tử, hỏi Giêsu, hỏi Thích Ca Mầu Nỉ, diệu pháp thiêng giáng hạ cứu hao người. Tôi có làm sự so sánh, bản thân mình cũng thấy bạo dạn, nhưng nói đúng sự thật về cụ. Tôi thấy tài năng của cụ đặc biệt là siêu phàm xuất chúng. Tôi mang sang đọc cho cụ nghe, để xin ý kiến cụ, xem có cần phải sửa gì thì tôi tiếp tục sửa. Tôi sợ rằng, đôi câu đốĩ của tôi đụng chạm đến các vị thần thánh. Nhưng cụ bảo, chú nghĩ thế nào thì cứ viết .thế, không cần phải băn khoăn. Và khi tôi dâng lên cụ đôi câu đôi đó, cụ rấ t là hoan hỷ. Cụ cho tôi xem tiếp một sô” thơ, trong đó có một bài thơ viết bằng chữ Hán, nội dung của nó là sự giao lưu giữa các bậc vĩ nhân, bài thơ đó khẩu khí rất lạ, nhưng nó thể hiện lòng kính trọng cụ. Rất tiếc là tôi không chép được bài thơ đó. – Đó là hài thơ Bái tặng Nguyễn chân nhân do một người lấy danh hiệu là Long Thành Hoài Quang cư sỹ viết tặng cụ. Thưa ông, khi cháu nhà ông khỏi bệnh thỉ gia đình có đến cảm tạ cụ không? – Chúng tôi biết rằng, theo lệ của dân ta, vói trường hợp như của gia đình tôi, thì đây là một dịp tạ ơn, cần phải có một cái lễ thật long trọng. Tôi có hỏi ý kiến ông cụ giối thiệu chúng tôi vào gặp cụ, thì ông cụ này nói: Chú đừng bày vẽ gì cả, cụ không muốn nhận một thứ gì đâu, nếu mà cô chú có lòng thành, thì kiếm một chai rượu ngon và độ nửa cân lạc rang, chưa chắc ông cụ đã lấy đâu.

301

Khi chúng tôi mang sang nhà, cụ bảo: Thôi bên này tôi không thiếu gì rượu, chú mang về mà uống. Thế còn lạc đây, tôi xin một nắm gọi là có, còn chỗ này chú mang về, chia cho các cháu ỏ nhà, chú nói với các cháu đây là của ông cho. Tôi biết chú hoàn cảnh rất khó khăn, đông con. Từ nay tôi sẽ đảm nhận chữa bệnh cho cả nhà. Tôi lên cụ, lúc đầu chủ yếu là xin cho cháu trai, cũng vì duyên may mà được gặp cụ. Nhà tôỉ đông con, có khi gặp những căn bệnh bất thường. Ví như cháu gái thứ hai của tôi, một hôm đang đêm thì cháu bị đau bụng quằn quại, tôi có gọi mấy cô y tá ỏ trong xóm đến, thì họ chẩn đoán là bị đau ruột thừa, và giục tôi đưa cháu đi bệnh viện để mổ. Lúc đó tôi có cho một cháu chạy sang thưa với cụ về tình hình bệnh tật như thế. Cụ có cho một tờ đạo, cụ dạy: Cứ cầm tờ giấy này về, vể đến nhà là nó khỏi. Thế là cháu cầm về. Quả nhiên khi về đến nhà thì chị cháu đã khỏi bệnh, không còn đau bụng nữa. Gia đình tôi đông con, hai vợ chồng đều là cán bộ nhà nước, nên cuộc sông lúc đó rất khó khăn, phải lao động thêm để cải thiện đời sông. Gia đình tôi nuôi một con lợn lai khoảng trên một tạ, đến kỳ nó mang thai được khoảng hai tháng thì tự nhiên bỏ ần. Tôi có sang thưa với cụ, cụ cười bảo: Chữa cho người, chữa cả cho lợn. Rồi cụ cho một tờ đạo, dặn về đốt trước cửa chuồng nó, rồi đổ cháo cho nó ăn. Tôi về làm theo lòi cụ dạy, thế rồi con lợn khỏi Ốm, về sau nó đẻ được 11 con. – Thưa ông, có người giải thích rằng, phương pháp chữa bệnh của cụ là do người bệnh có niềm tin, nên khi

302

họ được đánh thức tinh thần thì khả năng tự điều chỉnh được phát huy và khỏi bệnh. Cụ cười và hỏi lại rằng: Thế con lợn, con bò, nó có biết tôi là ai mà nó lại khỏi bệnh, thì chưa ai tim được câu trả lời. – Đúng, các nhà khoa học chỉ thường lấy thực nghiệm để xác minh. Phương pháp chữa bệnh của cụ, khoa học hiện nay chưa thể giải thích được. Theo tôi, thì cụ đã dùng một thế lực siêu tự nhiên để mà trị bệnh. Cho nên tôi thấy ồ đây có vấn đề tâm linh, vấn đề thần bí. Tôi nghĩ rằng cụ là một người, có lẽ trời trao cho cụ cái sứ mạng, cái chức năng xuống để cứu đời. Tôi trước đây có được học về chủ nghĩa Mác, học về duy vật biện chứng và cũng suy nghĩ như những điều chúng tôi được học. Nhưng khi được đến gặp cụ thì tôi nghĩ rằng, trong cuộc sống thực tại của chúng ta vẫn có một thế lực siêu nhiên nào đó chi phốỉ và điều khiển. Tạo hoá đã có một sự an bài nào đó đối với cuộc sống của chúng ta. – Vâng, trong vấn đ ề này, chúng ta chỉ như mới bước vào ngưỡng cửa của một th ế giới rộng mở, bao la. Còn về việc trị bệnh của cụ thì thần diệu là thế, nhưng trông cụ ỉại giản dị nh ư một lão nông chi điền? – Hoàn toàn đúng như vậy, cụ vôn là một người lao động, cụ rất quý những người lao động. Tôi đã được nghe kể về cuộc đời gặp nhiều đau khổ của cụ, cụ đã đi nhiều nơi trên đất nước ta. Tôi thấy ỏ ông cụ toát lên một phong thái thanh tao, vô cùng giản dị, bữa cơm của cụ chỉ độ lưng bát, vài ba chén rượu. Tôi đã được cụ cho

303

ngồi uống rượu cùng nhiều lần, món nhắm chẳng có nhiều, có khi chỉ là mấy hạt lạc, ít rau gì đó, nhưng mà rất thú vị. Cụ kể cho nghe về các bệnh nhân, có những người ở tận Pháp, ở Canada, ỏ các miền rất là xa xôi, người ta gửi những lá thư về, nói về hiệu quả của việc chữa bệnh và lòng biết ơn của họ vói cụ. – Thưa ông, nhiều bệnh nhân mỗi khi được gặp cụ, nói ỉ’ằng họ cảm thấy trong lòng mình sung sướng, thanh thản. Xin ông cho biết cảm xúc của mình khi được gặp cụ? – Đúng vậy, trong cuộc đời chúng ta gặp rất nhiều điều khó khăn, lo âu trong cuộc sống, trong quan hệ xã hội. Nhưng mỗi khi được ỗ bên cụ, lúc trỗ về chúng tôi thấy lòng mình thanh thản, thư thái, hết cả bao nỗi lo âu phiền muộn. – Thưa ông, trong bài viết, ông có nối đến câu “Thầy ta, vị ân nhân của chúng ta…”, chữ thầy này không phải nói đến một người thầy thuốc chữa bệnh bình thường, mà nói đến một người thầy cao cả, đã dạy cho chúng ta lẽ sống ồ đời. Vậy ông cố suy nghĩ gì về những lời dạy của cụ? – Tôi thây những điều cụ dạy là những điều chính đáng. Cụ thường dạy chúng tôi là “Hãy nghĩ đến những điều tốt, những việc làm đẹp đẽ để cho cuộc sông của mọi người đều được tốt đẹp lên”. Lời dạy của cụ là những lời chúc tốt đẹp đến vối mọi người, và trước hết khuyên chúng ta sông làm sao cho tốt, đó là những lời khuyến thiện, khuyên tu tâm sửa tính.

304

– Đôi với người Việt Nam chúng ta, đêm 30 Tết rất là quan trọng và thiêng liêng, cả m xúc của ông như th ế nào khi được đón xuân bên cụ? – Vào những năm mà cụ còn, ỏ Đại Yên, thường xuyên vào những tốỉ 30 Tết, tất cả chúng tôi, những anh chị em bệnh nhân đến đây, tụ họp chung quanh cụ và nghe cụ chúc tết. Có thể nói là ỏ Việt Nam mình, cũng như ỏ trên thế*giới, không có một nơi nào có một phong tục đẹp, đặc biệt như thế. Nó biểu hiện lòng biết ơn của bệnh nhân, tình thương yêu lẫn nhau giữa những người bệnh, lòng biết ơn đốỉ với vị Ân sư đã cứu chữa bệnh cho mình. Bệnh nhân từ khắp bốn phương, thậm chí có những người ỏ miền Nam ra, ỏ nước ngoài về, có cả những người thuộc mọi tôn giáo, những nhà sư, những người theo đạo Thiên chúa, những sỹ quan quân đội, có những văn nghệ sỹ cũng đến đây để hát chúc mừng cụ… Những người bệnh nhân tuy không quen biết nhau, nhưng nhìn nhau vối ánh mắt trìu mến, thân thương như con cùng một mẹ. Và tất cả chúng tôi đều ngước mắt lên cụ, chờ đợi lời chúc tết của cụ. Cụ thường cho nấu một nồi cháo rất lốn, và mỗi người một bát cháo gà, một chén rượu, nhưng đáng nhớ, đáng quý là nội dung của buổi tối hôm đó. Trong giờ phút thiêng liêng của đêm giao thừa, mọi người chúng tôi xắp sếp việc nhà để lên cụ và hưởng cái đêm vui họp mặt, gặp gỡ nhau trong một không khí đón xuân náo nức và đầm ấm. Có thể nói đó là một phong tục rất đẹp mà không một nơi nào có được.

305

– Vâng, thưa ông, nếu trên thế giới này, mọi người chúng ta dù ở tầng lớp nào, tôn giáo nào đều sôhg chan hoà với tình yêu thương nhau thì thế giới này sẽ trở thành một ìigôi nhà Hạnh Phúc. – Chúng ta cầu mong sẽ có một ngày mai như vậy. – Xin cảm ơn ông. Xin chúc gia đình ông nhiều sức khoẻ uà hạnh phúc. N gười thư c h iên

Nguyễn Tài Đức

GIỮ LẤY CHỮ ĐỨC Hôm nay, một ngày ‘mùa thu năm Bính Tý (1996), chúng tôi những người làm tư liệu về cụ Nguyễn Đức Cần đến làng Đại Yên thăm và hỏi chuyện một người thân trong họ Nguyễn Đức của cụ. – Thưa cụ, xin cụ cho biết quý danh? – Tôi tên là Nguyễn Đức Ân, sinh năm Quý Sửu (1913), hiện nay ỏ tại sô” nhà 59 tổ 41 làng Đại Yên, Hà Nội. – Thưa cụ, được biết dòng họ Nguyễn Đức tại làng Đại Yên xưa kia rất rạng danh vỉ có nhiều người tài giỏi có chức sắc. – Cụ tổ dòng họ Nguyễn chúng tôi được phong sắc đại tướng quân từ thời nhà Lý, ông nội tôi là cụ Nguyễn Đức Toàn (Phúc Toàn) là một nhà nho đã tham gia phong trào Đông kinh nghĩa thục, sau đó cụ lên Yên

306

Thế, tham gia cuộc khởi nghĩa của cụ Đề Thám. Cụ Toàn đẹp duyên cùng cụ Hoàng Thị Thêm và hai cụ sinh được 6 người con. Để tôi kể cho cậu nghe. Bà con đầu là bà Cả ừng (Nguyễn Thị Xoàn), bà thứ hai là bà c ả Can (tên bà là Nguyễn Thị Bướm, mẹ bà Côi), bà con gái nữa là bà Nguyễn Thị Đáng có chồng là ông Thủ Ngữ, nhưng không có con. v ề con trai: Con trai lớn là ông Nguyễn Đức Yêm (bô” bà Lý), ông thứ hai là ông Nguyễn Đức Nhuận (bô” ông trưỏng cần ), ông thứ ba là ông Nguyễn Đức Nhuẩn là bô” tôi. ông cụ Yêm không có con trai, nên con trai cụ Nhuận là ông cầ n được ăn thừa tự, vì thê” gọi là ông Trưỏng cần . – Thưa cụ, như vậy cụ gọi cụ Nguyễn Đức c ầ n là anh họ? – Tôi vổi ông Cần là anh em con chú con bác. Tôi gọi bô” ông Cần là bác. Ông cụ xây ngôi nhà cho ông cầ n vào tháng trung thu năm Kỷ Mùi (1919), mãi đến năm Canh Thân (1920) mới xong. Đến năm 1922, bác tôi ra làm phó Tổng thập tam trại có làm lễ khao làng rất lớn, còn cụ chánh Tổng là cụ Chánh Phường thì là người ỏ bên làng Ngọc Hà. – Thưa cụ, lúc còn nhỏ cụ đi học ở đâu ạ? – Lâu rồi không còn nhớ… Ạ, tôi học trường Đồng ích trong ngõ Trạm, học trường tư thục ỏ Hàng Da, rồi học ỏ Hàng Lược. Ông Trưỏng cần thì học ỏ trường Anbersarau ồ chỗ gần Chủ tịch phủ bây giờ. Ngày xưa,

307

ông Cần được ăn học tại trường, học nội trú một tháng mới được về nhà một lần, quần áo may trong trường như tây lúc bấy giờ. – Thưa cụ, được biết khi xưa, cụ được giúp việc cho cụ Nguyễn Đức Nhuận (cụ Tổng) trong việc kinh doanh. Vậy, xin cụ cho biết diễn biễn của sự kiện ngày 17 tháng 12 năm 1946 tại p h ố Hàng Bún, Hà Nội? – Cụ Tổng có một xưỏng thủy tinh ỏ chỗ phô” Hàng Bún -Yên Ninh, và một xưởng củi ỏ chỗ 27 phô” Quán Thánh. Lúc đó tôi về mỏ một xưỏng thủy tinh ở phô” Đội Cấh. Bây giờ, thấy tình hình thời cuộc gay go, tôi có nói với ông cụ: Ông nên về trên nhà đi. Vì tôi thấy tình hình dưới phô” căng thẳng lắm. Nhưng ông cụ lại bảo tôi: Cậu bảo cũng phải, nhưng tôi về, đóng cửa xưởng thế còn năm sáu chục anh em thợ người ta đều trông cả vào tôi, thì bỏ đi thế nào được. Ngày 17 tháng 12 (24 tháng 11 âm lịch) hôm đó lại là ngày giỗ cụ Nguyễn Đức Yêm (anh ruột cụ Tổng), cả nhà làm giỗ chồ mãi không thấy cụ Tổng về. Sau nghe tin giặc Pháp nó giết hại đồng bào ta hơn 50 người tại phô” Hàng Bún, gia đình tôi cho ngừòi đi tìm, nhưng không nhận được mặt ông cụ. Nhà nước mang tất cả những người bị giặc giết hại đi chôn chung tại chỗ cửa tòa Hà Nội, gần bên trường Bách Nghệ (bây giờ là chỗ phô” Lý Thường Kiệt, Hà Nội). ✓

9

~

A

V

Chúng tôi còn muôn hỏi cụ Nguyên Đức An nhiêu

308

chuyện nữa, nhưng thấy cụ không được khỏe. Sau khi cảm ơn và chúc cụ sức khỏe, chúng tôi xin phép được hỏi chuyện con trai cụ Ân, hiện đang ở cùng hai cụ. – Xin chào anh, xin anh cho biết quý d a nh? – Tôi là Nguyễn Đức Phú, sinh năm Tân Mão (1951). Ổng cụ Cần là bác họ tôi. Cụ thân sinh ra ông cụ cần và ông nội tôi là hai anh em ruột. Xưa cụ làm cai thầu, rồi sau cụ ra làm Phó tổng của Thập tam trại của Tổng nội. Cụ Tổng có mở các xưởng củi, xưởng thủy tinh và bô” tôi từ bé đã được cụ đưa đi phụ việc, giúp đố cụ trong việc buôn bán kinh doanh. – Thưa anh, anh có biết cụ c ầ n đi học đạo từ lúc nào? – Ông cụ đi học đạo từ lúc còn ít tuổi. Tôi được nghe bô” tôi kể lại rằng, khi cụ Tổng Nhuận xây cái nhà thứ hai tại Đại Yên (chỗ tập thể xưỏng phim bây giờ) thì tự nhiên bị mắc bệnh, ở trong bụng cụ có một cái gì đó to như quả trứng gà. Lúc đó bô” tôi còn bé vào thăm cụ, thì cụ có cho sờ vào, bô” tôi bảo thấy nó như một quả trứng ấy. Khi uống thuốc vào thì cái u đó nó chạy. Cụ Tổng phải nằm một chỗ, không đi lại được. Thuốc tây, thuốc ta đều không khỏi, gia đình lấy làm lo lắng. Khi đó cụ Tổng bà (mẹ ông cụ cần ) có đi mòi một ông thầy về. Không biết ông thầy đó chữa như thê” nào, nhưng sau khi ông thầy đó đến chữa, thì cụ Tổng ông khỏi bệnh. Sau đó thì cụ Tổng bà có gửi con trai cho đi theo ông

309

thầy đó lên Sơn Tây để học, vì thấy thầy giỏi quá, vừa là để trả ơn thầy, vừa là để cho con theo học thầy. Nghe nói Cụ Cần còn đi rất nhiều nơi ỏ các miền rẻo cao, rồi sau đó mới về làng Đại Yên chữa bệnh cho mọi người. – Thưa anh, anh có xin cụ cầ n chữa bệnh lần nào không? -Tôi xin nói thật với anh như thế này.Tôi là con cháu trong nhà, cũng được nghe người ta nói là ông cụ chữa bệnh rất giỏi. Nhưng lúc đó mình còn trẻ nên bán tín bán nghi, mà mình thì chẳng có bệnh gì cả. Hồi đó tôi đang đi làm cơ quan Nhà nước, tự nhiên bị sưng một cái hạch rất to như quả trứng ỏ bẹn, tôi có đi khám ỏ bệnh viện Đôhg Đa, người ta gửi tôi đến bệnh viện Việt – Đức, nhưng ỏ đấy họ cũng không biết là bệnh gì, nghi là thoát vị bẹn. Bệnh viện họ hẹn tôi ba ngày nữa ra khám lại để mổ, vì lúc đó nó đã sưng to lắm.Tôi có về nhà trên Đại Yên, nói chuyện vói mẹ tôi về bệnh tật và nói bệnh viện bảo phải mổ. Mẹ tôi mới bảo: Chúng mày buồn cười nhỉ, nhà có ông bác chữa bệnh như thế, ông còn chữa cho bao nhiêu người thiên hạ mà chúng mày là con cháu lại không đến xin ông chữa cho. Mẹ tôi đưa tôi lên gặp bác (Cụ cần). Khi đến tôi có trình bày là cháu tự nhiên bị sưng hạch như thế, rồi mẹ tôi cũng nói, xin ông chữa cho cháu. Ong cụ không xem, cũng không hỏi gì cả. Ong chỉ nói: Thôi cứ về đi, mai kia nó khỏi. Lúc sau, nghĩ thế nào, cụ cho tôi một tờ giấy có

310

chữ của cụ. Tôi về nhà, rồi cũng chẳng để ý, đến ngày thứ ba mới sực nhớ là bệnh viện người ta hẹn đến khám lại để mổ, lúc đó mới đi tắm rửa, thì thây cái hạch sưng to đó đã hết. Tôi mừng quá, vội đạp xe lên nhà để báo cho mẹ tôi biết (lúc đó tôi đã có gia đình riêng, không ỏ trong làng). Mẹ tôi bảo: Thôi, khỏi là tốt rồi, bây giò vào báo để ông biết. Ngày đó còn bao cấp, mọi thứ đều thiếu thốn và phải có tem phiếu, tôi có tiêu chuẩn mua được một cân đường, mẹ tổi thêm mây quả chanh. Mẹ tôi đưa tôi vào nói với ông là cháu nó khỏi rồi ông ạ. Ông cụ bảo: íí thế thì tốt lắm. Tôi nói: Con chẳng có gì biếu bác, chỉ có cân đường vối mấy quả chanh để bác uống nước ngày hè. Ông cụ bảo tôi: Bác thì bác nhận rồi, bác cho con mang về cho các cháu. – Thưa anh, trước khi đến anh có tin là cụ sẽ chữa khỏi hay không? – Trước khi đến xin ông cụ chữa thì tôi cũng không tin lắm, vì từ trưốc đến nay chưa thây ai chữa bệnh mà lại không dùng đến thuốc cả. Ngay cả bệnh viện họ cũng không chẩn đoán được là tôi bị bệnh gì, tại sao nó lại sưng như vậy. Thế mà khi đến ông bác tôi chỉ bảo cứ về đi rồi nó khỏi và từ đó đến nay không thấy bị tái phát nữa. – Thưa anh, anh thấy tình cảm của cụ với họ tộc, với dân làng nh ư th ế nào? – Chúng tôi thỉnh thoảng có đến chỗ bác tôi chơi.

311

Bác tôi rất là quý mến, có khi ông cụ bảo, các cháu đến giúp bác thau cái bể nước mưa chẳng hạn, vì lúc đó làng chúng tôi chưa có nước máy, hàng năm phải thay bể. Sau khi làm xong thì bác bảo ỗ lại ăn cơm vói bác, mâm cơm cũng chẳng có thịt cá gì nhiều, nhưng tôi thấy đông vui đầm ấm, rất bình dị. Còn trong làng cũng nhiều người biết ơn ông cụ đã chữa bệnh cho họ. – Thưa anh, vào mùa hè năm Quý Hợi (1983) thì cụ mất. Vậy trước đố, cụ có căn dặn họ hàng điều gì không? – Sau khi ông cụ mất được ít ngày, thì có một ngựời bác họ tôi là cụ Hoàng Văn Viên đến nhà tôi chơi và nói chuyện với bô” tôi. Theo lời kể lại của cụ Viên thì tháng trước đó (tháng 5 năm Quý Hợi), cụ Viên có đến chơi nhà cu Cần. Ông cu cầ n có nói rằng: Chú ạ, nếu đến 6 giờ tốì ngày thứ tư tháng tói (mồng 4 tháng 6 năm Qụý Hợi) mà anh qua khỏi thì anh sông thêm được 12 n^nịi nữa. Nếu đúng giờ ấy, ngày ấy mà anh không qua được thì đi thôi. Ong cụ Viên nói vói bô” tôi rằng, chưa thấy ại giỏi như ông cụ cần , vì ai cũng biết sinh thì có hạn mà tử thì bất kỳ. Nhưng rõ ràng ông cụ cần biết được cả cái giờ, cái ngày ông ấy chết. – Thưa anh, anh cảm nhận như th ế nào về đám tang cụì – Nói chung đám tang ông cụ rất to. Chúng tôi con cháu tất nhiên là có đến dự. Tôi nhớ khi xưa k^i) chưa có sự ngăn cấm ông cụ chữa bệnh, thì những ngựời

312

bệnh đến rất đông. Người ta đến xếp hàng từ sáng sớm. Lúc đó làng tôi còn lát gạch, hai bên là công rãnh còn bẩn, thế mà nhiều người đến đây người ta giải chiếu nằm la liệt chò ở bên ngoài đường để mong được gặp cụ sớm, đê xin chữa bệnh. Vậy nên khi ông cụ mất, bệnh nhân người ta đến rất đông. Tất cả những người bệnh đều chít khăn tang trắng để tang ông cụ. Bỏi vì người ta rất biết ơn cụ. Có những người coi cụ là người sinh ra họ lần thứ hai. Bởi vì đau ôm, bệnh tật ngưồi ta đã tưỏng rằng sẽ bị chết rồi, mà lại được cụ cứu sống, được khỏe mạnh, lại không mất tiền, thì người ta rất biết ơn ông cụ. Nhưng mà dân làng tôi vẫn không ngờ là người ta đến đông như thế. – Thưạ anh, anh cố kỷ niệm nào nhớ nhất về cụt -Tôi nhố xưa, mỗi khi vào dịp 30 tết, bác tôi làm bữa cơm tất niên. Bác có nói với bô” tôi là cho tất cả chúng tôi anh em, con cháu đến đây ăn cơm với bác. Không khí thật chan hòa đầm â’m, lần ấy tôi hỏi: Bác ơi, năm nay thì cháu thế nào? Bác tôi bảo: Các con, nhà mình là họ Nguyễn Đức, thì mình cứ giữ cái chữ Đức, thì không có sức mà ăn. Bác tôi chỉ khuyên chúng tôi như thế mà thôi. – Thưa anh, cụ là một người hiếm cố trong lịch sử và phương pháp chữa bệnh của cụ thật là thần diệu. Cuộc đời đạo đức của cụ thật là cao đẹp. Làng Đại Yên – Hà Nội và dòng họ Nguyễn Đức ở th ế kỷ X X này thật vinh

313

hạnh là đã cố một con người đặc biệt như cụ. Cũng như anh vừa nối về lời khuyên của cụ với con cháu trong dồng họ: Hãy giữ lấy chữ Đức. Đó củng là một lờỉ khuyên cho tất cả mọi người chúng ta. – Xin cảm ơn anh và gia đình đã tiếp chuyện hôm nay. N gười th ư c h iên

Nguyễn Tài Đức

CHỮ CỦA CỤ

(Bút tích của cụ Nguyễn Đức cần )

Chữ Người ỷ nghĩa tuyệt vời Chữ ban hạnh phúc thay Trời cứu dân Nét thần phấp phới xa gần Tung bay cao thấp, muôn dân được nhờ Từ bao giờ đến bây giờ Việt Nam cố Cụ, dân chờ dân mong Mong như cha mẹ rủ lòng Thươỉĩg con thương cháu, giôhg dòng rồng tiên Nghìn xưa Cụ ở thượng thiên Nghìn nay giáng thế dịu hiền biết bao Trần gian đau đớn ra sao Nhất tâm xin Cụ, bệnh nào cũng yên Đức dày dược cứu khỏi liền

314

Cụ không dùng thuốc, bạc tiền cũng không Trần gian mù điếc phải thông Nếu còn ngây dại: chất chồng oan khiên Cụ cho giác ngộ tự nhiên Ai cầu nấy được, từ thuyền độ ngay Cụ thương không kể đêm ngày Ai mà có phúc, gập Thày thượng thiên. Hà Nội ngày 28 tháng 8 Nhâm Tuất K ín h d â n g

Ngọc Thanh

THƠ XUÂN GIÁP DẦN

Kính gửi: Cụ Nguyễn Đức cầ n Kính thưa cụ Từ trước tới nay, gia đình chúng con gặp nhiều tai ương, kẻ chứng nọ, người tật kia, không lúc nào không phải thuốc men tốn kém. Gia đình không được yên vui. Từ khi được cụ cứu giúp chúng con, nay các cháu đã bình yên, tai đã qua, nạn đã khỏi, toàn gia được sống hạnh phúc yên vui, làm ăn sinh sông hàng ngày càng thêm thịnh vượng mà không mất một đồng nào tiền thuốc thang. Kính thưa cụ Công ơn của cụ như trời bể. Thật:

315

Núi cao biển rộng sông dài Cũng không sánh nổi với người hiền nhân.

Kính thưa cụ Đôi câu đốì Trọng nghĩa khinh tài, Đại Yên mạnh hường đức toả Cứu nhân độ thế, Hà thành Biển Thước danh vang

càng nêu cao tấm lòng thương dân nghèo khổ của cụ. Tấm lòng nhân đức ấy đã vang khắp nơi trên đất nước. Chúng con không biết lấy gì để đền đáp công ơn trời bể mà cụ đã độ cho chúng con Gia đình chúng con xin khắc cốt ghi xương đối vối công ơn trời bể đó. Chúng con xin nguyện tu nhân, tích đức để đền đáp công ơn cụ. Con xin có hai vế câu đốì và mấy vần thơ để kính tặng cụ. Câu đối Biển Thước tái sinh, Nam Bắc danh sư duy hữu nhất Hoa Đà xuất hiện, Đông Tây y nghiệp thị vô song

Thơ Lương y nhất phẩm Nam trời Chữa người bằng đức, cứu người bằng nhân Một niềm vì nước vì dân Trên dời d ễ dược mấy lần gập Tiên Rộng thương cỏ nội hoa hèn Hãy xin công báo, nghĩa dền cho minh. Thây người nghĩa trọng tài khinh Dám xin kết cỏ ngậm vành về sau.

316

Khắc xương ghi dạ xiết hao D ễ đem gan óc mong cầu trời mây Đến bây giờ được thấy đây Rõ ràng mở mắt tưởng rày chiêm hao Công người xem tựa non cao Đức người tựa hể, biết hao công tròn Đầu nấm tuổi thọ thông hanh Chúc Người xuân mới trời dành phúc to. Hà Bắc ngày mồng 1 Tết Giáp Dần 1974 CHỬVẢNCHI

Kính thơ Đổng Kỵ, Đồng Quang, Tiên Sơn – Hà Bắc

ĐẸP NHƯ ĐẤT Đ ỏ PHÙ SA (Kỷ niệm ngày quay phim tài liệu cụ Nguyễn Đức cần chữa bệnh tóc kết và bại liệt chân, ngày 30 tháng 4 năm 1974)

Đây chân c.on gẫy gập Đây thân con què quặt Con lớn lên day dứt cuộc đời… Hãy nhìn cụ con ơi! Hãy nhìn cụ con ơi! Con nhìn nữa… Mẹ đứng yên đếm từng hơ! thở Có nôn nao tia nắng nhỏ hè sang… Oiỉ Có ai sung sướng vô vàn Nhìn chân con dó, ngỡ ngàng sống Ịạỉ.. Đại Yên ơi ta nhớ người, ta nhớ mãi

317

Khắc tên Người vạn đại trong tim Khắc tên Người trên mái tóc êm. Đẹp như nắng về lúa chín Chiều nay nắng về lặng tiếng V ẻ đẹp đôi mắt sáng ngời Mang cho mẹ tiếng cười Mang cho con sức sống Mang cho ai muôn nghìn hy vọng Nhìn lên mênh mông từ miền đất đỏ Từ bao vùng xa xôi châu thổ Hướng về xóm nhỏ quê ai… Từng đoàn người… Từng đoàn người.. Như nước chảy về khơi Tràn về Đại Yên xóm nhỏ Lần mò tìm đôi mắt đó Đẹp như đất đỏ phù sa… Tôi viết bài thơ Giữa mùa hè sang Tràn tia nắng mới Giữa Đại Yên gió về phơi phới Giữa tiếng cười hồ hởi muôn nhà… Tôi viết bài ca Chan hoc) dòng nước mát Nỗi li buồn đời ai đã tắt Sau ỉuỹ tre tươi… Tôi viết tọng Người Triền miên về đời gian khổ

318

Mà tim người vẫn thở Anh hùng hên chiếc áo nâu sồng Hè về nắng chiếu mênh mông… Đại Yên, ngày 2 tháng 5 năm 1974 NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG Khoa Vật lý trường đại học Tổng hỢp Hà Nội

XIN KÍNH DÂNG NGƯỜI K ỉn h d â n g cụ N guyễn Đ ức c ầ n

Xuân này con đến mừng cha Một trời xuân nở ngát hoa hên lòng Xin dâng người mối cảm thông Côi nguồn của moi tấm lòng yêu thương Người là sóng nước đại dương Của lòng nhân áì, thiên đường thế gian Lung linh sao ánh hào quang Toả ra từ mỗi hước đường người qua Xin dâng người một ngàn hoa Muôn sau còn ngát hương xa hương gắn Ấn tình gieo xuống thế nhân Mối mùa xuân, mấy mươi lần sinh sôi Nắng mưa hão tố chuyển dời Lòng người cùng với đất trời trường xuân. Hà nội, tháng 1 năm 1979 VŨ VÁN NGỌC

319

Phần V TỌA ĐÀM

Ngày 2 7 tháng 8 năm 2011, tại Hội trường Bộ tư lệnh bảo vệ Lăng Chủ tịch Hổ Chí Minh, Bộ môn Thông tin dự báo, Bộ môn Cận tâm lý Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, cùng gia đỉnh cụ Nguyễn Đức cần, tổ chức buổi Tọa đàm chuyên đề NHÀ CHỮA BỆNH NGUYỄN ĐỨC CẦN VÀ NHŨNG BƯỚC ĐI ĐAU t iên của KHOA HỌC NGOẠI CẢM Ở NUỚC TA. Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu cấc bài phát biểu và tham luận trong buổi Tọa đàm.

CỤ NGUYỄN ĐỨC CAN MÃI MÃI ANH LINH Vù K hiêu Cụ Nguyễn Đức cần không những để lại những ân tình sâu sắc trong lòng đông đảo bệnh nhân được cụ cứu sông, mà quan trọng hơn là Cụ dã để lại cho dân tộc ta

320

sự nhận thức về sức mạnh kỳ lạ của tâm linh. Thành công của Cụ nếu được các nhà khoa học đi sâu tìm hiểu có thể khẳng định tiềm năng vô tận của con người Việt Nam trưốc mọi sự thử thách của thiên tai địch họa, trước sự khủng hoảng và rối ren của cả xã hội và thiên nhiên trong thời đại ngày nay. Xã hội loài người là một xã hội kép, một xã hội có thế phân đôi thành hai xã hội cùng tồn tại và tác động qua lại với nhau: một xã hội tâm linh và một xã hội trần thế. Loài người từ xưa hoặc không thấy được, hoặc thấy không sâu sắc sự tồn tại song song và mốỉ quan hệ giữa hai xã hội ấy trong tổng thể đời sống của con người. Vấn đề trước hết đặt ra là có sự tồn tại hay không tồn tại một xã hội tâm linh vối những quyền lực vô biên, những hiện tượng phong phú và lạ kỳ? Có những người đứng trước những hiện tượng lạ kỳ ấy đã không giải thích được sự thần bí của nó và ngày càng bổ sung vào tính chất thần bí ấy những ảo tưởng của chính mình. Còn có những người nhân danh chủ nghĩa duy vật, đã tầm thường hóa chủ nghĩa duy tâm, rồi dựa vào nó để phản bác mọi hiện tượng coi như thần bí ấy và cản đường những ai muốn tìm hiểu tâm linh. Do đó, họ đã bỏ qua và làm lãng phí những tiềm năng vô tận của con người và gạt bỏ những di sản tinh thần vô giá của dân tộc ta. Những năm cuốỉ của thế kỷ XX, nhiều nhà khoa học đã dự báo thế kỷ XXI là thế kỷ của tôn giáo. Tôi nghĩ đó

321

chỉ là sự nhận thức còn hời hợt về vỏ ngoài của xã hôi. Theo tôi phải nói: Thế kỷ chúng ta là thế kỷ làm bừng dậy cuộc sông tâm linh, là thế kỷ đang phát hiện và khai thác những tiềm năng vô tận chưa được khai thác ỏ con người. Vì những lẽ trên, tôi nhiệt liệt hoan nghênh và cảm ơn Bộ môn Cận tâm lý, Bộ môn Thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người cùng gia đình tổ chức cuộc tọa đàm về cụ Nguyễn Đức cầ n hôm nay. Đã từ lâu, tôi nghe nói về tài đức của cụ Nguyễn Đức Cần, về những chuyện kỳ lạ trong việc Cụ cứu sông hàng trăm, hàng ngàn những con người đến nhờ Cụ chữa bệnh. Tôi rất mong có dịp được gặp Cụ thì vừa gặp ngày đại thắng của quân dân ta, ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi được điều động văo Trung ương Cục miền Nam để phụ trách toàn bộ công tác khoa học tại các vùng vừa được giải phóng. Suốt bao năm tròi ở miền Nam nên tôi chưa đạt được ý nguyện gặp cụ Nguyễn Đức cần. Đến ngày trỏ ra miền Bắc để công tác tại ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, tôi chưa kịp ghé thăm Cụ thì Cụ đã qua đời vào ngày 13 tháng 7 năm 1983. Đó là điều ân hận rất lớn của tôi. Sau đó vừa đúng nửa năm, ngày 31 tháng 1 năm 1984, tôi nhận được thư của một đồng chí rất thân thiết của tôi là bác Phan Văn Tỉnh, nguyên Chủ tịch ủy ban Nhân dân khu Việt Bắc. Lá thư ấy khỉến tôi thêm tin tưỏng vào sức mạnh có thực của những hiện tượng tâm linh và càng thấy rõ thêm trách nhiệm của mình.

322

Thiếu tướng Chu Phác là một người bạn ít tuổi hơn tôi mà tôi rất quý mến. Trước đó, mỗi lần gặp anh, tôi lại phê phán anh dành quá nhiều thời gian đi vào những hiện tượng mê tín. Dần dần, thấy anh làm việc đạt được những kết quả có thể thuyết phục tôi. Tôi đã đến gặp anh đế rút lại những lời nhận xét vội vàng của mình. Tôi đánh giá cao công phu tìm tòi và nghiên cứu của anh, khuyến khích anh đi sâu vào những việc anh đang làm. Từ đó, tôi càng gán bó với anh, như hai người bạn cùng chí hướng. Tôi vẫn thường hay gặp Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải. Tôi thông cảm với mọi nỗi gian nan của anh, rất quý trọng anh, khuyến khích anh về những việc anh đang làm. Những vấn đề đi sâu nghiên cứu của anh ngày càng khiến tôi hiểu anh thêm và thực lòng ủng hộ anh. Với tấm lòng tin cậy anh là một người rất trân trọng những tài liệu lịch sử, tôi đã trao gửi anh lá thư dài của bác Phan Văn Tỉnh gửi cho tôi. Lá thư này đã được anh cho in nguyên văn trên cuốh sách Nguyễn Đức Cần- N hà văn hóa tâm linh mà tác giả là hai ông Nguyễn Phúc Giác Hải và Nguyễn Tài Đức. Giờ đây, tôi phải nói thêm rằng, lá thư mà anh giữ của ông Phan Văn Tỉnh viết cách đây 27 năm có một ý nghĩa rất lớn. Đó là tiếng nói của một nhà Cách mạng lão thành, một cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, vị Chủ tịch ủ y ban Nhân dân khu Việt Bắc bao gồm 18 tỉnh. Lá thư của ông thể hiện một tư tưỗng hoàn chỉnh,

323

đánh giá cao mối quan hệ của đời sông tâm linh và đời sông thế tục. Đó là con người có một cái nhìn toàn diện, sáng suốt về đời sống tâm linh và tương lai của nhân loại. Ông là một nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng đã sớm nhất có sự đánh giá đúng về tài, đức và những đóng góp của cụ Nguyễn Đức cần. Đốì với Giáo sư Hoàng Phương, tôi thực sự tin tưỏng và ủng hộ anh. Là Chủ tịch một Hội đồng khoa học để đánh giá về bản thân anh và các công trình nghiên cứu của anh, tôi đã cùng các nhà khoa học trong hội đồng khẳng định những thành tựu khoa học vô giá của anh, coi anh là một học giả lớn của đất nước Việt Nam. Cũng từ những ngày ấy, tôi mong chờ cuộc hội thảo ngày hôm nay và nhiều cuộc hội thảo sau đây nữa, không chỉ để đánh giá về cụ Nguyễn Đức cần , mà quan trọng hơn là đẩy mạnh việc nghiên cứu, phát triển và khai thác những tiềm năng vô tận của con người Việt Nam trong sự nghiệp của đất nước ta ngày nay. Riêng tôi, với cụ Nguyễn Đức cần , tôi không có duyên may gặp Cụ trong lúc sinh thời của Cụ. Tuy nhiên tôi vẫn cảm giác có một sức mạnh thần bí nào đó đã gắn liền tôi với Cụ. Tôi kém Cụ bảy tuổi, tuy không được gặp Cụ nhưng tôi thường bước theo và thường giẫm lên bưốc chân của Cụ trên khắp núi rừng Việt Bắc. Những nơi Cụ đi qua đều là những nơi tôi đã đến. Những địa danh Cụ dừng chân đều là những địa danh thân thiết đối với tôi. Vối những tình cảm sâu sắc đốỉ với Cụ, tôi hoan

324

nghênh buổi tọa đàm rất có ý nghĩa này mà các vị đã cùng nhau tổ chức. Vì điều kiện sức khỏe, tôi không thể đến chia sẻ cùng các vị tấm lòng thực sự ngưỡng mộ và quý mến Cụ không chỉ của chúng ta mà của đông đảo nhân dân toàn quốc. Xin chúc cuộc tọa đàm của chúng ta thành công tốt đẹp. Hà Nội, ngày 27 tháng 8 năm 2011

TẤM LÒNG CỦA THẦY T h iếu tưởng – T iến sỳ N guyễn C hu P h á c

Bác sỹ có lời thề của Hy-po-crat. Lương y có lời gia huấn của Hải Thượng Lãn Ông. Nhưng thầy chữa bệnh bằng tâm linh – ngoại cảm không dùng thuốc như Cụ Nguyễn Đức cầ n có đạo đức đặc biệt, nhiều nhà nghiên cứu lúc ây và hiện nay cũng đang tiếp tục lý giải. Ngày nay, một sô” nhà ngoại cảm chân chính và nhà văn hoá tâm linh chân chính cũng được nhiều người dân tôn vinh là thầy. Nhưng thầy có quyền năng huyền bí như cụ Nguyễn Đức cầ n mà trong cuốn Nguyễn Đức c ầ n Nhà văn hoá tâm linh đã nêu lên có nhiều chuyện làm tấm gương sáng, không những đốỉ vối các loại thầy chữa

325

bệnh mà còn là tấm gương soi chung đối với tất cả mọi người, đặc biệt là đổì vối các nhà ngoại cảm trong thời đại hiện nay. Một thời đại lòng từ thiện của con người đang phát triển, nhiều tài năng đích thực, và có nhiều người tử tế. Nhưng chúng ta cũng đang sông trong thời đại vàng thau lẫn lộn, tà vong quấy phá, ngoại cảm giả danh, từ thiện cửa miệng, và kẻ cơ hội nổi lên kiếm chác. Vì vậy, chúng tôi xin nêu thêm vài chuyện về tấm lòng của nhà văn hoá tâm linh Nguyễn Đức cần để chúng ta cùng suy ngẫm. 1. Một hôm, trong một buổi tiếp chuyện, có một ông do bực tức trong cuộc sông đã đến cụ cần thưa với cụ là: Lạy ông, sao trời không giết hết bọn người gian tham, độc ác. Cụ từ tôn trả lời rằng: Trong mỗi con người ta đều có thiện có ác. Bản thân ta cũng có lúc ác, nếu giết thì giết cả mình? Nếu giết mọi người chết hết, thì mình ô vối ai. Cụ bảo chúng ta khi xem xét một vấn đề gì đó, hay về một con người cụ thể nào đó thường chỉ thấy được người mà quên đi mình. Ta nhận xét người khác vói những thói xấu của họ bằng một con mắt khắt khe, mà đổi khi lại quên đi chính mình cũng còn có bao nhiêu thói hư, tật xấu và cũng có lúc làm điều ác. 2. Trong vô vàn những người bệnh lên gặp cụ, có một người bà con thấy khó chịu. Bà bệnh nhân này lần nào cũng đến nhà cụ rất muộn, mãi sẩm tốỉ mới thấy bà ta thuê xe xích lô đến, và mối vừa vào đến cổng ngõ nhà cụ, chưa

326

thấy cụ đâu, bà ta đã nói oang oang: Con lạy cụ ạ! Con lạy cụ ạ! Mà cụ thì sau một ngày tiếp khách bận rộn vừa mói ngả mình được một chút, thế mà khi bà ta vào trong nhà thì cụ đã dạy và ra ngồi ở chỗ tiếp khách hàng ngày. Mấy người bệnh ngồi ngoài sân lẩm bẩm với nhau, sao mà có người vô duyên thế… Lát sau đã thấy bà ta vội vàng bước ra, trên khuôn mặt người đàn bà giàu có đó còn đọng nưốc mắt. Hôm sau, nhân lúc vắng khách cụ nói với mọi người rằng: Cũng không nên thành kiến với người giàu. Người ta giàu có, vàng đeo đầy người nhưng cũng khổ tâm lắm, lại còn phải cưu mang một lũ cháu mồ côi ở quê nội, quê ngoại, biết bao nhiêu rắc rối trong gia đình, nhưng họ thích khoe của, thực sự có sung sướng gì đâu. Nghe cụ dạy vậy, mọi người thấy tấm lòng của cụ thật rộng lượng vị tha. 3. Ông Nguyễn Quang Chiểu, nguyên Giám đốc Nhà máy cơ khí Nông nghiệp bị ốm nặng, phải nằm viện điều trị tại bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội và phải cắt 3/4 dạ dày. Từ đó luôn xảy ra nhiều bệnh rắc rốỉ, đến ngày 4 tháng 2 năm 1982 lại phải mổ mật, bác sỹ nói rằng mật đã bị sưng to, gây tắc mật, nhưng chưa rõ nguyên nhân. Sau khi mổ, bệnh nhân phải chuyển xuống phòng hồi sức, tại đó tình trạng bệnh nhân hết sức nguy kịch. Bác sỹ nói bệnh cũ tái phát và di căn lên não rồi, chẳng còn một phần nào sống nữa, gia đình chuẩn bị cho việc hậu sự (đã mua quan tài). Nhưng thật may, nhờ người quen đưa con trai lên kêu xin cụ. Cụ đã nhận lời và cho một lá đạo mang về,

327

dặn hoá lá đạo đó ngay trưóc cửa phòng hồi sức. Kỳ lạ thay, khi hoá xong, bệnh nhân đã hé mở được mắt và người ấm dần lên. Nhờ ơn cụ, từ chỗ chẳng còn một hy vọng nào sông được, thế mà dần dần bệnh nhân (đã chết lâm sàng) đã tỉnh dậy, ăn được cơm, rồi đi lại được và hơn mười ngày sau thì xuất viện về đoàn tụ vói gia đình. Sau khi trở lại làm việc, một hôm ông Giám đốc lên thăm cụ tại Đại Yên, lúc ấy đang là mùa hè nóng nực, mà lại thường xuyên mất điện, nhà cụ lại đông khách, lúc nào trên tay cụ cũng cầm chiếc quạt giây phe phảy cho đõ nóng. Thấy vậy, hôm sau ông Giám đốc nông nghiệp mang đến nhà biếu cụ một chiếc máy phát điện. Ong ta thưa vối cụ rằng: Thưa cụ, con thấy nhà mình nóng quá, mà lúc nào cũng đông bệnh nhân. Xin phép cụ, chiếc máy này là sản phẩm của nhà máy con, lúc nào mất điện thì cụ cho chạy để có quạt mát cho mọi người. Nghe vậy, mọi bệnh nhân có mặt đều mừng rỡ, nhưng cụ nghiêm mặt nói rằng: cảm ơn ông đã cho, nhưng thôi cứ mang về mà dùng, ồ đây tôi chưa cần. Nghe vậy, ông Giám đốc vẫn cô” năn nỉ: Thưa cụ, con mới ngồi ỏ đây một lúc mà đã vã cả mồ hôi. Cụ nói rằng, thế thì ông còn nóng hơn cả tôi, thôi mang cái này về mà dùng. Thấy cụ nhất quyết chối từ không nhận, ông Giám đốc kia đành phải đem chiếc máy phát điện về. Sau cụ nói với mọi người rằng, nếu mình không chịu khổ, mình muôn ngồi mát mà dân còn phải chịu nóng, thì còn cứu được ai. 4. Vào năm 1980, một bệnh nhân được bác sỹ kết

328

luận là ung thư lưỡi và cho tiêm thuốc để điều trị. Nhưng bệnh không thấy thuyên giảm mà ngày càng nặng thêm. Chúng ta biết rằng bệnh ung thư, trên thế giới chưa thể chữa khỏi, như thế chỉ còn chờ chết. Ngoài việc thuốc thang không khỏi, gia đình cũng nghe bà con mách bảo đến việc lễ bái mọi nơi và bốc bát nhang thờ cúng. Đầu tiên phải bốc hai bát hương thờ, dần dần thành sáu bát và lập thêm một bát ở ngoài trời. Hàng ngày phải hương hoa, vào ngày rằm, mồng một phải sửa lễ một lần là bảy con gà, thậm chí phải đưa lễ bằng một đồng cân vàng và tiền mặt. Song song cả hai việc chữa bệnh ở bệnh viện và lỗ bái thường xuyên nhưng bệnh tình vẫn không khỏi. Phúc duyên sao, họ lại được chính bác sỹ Dậu ỏ bệnh viện K mách bảọ cho gia đình, chỉ còn một con đường tìm đến cửa cụ Nguyễn Đức cần , nếu được cụ nhận lời cứu giúp thì mối khỏi được. Và chỉ sau hai tháng lên được cụ nhận chữa bệnh, bệnh đã thuyên giảm, bệnh nhân có thê đi xe đạp hàng chục km về thăm quê. Một lần, lên thăm nhà cụ, người bệnh nhân trên ra sân rửa mặt, mói biết nhà cụ chỉ có một bể nước mưa, chứ chưa có máy nước vào nhà. Thấy vậy lập tức, người đó lên nhà, quỳ xuống xin cụ được bỏ tiền mắc máy nước vào nhà. Cụ bảo, cả làng, người ta vẫn phải gánh nước, mình cũng là người dân như họ. Thôi, đứng lên đi, hôm nào rỗi lên đây gánh nước cùng mọi người. Sau này, chúng tôi mới được biết cảnh gánh nước đêm trên nhà cụ. Đó là một đêm trăng sáng, khi trời đã khuya, những bệnh nhấn, sau khi đã xin phép cụ, hẹn

329

nhau đến để cùng gánh nước, để đổ vào bể nước. Cụ nhắc mọi người phải nhẹ chân cho hàng xóm được an giấc ngủ. Cảnh những đoàn người gánh nước lặng lẽ trong đêm trăng sáng, trên con đường làng vắng vẻ, họ chỉ nói với nhau bằng những ánh m ắt chan chứa tình yêu thương, còn cụ ngồi trước sân mỉm cười và chờ mọi ngưòi. Chẳng bao lâu bể nước trong nhà cụ đã đầy tràn. Cụ cho mang hoa quả ra bổ mời mọi người cùng ăn vui vẻ. Cụ chỉ lên bầu trời đầy sao giảng giải, đâu là sông Ngân Hà, đâu là Nhị Thập Bát Tú… rồi cụ hỏi: Các cô chú gánh nước có mệt không? Mọi người đều thưa lại, có mệt, nhưng được gần cụ thây sao vui quá. Có người xin cụ cho thêm sức khoẻ, cụ dạy, cứ sống th ậ t thà và chăm lao động thì luôn khoẻ mạnh! 5. Một quan chức giàu sang có quyền thế, nhưng có một cậu con trai không chịu học hành mà chỉ đua đòi chúng bạn ăn chơi, cờ bạc, nghiện hút. Hết tiền nó lại về moi của bô” mẹ. Một lần bị bổ” mẹ mắng mỏ thậm tệ, cậu con trai vác dao chém bô” mẹ. Các em vào can ngăn, cậu ta chém cả các em. Hàng xóm gọi công an đến, hắn chém cả công an. Một anh công an trẻ rú t súng ngắn ra để doạ, chẳng may súng bị cưóp cò. Cậu con trai phải đi câ”p cứu, rồi tử vong. Mọi người xui gia đình kia phát đơn kiện công an. May sao, trước khi kiện, gia ‘đình họ đến hỏi cụ. Cụ bảo: “Gia đình bị quả báo nặng lắm, đáng lẽ phải đi vài mạng nữa. Nay, nó gánh cho cả nhà rồi. Thôi đừng kiện nữa”. Thế là gia đình nghe lời cụ. 330

6. Bà ta còn trẻ, nhưng ốm liệt giường. Ông chồng ngày đêm bên giường chăm sóc vợ và thường xuyên đều đặn đến cụ Cần. ít lâu sâu, bà ta mạnh khoẻ thì ông chồng lại ôm liệt, người vợ cũng đưa chồng đến nhờ cụ c ầ n chữa chạy. Nhưng bà cáu gắt vì phải chăm sóc quá lâu, mà ông vẫn chưa đi lại được. Một hôm bà ngỏ ý để mặc, muốn chồng “đi” cho nhẹ gánh. Việc đến tai cụ cần, cụ gọi người phụ nữ kia và nói: “Như thế là phạm tội ác, trời sẽ quả báo đây’. ít lâu sau ông chồng lại khoẻ, bà vợ trẻ lại ốm. Ông chồng đến cụ Cần, van lạy xin xá cho, bà vợ sợ quá không dám đến. Cụ lại bảo: “Không sám hối thì chết”! Bà vợ đành phải đến quỳ từ ngoài sân van lạy cụ, xin cụ cứu con, xin cụ tha tội cho con. Qua mấy câu chuyện trên, thấy rằng cụ Nguyễn Đức Cần là người thầy chữa bệnh tâm linh có tình thương bao la với con người, không tham lam, không háo danh, mà còn dạy dỗ bạo người bệnh trỏ thành người tốt. Vừa qua, nhân kỷ niệm 20 năm tìm hài cốt liệt sỹ bằng ngoại cảm được Bộ Lao động & thương binh giúp đõ, chúng ta biết ơn tôn vinh 4 th ế hệ. Thế hệ thứ nhất có người đã m ất như giáo sư Ngô Vi Thiện… có người còn sống nhưng đi lại phải chống gậy, phải dìu và nhiều người đã hết khả năng ngoại cảm. Tuy nhiên, chúng ta cũng tôn vinh một sô” ít anh chị em th ế hệ thứ tư, tuy không tìm được nhiều hài cốt liệt sỹ bằng một sô” người khác, nhưng qua một thời gian dài theo dõi thì họ không phải là kẻ cơ hội, hám danh, hám lợi, tham lam, bịa đặt, dôi âm lừa 331

dương, phản thầy phản bạn. Hiện nay, thế hệ thứ 5, thứ 6 có nhiều người có khả năng thực sự nhưng đang phải tiếp tục làm việc trong hoàn cảnh hỗn mang, cho nên phải chịu đựng và kiên nhẫn. Hôm nay, chúng ta cùng nhau tôn vinh Nhà văn hoá tâm linh phương Đông Nguyễn Đức cần – Tức là tôn vinh Nhà ngoại cảm đã mất. Đây là một điều đặc biệt trong đạo đức sống làm người tử tế của người Việt chúng ta. Chúng tôi mong mỏi rằng tất cả chúng ta hãy nhớ ơn liệt sỹ, nhớ ơn người sống và biết ơn cụ Nguyễn Đức cần Nhà văn hoá tâm linh, dù cụ đã ra đi nhưng linh hồn cụ mãi mãi vẫn ỏ bên chúng ta và vẫn giúp đỡ mọi người. Hà Nội, ngày 27 tháng 8 năm 2011

ĐI THEO TIẾNG GỌI CỦA NHÀ VĂN HÓA TÂM LINH ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM GS, TS Y khoa

Đ oàn X u â n Mượu

Bộ môn Cận tâm lý và Bộ môn Thông tin dự báo thuộc Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người cùng gia đình cụ cô” Nguyễn Đức cầ n có sáng kiến tổ chức cuộc tọa đàm về Nhà văn hóa tâm linh đầu tiên ồ nước ta vào dịp cả nước nô nức chuẩn bị lễ kỷ niệm cách 332

mạng giải phóng dân tộc thắng lợi ngày 19 tháng 8 và ngày Quốc khánh 2 -9 năm 1945. Sự trùng hợp này có ý nghĩa to lớn để chúc mừng đất nước và để tạ ơn Nhà nước đã tạo điều kiện cho việc nghiên cứu một hiện tượng tâm linh, mà tuy kết quả có tính thuyết phục nhưng chưa được lý giải đầy đủ về m ặt lý luận. Đáng mừng thay từ năm 1993 đến nay những phát minh khoa học của Vật lý lượng tử và Cận tâm lý học đã cung cấp những luận cứ khoa học soi rọi cho cơ chế của hiện tượng ngoại cảm và của khả năng chữa bệnh không dùng thuốc. Dù thiếu lý thuyết nhưng Nhà ngoại cảm Nguyễn Đức c ầ n đã làm công việc cứu nhân độ th ế từ năm 1940 cho đến khi cụ qua đồi vào năm 1983, vượt qua bao khó khăn trở ngại. Để tưởng thưởng công ơn cụ, nhà thơ Long Thành Hoài Quang đã có mấy câu bộc lộ được thành ý của mọi người: Bốn phương độ thế ân vô iượng Ngàn dặm thành tâm khách hữu duyên San sẻ cho đời khang phúc thọ Trời Nam lưu mãi tiếng chân tiên.

Nếu cứ theo logic thông thường, hễ có lý luận khoa học chứng minh mói được thừa nhận thì có nhiều việc quan trọng hơn mà chưa có lý luận chứng minh chặt chẽ, chẳng hạn vấn đề Thượng Đế là ai? Hay Thượng Đế là gì? Mặc dù vậy vẫn có người tin vào Thượng Đế, vì tuy không thấy Thượng Đế nhưng thấy những việc Thượng Đế đã làm cho nhân loại. Cũng như vậy trong 333

công việc chữa bệnh cứu người của cụ Trưởng c ầ n mấy chục năm qua không có lý thuyết giải thích, nhưng kết quả chữa bệnh rấ t thuyết phục của Cụ đã làm cho bệnh nhân tin cậy. Từ năm 1990 khi Nhà Vật lý người Nga Sipov phát minh lý thuyết “Vật lý chân không” chứng minh Trưòng xoắn là cơ sở vật chất của thông tin trong th ế giới tế vi và là đốì tượng nghiên cứu của vật lý lượng tử. Thế giới tế vi là th ế giới ý thức vũ trụ, có khả năng tự phát triển, tự ý thức, có sáng kiến vô hạn. Siêu ý thức là kế hoạch tiên phát của tạo hóa. Vật chất là hình thức tiếp nhận năng lượng theo thông tin do ý thức đề ra, các nhà khoa học ngày nay đều hiểu rằng: khoa học vật lý không thể thiếu một phần của vật lý siêu hình. Cụ Trưỏng cần khi tiếp bệnh nhân thường phát cho mỗi người một mảnh giấy cầm tay và cụ yêu cầu họ đốt đi, không giải thích vì sao. Tuy nhiên cụ rất có ý thức khi làm việc đó. Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải đã suy nghĩ về điều đó và đã đốỉ chiếu với việc chữa bệnh bằng Trường sinh học. Cụ Trưởng cần có lẽ đã hành động một cách vô thức theo linh cảm? Theo lý thuyết, các nhà chữa bệnh bằng Trường sinh học có thể phát năng lượng vào các vật dụng, ví dụ: vào cốc nước, mẩu giấy, quả cam rồi đưa cho bệnh nhân dùng để thông qua đó người bệnh tiếp nhận năng lượng trị bệnh. Giáo sư Hoàng Phương đã nhận định: “Sự kiện cụ Nguyễn Đức c ầ n có một khả năng kỳ diệu và những 334

phương pháp chữa bệnh hoàn toàn mói rấ t thần tình, mặc dù chưa giải thích được”. Đi xa hơn nữa, cụ Trưởng Cần nói kết quả chữa bệnh còn tùy thuộc vào đạo đức người bệnh. Vôh tồn tại “th ân bệnh” và “nghiệp bệnh”. “Thân bệnh” có thể chữa khỏi, nhưng “nghiệp bệnh” thì không thể, nên cụ thường không nhận trường hợp “nghiệp bệnh”. Cụ tự tin hễ nhìn người thì biết đạo đức của người ấy. s.ự tồn tại trên đời này, việc một sô” những Nhà ngoại cảm chữa bệnh không dùng thuốc là ý của Trời. Cũng như trên quả đ ất mọc biết bao cây cỏ có thể dùng làm thuốc chữa bệnh, cũng là ý Tròi. Từ thuồ xa xưa con người đã sống nhờ vào cây thuốc trong rừng khi chưa có bác sĩ, hiệu thuốc, bệnh viện… Ngoài ra biết bao nhiêu động vật hoang dã sống trong rừng cũng có khi ôm đau giống con ngưòi, chúng gặm lá cây rừng để chữa bệnh. Bằng cách nào chúng chọn đúng cây thuốc? Chỉ có Trời biết. Đó là linh cảm mà ở các loài sinh vật đều có, thậm chí không kém ở con người. Nhiều loại thức ăn bình thường chính là những vị thuốc quý, ai không biết thì thiệt. Trên trái đất có những vùng địa linh có khả năng chữa bệnh, ở Pháp cách Thủ đô Paris 600km có vườn chữa bệnh Lourdes, mỗi năm thu h ú t hàng vạn người đến chữa bệnh hay đến du lịch sinh thái. Hè. năm 2004, tôi có dịp tham quan Hy Lạp – đất nước của th ần thoại. Tôi được thăm khu vườn chữa bệnh Esclavios ỏ miền Nam Hy Lạp. “Esclavios” là tên của 335

người đã tìm ra vùng địa linh để làm vườn này. Saư khi ông qua đời, người ta lấy tên ông đặt cho vườn chữa bệnh và đã thu hút người bệnh bốn phương về đây. Mộ ông đặt ỏ ngay trong vườn, mà ỏ đó thường xuyên có một con rắn to canh giữ. Con rắn thân thiện vói khách du lịch. Bôn trăm năm sau ỗ Hy Lạp xuất hiện người thầy thuốíc nổi tiếng Hypocrat và được coi là thủy tổ của nền y học phương Tây, gọi là Tây y. Người ta lấy hình chén thuốc và con rắn làm logo, biểu tượng cho nền y học, Tây y xuất phát từ đó. ớ Việt Nam có vườn chữa bệnh Long An nổi tiếng là linh khí của nước Việt mà không được tận dụng. Thật là hoài của và đáng phàn nàn biết bao! Nhà Đại văn hào Shakespear có nói: “Chỉ có những bậc thánh mới biết được những cái ngu của mình”. Chẳng lẽ chỉ có đất Long An mới có Thánh hay sao? Quả đất cũng giống như thân thể con người, có những huyệt châm cứu trên người. Đó là những điểm gặp nhau của hệ thông luân xa chuyển tải năng lượng đi khắp thân thể. Đông y dùng châm cứu để chữa bệnh vì thế. Theo cô” GS. Nguyễn Hoàng Phương, Việt Nam ta có nhiều vùng địa linh đặc biệt: dòng Cửu Long Giang xuất phát từ núi Vân Nam chảy dọc theo dãy Trường Sơn đã tiếp nhận những dòng năng lượng của núi cao, vì vậy ỏ dòng cuối chín Đầu Rồng của nó có con Rồng Long An lâu nay “ngủ yên”, rất có thể có nhiều địa linh mà ngôi vườn kỳ diệu ở Đức Hòa là một trong sô” â”y. Nơi đây đã có một Long An đã thức dậy và tỏa ra khí thiêng cho con người Việt Nam. 336

Một sự th ật nữa mà ông cha ta thường nói là “Âm phù dương’ trợ”, cho nên cần phải kết hợp Âm- Dương trong việc phòng và chữa bệnh. Cơ chế này theo lý thuyết vật lý lượng tử là dựa trên cơ sở Sóng và Trưòng. Cụ Trưởng cầ n lúc sinh thời có đề cập đến Sóng trong thuật chữa bệnh thay cho thuốc, ở thời điểm những năm 1940- 1980 tại một vùng hẻo lánh ỏ Việt Nam, một nhà ngoại cảm đã biết động đến vai trò của Sóng, thật đáng khâm phục. Chỉ từ khi ra đòi thuyết lượng tử mối có khái niệm vật chất ỏ mức hạ nguyên tử tồn tại ở dạng sóng hoặc dạng hạt. Ổ Liên Xô (cũ) vào những năm 80 của th ế kỷ trước bắt đầu xuâT hiện lý thuyết và kỹ th u ật Y học đa chiều của Putsko đặt trên cơ sỏ lý thuyết Sóng và dùng phương tiện con lắc để lựa chọn Sóng, để lấy Sóng trị Sóng. Mầm bệnh vô hình là những cấu trúc năng lượng thông tin tiêu cực tồn tại dưới hình thức Sóng xoắn, gọi là Soliton. Chúng gây rôĩ loạn trước tiên ỏ các thân thể tế vi. Việc điều trị loại bệnh này xuất phát từ mục tiêu xua đuổi call trúc sóng năng lượng thông tin xấu ra khỏi cơ thể theo phương pháp Y học đa chiều. Nhờ sự nỗ lực và dam mê của các nhà khoa học như GS. Hoàng Phương, TS. Thiếu tướng Chu Phác, Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải và các nhà khoa học khác của Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, đã mỏ đường rộng rãi cho hoạt động của các nhà ngoại cảm thế hệ trẻ như: Đỗ Bá Hiệp, Phan Thị Bích Hằng, Phạm Thị Phú… và những người khác ở trong Nam, ngoài Bắc 337

như tìm mộ, chữa bệnh không dùng thuốc… theo tiếng gọi của Nhà văn hóa tâm linh đầu tiên ở Việt Nam Nguyễn Đức Cần. Hà Nội, ngày 22 tháng 8 năm 2011

CỤ NHƯ MỘT LÃO NÔNG HIỂN HẬU T hiếu tướng – N h à văn H ồ Phương

Thưa quý đồng chí và quý bạn. Tôi viết bài phát biểu này trưóc tiên muôn được bày tỏ lòng mình trước sau như một, kính trọng và tri ân cụ Trưởng Cần- một Dị nhân- một Nhà ngoại cảm- một Nhà Đạo đức đáng quý và cũng là để góp thêm một chút tư liệu. Thưa quý vị, quý bạn Tôi vẫn còn nhớ là vào mùa hè năm ấy, khi cô con gái thứ hai của tôi- cháu Ngọc, mới lên bốn, bỗng nhiên cẳng chân trái cháu bị sưng đỏ và to đùng. Cháu đau khóc suốt, dù cháu là đứa trẻ vốn hết sức ngoan. Chúng tôi đã cho cháu uống đủ các loại thuốc kháng sinh, nhưng bệnh của cháu cũng không hề lui. Đưa đi bệnh viện, người ta bảo có lẽ phải làm phẫu thuật. Thương cháu quá, vợ chồng tôi cứ dùng dằng mãi. Bỗng nhiên, như có Trời bảo, một vị hàng xóm mách là nghe nói có cụ Trưỏng c ầ n ỏ làng Đại Yên, chữa được 338

các bệnh hiểm nghèo…Thế là tôi lấy xe đạp đèo cháu đi ngay. Tôi cũng không khỏi hồi hộp. Thế rồi cha con tôi đã được gặp cụ, đúng lúc khách khứa vừa về hết. Cụ mời tôi cùng ngồi vào chiếc phản ở trong nhà, uống nước, h ú t thuốc và trò chuyện, còn cháu Ngọc tập tễnh chiếc chân đau chơi ở ngoài sân xem vườn hoa cây cảnh của cụ một cách rấ t thích thú. Cụ ngồi đó, ung dung, hiền hậu với bộ tiện y màu nâu giản dị và mái tóc cắt ngắn đã bạc khá nhiều. Phong độ và dáng vẻ ây đã ngay lập tức chiếm được cảm tình của tôi. Nhưng phải nói tới đôi m ắt – Đôi m ắt sáng láng lạ lùng của cụ… Cụ ngồi đấy vừa như một lão nông, vừa như một vị Thiền sư cao minh. Đặc biệt là cụ cỏi mở và mến khách, thể hiện ngay trong những câu chuyện cụ chủ động trao đổi về thòi tiết, về gạo thóc hồi ấy và về sự xum họp Nam Bắc vừa mới được lập lại… Dẫu sao, rồi tôi cũng đánh bạo để chủ động thưa cụ về việc đưa cháu bé tói đây. Mỉm cười rấ t hiền hậu và đầy cảm thông, nhìn ra sân, cụ chỉ tay nói: Cháu nó đang chơi kia kìa. Nó rấ t ngoan, đang vui đấy. Cứ để cháu nó chơi nữa đi… Tôi lại phải quay về với những câu chuyên giao đãi. Nhưng rồi hẳn quá cảm thông nỗi sốt ruột của tôi, cụ bỗng đột ngột ngắt câu chuyện và nói: Thôi, chẳng trưa rồi đấy! Hai cha con về đi thôi. Tôi không khỏi ngạc nhiên, vì chưa thưa được với cụ điều gì quan trọng về cháu và cụ cũng chưa hỏi qua một

339

lời vể bệnh tậ t của cháu Ngọc, chứ chưa nói tới tận mắt xem xét chỗ đau của cháu… Chừng như hiểu nỗi băn khoăn của tôi, cụ mỉm cười như an ủi: “ Đã bảo về đi! Cứ yên tâm! Cháu nó sẽ khỏi đấy mà. Vài hôm nữa thôi”. Tôi vẫn bối rối không hiểu ra sao nữa. Hiểu ý tôi, cụ tươi cười tiếp: “ Vậy muốn có thuốc hả? Thì đây, cầm cái giấy này, về nhà đốt đi”. Nói đoạn cụ lấy ra từ trong chiếc khay một mảnh giấy, trong mảnh giấy đó chỉ có một chữ ký của cụ. Tới lúc đó dẫu vốn là một người kém thông minh, tôi cũng có thể hiểu mang máng được rằng, mọi việc có lẽ cụ đã giải quyết được rồi. Tôi chỉ còn biết đứng lên gọi con gái vào, và hai cha con cùng cung kính chào cảm ơn cụ. Cụ xoa đầu cháu : “Thôi cháu về nhé, mấy hôm nữa sẽ khỏi đấy”! Thế là về nhà, tôi làm đúng theo lời cụ, đốt mảnh giấy nọ đi…Và quả nhiên, chỉ một tuần sau, cháu hoàn toàn khỏi bệnh. Tôi chỉ còn thiếu reo lên và lại đèo ngay cháu về Đại Yên. Vợ tôi cũng xin đi theo để được yết kiến vị Dị nhân ân đức. Thế là “Zin 3 cầu” tốc hành phóng cứ như bay… Câu chuyện thứ hai: Tôi được báo đi xem cụ Trưỏng Cần chữa cho một phụ nữ bị một bệnh lạ, cả mái tóc bị dính lại như có keo, chải không ra, gỡ cũng không được. Người bảo đó là ma làm, người lại khẳng định đó là quỷ ám… Đã nghe tiếng cụ Trưỏng cần, nên gia đình nọ đưa chị lên Đại Yên, đúng dịp các cơ quan chức năng của Nhà nưốc tiến hành quay phim về việc chữa bệnh của cụ. 340

Lúc đó, tôi thầm lo: Nói dại, hôm nay, không chịu nổi áp lực mà th ấ t bại thì th ậ t tiếc biết bao cho cụ và cho cả nhân dân. Tuy nhiên, mọi việc đã diễn ra khá xuôn xẻ. v ẫ n bộ quần áo nâu cũ bạc, vẫn đôi m ắt như Thần, cụ ung dung đến trước người phụ nữ bị kết tóc và cất tiếng nhẹ nhàng, nhưng như truyền lệnh: “Mỏ ra, hãy mỏ ra!../’ rồi cụ nhắc chị ngồi bên đã cầm sẵn một chiếc lược: “Chải giúp đi!”… cứ như th ế nhiều lần, cuối cùng bộ tóc của thiếu phụ đã được gỡ ra và chải dài như xưa… Như th ế đấy, trong cuộc đời này đã có biết bao công việc to lổn nhưng thường cũng chỉ diễn ra rấ t nhẹ nhàng và giản dị; ngược lại cũng đã có không ít việc ý nghĩa có lẽ không quá một tầm với tay nhưng đã có biết bao cờ giong trông mở… Sau đó, cụ Trưởng c ầ n đã trỏ về vối cuộc sống bình thường làm phúc cho dân. Rồi cụ qua đời… tới nay đã gần 30 năm và bây giờ chúng ta mới có những hoạt động nghiên cứu sâu rộng hơn về cụ. Riêng tôi, sau vụ gỡ tóc của cụ năm ấy, tôi lại lao vào văn học. Với tôi, không có gì cuốn h ú t mãnh liệt bằng văn học, cho nên tôi cũng không may mắn được biết gì thêm nữa về cụ. Đó cũng là một thiệt thòi cho tôi. Tuy nhiên, trước sau, tôi vẫn vô cùng kính trọng và biết ơn cụ – một Nhà ngoại cảm có tài và có đức lớn lao. Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2011

341

c ụ LANG CẦN XÚNG DANH THẦN Y ĐẤT VIỆT

T r ịn h T ố Long THẦN Y!

Trong dân gian dân tộc nào cũng vậy, những thầy thuốc cứu nhân độ th ế râ’t giỏi, cao siêu cả y đạo, y đức, y thuật, được người người yêu mến, tín nhiệm thì được tôn danh “Thần y”. Chưa có nước nào luật hóa “Thần y” thành một danh hiệu Nhà nưốc. Ta xem phim Hàn Quốc Thần y Hơ Jun từ xa xưa chỉ lấy nghề thuốc cứu người làm lẽ sống, nếu Việt Nam sau này dựng phim về Tuệ Tình, Hải Thượng Lãn Ông thì cũng là những hình tượng hao hao như vậy. Trong truyện Tam Quốc, Hoa Đà Thần y định dùng dao bổ đôi đầu Tào Tháo để chữa bệnh đau đầu nhưng ông “đa nghi”, sợ… Đến bây giờ người ta mới phát hiện ra rằng hình tượng Hoa Đà đã được “Tầu hóa” – hư cấu từ trong truyện thần thoại của Ai Cập. La Quán Trung quả thật tài tình trong xây dựng nhân vật – cũng có thể “những chí lớn dễ gặp nhau” hay “Quả đất tròn” chuyện ngàn năm sau lặp lại…? Thầy thuốc Nguyễn Đức c ầ n của chúng ta khác hẳn: người th ật việc th ật cả trăm phần trăm, mọi chuyện vừa mới xảy ra. Cụ chữa bệnh “bằng cái đầu”: Không tứ chân, không dùng thuốc, thậm chí không cần tiếp cận người bệnh. Việc này theo quan niệm xưa nay chỉ có “thần linh, ma quỷ” mới làm được mà cụ làm 342

được, thì cụ là “Thần”, Thần sống. Chỉ tiếc là người thành “Thần”, hành nghề… thần không hợp thời, mọi tư duy, hành động đều bị bó buộc nên người bệnh và lợi ích chung chịu thiệt thòi. Ta hiểu hoàn cảnh thời đó, càng chứng tỏ tài trí siêu việt của “Thần” Nguyễn Đức c ầ n vì cứu người bất luận khó khăn. Mùa hè năm 1960 đang công tác tại Đại sứ quán ta ỗ Matxcva, tôi sang nghỉ ỏ Sophia, đất nước Hoa Hồng của Đimitrôp đã nổi danh nhà tiên tri mù mà thấy cả quá khứ vị lai của nhiều người, nhiều đất nước. Cũng là nước xã hội chủ nghĩa đấy, Chính phủ Bungari bỏ tiền xây cả một khu biệt thự để bà phục vụ nhân dân. Bà em gái kể, Vanga bị trậ n bão tuyết vùi lấp chết lâm sàng, gặp một chàng kỵ binh thời xưa mũ giáp kiếm cung trên lưng ngựa rấ t oai phong. Chàng nói: Từ nay ta sẽ cho ngươi “quyền năng”… Khi tỉnh ra, Vanga thây mình là con người khác hẳn… Tôi còn tò mò tói Viện chữa bệnh bằng thôi miên của Bác sĩ Lôgianốp. Anh bạn đi theo giói thiệu bạn đang nghiên cứu cơ chế khai thác khả năng tiềm ẩn trong con người chông lại bệnh tật, học ngoại ngữ; một hướng đi Mesme đề xuất từ lâu. Bây giờ tôi mối hay, khi đọc sách Nguyễn Đức cầ n – N hà văn hóa tâm linh, thì ra, mươi năm sau ỏ ta, theo lệnh nhà văn hóa tư tưỏng, một tờ báo đã gán cho cụ Lang c ầ n hai chữ duy tâm, mê tín dùng thôi miên chữa bệnh lừa bịp, còn những vị như Giác Hải, Hoàng Phương đều là “gà mờ…”

343

Cùng khoảng thời gian đó, năm 1972 tại Praha có cuộc Hội thảo quốc tế bàn về trường sinh học. Những tấm ảnh chụp hào quang rực rõ quanh ngừời khỏe mạnh đã đành, còn chụp được cả trường năng lượng bị cắt lìa ỏ một chiếc lá tươi đăng trên báo Quân đội Nhân dân. Vậy là bao la trong vũ trụ, xung quanh ta là một kho siêu khổng lồ chật ních năng lượng và thông tin. Thản nào cổ học phương Đông dám tuyên bô” Thiên Địa – Nhân hợp nhất. Con người là một vũ trụ mini cũng phát ra vầng sáng quanh mình, từ năm 1911 bác sĩ người Anh W art Kielna đã chụp được thành ảnh có quầng rộng 15mm. Năm 1934, kỹ sư Xô Viết Kirlian cũng chụp được quầng sáng đó. Sách Bàn tay ánh sáng của nhà khoa học vũ trụ Mỹ A. Barbara chụp được vầng hào quang 7 sắc rực rổ, lành lặn hay trỏ nên rốì loạn chuyển mầu sẽ cho nhiều thông tin khác nhau về bệnh tật, cảm xúc, quan hệ… qua một loại máy tính chất lượng cao tối sô” đơn photon của Giáo sư N hật Tojobufu. Vậy năng lượng và thông tin với thần linh và trần tục ranh giới và phân biệt sao đây: những thông sô”tham khảo? CÔNG NÃNG – QUYỂN NĂNG

Chúng tôi đã vài chục năm học hỏi, tập luyện, thực hành và để tâm tìm hiểu, có dăm năm đi hướng dẫn, viết nhiều bài cho nhiều báo về các môn pháp dưỡng sinh phòng trị bệnh bằng khí công, năng lựợng sinh học, cảm xạ học… Mỗi môn pháp đã học đều phải cô” công học tập từ lớp ABC đến nâng cao, nhận ‘hằng đỏ” nhưng luôn thường trực ý 344

thức tìm cho ra cái hay của mỗi môn tập đặng suy ngẫm “xào xáo” thành cái mang “thương hiệu” mình thì tập mói hiệu quả cao, và viết mới… được bà con đọc. Hóa ra phép luyện nào cũng là năng lượng và thông tin. Các sư phụ đều giảng: có 4 yếu tố kích hoạt “con rắn lửa” Kundalini từ địa cung vọt lên qua Hội âm theo yoga hoặc luồng khí nóng từ thiên cung xoáy xuống Bách hội như khí công khi tập luyện, thứ hai là tu thiền hoặc thứ ba gặp nạn nặng, thứ tư là người có cơ địa bẩm sinh. Nhưng đó mới chỉ tạo được công năng của thực khí, tức năng lượng m ạnh của thầy chữa phát ra từ Lao cung gọi là Chưởng công, ngón tay – chỉ công, Ân đường – miêu công, Bách hội – Thần công, bàn chân – L inh công. Theo tôi, còn cần “đủ” là yếu tố thứ năm quyết định, đột biến chuyển từ công năng sang quyền năng thuộc thanh khí, cũng có thể gọi công năng đặc dị. Đó là tâm thiện. Quyền năng ỗ cụ Lang c ầ n được “bề trên ” giao sau 14 nằm khổ luyện trên núi cao rừng sâu là vô biên và vĩnh viễn do cụ suốt đời sông cần cù, trong sạch, không màng chút danh lợi, chỉ một lòng tận tụy cứu dân, giúp nước (mà chưa được hiểu đúng để phát huy tài đức nên cụ đành biết tự kiềm chế quá nhiều việc làm hữu ích, như vậy tinh thần ồ cụ càng cao, th ật đáng quý). Từ thực tiễn bệnh tậ t và tai nạn, tệ nạn những năm gần đây cho thấy lu ật nhân quả đang đến kỳ… “khóa sổ” và ngày càng khắt khe, quả báo tức thời. Hoạt động soi nghiệp, giải nghiệp ở nhà ngoại cảm Phạm Thị Phú, 345

Thái Nguyên đang nhắc nhồ một lốì sông suy đồi về đạo đức, miệng P hật tâm xà, ngay cả vối người được giao quyền năng mà thoái hóa đạo đức thì tài có đấy cũng m ất đấy và phải trả giá. Mong sao đã làm việc tâm linh, nhà ngoại cảm hãy luôn soi mình để bà con nhân dân nhìn vào gửi được niềm tin. ĐỂN ƠN ĐÁP NGHĨA

Hôm nay chúng ta họp mặt tại đây để ôn cô” tri tân, đền ơn đáp nghĩa. Các việc về đền ơn còn cần thời gian, công sức. Riêng việc đáp nghĩa thiết nghĩ không gì bằng cộng đồng biết tối, có lời hoan nghênh, cảm ơn. Nếu quý vị và các bạn đồng ý, xin dành tràng pháo tay hướng về: 1. nhà khoa học trung thực, người trí thức dũng cảm, thà chịu kỷ luật, chứ quyết không bóp méo sự thật: ông Nguyễn Phúc Giác Hải, và, 2. người dày công đức trong lĩnh vực khoa học tâm linh ngoại cảm, đặc biệt cho việc tôn vinh Danh nhân văn hóa tâm linh Nguyễn Đức cần: Thiếu tướng Nguyễn Chu Phác! Hôm nay chúng ta cũng sẽ đề xuất việc quy hoạch tôn tạo khu Lăng mộ của cụ. Chúng tôi xin đề nghị trên biển vào khuôn viên ghi rõ dòng chữ nói lên sự tôn kính, lòng tri ân của nhân dân, của dân tộc: THẦN Y VAN HÓA TÂM LINH NGƯYẼN đức can MÃI MÃI Ở BÊN CẠNH CHÚNG TA Hà Nội, ngày 27 tháng 8 năm 2011

346

CHUYỆN BÂY GIỜ MỚI KỂ: “CHIẾC MÁY BAY BS2 RƠI Ở NGỌC HÀ” N guyễn P h ú c G iác H ả i Bộ m ôn T h ô n g tin ’ D ư báo

C hiếc m áy b ay B52 rơ i ở hồ H ữu T iệp – Ngọc Hà, H à Nội Cuộc kháng chiến chông Mỹ thần thánh của nhân dân ta đã buộc phía Mỹ phải ký tắ t với ta Hiệp định Paris. Tuy nhiên do phản ứng của chính quyền miền Nam, Mỹ chưa chịu ký chính thức hiệp định này mà đòi ta phải nhượng bộ một số điều khoản, nếu không sẽ tấn công Hà Nội bằng B52. Cuộc chiến “Điện Biên trên không” đã diễn ra trong 12 ngày đêm ỏ Hà Nội. Mỹ đã bị .rơi hàng chục B52 bằng tên lửa phòng không của ta. Trong số những B52 bị rơi, có một chiếc rơi trên bầu trời Hà Nội. Phi công nhảy dù ra khỏi máy bay, chiếc B52 bị gãy và một phần của nó rơi xuống hồ Hữu Tiệp ỏ Ngọc Hà. Trong bụng máy bay còn chứa hàng chục quả bom chưa nổ. Sự kiện chiếc máy bay B52 rơi ở hồ Ngọc Hà đã là một thành tích đóng góp vào chiến dịch “Điện Biên trên không” lẫy lừng của quân dân ta. Nhà thơ Tô” Hữu đã viết về sự kiện này: Ngọc Hà em lộng lẫy hoa tươi Xỉn thơm khắp miền Nam , miền Bắc

347

Ngày ấy tấm ảnh một cô gái làng hoa Ngọc Hà lấy nước ở hồ Hữu Tiệp với nét m ặt tươi tắn, đằng sau cô là xác của chiếc B52, được đăng lên các trang báo, trên các bìa lịch đã là một hình ảnh ghi dấu thắng lợi của “Điện Biên Phủ trên không”, buộc Mỹ và chính quyền miền Nam phải chính thức ký Hiệp nghị’ bôn bên ở Paris. Mỹ phải rú t quân khỏi miền NanuỴiệt Nam, dọn bước cho đại thắng mùa Xuân, thống nlìẩt đất nước 30- 4- 1975. Trong tập Sâ”m của Trung Quốc Trung Quốc nhị thiên niên chi dự ngôn, chúng tôi đã tìm thấy một lời sấm: Thủy biên hữu nữ, đối nhật tự bái N hữ ng lời dự báo kỳ lạ Như chúng tôi đã có dịp nêu trong tập Nguyễn Đức Cần- N hà văn hóa tâm linh, cụ Nguyễn Đức c ầ n ngoài khả năng chữa bệnh không dùng thuốc và từ xa, còn có những dự báo kỳ lạ, cụ đã dự báo nhiều điều cho những bệnh nhân đến xin cụ chữa bệnh. Khi được phép của úy ban Khoa học Nhà nước và Bộ Công an, chúng tôi đã tổ chức cuộc khảo sát quay phim việc cụ chữa hai ca bệnh đặc biệt: một bệnh nhân bị bại liệt và một bệnh nhân bị tóc kết. Chúng tôi dự kiến tổ chức vào ngày chủ nhật, 15- 1974 là ngày nghỉ để tiện một sô” quan khách tới dự. Tuy nhiên cụ không đồng ý và nói tổ chức việc chữa bệnh vào ngày 30- 4. Việc thay đổi chương trình sớm lên một ngày làm chúng tôi rất vất vả vì phải thống nhất lại vói các đoàn quay phim, các bệnh nhân, các nhà khoa học, các cơ quan được mời tới dự. Phải làm lại giấy mồi. 348

Lúc ấy tôi cứ thắc mắc mãi tại sao không cho tổ chức vào ngày 1 -5 cho gọn, mà cứ bắt tổ chức vào 30- 4. Buổi quay phim, khảo sá t thành công tốt đẹp. Sau buổi khảo sát tôi ngồi nói chuyện riêng vối cụ, trong câu chuyện có một giây phút m ặt cụ bừng sáng một cách kỳ lạ, cụ nói với tôi: Ong Hải, nếu tôi không bằng xương bằng thịt thì làm sao tôi có th ể ngồi nối chuyện với ông được! sỏ dĩ cụ nói câu đó là vì thường ngày tôi thỉnh thoảng vẫn hỏi cụ vì sao tết nào cụ cũng đưa mọi người lên Đền Và ở núi Tản Viên để du xuân. Hồi ấy có người nói đến tai tôi, cụ là hậu th ân của Tản Viên Sơn Thần nên mới có khả năng chữa bệnh kỳ lạ không dùng thuốc và từ xa như vậy. Khi chúng tôi hỏi cụ về tương lai đất nước, cụ nói: Rồi chúng sẽ bỏ cả súng mà chạy. Lúc đó không ai ngờ rằng chỉ sau một năm, ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nưốc ta được thông nhất. Cũng phải nhắc lại rằng, trước khi tổ chức quay phim việc cụ chữa bệnh ngày 30- 4- 1974, chúng tôi được Bộ Công an mời sang nói chuyện với chuyên đề “Nhà chữa bệnh Nguyễn Đức c ầ n và hiện tượng ngoại cảm”, trong đó có nói về các khả năng đặc biệt này có liên quan đến quốc phòng và an ninh quốc gia. Buổi nói chuyện được tổ chức tại phòng họp Đảng đoàn Bộ Công an, tối ngày 26- 4- 1974. Trong buổi này có sự tham dự của Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn, và ông đã tuyên bô” trong buổi họp này “đây là vấn đề khoa học cần nghiên cứu”.

349

Trong buổi nói chuyện tôi có liên hệ khả năng chữa bệnh không dùng thuốc, từ xa của cụ c ầ n đến hiện tượng thần giao cách cảm (Telepathie) và hiện tượng điều khiển từ xa (Telekinesis). Tôi đã dẫn ra thí nghiệm truyền ý nghĩ từ xa của nhà du hành vũ trụ Mỹ Edgar Mitchel trên con tàu Apolo 14, truyền ý nghĩ về Trái đất. Tôi cũng dẫn ra trường hợp nhà ngoại cảm Do Thái Uri Geller có khả năng vặn cong kim loại, làm ngừng hoạt động của máy tính và làm ngừng thang máy ỏ Minich. Uri Geller tuyên bô”, nếu muốn, anh có thể làm ngừng một chiếc máy bay đang bay và thực tế sau này, theo yêu cầu của những nhà thực nghiệm Liên Xô (cũ), anh đã làm ngừng từ xa chiếc đồng hồ Big Ben nổi tiếng của London. Giò đây khi nói chuyện với cụ Nguyễn Đức cần, tôi có dẫn lại những hiện tượng này và hỏi cụ về sự xì xào của dư luận liên quan đến chiếc B52 rơi một cách kỳ lạ xuống hồ Hữu Tiệp. Hết sức bình thường và đơn giản cụ kể lại câu chuyện như sau: Tốĩ hôm ấy tôi ra sân nhìn lên trời, rồi tôi nói: Thôi chết rồi ngày mai nó đến! Rồi tôi bảo mọi người thắp hương xung quanh nhà. Sáng hôm sau nó đến thật, tôi đứng ở sân chỉ tay lên trời thế là cái máy bay nó rơi xuống. Tôi ngạc nhiên và bốì rối hỏi cụ: – Thưa cụ như thế là thế nào ạ ? Ông cụ nghiêm sắc mặt nhìn tôi và nói: – Ông Hải, nếu tôi có thể làm một cái đầu đang điên

350

hóa lành thì tôi cũng có thể làm một cái đầu đang lành hóa điên được chứ! Rồi cụ không nói gì về chuyện này nữa. Khi tôi mang chuyện này hỏi nhà văn Hữu Mai, người đã tham dự cuộc phỏng vấn hỏi cung viên phi công đã nhảy dù ra khỏi chiếc máy bay rơi ỏ hồ Hữu Tiệp, nhà văn Hữu Mai cho biết, viên phi công này kể, khi đang bay đến bầu trời Hà Nội thì bỗng hoa mắt hoa mũi không biết gì nữa. Hắn vội bấm nút cho ghế của hắn vọt ra khỏi máy bay, dù tự động mỏ ra. Hắn rơi xuống Hồ Tây và bị dân quân đón bắt. Hắn không biết gì về sô” phận của chiếc B52. Sau này đọc trong tập sấm T rung Quốc nhị thiên niên chi d ự ngôn tôi tìm thây câu sấm sau đây: Khải du thần khí chung vô dụng Dực dực tiểu tâm hữu thần chúng Chuyển nguy vi an kiến tiết nghĩa Vị tất sơn hà tự ngã tống Có nghĩa: R út cuộc th ì cái vủ k h í hay ấy củng h ó a ra vô dụng Vì có m ột người d â n với m ột tấm lòng rất là cẩn trọng đ ã chuyển cá i nguy th àn h cá i an vì n ghĩa lớn T ại sa o ta lạ i đ ể cho đ ấ t nước củ a m ìn h bị bỏ rơi. Tôi cho rằng lời tiên tri này đã nói về vụ máy bay B52 rơi ỏ Ngọc Hà, vì các lời dự báo trong tập sấm còn nói đến tấm ảnh cô gái gánh nước bên hồ Hữu Tiệp: Thủy biên hữu nữ dối nhật tự bái

351

Có nghĩa; B,ên bờ nước có một cô g á i (cổ gái này gánh nưốc từ hồ Hữu Tiệp đi lên) như đang cúi lạy trước vừng mặt tròi ở Phương Đông (đôi nhật tự bái). Hơn th ế nữa lời sấm còn cho biết đến sự kiện: Hắc thố tẩu nhập thanh long huyệt Dục tận bất tận bất khả thuyết Duy hữu ngoại biên căn thụ thượng Tam thập niên trung tử tôn kết cố nghĩa: Con thỏ đen đuổi thẳng vào huyệt con rồng xanh Muốn giải quyết cho hết nhưng không giải quyết được rất khó mà nói Duy có người láng giềng tính từ gốc cây mà lên Sau 30 năm con cháu sẽ đi đến kết quả. Lời sấm này được giải mã như sau: Con thỏ đen là chỉ quân du kích ở Tây An tức giải p hón g qu ân Trung Quốc, đánh thắng vào Trung Nguyên. Muốn g iải phóng toàn bộ Trung H oa nhưng không được ƯỈ vẫn còn Đ ài Loan (Dục tận bất tận bất khả thuyết). Duy có người bạn láng giềng là Việt Nam tính từ gốc là Cách mạng tháng Tám. Sau 30 năm đã thống nhất được đất nước như lời của bài hát: 30 năm dân chủ cộng h òa khán g chiến đã thành công. S iê u vũ k h í củ a tương lai? Khi nói về năng lượng tinh thần, các nhà khoa học phương Tây đã gọi đó là siêu vũ khí (super weapon).

352

Viện sĩ Kaznatchep của Liên Xô đã nói đến một cuộc chiến tranh tương lai, trong đó năng lượng sinh học điều khiển từ xa sẽ là một thứ vũ k h í tâm linh. Tôi hoàn toàn tin tưởng ỏ khả năng này vì nó có cơ sở khoa học ngoại cảm và tâm linh. Tôi hình dung ra một kịch bản có một ngày nào đó đất nước ta bị tân công bồi các tên lửa và máy bay tốì tân. Nhưng chúng ta biết rằng hệ thốhg điều khiển những vũ khí này lại là những bộ óc vi tính, hết sức nhạy cảm. Chỉ cần một năng lượng nhỏ bé điều khiến từ xa của bộ óc con người cũng có thể làm lệch đường bay của nó như lời tiên tri đã viết: Khải du thần khí chung vồ dụng! Đất nước ta có những con người như vậy không? Tôi tin là có, như cũng tin ỏ sự rơi kỳ lạ của chiếc B52 rơi ồ Ngọc Hà. Và cũng như dự báo trong tập Trung Quốc nhị thiên niên ch i d ự ngôn: Bất tín kỳ tài sản Ngô Việt Trùng dương tòng thử chấp binh sư có nghĩa: Khó mà tin rằng con người tài ấy ỉại ra đời từ nước Ngô, nước Việt Thê giới lúc bấy giờ mới thật sự chấp nhận việc giải trừ quân bị. Ngày nay, không còn nước Ngô, nước Việt ỗ Trung Quôc nữa, chữ Việt ỗ đây chỉ có thể hiểu là Việt Nam. Hà Nội, ngày 2 1 tháng 8 năm 2011

353

Phẩn VI NHỮNG BÀI HỌC TỪ cuộc ĐỜI

QUA SÔNG ĐÀ Sau những tháng năm gian khổ, cùng ngưòi thầy đi rất nhiều nơi và sông ỏ những vùng núi cao rừng thẳm, chàng trai Nguyễn Đức cần đã từ biệt người thầy của mình để trỏ về quê nhà. Ngày nào năm xưa, khi ra đi còn là một cậu bé, nay trở về đă là một chàng trai khôi ngô tuấn tú. Cuộc chia tay thật là bịn rịn, thầy dặn rằng: – Nay con đã đủ sức tự lập, nhưng lúc nào khó khăn, ta vẫn ỏ bên con. Cậu thưa hỏi: Thầy sẽ đi đâu. Người thầy nói rằng: Ta là ngưòi tự do như gió trời, đâu có duyên lành là ta sẽ đến. Con đường trở về cô” hương dường như thấy gần hơn. Một tối, cậu đã đến bên này sông Đà và ngủ tạm qua đêm trong túp lều cá ven sông để chờ thuyền sang Chợ Bờ. Theo sử sách ghi lại, tỉnh Hoà Bình được thành lập

354

ngày 22 tháng 6 năm 1886 theo nghị định của Kinh lược Bắc Kỳ vổi tên gọi là tỉnh Mường. Tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Chợ Bờ, thuộc châu Đà Bắc, nên cũng gọi là tỉnh Chợ Bờ. Sau, tỉnh lỵ chuyển về Phương Lâm rồi chuyển tên thành tỉnh Phương Lâm. Đến tháng 3 năm 1891, lại đổi tên tỉnh Phương Lâm thành tỉnh Hoà Bình. Chợ Bờ (hay còn gọi là phô” Bờ) nằm ở hạ lưu của Thác Bờ, trên một triền đồi đã trở thành huyện lỵ của huyện Đà Bắc. Chợ Bờ là nơi đã ghi dấu chân vị vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi). Sau khi đem quân lên chinh phạt giặc cỏ Đèo Cát Hãn trỏ về năm 1432, cảm hứng trước thế núi, dáng sông, người anh hùng đã rút gươm phạt đá đề thơ ngay bên ghềnh đá Thác Bờ. Năm 1982, khối đá khắc ghi bài thơ này đã được chuyển về lưu giữ tại Bảo tàng Hoà Bình trưốc khi Thác Bờ ngập chìm sâu dưới hàng trăm mét nước. Xưa kia sông Đà vô cùng hung dữ và nguy hiểm như một chú ngựa bất kham vói nhiều thác nhiều ghềnh đá. Từ Thác Bờ trỏ về xuôi thì hết ghềnh, hết thác. , Đây là nơi thuỷ phận cuốỉ cùng của thác đá sông Đà, cảnh núi non sông nước nơi đây vói những khối đá nhọn hoắt nhấp nhô giữa dòng sông chảy xiết bọt tung trắng xóa, và những dãy núi trập trùng chạy tít về phía xa mờ, tạo nên một khung cảnh thiên nhiên thật hùng vĩ. Có câu ca rằng: Non xanh ngắt trâng lồng ánh khúc Nước sông Đà bến ngọc lung ỉinh

355

Ngày xưa chợ Bò chỉ họp theo phiên, một tuần họp một buổi, phiên chợ họp lênh đênh dưới dòng sông Đà trên bờ chỉ lèo tèo vài quán hàng với những dãy phố nhỏ. Thời gian chợ họp cũng rất ngắn ngủi, bắt đầu từ lúc 6 giò sáng, đến khoảng 9 – 1 0 giờ sáng thì chợ tan. Sáng sớm hôm sau, khi cậu trỏ dậy ra bến sông, thì trời vẫn còn chưa sáng rõ. Bấy giờ đã là độ thu sang, khí trời hơi se lạnh, bến sông thật đìu hiu vắng vẻ, chẳng có tiếng gà gáy, chó sủa như những miền sông quê vùng đồng bằng, chỉ nghe thấy tiếng lũ vượn hót trên những dãy núi cao mờ xa vọng lại. Chờ một lúc thì có thuyền đến, mọi người lục tục mang hàng lên thuyền, thì ra hôm nay là phiên chợ họp. Mấy người đàn bà người Dao, người Mông gùi những thổ sản của vùng vầy Nưa, Hiền Lương, Vạn Yên, Phù Yên, Châu Mộc… họ mang những sản vật của địa phương như chuối, măng khô, mộc nhĩ, nấm hương, mật ong, lợn Mường, lợn Mán và gánh thuốc rừng lên con thuyền độc mộc, để mang đến phiên chợ Bờ. Nước sông Đà trong xanh và mát lạnh, ngồi trên thuyền hình ảnh quê hương yêu dấu cứ hiện dần ra trong tâm trí cậu, con đường làng chạy từ cổng nhà cậu đến ngôi đình làng đã in bao dấu chân, hình ảnh người mẹ lúc tiễn đưa cậu ra đi nơi cổng làng năm nào, khi mẹ quay đi lén đưa vạt áo khẽ chùi giọt nước mắt. Cậu thầm nghĩ: Mẹ ơi! Con muôn làm đôi cánh chim để bay về ngay với mẹ… Chợt, cậu thấy chiếc thuyền bỗng dừng lại. Gã lái

356

thuyền bỏ chiếc nón rách đội trên đầu xuống, lúc bây giờ trời đã sáng rõ, cậu trông thấy bộ mặt gã lái đò thật gớm ghiếc với đôi mắt hung dữ sắc lạnh. Gã chống sào giữa sông rồi dỏ giọng đòi tiền đò. Mấy người đàn bà lao xao nói rằng, tiền đã thu ngay lúc xuống thuyền rồi, sao còn đòi gì nữa. Gã lái trâng tráo nói, lúc nãy là tiền xuống thuyền, bây giờ là tiền qua sông. Mấy người trên thuyền lại lao nhao nói, lạ đời làm gì lại có chuyện đi thuyền phải trả hai lần tiền như thế. Gã lái đò, phanh áo ngực, vố lây chai rượu tu một hơi, giọng lè nhè: Thế thì đến trưa ông mới qua sông. Đến trưa mối qua sông thật à, thế thì còn bán hàng cho ai, vì chỉ 10 giờ sáng thì chợ đã tan phiên rồi. Mấy người trên thuyền đành bảo nhau mau đưa tiền cho hắn để còn kịp phiên chợ. Thật là chẳng may hôm nay gặp phải quân cướp ngày. Gã lái đắc ý lần lượt thu tiền từng người. Cậu thấy thương cho những con người lam lũ kia quá, cậu muôn đứng lên tóm cổ tên lái thuyền kia mà quẳng xuống sông, nhưng bây giờ thuyền còn đang ỏ giữa dòng, mà trên thuyền toàn là đàn bà con trẻ, nếu đắm thuyền thì làm sao đây… Thế rồi, con thuyền chở mọi người cũng cập bến chợ, những người trên thuyền tất tả mang hàng lên bờ. Gã lái kéo mũi con thuyền độc mộc ghếch lên bờ, rồi đi lên dốc chợ. Cậu tiến đến bảo hắn ta: Ông mau trả lại tiền đò thu thêm lại đi. Gã lái thuyền trợn đôi mắt nhìn tròng trọc vào chàng trai, hắn bảo: Mày là thằng Mán, Mường ỏ đâu ra, ông không trả thì mày làm gì.

357

Chẳng để đợi lâu, cậu tiến đến chiếc thuyền và nói: Hãy xem đây. Không hiểu với sức mạnh nào mà chàng thanh niên ấy, hai tay bỗng nâng bổng chiếc thuyền lên và nghe rầm một tiếng, chiếc thuyền đã vố tan thành mấy mảnh. Tên lái thuyền sau phút sững sờ, nhưng với bản tính hung ác, hắn chạy đến chỗ mấy người đang bán mía, giằng lấy con dao chặt mía đuổi theo chàng trai. Lúc này, cả chợ chứng kiến sự việc vừa xảy ra, khi thấy tên hung đồ kia vác dao đuổi theo, thì mọi người đều lo sợ án mạng sẽ xảy ra, có tiếng người nào hét lên bảo cậu mau chạy đi, nhưng chàng trai vẫn thản nhiên đều bước như không có chuyện gì. Tên lái thuyền đã đuổi kịp chàng trai. Người ta nhìn thấy hắn vung dao đến nhoáng một cái, và một người ngã gục xuống. Nhưng khi mọi người định thần nhìn lại thì hóa ra người nằm dưới đất lại là gã lái thuyền, còn con dao thì văng một quãng xa. Vừa lúc đó có chuyến xe ngựa đến đón khách về xuôi. Cậu bưốc lên xe, người chủ xe liền đánh ngựa rời bến. Ngồi trên xe, khi quay người nhìn lại, cậu thấy gã lái kia đang lồm cồm bò dậy, nhưng cánh tay mà hắn cầm dao lúc trước thì buông thõng như chiếc tàu lá chuốỉ khô. Hắn đã trỏ thành một kẻ tật nguyền suốt đời. S au này, k h i n hắc lại câu chuyện p h i đ ạo p h ạ t kẻ ác lúc trẻ này, cụ Nguyễn Đức c ầ n nói: K h i tôi xuống núi, thầy tôi có dạy, khôn g được thù g hét ai, nếu thù g hét thì nguy h ạ i lắm , lúc trẻ tôi có p h i đ ạ o p h ạ t m ột h a i trường

358

hợp, họ bị h ạ i g h ê gớm ỉắm , m à tôi đ ã p h i đ ạ o p h ạ t họ thỉ khôn g cứu được nữa, cho nên m ình p h ả i chịu nhục mới cứu đời được. Đó là b à i học cuộc đời m à cụ tự răn m ìn h n hư vậy. CHIẾC XE MOBILET Từ những năm 1950, nhiều người ở Hà thành đã biết đến danh của cụ Nguyễn Đức c ầ n trong việc chữa bệnh không dùng thuốc, trong đó có cả những người Pháp và gia đình họ. Một lần có một người Pháp đến nhờ cụ chữa bệnh thần kinh cho người vợ. Người vợ ông ta là người Việt, lúc bấy giò dân ta gọi là m e tây, chị ta có căn đồng và bị bắt đồng, đã đi lễ nhiều đền phủ, nhưng không khỏi bệnh. Sau khi được cụ chữa khỏi, ông chồng vô cùng mừng rỡ và mang đến biếu cụ một chiếc xe máy Mobilet, một loại xe đắt tiền thời đó mà chỉ những gia đình tư sản giàu có ỗ Hà Nội mới có tiền mua. Lúc đầu cụ từ chối, sau thây họ cũng thành tâm nên cụ nhận. Việc này làm nhiều ngưòi bệnh ngạc nhiên, vì cụ có bao giờ màng đến của cải như th ế đâu. Từ ngày có xe máy, thỉnh thoảng cụ lại hay đi chơi, chẳng ai biết cụ đi đâu, người nhà hỏi thì cụ lại bảo lên chơi trên phó), mọi người trong nhà thấy cụ có gì khang khác… Sau này, cụ mới kể lại cho chúng tôi nghe những việc làm của cụ hồi đó. Nguyên là khi trỗ về trong thành Hà Nội, cụ vẫn âm thầm hoạt động cách mạng và được cách

359

mạng cấp giấy chứng nhận để tiện cho công việc liên lạc. Trong những dịp trò chuyện với những viên sĩ quan người Pháp đến xin chữa bệnh, cụ đã biết được nhiều thông tin, những hoạt động quân sự, những đợt càn quét của quân Pháp ra vùng tự do bên ngoài thành Hà Nội, và cụ đã dùng chiếc xe máy đó chạy ra vùng tự do để báo tin cho người của ta, nhờ vậy mà -quân ta đã chuẩn bị được lực lượng, tránh được nhiều tổn thất cho đồng bào. Cụ kể, một lần, khi biết tin quân Pháp chuẩn bị một đợt càn quét lớn, cụ vội đi chiếc xe Mobilet ra vùng tự dọ để báo tin. Khi đến cánh đồng đầu làng đó, thì gặp một anh dân quân đang đứng gác, anh ta chặn xe lại đòi xem giấy tờ. Cụ cho anh ta xem giấy chứng nhận có dấu đỏ, nhưng anh này không biết chữ, cứ loay hoay lật đi lật lại tò giấy, anh ta bảo cái dấu tròn này là dấu giả, vì anh ta chỉ biết cái dấu vuông mà thôi. Cụ giải thích cái dấu tròn là dấu cấp nhà nước, cái dấu vuông là của địa phương. Nhưng anh dân quân kia nhất quyết không tin và bảo cụ đúng là Việt gian, vì Việt gian mới có xe máy và anh ta đòi trói cụ lại. Lúc đó, thời gian gấp gáp lắm rồi, quân giặc sắp càn quét, đến nơi, không thể đôi co mãi với anh dân quân này nữa, cụ chỉ tay xuống mương nước bảo: Này, có con cá kìa. Nghe vậy, anh chàng kia ngó xuống, cụ bèn xoay người đá quét chân và nói: Này, xuống mương này. Thế là anh dân quân ta lộn nhào xuống mương, cứ lội bì bõm ỗ dưới nước mãi mà không leo lên được. Cụ lên xe phóng vội đi để báo tin cho người của ta.

360

Trận ấy quân Pháp bị tổn thất nặng, quân ta do đã có sự chuẩn bị trước nên chỉ có vài người bị thương nhẹ, còn đồng bào đã kịp rút đi nơi khác an toàn. Nhưng sau đó, có liên lạc từ trong vùng tự do ra báo cho cụ biết, do có nội gián của địch, quân Pháp biết có người hoạt động cách mạng trong thành ra vùng tự do báo trước những trận càn và chúng đang truy tìm để bắt. Do đó cụ phải ngưng ngay việc liên lạc với cách mạng. Mấy hôm sau, lấy cớ tập đi xe máy không quen bị ngã ỗ sân nhà, cụ đem trả lại cho người chủ chiếc xe máy Mobilet. Sau này khi cải cách ruộng đất, cụ bị quy tội là phản động thân Pháp và bị kết án tù bảy năm. Cụ bị đưa đi trại cải tạo tại xã Đá Bàn, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Sau khi sửa sai, gia đình cụ được xuống thành phần trung nông, cụ được trả tự do sau bảy tháng bị đi tù. Cuộc đời cụ thật có bao điều đắng cay là vậy. LÒNG NHÂN T ừ Nhất viết từ, nhị viết kiệm… Đức Lão Tử Một hôm, trong một buổi tiếp chuyện, có một người thưa với cụ là: L ạy ông, sao trời kh ôn g g iết hết những bọn người g ia n th am độc ác đi. Cụ từ tôn nói rằng: N ếu người ta chết hết, th ì m ình ồ

361

với a i. Câu trả lòi của cụ làm chúng tôi phải suy nghĩ. Thường, khi xem xét một vấn đề gì đó hay về một con người cụ thể nào đó, chúng ta chỉ thấy được người mà quên đi mình. Ta nhận xét người khác với những thói xấu của họ bằng một con mắt khắt khe, mà đôi khi lại quên đi chính mình cũng còn có bao nhiêu thói hư tật xấu như vậy. Tôi còri nhố, thời thanh niên đã được đọc cuốn sách Chuông nguyện hồn a i của nhà văn Mỹ Ernest Miller Hemingway. Cuốn tiểu thuyết viết về Robert Jordan, một người Mỹ thuộc Lữ đoàn quốc tế tham gia chống Phát xít trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Tựa Chuông nguyện hồn a i được Hemingway lấy từ tác phẩm Meditation XVII của nhà thơ John Donne. K hôn g có m ột người nào là m ột hòn đảo, tự bản thân là m ột th ể h oàn chỉnh hết thảy; m ỗi người là một mảnh của đ ạ i lục, một p h ầ n của đ ấ t liền; và nếu sóng cuốn xuống biển m ột m ỏm đ á ven bờ, thì châu Ảu sẽ bé đi, củng như là nếu nó cuốn m ất một m ũi đất hay p h á đổ n h à bạn a n h h oặc n hà a n h ; cái chết của bất cứ con người n ào sẽ làm chín h tôi b é đi, vì tôi là một th ể thống n h ất với toàn nhân loạ iỉ d o đó an h đừng bao ‘giờ hỏi chuông nguyện hồn ai, chuông nguyện hồn ta đó. Vâng, mỗi người chúng ta là một thể tồn tại thông nhất với xã hội, và nếu chúng ta tách khỏi nền tảng đó thì giá trị của cuộc sông chẳng còn điều gì nữa. Cho nên ta sông phải có tình yêu thương.

362

Trong cuộc sông hàng ngày, chúng ta ăn uống, đi lại và sử dụng biết bao thứ đồ dùng do người khác làm ra và chúng ta có bao giờ tự hỏi mình rằng: Ta đã làm gì cho mọi người. Chúng tôi xin kể lại một câu chuyện. Trong những người bệnh lên gặp cụ xin chữa bệnh, có một người làm chúng tôi thấy khó chịu. Bà khách này lần nào cũng đến nhà cụ rất muộn, mãi sẩm tôi mới thấy bà ta thuê xe xích lô đến và mới vừa vào đến cổng ngõ nhà cụ, chưa thấy cụ đâu, bà ta đã nói oang oang “Con lạy cụ ạ! Con lạy cụ ạ!”, mà cụ thì sau một ngày tiếp khách bận rộn vừa mới ngả mình được một chút. Cụ bảo vối chúng tôi, cô chú cứ ngồi chơi, thầy đi nằm nghỉ một chút, đầu mình có phải bằng sắt đâu. T hế mà khi ngưòi đàn bà kia vào trong nhà, thì cụ đã trỏ dậy và ra ngồi ỏ chỗ tiếp khách hàng ngày. Mấy người chúng tôi ngồi ngoài sân lẩm bẩm với nhau, sao mà có người khách vô duyên thế… L át sau, đã thấy bà ta vội vàng bưốc ra, trên khuôn mặt người đàn bà giàu có đó còn ngấn lệ … Hôm sau, nhân lúc vắng khách, cụ nói vối chúng tôi rằng: Người ta giàu có, vàng đeo đầy người đấy, nhưng cũng kho tâm lắm, chồng thì nghiện rượu chẳng làm ăn gì mà chửi bới vợ suốt ngày, con cái thì có đứa hư hỏng, lại còn phải cưu mang một lũ cháu nghèo ỏ quê nội quê ngoại nữa, chứ có sung sướng gì đâu.

363

Nghe cụ dạy vậy, chúng tôi mới càng thấy tình thương bao la của cụ với tất cả mọi người và cảm thấy thật hổ thẹn với lòng mình. Ôi! Tình yêu thương chính là đạo của vũ trụ và chính tình yêu thương đó đã tạo lập nên thế giới này. Vũ trụ rộng lốn vô cùng vô tận và tình yêu thương bao trùm đến khắp muôn loài, muôn vật. Ta đi yêu Người, ta yêu nhau Người ta cũng ìà ta, khác đâu… GIỌT NƯỚC MẮT Giọt nước m ắt, giọt nước m ắt, những giọt nước mắt tuôn rơi trên những khu ôn m ặt dịu hiền. Giọt nước mắt, những giọt nước m ắt tuôn rơi vì đ â u ? Vì đ au thương hay vì buồn tủi… Đó là lời một bài hát mà trong đó chứa chan biết bao tình cảm, nỗi lòng của nhạc sỹ Tu My viết lên để kính dâng lên cụ Nguyễn Đức cần. Nhạc sỹ Tu My – Đỗ Mạnh Cưòng (1928 – 1986) nguyên là giáo viên dạy nhạc tại trường Trưng Vương Hà Nội, ông bị bệnh loạn nhịp tim, đau tim và đã đến xin cụ chữa bệnh. Ông vẫn thường khoe vói mọi người về tờ đạo mà cụ đã ban cho, ông luôn đeo bên trái tim mình và từ ngày đó trái tim ông đã khỏe mạnh với nhịp đập ổn định.

364

ông Tu My kể lại rằng, trong một lần lên nhà cụ Nguyễn Đức c ầ n , ông đã chứng kiến một câu chuyện cảm động. Có một người phụ nữ sau khi được cụ chữa khỏi bệnh, vối tấm lòng biết ơn, song chị chưa biết làm gì để cảm tạ cụ. Nhân thấy bữa cơm hàng ngày của cụ thật thanh đạm, chỉ có canh rau và mấy quả cà, nên hôm đó chị dành tiền mua lạng chả để lên biếu cụ. Nhưng khi chị đưa biếu miếng chả đó, cụ bảo: Õng nhận rồi, thôi cô m an g về cho các cháu . Cụ nói đến đây thì những giọt nước mắt của chị tuôn rơi. Chị kể vối người nhạc sỹ: Khổ quá, có lẽ ông cụ đã biết hết. Khi thấy tôi mua miếng chả này về nhà, mấy đứa con tôi chúng nó reo lên: A, hôm nay mẹ m ua chả, thích quá, lâu lắm chúng con chưa được ăn. Tôi vội mắng: Đây là chả mẹ mua về đ ể biếu ông chứ có p h ả i cho các con đâu.Thế là lũ trẻ tiu nghỉu, và khi chị nhận lại miếng chả mà cụ cho mang về, trên khuôn mặt người mẹ đó những giọt nước mắt tuôn trào vì cảm động trước tình thương của cụ. Câu chuyện đó đã làm nhạc sỹ Tu My xúc động và ông đã phổ nhạc bài hát Giọt nước m ắt. Và ngay trong gia đình nhạc sỹ cũng có câu chuyện thấm đẫm nước mắt. Vào năm 1979, ông Tu My có một người con gái là một thuyền nhân phải ra đi theo chồng đến một phương trời xa lạ… Chúng tôi xin trích dẫn lá thư của một người con gái Hà Nội phải sổng nơi tha hương gửi đến nơi cửa Cụ.

365

N gày 24 thán g 1 năm 1983 Cụ kín h m ến! K ín h thưa cụ, lời đầu tiên con xỉn kín h gửi tới cụ lòi chúc sức k h o ẻ và vạn sự bình an trong năm mới. T hư a cụ, con là con g á i của bô’Đỗ M ạnh Cường. Nay từ nơi xa xôi ‘này con xin gửi tới cụ, cầu m ong cụ cứu vớt chún g con. T hư a cụ, năm 1979 con cùng chồng rời quê hương vi thời cuộc, con p h ả i xa qu ê cha đ ất tổ. Qua nhiều ngày lên h đ ên h trên biển cả, cái chết k ề bên, sau cùng thuyền con đ i bị thủng và khôn g đi được đến đích. S au đó, là những ngày lan g thang m àn trời chiếu đất, đói khát nắng m ưa d ã i d ầu trên đ ấ t kh ách quê người, m à lúc đó con đ a n g có m an g bảy tháng. T hật là buồn k h ổ vô cùng và con ch an g thiết sôhg nữa cụ ạ. Nhưng suy đi tính lại, th ì c h ỉ vì thương đứ a con vô tình vô tội còn trong bụng m à a n b à i với địn h m ệnh, nhắm m ắt sống cho qu a ngày. T hưa cụ, ch ỗ con ở bây giờ là một nơi rừng núi, khỉ ho cò gáy, xung qu an h toàn là núi bao phủ, ảm đ ạm và buồn tênh m ột cách đán g sợ. Tới nơi đây, chúng con p h ả i làm ruộng cực nhọc, lại không biết cái n ghề này từ k h i c h a sin h mẹ đẻ. L a o động k h ổ ải, thời tiết lại khắc nghiệt, nên sức kh oẻ cứ bị tổn hao dần, sinh con củng kh ôn g đủ tháng, khôn g được đi viện, khôn g cọ bác sĩ nào ch ăm sóc cho cả, bồi dưỡng củng khôn g cố thứ gỉ… càng n ghĩ càn g tủi cụ ạ. B ây g iờ vợ chồng con ốm đ au củng

366

không có tiền đ i chữa bệnh vỉ làm lụng vất vả, ăn m ặc còn k h ôn g đủ. Cụ ạ, sa o s ố p h ậ n của con đen đ ủ i qu á. Con cầu mong cụ xét hiểu cho h o àn cản h của con, cứu vớt chúng con tai q u a nạn khỏi. Con khôn g bao g iờ d á m qu ên ơn cụ. B iết lòn g cụ rộng lượng n hân ái, thương yêu k ẻ lầm than tai h oạ. N ên con kín h thưa chuyện với cụ, con mong cụ c ố bớt thời g ia n xem lá thư nhỏ này. Con xin ch ân th àn h tạ ơn cụ lắm ạ. Lòi tái bút còn ghi thêm: Con là Đ ỗ L ệ My, đ a n g bị bệnh bướu cổ, chồn g con họ Lưu đ a n g bị bện h hen. Chúng con xin cụ cứu vót. Chúng tôi đọc lá thư của người con gái này mà lòng cổT nén tiếng thỏ dài. Chuyện đời của một người không quen biết mà sao thấy mắt mình nhỏ lệ. Chúng tôi chưa kịp hỏi người nhạc sĩ về sô” phận sau này của người con gái ông. Nhưng trong những lời ca của phần cuổỉ bài hát Giọt nước m ắ t, chúng tôi đã thấy những đám mây đen đang dần tan. Cụ như ánh dương của ngày mai đã tỏi. Nhưng, tiếng k h ốc hôm nay ngấn đọn g trên h à n g mi những h ạ t k im cương sán g chói. Nhưng, tiếng k h ó c hôm nay h o à trong tiếng cười, ơn Người tấm lòn g cao c ả đùm che.

367

sợ AI NHẤT Trong một lần tiếp một người khách quen là một vị tưống công an, cụ có hỏi: ô n g cố biết, tôi sợ a i nhất không? Câu hỏi của cụ làm vị tướng công an ngỡ ngàng và ông ta tự hỏi, không hiểu sao ông cụ lại hỏi mình như vậy? Thế rồi cụ trả lời, người làm cụ sợ nhất là anh công an hộ khẩu ỏ đây .Vì anh ta thường vào nhà cụ, hạch sách đủ điều, là tại sao có nhiều người đến đây thế, có giấy phép chữa bệnh không, thu bao nhiêu tiền… mà cụ thì không biết trả lời anh ta như th ế nào. Chúng tôi thấy ở trong nhiều đồn công an, thường treo trên tưòng lời dạy của Bác Hồ với công an nhân dân, đại ý là như thế này: Đốỉ với dân thì phải kính trọng lễ phép. Đôì với công việc thì phải gương mẫu, tận tuỵ… Khẩu hiệu nêu thì như vậy, nhưng có những anh công an khi tiếp xúc với dân, kể cả ngay đó là những người cao tuổi, thì vẫn nghe thấy những câu hỏi cộc lốc hách dịch, tưỏng như đang tra vấn người phạm pháp… ở nước ta, văn hoá ứng xử còn nhiều điều phải nói lắm. Chúng ta lại trở về câu chuyện ngày hôm đó… Vị tưóng công an, hôm ấy không phải chỉ đến chơi thăm cụ, ông ta thưa chuyện vối cụ rằng: Gia đình ông vừa được cấp nhà mói, nhưng có một việc làm ông ta sợ, là đêm đêm khi ngủ bị như có người đè và bóp cổ. Cụ bảo: Ông là tướng, lại có súng m à sợ nó à ? Vị

368

tướng muốn mòi cụ đến chơi nhà và giúp đỡ cho gia đình ông ta. Cụ nhận lời sẽ xuống nhà. Mấy ngày sau, cụ đến thăm ngôi nhà ông tướng theo địa chỉ mà ông ta ghi lại. Đấy là một khu nhà có người gác ỏ bên ngoài cổng. Anh lính gác thấy một ông già nhà quê đứng đó như tìm ai, bèn quát to: Ông già kia đi chỗ khác mà đứng. Nghe tiếng ầm ĩ bên ngoài, vị tướng mỏ cửa, thấy cụ đang đứng đó, ông ta vội vàng bỏ cả dép chạy chân không ra mời cụ vào nhà. Cụ bảo lây cho cụ một tờ giây hay là một tờ báo cũ cũng đươc.Vợ vị tướng đưa cho cụ một tờ báo. Cụ cầm tờ báo vặn xoắn lại và nói một câu gì đó, rồi bảo đốt đi. Vợ chồng vị tướng châm lửa đốt tờ báo đó ngay trong phòng. Khi tờ báo cháy hết, cụ bảo: T hôi xong rồi, tôi về. Gia đình vị tướng cảm ơn và mời cụ ở lại xơi bữa cơm trưa nhưng cụ từ chối, cụ bảo, nhiều người còn đang chờ cụ ở nhà. Mây ngày sau, chúng tôi gặp lại vị tướng trên nhà cụ, ông ta vui mừng báo tin là sau hôm cụ đến chơi nhà, ông đã ngủ ngon giấc. Cụ nói rằng, tôi đã bảo đi, thì nó phải đi. Chừng nửa tháng sau, có một anh công an trẻ đến thăm nhà cụ. Anh ta tự giới thiệu: Thưa cụ, cháu là công an hộ khẩu mới đến thay th ế ở địa bàn này, có gì xin cụ giúp đõ. Cụ mời anh công an xơi nước rồi bảo: Việc chú, chú cứ làm .T ôi và chú đều vì d ân m à p h ụ c vụ.

369

BỨC THƯ TỪ THẾ GIỚI BÊN KIA Lời dẫn: Lú c đầu, chúng tôi khôn g muốn đưa câu chuyện này vào, vì những điều u ám m à nó m ang lại. N hưng, t h ế giới m à chúng ta đan g sôhg chứa đựng cả h ạ n h p h ú c và đ au k h ố . Cuộc sống luôn luôn có sự đấu tranh giữ a thiện và ác. Có th ể bạn tìm thấy ồ đây, trong câu chuyện này, cái nghiệp báo m à con người p h ả i trả cho những việc làm tội lỗi. Một buổi chiều thu năm ấy, khi tôi đang đứng chơi ỏ sân nhà cụ thì có một người con gái dắt xe vào. Người con gái này làm tôi ngạc nhiên, vì khi tôi nhìn vào khuôn mặt cô ta, thấy đôi mắt chỉ toàn lòng trắng, nghĩa là cô đang trợn ngược đôi mắt, nhưng lạ thay cô ta vẫn dắt xe đi lại bình thường. Cô gái dựng xe đạp ỏ góc sân và bước vào trong nhà. Thấy việc này có vẻ kỳ lạ, vả lại vôn tính tò mò, nên tôi cũng vào nhà theo để xem sự tình như thế nào. Khi vừa thấy cụ, cô gái vội chắp tay và nói: C háu lạy ông ạ, rồi đột nhiên cô ta đôi giọng, tiếng nghe léo nhéo như nhiều người đang tranh nhau cùng nói: L ạy ông, con này xin lên ông, nhưng giữa đường nó lạ i la cà xem ản h ở sứ quán, chúng con định cho nó chui vào g ầ m ô tô, nhưng biết đến ông nên chúng con khôn g d ám . Lúc đó ngồi trong nhà cụ có rất nhiều người đến xin chữa bệnh, mọi người ngồi nghe và chứng kiến, ai cũng ngõ ngàng há cả mồm ra mà chẳng ai nói được câu nào. Bỗng cụ từ tôn bảo: Thôi, th a cho nó. Tôi chưa bao

370

giờ được nghe một giọng nói th ật nhẹ như cụ nói hòm đó, nó giông tựa như là giọng của một người mẹ dỗ dành đứa trẻ. Nói xong câu đó, thì cụ bỗng đứng lên đi xuống nhà dưới. Cô gái bỗng lại nói léo nhéo: L ạ y ông, đ ể chúng con kéo lưỡi nó ra cho nó biết. Chúng tôi thấy tự nhiên má cô gái hóp lại, lưõi thè dài ra, khuôn mặt xám xịt, đôi mắt trợn ngược hoang dại. Mọi người ngồi gần đó thâT kinh. Bỗng cụ từ nhà dưới trỗ lại trên nhà. Lần này giọng cụ nghiêm khắc, cụ bảo: Ta đ ã nói rồi, nếu kh ôn g nghe lời ta, ta sẽ b ắt h ết cho lên thượng. Cô gái vội chắp tay lạy cụ lia lịa và kêu xin: Xin ông tha cho chún g con. xin ông th a cho chúng con. Và cô gái trở lại bộ mặt bình thường, cụ rót nước và bảo cô ta uống nước. Ngồi trong nhà một lúc, thì cô gái đứng lên và đi ra sân. Tôi cũng ra theo và đến bên hỏi chuyện. Cô cho biết đang là sinh viên chuyến ngữ của một trường đại học, nhà cô ỏ khu Hoàn Kiếm – Hà Nội. Sau một lần đi thăm quan về thì cô bị bệnh tâm thần và cô được gia đình đưa lên xin cụ chữa bệnh. Cô nói rằng trong người cô có một lũ ma quỷ tá tức, mà toàn là trẻ con thôi. Tôi hỏi: H ọ có đôn g k h ô n g ? Cô trả lời: Có n hiều người lắm . Tôi lại hỏi: H ọ có khuôn m ặt như t h ế nào?

371

Cô nói: H ọ luôn luôn có một bộ m ặt buồn thảm như t h ế này này. Tôi thấy khuôn mặt cô gái đột nhiên thay đổi, từ một khuôn mặt thiếu nữ bỗng đổi sắc trông thật u tối và xám xịt… đúng là một khuôn mặt ma, trông thật khiếp sợ… rồi đột nhiên cô lại trở vào trong nhà và tôi cũng lại vào theo. Cô đã trỏ về trạng thái bình thường, tuy nét mặt vẫn phảng phất nỗi buồn nhưng đôi má thì đã thấy ửng đỏ … Tôi đã được nghe những câu chuyện về ma quỷ, nhưng tôi không tin vì cho rằng đó là những câu chuyện trong cổ tích hoặc người ta phịa ra để dọa trẻ con. Nhưng khi được chứng kiến cô gái này, đã hỏi chuyện cô nhiều lần thì thấy rằng những quan niệm cũ của mình phải thay đổi, vì đây là sự thật chính tôi đã được chứng kiến. Sau này, trong quá trình làm tư liệu, chúng tôi có được xem một bức thư của những linh hồn mà có thể tạm gọi là từ thế giới cõi âm gửi đến cụ, và bức thư đó do chính tay cô gái trên viết, theo chỉ dẫn của những linh hồn đau khổ. Xin trích dẫn dưới đây: H à Nội, ngày 25 tháng 5 năm 1980 K ín h lạy ông. C húng con là những âm hồn ở trong xác người, là những tà m a bóng quỷ, hết sức sung sướng được viết lên những dòng này đ ể bày tỏ lòng biết ơn cua chủng con đối với ông.

372

C húng con khôn g sao nói hết được lòng biết ơn sâu nặng của chúng con đôĩ với ông. N h ờ ông m à chúng con trở nên ngoan ngoãn thuần phục, sửa đổi tâm tính m à không qu ấy đ ả o gi. N hưng nhiều k h i chún g con cảm thấy m ột nỗi buồn, ch án nản cùng cực, chúng con đ ã chán kiếp sống len lỏi, chui rúc trong th ân xác người ta, ma trộn lẫn m a, ngày đêm mù m ịt th an khóc. K ín h lạy ông. Xin ông đ o á i thương đến loà i tà vong hèn m ọn ngu mê điên đ ả o chúng con, xin ông đ ộ tri ch o chúng con được hiền làn h và thông sán g đ ể chún g con được tu tâm sửa tính, hết điên đ ả o và h o an g m ang. N h ờ có ông m à chúng con cảm thấy yên tĩnh trong lòn g và h ối h ậ n về những tội lỗi của m ình, lòng tàn á c củ a chú n g con củng tiêu tan. Giữa cơn bình đ ịa ba đ à o và trong cơn qu ằn quại rên xiết của những linh hồn bị đày đoạ, ông là nguồn nước m át thiêng liêng kh ôn g b ao g iờ cạn tưới cho những tâm hồn kh ô cạn héo hon của chúng con. Chúng con muôn năm khôn g bao g iờ quên công ơn của ông. Chúng con muốn được tu sửa đ ể trở nên người tốt. Chúng con biết tội của chúng con là tày đình, nhưng vẫn trông chờ ở lượng bao dung của ông. Chúng con cắn rơm cắn cỏ lạy ông, xin ông đoái thương đến chúng con. Chúng con xin ông g iả i cho chúng con thoát kh ỏi cái kiếp tà m a chui rúc trong thân xác người ta, dù là m a ở đ âu đâu, đều được m ột lòng cúi xin ông cho về âm bằn g hết.

373

K ín h chúc ông vạn thọ, cứu nhân độ t h ế được hết cả trần g ia n này. K ín h lạy ông. C ác vong ở trong xác người Sau khi cụ qua đời tháng 6 năm Quý Hợi (1983), tôi không còn gặp lại cô gái viết lá thư kỳ lạ trên. Có người bảo cô đã khỏi bệnh và vào Nam, nơi quê hương của cha mẹ cô để sinh sống, nhưng có người lại bảo cô đã bị chết vì một bệnh gì đó. RA ĐI THANH THẢN H à nội ngày 8 tháng 11 năm 1980 Kính gửi cụ Nguyễn Đức cần. Con là Vũ Như Lộc, nguyên là giáo viên dạy sinh vật học ỏ Hà Nội. Gia đình chúng con đã được hưởng công đức của cụ và chịu ơn sâu, nghĩa nặng đốì với cụ đã gần chục năm nay. Cụ đã cứu chữa cho cả nhà con thoát khỏi nhiều chứng bệnh: Bản thân con bị đại tràng mãn tính và trĩ ngoại, nhà con bị suy nhược thần kinh. Đặc biệt hồi tháng 6 năm 1980 cụ đã cấp cứu cho cháu Lân thoát khỏi bệnh tả, bị mất nước, hôn mê. Lúc 4 giờ sáng hôm đó, em cháu đã phóng xe lên trình cụ, thì lạ thay khi về đến nhà, cháu Lân đả ngủ yên, bệnh giảm ngay và sau khi ngủ dậy cháu đã trỏ lại bình thường khoẻ

374

mạnh. Bản thân con còn bị bệnh sỏi bàng quang, đau đớn vô cùng, cụ đã cho khỏi hẳn chỉ sau một ngày, làm cho các bác sỹ cũng phải ngạc nhiên. Vừa qua, gia đình con có một con chó nhỏ vì tham ăn đã nuốt cả mấy cục xương to, do đó bị tắc ruột trong 3 ngày, nó bỏ không ăn uống, không đi đại tiểu tiện được rồi lả dần coi như sắp chết. Chúng con đã lên trình cụ, cụ thương và cứu sống con chó. Đến nay con chó đã hồi sinh, ăn ngủ, chạy nhảy trong sân nhà. Kính thưa Cụ. Con là một giáo viên dạy sinh vật, nhưng cũng không thể hiểu nổi cách chữa bệnh của cụ đôi với người và vật. Cụ đã “Vì mọi người” mà cứu giúp. Cụ đã cứu chữa cho hàng ngàn bệnh nhân thoát khỏi hàng trăm loại bệnh hiểm nghèo, thế mà cụ chưa bao giờ nhận tiền thù lao, cụ đã quên hẳn cái vế thứ hai là “Mọi người vì mình”. Không vì danh vọng, cũng chẳng vì tiền. Cụ đã vì Tô quốc, vì đạo đức con người mà đem tài năng của mình để cứu giúp cho nhân dân. Cụ đã đi trước thời đại, nên con người hiện nay chưa đủ trình độ để nhận thức được tài năng và phương pháp chữa bệnh của cụ. Nhưng sau này rồi th ế giới sẽ thấy được. Khi đó việc làm của cụ sẽ sáng tỏ. Công ơn của cụ thì rộng lón, trang giấy nhỏ làm sao mà nói lên hết được. Chúng con xin được bày tỏ tấm lòng chân thành, quý trọng và biết ơn sâu sác. Kính thư

375

Chúng tôi xin trích dẫn bức thư trên của ông Vũ( Như Lộc, một bức thư trong hàng ngàn bức thư gửi đến cảm tạ cụ Nguyễn Đức cần. Sau này trong quá trình sưu tầm tư liệu, lúc ngồi ôn lại việc chữa bệnh của cụ, ông Lộc đã kể lại một câu chuyện: Trưóc đây, mỗi khi mẹ tôi bị ốm, tôi đều lên xin cụ giúp đỡ và sau đó mẹ tôi đều khỏi bệnh. Nhưng vào năm đó, khi mẹ tôi bị ôm nặng, tôi lên trình cụ, thì cụ dạy, mệnh mẹ tôi đã hết và bảo tôi về nhà chuẩn bị đi. Cụ có cho một tờ giấy (tờ đạo) và dặn, khi nào mẹ tôi muốn ra đi thì hoá tờ đạo đó. Tôi vội về nhà họp gia đình, phân công công việc, sắp xếp mọi việc chu đáo. Sau đó tôi thắp hương trên bàn thờ tổ tiên rồi đến bên mẹ tôi lúc đó nằm thiêm thiếp trên giường, hỏi mẹ tôi đã sẵn lòng ra đi hay chưa? Mẹ tôi khẽ gật đầu đồng ý. Tôi bèn châm lửa hoá tò đạo mà cụ đã ban cho. Và ngay sau đố mẹ tôi đã thanh thản ra đi. Thật đúng là: Oai p h o n g k h iếp quỷ, kin h thần N hân n ghĩa xa gần, bách tính ngợi ca. Ông Lộc kể tiếp, sau khi làm lễ cúng tuần 35 ngày cho mẹ tôi, tôi lên Đại Yên đê cảm tạ cụ. Cụ dạy rằng, cụ sẽ chăm lo cho cả hương linh của mẹ tôi. Thật là ơn cụ vô vàn.

376

CON MUỖI NGÀY NAY T ru y ệ n cổ, tíc h xư a Ngày xưa, có một anh nông dân hiền lành, lấy được một cô vợ xinh đẹp. Người chồng quanh năm chăm chỉ làm ăn, còn người vợ thì lười biếng chỉ muốn hưỏng thụ sung sướng. Trong lúc hai vợ chồng tưỏng như chung sông với nhau cho đến đầu bạc răng long, thì người vợ bỗng dưng bị chết một cách bất ngờ. Người chồng đau đớn quá, không muốn rời xa vợ, bèn bán hết tài sản, mua một chiếc thuyền chỏ xác vợ đi lang thang trên sông nước. Một buổi sớm, thuyền trôi đến dưới chân một ngọn núi cỏ cây xanh tốt, hoa thơm ngào ngạt. Người chồng lên bờ bỗng gặp một ông lão râu tóc bạc phơ, tay chống gậy trúc. Cụ già hỏi chàng từ đâu lưu lạc tói chốn này. Người chồng đau khổ kể lại hoàn cảnh của mình. Và mong rằng vợ mình được sông lại. Cụ già thương hại nhìn chàng hồi lâu rồi nói: – Ta có thể giúp cho con đạt ước vọng, cho vợ con sông lại. Nhưng về sau con đừng có lấy làm ân hận. Người chồng trở về thuyền và làm theo lòi dặn của cụ già, chàng chích đầu ngón tay mình nhỏ ba giọt máu vào miệng người vợ, và thật ngạc nhiên người đàn bà bỗng từ từ mỏ mắt ra, rồi ngồi lên như sau một giấc ngủ dài. Và họ lại được sống bên nhau. Nhưng từ khi cho vợ ba giọt máu đào thì người chồng dần trở nên già nua ốm

377

yếu, còn người vợ lại còn xinh đẹp hơn xưa. Trên đường trỏ về quê nhà, họ gặp một chiếc thuyền buôn lớn đậu bên bến sông, chủ nhân là một tay lái buôn giàu có, hắn thấy người phụ nữ đẹp bèn tán tỉnh. Người đàn bà kia thấy gã lái buôn giàu có, quên cả tình xưa nghĩa cũ, bỏ người chồng nghèo, sang sông bên chiếc thuyền buôn. Người chồng buồn bã ngồi bên bến sông, bỗng đâu chàng lại thấy ông lão ngày trưóc đến bên và bảo chàng: Thôi con đừng buồn nữa, hãy bảo kẻ phụ tình kia trả lại ba giọt máu đào. Khi thấy chồng cũ đến đòi lại ba giọt máu, người đàn bà kia nói rằng: Tưỏng có việc gì ghê gớm, chứ ba giọt máu thì có nghĩa lý gì, rồi chị chàng liền lấy dao chích đầu ngón tay. Nhưng khi vừa trả xong ba giọt máu thì ả ngã lăn ra chết, và hóa thành một con muỗi, ngày đêm tìm cách hút cho được ba giọt máu để mong trở lại làm người. Câu ch u y ện thời nay ở một nhà kia, có hai vợ chồng nọ đang sống bên nhau, bỗng đâu người vợ bị lâm bệnh nặng. Người chồng hết lòng thương yêu, đưa đi bệnh viện, chạy chữa thuốc thang, đêm ngày phục vụ, những mong cho vợ chóng lành cơn bệnh. Nhưng bệnh tình người vợ vẫn không biến chuyển… cứ thế ròng rã đã mấy năm trời mà người chồng vẫn tận tâm chăm sóc, cho ăn cho uống, vệ sinh, giặt giũ. Hàng xóm, họ hàng ai cũng cảm động ngợi khen.

378

Một ngày kia, không biết có ai mách bảo, người chồng lên Đại Yên, xin nhờ cụ chữa bệnh. Từ ngày cụ nhận chữa giúp, người vợ chẳng mấy chốc đã bình phục, lại khỏe mạnh ‘béo tốt như xưa. Nhưng như người ta nói “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”, bỗng đâu người chồng lại đâm ra đổ bệnh, hàng xóm họ bảo nhau: Ong ấy ôm cũng phải thôi, từng ấy năm chăm vợ, đến đá cũng phải đổ mồ hôi. Lần này thì nhà họ hẳn có chỗ nương tựa rồi, người vợ lên Đại Yên xin cụ chữa bệnh cho chồng. Nhưng không hiểu sao bệnh chẳng thấy chuyển, người chồng cứ nằm liệt tại chỗ. Một hai tháng đầu thì người vợ còn chăm lo săn sóc cho chồng, đến tháng thứ ba thì xem chừng có phần uể oảỉ, vừa làm vừa gắt, kêu khổ suốt ngày. Một hôm, chị ta lên Đại Yên và xin cụ cho người chồng chóng ra đi cho “nhà con đố khổ”. Chưa bao giờ chúng tôi thấy cụ lại to tiếng như hôm ấy, cụ nói: Mời b à đ i về c h o . Người phụ nữ kia vội len lét ra về. Cụ bảo, sao lại có hạng người như thế. Nhưng cũng thật lạ thay, từ sau hôm đó, người chồng bỗng nhiên lành bệnh. Rồi họ dẫn nhau lên Đại Yên để tạ ơn cụ. Nhưng thật ngạc nhiên là chỉ người chồng là được vào gặp cụ để cảm tạ, còn người vợ thì cứ đứng cúi gằm chôn chân ngoài cổng, chẳng thể bước chân vào. Thấy vậy, người chồng thưa với cụ, xin cho người vợ được vào nhà, nhưng cụ nghiêm khắc nói rằng: Cứ để đứng đấy mà nhìn lại mình đi!

379

NHŨNG CÂU CHUYỆN VỂ CHIẾC XE ĐẠP Ngày nay, trên các đường phô” Hà Nội và ở nhiều thành phố” trên đất nước Việt Nam, phương tiện giao thông của người dân đa phần là xe gắn máy, một số’ gia đình cũng đã có xe ô tô riêng. Xe đạp ngày càng ít thấy trên đường phô”. Nhưng cách đây vài chục năm, từ khoảng những năm 1980 trỏ về trước thì những chiếc xe đạp là phương tiện đi lại của đa sô” người dân Hà Nội, không những vậy, xe đạp còn là một tài sản quý giá. Vào thời đó những chiếc xe đạp mang nhãn hiệu Thống nhất, Hà Nội, sản xuất ỏ trong nước nhưng không phải dễ mua. Xe đạp lúc đó được bán theo tiêu chuẩn cung cấp. Trong những cơ quan xí nghiệp, người ta tiến hành bình xét và phải đúng tiêu chuẩn thì mới được mua xe. Ai mà được mua xe thì hớn hở như trúng xổ sô” vậy. Mua được xe rồi thì phải đi đăng ký, mỗi xe đều phải có biển sô” đăng ký do công an cấp… Ngày ấy, có một gia đình ngưòi bệnh sau khi được cụ chữa cho khỏi một căn bệnh nặng, đã mang biếu cụ một chiếc xe đạp mới. Cụ cảm ơn và từ chối không nhận, nói rằng cụ cũng đã có xe rồi. Nhưng gia đình người bệnh kia vẫn cứ để chiếc xe đạp lại, cụ đành cất trong buồng nhà. Những ngày sau, thỉnh thoảng chúng tôi lại thấy khi vắng khách, cụ cầm phất trần vào phủi bụi cho chiếc xe đạp mới. Vì chiếc buồng nhỏ trong nhà cụ không có

380

cửa, nên ngồi uống nước bên phòng khách cũng vẫn thây chiếc xe để ở bên trong. Với tôi thì chuyện này thật lạ, vì tôi biết cụ có bao giờ màng đến của cải, vật chất và đê ý xem câu chuyện này thế nào. Dưòng như cụ cũng biết được những ý nghĩ đó. Một hôm, cụ lại cầm phất trần vào phủi bụi chiếc xe đạp mối, lúc quay ra cụ cười và bảo rằng, sắp sửa đến xin lại rồi. Quả nhiên vào buổi chiều ngày hôm đó, gia đình người bệnh kia lại kéo nhau lên gặp cụ. Lúc đầu thì thấy họ ngần ngừ, thì thầm với nhau, rồi một ngưòi mạnh dạn nói vối cụ rằng, vì thấy cụ không dùng đến chiếc xe đạp, mà nhà cháu thì có ngưòi còn chưa có xe đi, nên xin cụ cho lại. Cụ ôn tồn trả lời là cụ đã già rồi, có đi đâu mà dùng đến xe. Thôi mang về mà đi. Gia đình người kia rối rít cảm ơn cụ và vội dắt xe ra về. Nhưng cũng từ ngày đó chúng tôi ít khi gặp lại gia đình họ, chắc là họ còn bận nhiều việc và chẳng còn gì khó khăn trong cuộc sống nữa chăng? Câu chuyện thứ hai… Có một người là cán bộ Nhà nước và cũng là một bệnh nhân của cụ. Người cán bộ này được cử đi làm chuyên gia tại châu Phi và khi về nước có mua được một chiếc xe đạp Peugeot của Pháp.Thời đó xe đạp “Pơ giô” hay còn gọi là “Lơ giô” là mơ ước của những thanh niên Hà Nội như chúng tôi. Chẳng th ế mà có câu: Đẹp trai đ i

381

bộ, kh ôn g bằn g m ặt rỗ đ i L ơ (Lơ giô). Ý nói là mặt rỗ xâ’u trai nhưng có xe đạp Pơ giô thì các cô em vẫn mê. Cho nên chiếc xe Peugeot thời ấy là cả một gia tài, cả một ước mơ. Một hôm, khi đi chơi về, bác cán bộ để xe ở sân rồi vào nhà và quên không khoá xe. Khi chợt nhớ, định ra khóa xe thì chiếc xe đạp đã không cánh mà bay mất. c ả nhà nháo nhác đổ xô đi tìm và đi trình báo với đồn công an. Hôm sau, bác cán bộ kia lên trình bày vói cụ việc mất chiếc xe như vậy và xin cụ giúp đố, Cụ bảo rằng, cứ về đi rồi sẽ thấy. Một tuần lễ sau, chúng tôi gặp lại và bác vui mừng cho biết đã tìm thấy xe đạp bị mất rồi. Bác kể, khi trên cụ trỏ về thì mấy hôm sau, bên công an mời bác lên nhận lại xe. Sau khi làm các thủ tục cần thiết và nhận lại xe, bác cảm ơn cơ quan công an và ngỏ ý muốn gặp riêng đồng chí công an đã tìm ra chiếc xe để cảm ơn. Nhưng người cán bộ phụ trách công an, là người bạn quen cũ của bác nói rằng, anh không phải cảm ơn ai cả, và cho biết, nguyên là trong thời gian đó công an Hà Nội đang tiến hành điều tra về một vụ trộm cắp tài sản của một cơ quan ngoại giao. Nhiều cán bộ trinh sát được cử đi bám sát các tụ điểm buôn bán tiêu thụ của gian, trong đó trọng tâm là khu vực chợ giời Hà Nội. Trong buổi chiều hôm đó, bọn ăn trộm đã mang chiếc xe đạp Peugeot này ra chợ giời để tiêu thụ. Chúng định bán cho một cửa hàng thu mua đồ cũ và cửa hàng này là nơi 382

chuyên tiêu thụ của gian. Nhưng khi mới dựng chiếc xe bên ngoài gốc cây trước cửa hàng, chưa kịp bán, thì bọn chúng phát hỉện ra mấy trinh sát công an đang ngồi uôhg nưốc ở bên kia đường, th ế là bọn trộm tưỏng bị công an mật theo dõi, chúng vội để chiếc xe lại và lặng lẽ đánh bài chuồn. Lại nói, tay chủ cửa hàng kia cũng biết mặt một s ố trinh sát, tưỏng rằng công an đang giăng bẫy và để cao tay hơn nên y đã đóng vai một công dân lương thiện, dắt chiếc xe Peugeot kia đến nộp cho đồn công an. Chúng tôi nghe câu chuyện trên quả thật là ly kỳ, còn cụ cười vui mà nói rằng, cụ cũng có công an riêng đấy chứ . Câu chuyện thứ ba Có một ông ỏ phô” Mã Mây – Hà Nội, đã biết đến danh cụ từ những năm 1950 và ông hay thường xuyên lên gặp cụ. Cụ đã giúp cho ông trong những lúc hoạn nạn ốm đau. Ông có cho chúng tôi xem một sô” kinh sách về đạo Phật và ông là một người hiền nhân. Gia đình ông có người nhà ỏ nước ngoài và một lần họ gửi cho ông một chiếc xe đạp từ Mỹ quôc. Chúng tôi không nhớ nhãn hiệu của chiếc xe đó, nhưng chiếc xe rất đẹp và đạp thử thấy đi rất nhẹ. Hàng ngày ông thường lên thăm cụ và ông còn có một thú vui là tham gia vào một hội thơ ở phô” Sinh Từ cũ. Một hôm, khi nghe bình thơ xong, ra đến cửa thì chiếc xe của ông đã bị lấy trộm mất, mặc dù ông đã khoá kỹ càng. Lúc đó đã là buổi chiều muộn, ông vội đi bộ lên để trình với cụ và hy vọng… 383

Cụ lặng im trong giây lát rồi bảo: Chiếc xe đó còn là của ông à. Nghe lời cụ dạy như vậy, ông bừng tỉnh vội chắp tay và hiểu rằng, cái thân xác mình còn là vật tạm, huống hồ cái xe kia. Mọi vật có cái gì là mãi của mình đâu. ít lâu sau, ông sắm một chiếc xe đạp cũ và chúng tôi thi thoảng lại được gặp ông trên cửa cụ, để được ngồi bên cụ, nghe những lòi dạy bảo ân tình và lẽ sống làm người. BÀ HOÀNG THỊ THẾ

B à H oàng Thị Thê’ là con g á i của lãn h tụ Hoàng H oa T hám – người an h hùng d ân tộc, bà là m ột người nổi tiếng cả trong nước và nước ngoài. Chúng tôi xin trích dẫn một tư liệu về gia đình người anh hùng Đề Thám. Bà Đặng Thị Nhu hay còn gọi là Đặng Thị Nho (vợ ba Đề Thám) sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo ở Yên Thế (Bắc Giang). Miền đất này đã tạo nên cho bà trỏ thành một thiếu nữ gan dạ, tháo vát và giàu lòng yêu nước thiết tha. Trong cao trào chống thực, dân Pháp xâm lược của nhân dân ta cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám và nông dân vùng Yên Thế là cuộc đấu tranh vũ trang quyết liệt nhất, kéo dài nhất và cũng làm cho giặc lo ngại nhất. Cuộc khỏi nghĩa kéo dài tối 30 năm, trong cuộc khởi nghĩa này, bà Đặng Thị Nhu đã góp phần quan trọng cùng chồng xông pha trận mạc. 384

Khoảng đầu năm 1894, nghĩa quân Yên Thế ỏ vào một giai đoạn gay go ác liệt, lực lượng bị tiêu hao sau nhiều trận chiến, nghĩa quân đành phải phân tán, một bộ phận lánh sang Thái Nguyên. Bản thân Hoàng Hoa Thám lúc đó cũng bị địch truy lùng gắt gao nên phải ẩn náu trong núi rừng. Một buổi chiều khi tới làng Vạn Vân, trên đường đi bỗng Hoàng Hoa Thám gặp một cô gái xinh đẹp, khỏe mạnh, đó là Đặng Thị Nhu. Đề Thám nói dối cô Nhu, ông là người đi buôn, bị kẻ cướp lấy hết tiền nong vốn liếng, trời lại sắp tối, sẵn lòng thương người, cô Nhu đưa khách về nhà diện kiến với cha. Cha cô có người con nuôi là Thông Luận, một vị tưống của Đề Thám, hôm ấy cũng về thăm cha nuôi.Từ ngày đó, giã đình cô Đặng Thị Nhu trở thành cơ sỏ của nghĩa quân, và cô Nhu trở thành người giúp việc đắc lực cho Đề Thám. Thấy Đề Thám và cô Nhu tâm đồng ý hợp, với sự cho phép của cha già, chẳng bao lâu cô Nhu trỏ thành vợ ba của Hoàng Hoa Thám. Sau khi thành hôn Đặng Thị Nhu có tên mới là Bà Ba cẩn . Sát cánh bên chồng bàn định k ế hoạch xây dựng lực lượng, bà Ba c ẩ n đã đề xuất ý kiến là nên tranh thủ sự hòa hoãn, để xây dựng lực lượng, để có thực lực chiến đấu lâu dài. Bà phân tích cặn kẽ, lập luận vững chắc, đã được tưống lĩnh nghĩa quân và thủ lĩnh Đề Thám tán thành. Đến năm 1907, nghĩa quân của Đề Thám đã lan rộng đến Hà Nội, do sáng kiến và tổ chức của bà Ba Cẩn, Đẳng Nghĩa Hưng một tổ chức yêu nước chống 385

Pháp được thành lập ngay ỏ Hà Nội. Đảng Nghĩa Hưng . đề ra kế hoạch đánh úp Pháp và đầu độc lính Pháp tại Hà Nội. Việc bị lộ nhưng đã làm bọn Pháp rất hoang mang lo sợ. Ngày 29- 1- 1909, quân Pháp tập trung lực lượng đánh vào Yên Thế, bà Ba cẩ n đã chỉ huy nghĩa quân chiến đấu kiên cường, kêu gọi binh sĩ người Việt’ quay lại vói dân vói nước. Bà đã chiến đấu dũng cảm liên tục 10 tháng trời, nhưng thế giặc càng ngày càng mạnh. Sáng ngày 1- 12- 1909, bà Ba c ẩ n cùng con gái bị giặc bắt cùng một s ố nghĩa quân. Thực dân Pháp đã đem bà cùng con gái đi đày sang Guyane (Nam Mỹ). Dọc hải trình viễn dương, thừa lúc quân canh sơ ý, bà đã nhảy xuống biển tuẫn tiết. Là một cô gái nông dân, với ý chí căm thù giặc sâu sắc, bà Đặng Thị Nhu đã trỏ thành vị chỉ huy mưu hoạch chiến đấu oanh liệt và đã anh dũng hy sinh. Tấm gương dũng cảm, bất khuất của bà góp phần làm rạng ngời thêm truyền thông anh hùng của phụ nữ Việt Nam ta. Bà Ba sinh cho Đề Thám hai ngưồi con: Hoàng Thị Thế sinh 1903 (nhưng có tài liệu nói rằng bà sinh năm 1901 và mất ngày 9 tháng 12 năm 1988, mộ bà được xây tại khu di tích Yên Thế – Bắc Giang) và Hoàng Văn Vi sinh năm 1908. Năm 1913, để xoa dịu sự phẫn nộ của dân chúng, thực dân Pháp đưa bà Hoàng Thị Thế (lúc đó 10 tuổi) sang Pháp. Sau đó, bà dần nổi danh, ỏ tuổi 15 đã đóng phim Một Bức T hư, mà báo Pháp gọi bà là công chúa 386

Tàu. Bà lấy chồng người Pháp là ông Robert Bourges, một nhà sản xuất rượu vang ỏ Toulouse đầu năm 1930 và có lúc sinh sông ỏ Bỉ. Sau này, vào cuối thập kỷ 60, bà về sông ở khu Văn Chương, Hà Nội. Riêng ông Hoàng Văn Vi, tức Phồn, còn ít được biết. Năm 1935, báo N gày nay của nhóm Tự lực Văn đoàn có cử phóng viên lên Bắc Giang đến tận làng Trũng nơi sinh trưỏng của Đề Thám tìm gặp ông, cuộc gặp gố thú vị này được chính Việt Sinh kể lại trong phóng sự dài Bóng người Yên T h ế từ H ồ Chuối đến Đền Gồ, đăng tải hai kỳ liền trên N gày n ay . Bài báo cho biết, ông Vi sinh năm 1908 ngay tại đại bản doanh Phồn Xương của Đề Thám ở Yên Thế, nghĩa là khi cha mất, ông mới 5 tuổi. Thực dân Pháp bắt được ông, khi ông mối lên 7 tuổi. Chúng giao ông cho án Giáp Bắc Ninh nuôi và cho ông đi học trường tỉnh nhưng “mỗi bước đi tới trường đều có hai người lính đi kèm” sợ ông trốn… Khi ông 15 tuổi, người Pháp cho ông lên Hà Nội học trường Bách nghệ. Ồng mê nghề máy móc, nhưng người ta chỉ cho học nghề mộc. Sau 3 năm, ông xin về quê nhà làm ăn, lây vợ là con gái ông Thống Luận, một bộ tưống cũ của Đề Thám. Trong những đêm giao thừa trước đây tại Đại Yên, mọi người vẫn còn nhớ đến cụ Hoàng Thị Thế, thường mặc một chiếc áo dài gấm đỏ sang trọng đến chúc Tết cụ Nguyễn Đức cầ n . Có một sự tình cờ của lịch sử: Một trong những mưu sỹ thân cận của lãnh tụ Đề Thám là cụ nho Toàn tức cụ Nguyễn Đức Toàn, là ông nội của cụ 387

Nguyễn Đức cần . Khi đến Đại Yên, bà Hoàng Thị Thế kể rằng: Lúc ở Yên Thế, tuy còn bé nhưng bà vẫn còn nhớ một người thường gần gũi với cha mình là ông Nho Toàn người làng Đại Yên. Cụ Thế nói rằng, ỏ nưóc Việt Nam có hai người mà cụ quý mến và kính trọng, đó là anh Hồ (chủ tịch Hồ Chí Minh) và anh cầ n (cụ Nguyễn Đức cần). Cụ Thế hay nói chuyện vối cụ cầ n bằng tiếng Pháp, có lẽ do thói quen đã sống lâu năm ỏ nước ngoài, Chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một bức thư của cụ Hoàng Thị Thế. H an oi le 22 Septem bre 1980 C her Cần Tôi có nhời hỏi thăm a n h và g ia đình, nếu được m ạn h kh oẻ thì tôi lấy làm mừng. Tôi vẫn nhớ đến anh, nhưng đường xa xôi khôn g đến được. Anh đ ã chữa cho tôi 4 năm trước khỏi, bây g iờ nó lại (bị) về đường ruột nhiều, hơi táo bón. Tôi vừa mới ốm hôm thứ 3 vừa rồi… sô’t 4 đêm ngày liền… cả đời không bao g iờ tôi ốm như vừa rồi. Tôi ở bên P h áp hơn 30 ans (năm ) khôn g bao giờ tôi đi bệnh viện. H ôm nào, tôi cô’ đến thăm anh, nhưng an h p h ả i cho tôi sức khoẻ. Chúc cho an h được m ạn h khoẻ. K ín h thơ H o à n g T hị T h ế

388

Cụ T h ế không chỉ nổi danh là con gái của Hùm thiêng Yên Thế, mà cụ còn có một tài năng đặc biệt là dự báo được tương lai và vận mệnh của con người qua ngày sinh tháng đẻ hoặc nhìn khí sắc của họ. GÁNH NƯỚC ĐÊM TRẢNG

Khi xưa, hầu như ỏ mỗi con phô” Hà Nội đều có một chiếc máy nước công cộng, những chiếc máy nưóc này có từ thời Pháp tạm chiếm Hà Nội và sau khi Thủ đô được giải phóng thì đã có thêm nhiều chiếc máy nước khác ra đòi phục vụ đời sống của nhân dân Hà Nội. Có thể nói đại đa sô” người dân thủ đô ngày ấy phải đi lấy nước tại những chiếc máy nước công cộng này. Chẳng có mây nhà có máy nước riêng. Chiếc máy nước công cộng thành tụ điểm văn hóa xã hội, người ta gặp nhau chuyện trò, giặt giũ, rửa rau, tắm giặt cho con trẻ… và có cả những mối tình cũng bắt đầu từ nơi đây. Nói tóm lại, chiếc máy nước công cộng thời đó là một phần tất yếu không thể thiếu được trong cuộc sông thường ngày. Hồi đó, trong nhà cụ cũng không có máy nước, chỉ có một bể nưóc để hứng nưổc mưa. Chiếc bể này xây gần ngay khu bếp, chứa chừng khoảng trăm gánh nước. Kể ra nhà cụ có ít người, dùng tằn tiện cũng tạm đủ, nhưng khách đến xin chữa bệnh ngày mỗi thêm đông, ngày nào cũng có đến năm bảy chục người ra vào, lại có cả bao người từ những vùng quê xa tìm đến. Ai đến đây cũng 389

tìm ra bể nưốc rửa cái mặt, lau đi những giọt mồ hôi rồi mới lên nhà chào cụ. Nước dùng hàng ngày nhiều như thế, nhưng mà lúc nào nưdc trong bể cũng chưa bao giờ vơi. Thoạt tiên mối nghe thì tưỏng là chuyện thần kỳ bí hiểm gì đó… • Nhưng, như người ta thường nói, ở lâu thì mới biết… thì ra đó là câu chuyện gánh nước đêm trăng mà chúng tôi muốn kể lại sau đây: Chúng ta biết rằng, cụ Nguyễn Đức cần chữa bệnh giúp dân mà không màng đến của cải vật chất “Danh không ham, tiền không màng, cứu chữa vì cuộc sống đau khổ nhiều mà đùm che…”. Những người bệnh, sau khi được cụ cứu giúp vượt qua cơn ốm đau bệnh nạn, đều mang ơn cụ, nhưng cụ đều từ chốĩ các món quà mà họ mang đến. Người Việt Nam ta có một truyền thông đạo lý “Ưôhg nước nhớ nguồn”. Do vậy, những người bệnh chịu ơn cụ bàn với nhau xin phép cụ cho họ được gánh nước đổ vào bể nước trong nhà, và coi đó như một việc làm trả ơn. Là một người yêu lao động, cho nên cụ đồng ý với việc làm lao động đó. Thời đó, cả xóm nơi cụ ỏ chỉ có duy nhất một chiếc máy nước công cộng, vì thế ban ngày người dân phải xếp hàng dài để chờ lấy nưóc máy. Những người chịu ơn, những nam thanh nữ tú, họ hẹn nhau nửa đêm đến đây để cùng đi gánh nước về, vì lúc này đêm đã khuya, dân làng đã đi ngủ, máy nước đã vắng người. Mấy ai có biết, trong những đêm khuya vắng như vậy, có những t>óng người lặng lẽ quẩy những 390

gánh nước sóng sánh như đong đầy ánh trăng vàng. Họ gặp nhau trên con đường làng thanh vắng, với ánh mắt nhìn nhau như mỉm cười, trong niềm vui lao động khi thây mình đã làm được một việc gì đó vì mọi người. Trong những đêm như vậy, cụ cũng không ngủ và cùng thức trắng đêm vói con cháu. Mọi người vui vẻ quây quần trong sân nhà, bên cụ trong lúc nghỉ giải lao, ngồi uống chén nước, lắng nghe cụ kể những câu chuyện về những ngày xưa, hoặc đêm nào trăng sáng trời trong, thì mọi người cùng ngước lên bầu trời đầy sao, nghe cụ giảng giải, đâu là Nhị thập bát tú, đâu là chòm sao Thanh long, 28 ngôi sao ấy ở bốn phương trong khoảng không mà mặt trời, mặt trăng đi qua, và kia là sao Bắc đẩu, chung quanh chòm sao Bắc đẩu là chòm sao Tử vi, chòm sao Thái vi và chòm sao Thiên thị gọi là Tam viên. Trong những đêm hè, đến nửa đêm sẽ thấy chòm sao Thần nông ỏ phía chính Nam, còn hai bên bò sông Ngân Hà là sao Ngưu Lang và sao Chúc Nữ đua nhau nhấp nháy… Có câu thơ rằng : Sông Ngân vằng vặc sáng trong Ngàn sao lấp lánh, ánh trăng dịu dàng Sáo trời vì vút thổi vang Bao gỉờ Chúc Nữ vượt sông Ngổn Há Ôi! Vũ trụ bao la và rộng lớn biết bao chừng. Buổi sớm hôm sau, những người dậy sớm trong làng vẫn còn thấy những vệt nước còn in rõ trên con đường

391

làng quanh co, từ chỗ máy nước chạy vào bên trong cổng nhà cụ và chiếc bể trong nhà đã đầy ăm ắp. Thi thoảng cụ vẫn khen ngợi: Cô bác sỹ mà gánh nước cũng khỏe đấy. Vâng, lao động chính là một nguồn động lực mạnh mẽ để thúc đẩy sự phát triển của xã hội loài ngưòi. Trải qua hàng ngàn, hàng vạn năm, loài người chúng ta đã lao động để kiến tạo nên thế giối ngày nay. Và một con người chân chính thỉ phải là người biết yêu lao động. Đe kết thúc bài viết này, chúng tôi xin mượn lòi một bài hát: Vinh quang thay những người lao động. NỔI CƠM THẠCH SANH

Xưa nghe câu chuyện Thạch Sanh Có nồi cơm nhỏ đ ể dành nuôi quân Ngày nay trong cối hồng trân Có nồi cơm nhỏ giúp dân muôn nhà. Người ta sống ỏ trên đời, ăn uống là một nhu cầu cần thiết. Con người ăn để mà sông, chứ đâu phải sông để mà ăn. Trên th ế giởi, mỗi dân tộc, mỗi vùng, có một phong tục tập quán riêng. Những nếp sông, ăn uống, sinh hoạt hàng ngày, mỗi nơi một khác. Bữa cơm trong gia đình của người Việt Nam ta, có một phong cách riêng, rất đặc biệt, nó đầm ấm và thi vị. Sau một ngày lao động, cả gia đình xum vầy quanh mâm cơm. Người mẹ thường bao giò cũng ngồi đầu nồi 392

và từ bàn tay mẹ những bát cơm trắng còn đang bốc khói được xói ra đưa đến từng người. Rồi tiếng con trẻ mòi cơm ríu rít, tiếng người già chậm rãi ề à… cả nhà vừa ăn cơm vừa chuyện trò vui vẻ. Người già thì thích kể lại những câu chuyện xưa kia, còn lũ trẻ thì lựa lúc này để mà vòi vĩnh cha mẹ… Nhớ lại năm xưa, chúng tôi đã nhiều lần được cụ gọi cho ngồi ăn cơm cùng. Có khi chỉ đôi ba người, nhưng có lúc dễ đến cả chục người, ngồi vây kín trên chiếc chiếu rộng giữa nhà. Ai đă từng đến nơi đây, đã được ngồi quây quần bên cụ, mới càng nhận thấy tình yêu thương vô bờ mà cụ đã dành cho mọi người. Cụ là người chỏ che, đùm bọc, cứu giúp bao người vượt qua những đau thương hoạn nạn, mà sao thấy gần gũi thân thiết như một người ông, người cha già trong gia đình. Được ngồi ăn cơm cùng với cụ là niềm vui sướng của nhiều người chịu ơn cụ. Cụ kể cho mọi người nghe về các bệnh nhân, có những người ở Pháp, Canada, ở những miền rất xa xôi, người ta gửi những lá thư nói về hiệu quả của việc chữa bệnh của cụ và lòng biết ơn của họ đối vối cụ. Một lần, khi cụ đang ăn cơm chiều, thì có một người khách đến nhà. Lúc đầu, bà ta còn ngồi bên ngoài cửa, sau thấy cứ ngồi xích dần vào gần chỗ cụ đang ngồi ăn cơm, nhưng lúc đó đã có nhiều người ngồi kín vây quanh cụ, họ đang lắng nghe cụ nói chuyện… Chợt cụ dừng lại, nhìn người khách mới đến với vẻ 393

bao dung nhân từ. Cụ nói: Ô, tôi xin lỗi bà. Rồi cụ bảo một chị: Cô cho thầy xin chiếc bát và đôi đũa để mời bà đây xơi cơm. Chúng tôi nhìn thấy vẻ mặt hân hoan của người khách mới đến vì được ngồi ăn cơm cùng cụ. Bữa cơm của cụ thật đơn sơ và đạm bạc, thường chỉ là một thứ rau gì đó, mấy hạt lạc rang, đôi ba chén rượu hoặc có thêm vài bìa đậu phụ mà thôi. Điều mà ai cũng phải ngạc nhiên khi nhìn thấy nồi cơm nhà cụ, nó quá bé, tưồng chừng chưa đủ để xói được hai bát cơm nhỏ.Thế mà có bữa sáng cụ ăn không hết, buổi chiều cụ chỉ ăn bát cơm rang lại là xong bữa. Cụ vẫn nói vui rằng, dạ dày tôi chỉ bé bằng quả quýt, thì ăn làm gì cho nhiều. Bà cụ Chút, một người em họ của cụ, có thòi thường đến nhà thổi cơm giúp cho cụ, kể với chúng tôi rằng: Từ xưạ ông vẫn dùng cái nồi cơm bé xíu ấy, mà bữa cơm của ông cụ có gì đâu, thường quanh năm chỉ có cơm cà với nước rau, có hôm nước rau còn không có thì cơm cà chan với nước lã lấy từ bể nước mưa ỏ cuối sân nhà. Mỗi khi được ăn cơm cùng với cụ, dù ít hay đông người, ai cũng thấy no lòng và sung sướng, mà cũng thật lạ, vẫn chỉ có chiếc nồi cơm nhỏ bé đó, th ế mà mãi không hết. Còn cụ thì nói vui rằng: Đó là nồi cơm Thạch Sanh.

394

NHẠC SỸ TU MY VÀ TỔ KHÚC CHƯA HOÀN THÀNH

Ngày 29 tháng 9 năm 1982 (13 tháng 8 năm Nhâm Tuất), nhạc sỹ Tu My- Đỗ Mạnh Cường sáng tác bài hát Sao rực sá n g làn g h o a để kính tặng cụ Nguyễn Đức c ầ n (sau cụ cho sửa lại là kính tạ cho đúng nghĩa). Ông Tu My tên th ật là Đỗ Mạnh Cường, trước đây gia đình ông ỏ phô” Nguyễn Văn Tố, một con phô” nhỏ ngay sát bên chợ Hàng Da, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Rung cảm trưóc tài năng và đức độ của cụ Nguyễn Đức Cần, nhạc sỹ Tu My đã sáng tác 14 bài hát để kính dâng lên cụ như : S a o rực sáng là n g h o a , Ong th ân yêu, Vườn ngọc nở hoa, Du xuân, Giọt nước m ắt, G iơ tay lên, Gần x a …… Những ngày mùa thu năm 1982, không khí trên nhà cụ thật náo nức. Ngay từ sáng sóm ngày chủ nhật 17 tháng 10 (mùng 1 tháng 9 năm Nhâm Tuất), những ngưòi bệnh hay tin có ca hát chúc tụng cụ, đã đến ngồi chật kín trong nhà cụ. Nhạc sỹ Tu My cùng các nghệ sỹ, người mang đàn accordion, ngưòi ôm ghita, ngưòi xách violon… hẹn cùng nhau để lên nhà cụ. Thay mặt cho các nghệ sỹ, nhạc sỹ Tu My thưa với cụ: – Thưa ông, hôm nay họ nhà xẩm chúng con lên để hát mừng chúc tụng ông. Mọi người, ai nấy đều hân hoan, vui sướng. Khi nghe các nghệ sỹ trình tấu xong khúc nhạc bài hát S a o rực sán g làn g hoa, cụ Nguyễn Đức c ầ n nói rằng: Bài hát này là để cho Thầy tôi. 395

Bản nhạc S a o rực sán g làn g hoa, theo nhịp 2/4 vói tiết tấu tươi vui, sâu lắng ngợi ca công đức của cụ Nguyễn Đức cần . v ề phần lòi bài hát, nhạc sỹ Tu My kể lại, ông phải suy ngẫm rất kỹ trong việc lựa chọn ngôn từ lời ca, và ông đã lên gặp cụ nhiều lần để sửa lại cho chuẩn xác. Sau ngày đó, nhạc sỹ có hẹn chúng tôi đến trường Trưng Vương, nơi ông đang dạy nhạc, để tập hát. Khi chúng tôi đến, ông đã ngồi chờ bên cây đàn piano. Có lẽ đây là một lớp học nhạc đặc biệt hiếm có trên đời, những người đến học, toàn là những ngưòi lớn tuổi, có bác trên mái đầu tóc đã điểm bạc, vì thế mà lũ học sinh trong trường cũng phải tò mò, cứ ngấp nghé ồ bên ngoài để xem. Và chúng thật ngạc nhiên khi thấy chúng tôi say sưa tập hát, hát lên những lời ca đẹp lòng bao tâm hồn. Bài hát thứ hai, mà nhạc sỹ Tu My kính dâng lên cụ là bài Ông thân yêu. Lúc đầu bài hát có tên là ôn g m uôn năm. Sau đổi lại là Ông thân yêu. Bài hát theo nhịp 2/4, vui tươi như không khí rộn ràng ngày xuân với hoa đào nở, vối bao chim hót đầu cành. Ngày xưa ấy, làng Đại Yên, làng Ngọc Hà, Hữu Tiệp còn là những làng hoa nổi tiếng của Hà Nội. Những ngày đầu xuân năm mới trên nhà cụ thật đầm ấm, rộn rã tiếng nói cười. Như thường lệ hàng năm, khi cụ Nguyễn Đức cầ n còn sống, vẫn thường có một buổi họp mặt vào đêm giao thừa, đồng thòi cũng là ngày sinh của cụ. Những ngày này những người biết cụ, hoặc 396

được cụ giúp đỡ những khó khăn về sức khoẻ và cuộc sống, những người công tác trong các lĩnh vực khoa học, nghiên cứu về cụ, đã cùng họp mặt để chúc mừng ngày sinh của cụ, đồng thời cũng là đón mừng một năm mới sắp đến. Mọi người đều xúc động chờ đón giờ phút giao thừa, nghe tiếng pháo nổ, đón xuân bên cạnh cụ, mà tất cả mọi người coi như một người cha, một ngưồi ông, một người thầy vô cùng kính mến. Ngày mồng hai Tết là ngày của thiếu nhi, những gia đình bệnh nhân, những ông bà, cha mẹ mang con cháu lên đây chúc Tết và xin lộc cụ đầu xuân. Cụ cho bầy hàng chục mâm cỗ trong sân nhà, ánh mắt thương yêu trìu mến nhìn đàn con cháu. Thật khó có nơi nào trên thế giói lại có được cảnh tượng đầm ấm như vậy. Được chứng kiến khung cảnh trên với bao cảm xúc dâng trào trong trái tim mình, nhạc sỹ Tu My đã viết lên bài hát ồn g th ân yêu. Bài hát Giơ tay lên , nói đến hai cảnh tượng khác nhau. Trong chiến trận, khi nghe tiếng hô “giơ tay lên” là tiếng hô thất thanh, là nghe thấy tiếng súng đạn kèm theo, là tiếng tử thần vẫy gọi. Nhưng hiệu lệnh Giơ tay lên của cụ, cũng là lúc cụ điều khiển chữa cho những người bệnh cử động được những cánh tay bị liệt, tiếng cụ uy nghi nhũng ngọt ngào, mang lại cho họ cuộc đời mới ấm no và hạnh phúc. Bài h át G ần xa, dựa theo điệu Xuân nữ dân ca Bắc Ninh, theo ý lời dạy của cụ Nguyễn Đức Cần: T h ế nào là gần, th ế nào là xa? Cụ nói rằng: Có 397

những người hàng ngày ở gần cụ, nhưng tâm không thật thì lại là xa. Có những người .ở xa tận Praha hay Matxcơva, nhưng tâm thật, nghĩa là họ sông có nhân nghĩa theo đạo lý của cụ thì lại là gần. Ở gần tâm thiểu hóa xa Ở xa tâm thật hóa ra lại gần. Một ngày C U Ố I xuân năm Quý Hợi, 1983, nhạc sỹ Tu My hẹn chúng tôi đến nhà ông. Nhạc sỹ đang sáng tác một tổ khúc Cầu nguyện để dâng lên cụ. Tổ khúc này dành để cho những dàn đồng ca hát những lời cầu nguyện trong những dịp ngày lễ tết. Tôi vẫn còn nhớ rõ hình ảnh nhạc sỹ Tu My ngày ấy ôm chiếc đàn ghi ta, hát những lời hát đầu tiên trong tổ khúc C ầu nguyện… Nhưng thật đáng tiếc, khi tổ khúc này chưa kip hoàn thành, thì cụ đã qua đời vào tháng 6 năm Quý Hợi, 1983, và mấy năm sau, người nhạc sỹ tài hoa ấy cũng ra đi theo cụ về cõi trời xa. Nhưng thật may, chúng tôi cũng kịp chép lại toàn bộ lời của tổ khúc Cẩu nguyện.

398

T ổ KHÚC CẦU NGUYỆN Sáng tác Tu My – Đ ỗ Mạnh Cường Cầu Minh

Kính xin, ơn Người minh soi sáng suốt Cho chúng con tấm ỉòng thảnh thơi dịu mát Cho nhìn cuộc đời thêm đẹp lòng người, người ơi. Cầu Phúc

Kính xin, cầu xỉn con cháu hiền lành Làm ăn chân thực, chan hòa tình thương Sao cho trên kính dưới nhường Biết ơn tiên tổ hước đường dựng xây Ăn quả nhớ k ẻ trồng cây Uống nước nhớ nguồn Có cha, có mẹ mới có ta. Cầu An

Sống trên đời nhiều nổi gian truân Kính xin Người đùm bọc chỏ che Cho những ai ăn ở thẳng ngay Luôn mạnh khỏe và luôn may mắn Sống theo Người làm phúc cho dân Bớt ưu phiền hạnh phúc an vui Cầu Bình

Cầu xin trên dưới thuận hiền Cho mấy gập gió, mưa nắng điều hòa Cho già mạnh khỏe, cho trẻ thơ ca Đất nước nở hoa, muôn dân ấm no. 399

TIẾNG CƯỜI

Vào khoảng năm 1972, có một gia đình từ huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc đến xin cụ chữa bệnh. Cả hai vợ chồng nhà đó là những nông dân nghèo, vào độ tuổi trung niên. Người chồng mắc một căn bệnh kỳ lạ, có lẽ có một không hai trên đời, là luôn luôn đi theo vợ. Hàng ngày, vợ đi đâu là anh chồng đi theo đấy, làm cho người vợ không thể nào chịu nổi và cũng không thể làm được việc gì. Khi người ta còn trẻ và yêu nhau, thì có bao nhiêu là lời thề thốt yêu đương. Người ta chỉ muôn người mình yêu là của riêng mình, như hình vối bóng. Thi sĩ đồng quê Nguyễn Bính đã có viết một bài thơ nói về tình yêu: Cô nhân tình bé nhỏ của tôi oi Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười Những lúc cố tôi và mắt chỉ Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai Đừng hôn dù một cánh hoa rơi Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ Đừng tắm chiều nay biển lắm người … T hế nghĩa là yêu quá mất rồi Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi Và nghĩa là cô và tất cả Cô là tất cả của riêng tôi.

400

Nhưng có lẽ những điều thi sĩ nói lên đó chỉ có trong văn thơ tiểu thuyết mà thôi. Nhưng đây lại là một câu chuyện thực ỏ đời. Không hiểu sao bỗng dưng lại xảy ra như vậy, anh chồng cứ đi theo sau vợ như hình với bóng, chẳng lúc nào rời. Lúc ồ trong nhà, lúc ra ngoài đồng, lúc đi buổi chợ. Ngay cả lúc phải vệ sinh riêng cũng đứng canh bên cạnh. Thật là không thể nào chịu đựng nổi. Mỗi khi vợ chồng nhà đó đi đâu, làng xóm kéo nhau ra xem, chỉ chỏ và cười đùa, tưởng chừng như đấy là một anh chồng đang ghen nhất trần đời. Người vợ không thể làm ăn gì được và quyết đưa chồng đi bệnh viện để chữa bệnh. Các bác sỹ khám, chẳng thấy có tổn thương gì, tim phổi huyết áp bình thường, hỏi chuyện bệnh nhân cũng chẳng thấy có biểu hiện của bệnh tâm thần, đành kê đơn cho uống một ít thuốc bổ rồi cho về. Về nhà mọi việc vẫn y sì như cũ, vợ đi đâu thì chồng đi đấy, lẽo đẽo, lẽo đẽo theo sau… Cứ như thế mấy năm đã trôi qua, cuộc sống của gia đình họ lâm vào cảnh bần hàn, tâm trí sức lực ngày càng hao mòn, tưởng chừng chẳng biết còn trông đợi vào đâu. Không hiểu có ai mách bảo, nhưng một ngày kia, hai vợ chồng họ đã tìm được đến nhà cụ ỏ Đại Yên. Người vợ thưa lại vối cụ tình trạng của chồng và gia cảnh, nếu cứ mãi như thế này thì chúng con còn tâm sức đâu để mà làm ăn, sinh sống. Và chị cầu xin cụ cứu giúp.

401

Cụ quay sang bảo với người chồng: – Thôi, đề cho vợ nó còn làm ăn chứ, sao lại cứ di theo mãi thế. Anh chồng thưa lại vối cụ: – Thưa cụ, thế con không phải đi theo nữa ạ? Cụ cười và dạy: – Từ nay thì thôi nhé. Thôi dắt nhau về đi. Cụ còn dặn, về nhà nhó viết thư cho cụ. ít lâu sau, gia đình họ gửi thư tới cụ báo tin vui, là từ ngày trên cụ trở về, người chồng đã không còn lẽo đẽo đi theo vợ nữa, hàng ngày đã đi làm ruộng, đánh cá và giúp đỡ vợ con các việc trong nhà. Cuộc sổng đã dần khấm khá lên. Tiếng cười ngày xưa chỉ có ỗ ngoài ngõ xóm, nay đã trỏ lại ở trong mái nhà yên ấm đó. KHÔNG THAM VÀNG

Anh Lê Quang, trước đây là cán bộ điều vận của một công ty xây dựng ỏ Hà nội. sỏ dĩ anh được biết đến cụ Nguyễn Đức c ầ n là do mẹ anh bị bệnh sơ gan cổ trướng. Lúc đó, bà đã ngoài sáu mươi tuổi và gan bị nhiễm bệnh, bụng cứng và sưng to như người mang thai bảy tháng. Mẹ anh đã đi chữa ỏ nhiều bệnh viện, thậm chí lên cả miền ngược để tìm thuốc, nhưng bệnh cũng không thuyên giảm. 402

Một lần, tình cờ đến làng Đại Yên, Hà Nội, để mua thuốc nam, được một người mách bảo, anh đã tìm đến cửa cụ, được cụ nhận lời cứu giúp. Từ đó, mẹ anh đã khỏi bệnh. Sau đó hàng ngày vào buổi sáng anh xin phép được lên nhà cụ, để giúp đỡ các công việc trong gia đình. Vào một ngày, khi đang làm việc tại công trình xây dựng, anh nhặt được một chiếc ấm cổ pha trà bằng vàng ỏ khu lăng Hoàng Cao Khải, gần gò Đống Đa, Hà Nội. Anh lên thưa chuyện với cụ. Cụ nói, nếu anh muốn thử vàng, cụ sẽ nói giúp, vì trong s ố bệnh nhân của cụ có người làm nghề kim hoàn. Sau khi thử, người thợ kim hoàn cho biết, đúng là chiếc ấm đó bằng vàng, nhưng độ tuổi còn non, vàng chỉ độ năm, sáu tuổi. Thời ấy, vói một gia đình nghèo lại đông con như gia đình anh, thì chiếc ấm vàng đó quả là một vật có giá trị lốn. Nhưng anh cũng biết rằng, người ta thưòng nói Được b ạc th ì sang, được vàng th ì lụi, cho nên anh chưa dám bán chiếc ấm vàng đó. Mà cụ cũng không dạy gì cả. Điều đó làm anh phải suy nghĩ. Mấy ngày sau, lựa lúc vắng người, anh xin cụ cách xử lý. Cụ dạy: Chú phải biết nơi đó (chỗ anh Quang nhặt được chiếc ấm vàng), máu đã chảy thành sông. Chúng ta biết rằng, vào mùa xuân năm Kỷ Dậu, 1789, vua Quang Trung đã đánh tan 29 vạn quân Thanh, tiêu biểu là trận đánh Ngọc Hồi, Đống Đa. Sử 403

sách có ghi rằng: Quân nhà Thanh bị giết, thây nằm ngổn ngang khắp đồng, máu chảy như tháo nước, xác chất chồng thành 13 gò đông, về sau chỉ còn giữ lại một gò, trên đó có trồng những cây đa nên gọi là gò Đống Đa. Nghe cụ dạy như vậy, anh thấy mình tỉnh ngộ, và xin cụ cho phép được thả chiếc ấm vàng đó xuống sông. Sáng tinh mơ hôm sau, anh đạp xe lên cầu Long Biên, Hà Nội, đến giữa cầu, dòng sông Hồng nước đang cuộn chảy, anh thả chiếc ấm xuống dòng sông. Sau đó anh về, trình lại vối cụ việc mình đã làm. Cụ dạy: Thật mừng cho chú… vì đã không tham. Và anh được biết rằng, vật cũng có vật lành, vật ác. Có vật mang lại điều tốt, nhưng có vật lại mang đến tai họa. Chiếc ấm đó là vật chứng của bao tội ác, hận thù, đầu rơi máu chảy và cái ác đã tích lại vào đó. Bỏ xuống sông, nước sẽ gột rửa các tội lỗi, hận thù ấy đi, và cái chính là nó sẽ không còn làm hại ai nữa. BÁO OÁN T íc h x ư a

Thuở xưa vào đời nhà Đường có một vị quốc sư hiệu là Ngộ Đạt, tên là Tri Huyền. Lúc chưa hiển đạt, ngài thường gặp gỡ một nhà sư ở đất Kinh Sư trong một ngôi chùa nọ. Nhà sư ấy mắc bệnh hủi, ai cũng gớm, chỉ có ngài Tri Huyền là thường gần gũi hỏi han giúp đỡ, không hề khinh rẻ. Nhân khi chia tay, nhà sư vì cảm kích trước tấm lòng 404

của ngài Tri Huyền mói dặn rằng: Sau này ông có nạn chi, nên qua núi Cửu Lũng tìm tôi, và nhớ trên núi ây có hai cây tùng làm dấu chỗ tôi trú ngụ. Sau đó ngài Ngộ Đạt quốc sư đến ỏ chùa An Quốc thì đạo đức của ngài càng vang khắp. Vua thân hành đến pháp tịch nghe ngài giảng đạo. Nhân đó vua mới ân từ cho ngài cái pháp tọa bằng gỗ trầm hương. Nhưng, cũng từ đó trên đầu gôl của ngài bỗng nhiên mọc một mụn ghẻ tựa như mặt người, đau nhức khôn xiết. Ngài cho mời tất cả các bậc danh y, nhưng không ai chữa được. Nhân ngài nhớ lời dặn trước bèn đi vào núi mà tìm. Trên đường đi, trời đã mờ tôi, trong khoảng âm u mây bay khói tỏa mịt mù, ngài nhìn xem bốn phía, bỗng thấy hai cây tùng, ngài mối tin rằng lời ước hẹn xưa không sai. Ngài liền đến ngay chỗ đó, quả nhiên thây lầu vàng điện ngọc lộng lẫy nguy nga, ánh quang minh chói rọi khắp nơi. Trưóc cửa, nhà sư đang đứng chờ đón ngài một cách thân mật. Nhân ở lại đêm, ngài Ngộ Đạt mới tỏ hết sự đau khổ của mình. Nhà sư ấy nói: Không hề gì đâu, dưới núi này có một cái suối, sáng mai rửa, mụn ghẻ ây khỏi ngay. Mờ sáng hôm sau, một chú tiểu đồng dẫn ngài ra ngoài suối. Ngài vừa bụm nưốc lên rửa, thì mụn ghẻ kêu lên: – Đừng rửa vội. Ông học nhiều biết rộng, đã khảo cứu các sách cổ kim mà có từng đọc đến chuyện Viên Áng, Tiều Thô’ chép trong bộ Tây Hán chưa?

405

– Tôi có đọc. – Ông đã đọc rồi lẽ nào lại không biết chuyện Viên Áng giết Tiều Thô” vậy. Thô” bị chém ở chợ phía đông, oan ức biết dường nào. Ong chính là Viên Áng đó. Đời đời tôi tìm cách báo thù ông, song đã mười kiếp ông làm bậc cao tăng, giới luật tinh nghiêm, nên tôi chưa tiện bề báo oán được. Nay vì ông được nhà vua quá yêu chuộng nên khỏi tâm danh lợi làm tổn giới đức, tôi mới báo thù được ông. Nay nhờ ngài Ca Nặc Ca tôn giả lấy nước pháp Tam muội rửa oán cho tôi rồi, từ đây trỏ đi tôi không còn báo oán ông nữa. Ngài Ngộ Đạt nghe qua hoảng sợ liền vội vàng bụm nước dội rửa mụn ghẻ, làm nhức nhôi tận xương tủy, chết giấc hồi lâu mới tỉnh. Khi tỉnh lại thì không thấy mụn ghẻ ấy nữa. Ngài muôn trỏ lên lạy tạ vị sư, nhưng ngoảnh lại thì ngôi bảo điện kia đã biến mất tự bao giờ. Vì thê” ngài bèn lập một cái thảo am ngay chỗ ấy và sau trỏ thành một ngôi chùa. Khi đó Ngài Ngộ Đạt nghĩ đến nỗi oan trái đã bao đời nếu không gặp thánh nhân thì đâu có khỏi được. Vì cảm niệm cái ơn tê” độ lạ lùng ấy, ngài mới thuật ra pháp sám này để mai chiều lễ tụng, sau truyền bá khắp thiên hạ. Nghĩa chính của bài văn này là lấy nước Tam muội rửa sạch nghiệp oan khiên nên mổi đặt tên là Thủy Sám. (Trích trong Kinh Thuỷ Sám) V à ch u y ện nay

ở một làng quê ngoại thành Hà Nội, trong một gia

406

đình nông dân nọ, có bảy người con trai. Gia đình họ làm ăn chất phác, chăm chỉ nên cũng tạo dựng được một cơ ngơi, nhà cửa, vườn ao rộng rãi. Nhưng có một chuyện lạ, là những ngưòi con trong gia đình này, cứ đến năm mười bảy tuổi là bị tai nạn chết, người thì bị chết đuối, người thì bị ngã do trèo cây, người thì bị xe đâm… gia đình rất sợ hãi, đã đi cúng lễ ồ nhiều nơi, đã mời nhiều thầy về cúng lễ tại nhà. Nhưng cứ đến hạn định, người con nào đến mười bảy tuổi là bị nạn đột tử mà chết thảm thương. Có sáu người con của họ đã bị chết như vậy. Và chỉ còn một người con trai duy nhâ’t năm đó đã bước vào tuổi mười bảy. Gia đình người nông dân đó như nằm trên đông lửa. Năm đó, vào vụ gặt mùa, cụ sang làng thăm một s ố bà con bệnh nhân mà trước đó họ đã thiết tha mời cụ. Khi cụ vừa đến cánh đồng làng thì nhiều người đang làm đồng trông thấy, vội chạy ra chào đón tíu tít. Cụ dừng chân, hỏi chuyện bà con. Mọi người vui mừng kể rằng năm nay được mùa, lúa tốt, nhà nào thóc cũng đầy sân. Đang lúc vui chuyện, thì vợ chồng nhà nọ, không biết có ai mách bảo, chạy đến quỳ thụp ngay dưới chân cụ, kêu xin cụ cứu giúp. Họ vừa khóc, vừa kể lể sự tình và kêu xin: – Bây giờ gia đình chúng con chỉ còn đứa con trai duy nhất, trăm lạy cụ cứu cho.

407

Cụ trầm ngâm đôi chút, rồi bảo: – Thôi, hãy đứng dậy đã. Được, tôi sẽ giúp. Mọi người có mặt lúc đó ai cũng mừng chc họ, vì thấy cụ đã nhận lời. Nhưng, người ta còn chờ xem sô” phận của người con trai họ. Một năm trôi qua, rồi hai năm… gia đình họ vẫn bình yên. Và đến khi chàng trai tròn hai mươi tuổi thì gia đình cưới vợ cho con, họ sang báo tin mừng và mời cụ. Cụ bảo: – Tôi mừng cho ông bà, nhưng muốn giữ gìn được gia đình hạnh phúc thì phải luôn ăn ỏ có đạo đức, làm nhiều điều tốt đẹp. Sau này, cụ cho biết: Kiếp trước nhà kia đã làm chết bảy người của một gia đình trong một hô” vôi, họ đã bị chết rất thảm thương và đến đời này họ đòi lại món nợ. Oán thù nếu không được giải, thì nó sẽ chất chồng mãi, đời này sang đời khác.

ĐI TƯ – TƯ ĐI Mùa thu năm ấy, có một nhà sư đem dâng cụ cuốn kinh H ồi dương nhân quả. Nhà sư này họ Đàm, nguyên trước đây chị là một kế toán trưỏng xinh đẹp của một công ty, nhưng tai bay vạ gió bỗng đâu lại đến. Người giám đốc tham ô một khoản

408

tiền lớn và công ty bị vố nợ. Khi ra tòa xét xử, thì chị lại bị kết tội vối mức án là bảy năm tù, còn người giám đốc thoát tội, chỉ bị án treo mà thôi. Quá cay đắng vối bản án và chẳng có ai minh oan cho mình, người yêu cũng không hiểu và xa lánh, dư luận xã hội lên án… chị đã tìm đến cái chết, nhưng cả ba lần tự tử đều có người cứu. Sau ba năm tù tại Hỏa Lò, Hà Nội, người ta xét lại vụ án, và chị được minh oan, vì không tham ô sô” tiền đó. Sau khi ra tù, chị bị mất việc và cũng mất luôn cả lòng tin. Chị xuống tóc và đi tu, nhưng vào chùa cũng không được yên… Một hôm, duyên may đã đến, chị tìm đến nhà cụ. Cụ rất thương người con gái đó. Cụ hỏi chị có muôn về nhà lấy chồng hay không? Cụ dạy: – Không phải chạy trốn cuộc đời, đâu phải cứ ỏ chùa mối là tu, ồ đâu cũng tu được con ạ. Nhưng chị thấy lửa lòng mình đã tắt, chị xin cụ cho chuyển đến một ngôi chùa khác. Cụ dạỳ: – Tu là sửa mình cho trong sạch và để giúp cho đời. Từ ngày gặp cụ, chị đã thấy bình tâm trỏ lại, thanh thản trên con đường mà mình đã chọn, và tìm thấy ồ cuộc đời còn nhiều điều tốt đẹp. Cụ dạy, cuốn kinh H ồi dương n hân q u ả là một cuốn kinh tu tắt. Đó là một câu chuyện kể về thiện sỹ Lâm Tự Kỳ bị quỷ vô thường bắt nhầm và sau đó được trỏ về dương thế… 409

Phần chính của cuốn kinh là cuộc đối thoại giữa thiện sỹ và vị vua Tần Quảng Vương. …Lâm Tự Kỳ tâu: – Tôi cảm ơn vương gia cho sống lại, từ nay quyết chí tu hành. Song chưa biết lớp lang điều nào làm trước chọ đúng cách? Tần Quảng Vương phán rằng: – Đạo là ngũ đại: Chúa- tôi, cha- con, chồng- vợ, anh- em, bằng hữu (bạn bè) cũng trong năm bậc ngũ luân, chó không có điều chi lạ. Sao gọi là đạo chúa- tôi? Phàm làm quan thì trưóc phải ngay chúa, thương dân, ỏ trong triều hay trấn cõi ngoài, đều giữ theo luật cho xứng chức phận, hết lòng hết sức, cứ lẽ công bình mà quên tư vị, lo việc nước mà quên việc nhà ấy là theo bực chức phận. Còn dân dã thì lo cho đủ xâu thuế, không phạm phép nước, giữ bổn phận thảo thuận, ngay chính thật thà, giữ theo lễ nghĩa, nhà ở nhân nhường, khuyên dạy quê khờ, giữ gìn phong hoá. Ay là bậc chúa – tôi. Còn đạo cha – con, làm cha nuôi con thì phải dạy. Thương con thì phải tập cho nó cần lao hoặc dạy sách kinh cho thông đạo lý, hoặc dạy ruộng rẫy, buôn bán nghề nghiệp làm ăn. Chẳng nên cưng hư, chớ tập lũ hoang đàng bài bạc. Còn làm con, lo nuôi dưống kính yêu cha mẹ, việc lớn thì lo ăn học nên danh cho cha mẹ vinh hiển, ở thanh liêm ngay thẳng cho cha mẹ được

410

tiêng khen. K ế đó phải ráng sức, hết lòng mà nuôi cha mẹ, ăn mặc cho xứng đáng tuỳ theo sức mình, giàu sang thì dâng mùi ngon ngọt và chiều lòng cho cha mẹ vui, đừng để cha mẹ bất bình mới trọn thảo. Nếu nghèo khó muối dưa hẩm hút, cũng nuôi cha mẹ đẹp lòng, liều thân trâu ngựa mà đền ơn cúc dục. Chớ ỷ một sự nuôi mà không kính lễ. Còn phải biết, thân vóc này là thịt xương của cha mẹ chia cho, nên phải thủ thân, chẳng dám huỷ hoại thân thể và cũng không dám làm quấy cho nhục cái vóc của cha mẹ sinh thành, mới là trọn thảo. Ây là đạo cha con như vậy. Còn chồng-vỢ, phải phân biệt, chồng lo việc ngoài, vợ lo việc trong cho đúng cách. Chồng cầm quyền vợ, song phải lấy lễ nghĩa mà đãi nhau, đừng bỏ phép mà mày tao mi tớ, hoặc chồng ỷ quyền mà đánh hiếp vợ, hoặc vợ vô lễ mà sỉ nhục chồng. Chồng trọng vợ tại đức hạnh, chẳng nên mê sắc. Vợ kính chồng như thờ chúa, phải giữ đạo tôi, vợ chồng thuận hoà thì nên gia đạo. Chồng dạy vợ hiền kính cha mẹ chồng cho dâu sẽ bắt chước, hoà thuận chị em dâu thì trong nhà hết sinh nghi. Chồng dạy thì vợ phải nghe mới gọi xướng tuỳ trọn đạo. Ây là tu việc vợ chồng. Còn như anh-em, chị-em cùng một chỗ mà ra, một máu một th ịt như tay chân, thể như các nhánh cây cùng chung một gốc. Nếu anh đau như em đau, coi như một vóc, dầu sự may rủi, sự vui sự buồn cũng chung cùng

411

nhau một thể. Như cha mẹ còn mà anh em hoà thuận, thương yêu nhau thì cha mẹ vui mừng.lắm. Tuy cha mẹ đã khuất, ngó thấy anh em cũng như thấy cha mẹ, thương anh em cũng như thương cha mẹ. Nói tắt một điều: cha mẹ, anh em là trời định, không đổi dời được, còn vợ con là ở sau, tại nơi người định, nên đổi dời được. Vi vậy chẳng khá trọng vợ con mà khinh anh em, chớ khá vị tình sau mà quên nghĩa trưốc, thì đó là tu việc anh- em rồi, Còn bầu bạn cũng đứng vào năm bậc nhân luân là cớ làm sao vậy? Mình làm việc lỗi, nhờ bạn trách mối bỏ. Việc làm nên hư, lợi hại, phải quấy của mìưh, có khi cha mẹ, vợ con nói không được vì không nỡ nói, mà bạn dám nói. Có việc cấp nạn, cha mẹ vợ con cứu không được mà bạn lo được, cứu được. Cho nên con người không nên chẳng có bạn đạo nghĩa, cho nên kết bạn, nói phải chắc chắn nghìn lời, lâu ngày cũng chẳng quên nhau. Mình ở trọn đạo với bằng hữu, tự nhiên bằng hữu giúp lợi ích cho mình. Tu xong cái đạo bằng hữu thì năm bậc đại nhân luân trọn rồi. Người tu hành chẳng luận bỏ nhà hay ở nhà, gái trai, già trẻ, cũng không luận sang hèn, giàu nghèo hoặc trôi nổi hoạn nạn. Không người nào mà tu chẳng được, không chỗ nào mà tu chẳng được, không thủa nào mà tu chẳng được. Tại nơi mình, tuỳ theo bổn phận trong lòng cho an. Mình có dư coi như còn thiếu, chớ sinh lòng kiêu căng, xài phí quá chừng. Mình tuy thiếu coi như có dư,

412

đừng sinh dạ tham, ước mơ quá lẽ. ở với người cứ một chữ Dung. Trị trong nhà nhớ trăm câu N hịn. Nếu ai ỏ điều chi quấy quá, mình hết lòng tìm kiếm cho ra chỗ phải của người. Mình ò điều chi phải nhiều, mình hết sức xét suy cho ra chỗ phải còn thiếu. Lo cần kiệm là dầu sinh ý, giữ hiếu đễ là cội tu thân, lại còn bô” thí giúp đời, làm lành chẳng mỏi. Làm được vậy trọn đời, gìn chay tốt, không gìn cũng tốt. Niệm Phật linh, không niệm cũng linh. Việc ăn chay là ép xác sửa lòng, miễn là làm mười điều lành, lánh mười điều dữ thì đủ rồi. Nếu ăn chay niệm Phật mà mười điều dữ không bỏ, mười điều lành không làm chẳng những không phúc, không công mà lại nhiều tội, nhiều lỗi. Nếu chân tu thì phải sửa mình, giữ đạo là thứ nhất, bô” thí ăn chay là thứ nhì. Cái nào cũng quý tại chữ T âm , bô” thí khó tại lòng N h ă n , không khó đều ra có của. Ãn chay khó tại lòng C hín h, không khó miệng cữ kiêng. Ấy là lời khuyên của trẫm. Xin thiện sỹ rán lên. Như vậy, mọi người chúng ta, ai cũng phải tu, để vươn lên một cuộc sông tô”t đẹp hơn. Phải chăng đó là sự phát triển, tiến hóa tất yếu của xã hội loài người. ĐI TÌM NHŨNG BÔNG HOA MÀU VÀNG

Một hôm, sau chuyến du xuân, cụ ra đứng ỏ sân nhà gọi chị (chị Quan Anh Chinh) mà dặn rằng: Cô đi tìm cho thầy cây hoa màu vàng để trồng ỏ đây. 413

Nhớ lời dặn đó, vào một buổi chiều mấy ngày sau, chị cùng tôi, lên xe đạp vào làng hoa, đi tìm những bông hoa màu vàng. Thời đó, làng hoa Ngọc Hà vườn tược vẫn còn nhiều, muôn sắc hoa vẫn còn đang khoe7màu trong mùa xuân mới. Chúng tôi đi quanh trong lốì xóm, giữa những hàng cây xanh ngát với muôn màu xanh lá biếc, cứ đi tìm mãi như thế, rồi bỗng nhiên đến một vườn kia, trước mắt chúng tôi hiện ra muôn đoá hoa vàng tươi rực rỡ. Chúng tôi bước vào, thì cũng vừa may gặp được bà chủ vưòn. Biết chúng tôi từ nơi cụ đến, bà vồn vã hỏi thăm và để cho vào vườn tuỳ ý mà chọn cây. Khi chúng tôi đánh xong những khóm hoa, thì trời đã dần tốĩ. Lúc tôi trả tiền, bà chủ nhà nói rằng, chỉ tính vốh mua giông cây mà thôi. Tôi trả bà năm đồng, chúng tôi cảm ơn và buộc hoa lên xe trỏ về. Màn đêm đã buông xuống tự bao giờ, hai bên làng xóm đã đỏ đèn. Mưa xuân nhẹ rơi trên mái tóc. Khi trỏ về đến sân nhà, chị khẽ khàng nhắc tôi nhẹ bước, để cụ có thể được nghỉ yên đôi chút. Chúng tôi chia các khóm hoa ra hai bên bồn hoa, rồi hai chị em cặm cụi trồng. Lúc gần xong, ngẩng đầu lên, tôi thấy cụ đã ra ngồi xem nơi cửa chính từ lúc nào. Chúng tôi chào cụ, rồi ra giếng nước góc sân rửa tay. Khi tôi quay vào nhà, thì cụ hỏi mua bao nhiêu tiền hoa đê cụ trả.

414

Tôi thưa lại rằng, thật chẳng đáng là bao, bỏi nghĩ đến công ơn cứu giúp của cụ với gia đình tôi, thì tiền nào có thể đổi lại được. Cụ lấy ví trong túi áo ra và bảo tôi: Năm đồng phải không. Lúc đó, chị quay sang nói với tôi: – Em thấy chưa, ông đã biết hết. Tôi đứng lặng yên, không chỉ vì cụ đã nói đúng s ố tiền tôi đã trả cho người chủ vườn lúc trước, mà chợt hiểu rằng, cụ đã dạy tôi lẽ sống công bằng ỏ đòi, có vay có trả. Tôi đưa hai tay ra đón nhận lại sô” tiền mà cụ đã trao cho. Chợt cụ quay lại bảo chị: – Thầy đã đói rồi, cô đi dọn cơm cho thầy. Chúng tôi biết rằng, cụ vừa dùng xong cơm bữa tốỉ, nhưng muốn cho chúng tôi được ngồi lại bên cụ như những đứa con, đứa cháu trong gia đình. Chỉ một lát, mâm cơm đã được dọn lên. Mấy bát cơm rang, ít chút dưa muôi, một đĩa lạc và chén rượu trắng. Cụ ngồi nhìn chúng tôi ăn và chỉ nhấp môi chén rượu. Chúng tôi được biết, hóa ra cây cỏ không phải là vật vô tri, vô giác, mà chúng có tính khí của nó, như cây tre có tính kiên cường và kết đoàn. Tre mọc đan xen thành bụi, càng nhiều càng đoàn kết vững chắc. Cây chuối, cây mẹ đẻ cây con, là loại cây có nghĩa, có tình. Cây cũng có tình cảm, cũng có hàng xóm. Gần hàng xóm tốt, cùng tính khí thì hòa hợp, phát triển, gặp hàng xóm khắc tính thì tàn lụi, héo úa. 415

Một điều kỳ lạ nữa là cụ còn hẹn ngày cho hoa nở. Trong sân nhà cụ có những khóm hồng, cứ đúng ngày tuần 13 hoặc 28 hàng tháng là hoa đua nhau nỏ rộ. Chúng tôi được ngồi bên cụ, trong một buổi tối mùa xuân thật đáng nhớ, ngắm nhìn mái tóc bạc phơ với dáng ngồi uy nghi mà hiền từ của cụ, sao bỗng thấý thân thiết như một người ông, một người cha trong gia đình. Có ai biết chăng, chính ở nơi đây, cụ đã gieo trồng xuống cõi đời bao mầm giông của lòng nhân từ. Để rồi mai ngày sẽ nỏ ra muôn đóa hoa vàng, thơm ngát hương đời. N g u y ển Tài Đức

CÂU CHUYỆN Ở CHÙA VÔ VI

Chùa Vô Vi thuộc xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, Hà Nội, cách trung tâm thành phô” chừng 25km về phía tây. Từ Hà Nội đi theo con đường quốc lộ sô” 6 hướng đi Hòa Bình, Sơn La đến đầu thị trấn Chúc Sơn (huyện Chương Mỹ) có một con đường nhỏ bên phải, đó là con đường dẫn vào núi Trầm và chùa Vô Vi. Ngôi chùa này nằm trên núi Vô Vi, đốỉ diện ỏ phía bắc núi Tử Trầm. Tương truyền, ngôi chùa cổ được xây dựng từ năm 968 do một thủ lĩnh trong 12 sứ quân là Trần Văn Tăng đã đến đây mai danh ẩn tích, xuất gia giảng đạo rồi xây dựng lên. Thời Tiền Lê, chùa xây dựng ỏ chân núi Trạo

416

(980-1004) có tên là Phúc Trù tự. Đến thời nhà Trần, chùa được xây ở lưng núi gọi là Trai Tinh tự. Thòi Hậu Lê, niên hiệu Hồng Thuận thứ 6 (1514) chùa dời lên gần đỉnh núi như ngày nay, đổi lại tên như thời Đinh là Vô Vi tự. Đây cũng là nơi lưu giữ nhiều văn bia có giá trị sử liệu và nghệ thuật kiến trúc đặc trưng của thế kỷ X. Hiện ở trên núi còn một bia đá khắc bài thơ của Trần Văn Tăng được viết bằng chữ Nôm như sau: Sơn Đông chi hằng Vô Vi phật tự Thuỳ kỳ huyền sư đạo sĩ Bên này Thiên Trúc nọ Bồng Lai Đem cảnh thanh u đặt giữa trời… Từ cổng chùa phía dưới chân núi, sau khi leo lên gần hai trăm bậc thang đá thì đến sân chùa trên. Từ đây khách thập phương có thể nhìn thấy cảnh đồng quê trù phú của một vùng ven sông Đáy và tận hưởng cảm giác thanh bình cùng vói không khí thật trong lành, tĩnh mịch. Vào một ngày mùa hè năm ấy, cụ Nguyễn Đức c ầ n đến thăm ngôi chùa Vô Vi, khi cụ lên đến sân chùa trên đỉnh núi thì gặp một ông thầy chùa mặc chiếc áo nâu sồng từ trong nội tự bước ra. Cụ hỏi: – Ông là người trông coi ngôi chùa này? Ông thầy chùa đáp: – Thưa cụ, vâng ạ. Cụ bảo: – Ông hãy kéo chiếc mành che cửa chùa lên cho

417

sáng, sao lại để chùa tăm tối thế. Nghe lời cụ, ông thầy chùa buộc chiếc mành che cửa chùa lên cao, rồi bước ra sân. Cụ hỏi ông thầy chùa: – Chùa có tên là Vô Vi, vậy vô vi có nghĩa gì? Ông thầy chùa đáp: – Thưa cụ, Vô Vi là vô cùng vi diệu. Cụ lại hỏi tiếp: – Ông theo Phật, vậy ông có sợ chết không? Ông thầy chùa trả lồi: – Thưa cụ, Đức Phật dạy: Không không, sắc sắc, thế gian vốn vô thường, năm ấm là vô ngã, luôn sinh diệt biến đổi, tâm là nguồn gây ác, thân là rừng nghiệp tội, thân xác con người không ai giữ mãi được. Vậy việc gì phải sợ chết. Cụ cười bảo: – Ông nói hay lắm. Chợt cụ chỉ tay lên đỉnh núi và bảo ông thầy chùa: – Này, ông nhìn kìa! Bỗng đâu, một tảng đá lớn từ trên đỉnh núi lao rầm xuống. Ông thầy chùa hoảng hốt, nhảy tót ngay vào trong chùa, mặt vẫn còn tái mét. Còn cụ, vẫn điềm nhiên đứng trước sân chùa. Thật may, tảng đá ấy rơi ngay xuống hẻm núi bên cạnh chùa và làm gãy một cây lớn. Cụ quay vào nói với ông thày chùa: Ông cũng nhanh chân thật. Bỗng có một cậu bé con, đầu trọc, cũng mặc một chiếc áo nâu từ phía sau chùa chạy ra hỏi: Cái gì thế hả

418

thầy? Cụ hỏi ông thầy chùa: – Đây là sư con hay là con sư? Ông thầy chùa gãi đầu nói: – Thưa cụ, cháu đây là con của con. Cụ vào và đi một vòng quanh chùa, phía sau ngôi chùa có một lầu trông trăng, cả n h vật ỏ đây th ật vắng lặng, u tịch. Cụ bảo vói ông thầy chùa: Hai bô’ con ông trông chùa mà để hương khói lạnh lẽo quá. Rồi cụ lấy tiền trong túi ra đưa cho ông thầy chùa, cụ nói: Ong xem chỗ nào còn dột nát thì tu sửa lại. Ong thầy chùa xít xoa cảm ơn. Cụ bảo, thôi tôi về, ông không phải đưa tiễn. Khi xuống đến cổng chùa nơi chân núi, cụ giảng giải với chúng tôi: Vô vi là nghĩa Phật, tức là làm một cách kín đáo, đem cái tự nhiên mà giúp, chứ không phải là không làm gì. Trong cách chữa bệnh giúp đời của cụ, người bệnh khỏi một cách nhẹ nhàng tự nhiên, khỏi lúc nào không biết, tưỏng như trước đây mình không có bệnh. Khi người bệnh khỏi bệnh, và đến báo tin với cụ, cụ vẫn thường nói rằng: Tôi mừng cho gia đình ông bà. Đó chính là đạo Vô Vi.

419

Phẩn VII NHÀ VÃN HÓA TÂM LINH

NGUYỄN ĐỨC CẦN – NHÀ VĂN HÓA TÂM LINH N hững n ăm 70, 80 của t h ế kỷ XX, cụ Nguyễn Đức Cần được coi như một “phù thủy” chữ a bệnh bằn g năng lượng nổi tiếng. N gày 4 – 7- 2011 (tức m ùng 4 tháng 6 năm T ân Mão), hàn g trăm người từ k h ắ p nơi đ ổ về làng T h an h M ai, huyện T han h Oai, H à N ội đ ể tưởng nhớ ngày g iỗ của cụ Nguyễn Đức c ầ n . Đã đi vào sách Đi từ Hà Nội, qua Hà Đông đến ngã ba Ba La Bông Đỏ, rẽ trái theo quốc lộ 21b, qua Thạch Bích, rồi qua Bình Đà khoảng 3km, bên tay phải sẽ thấy ngay một khu mộ rộng, rỢp bóng cây che mát, quanh năm có hoa tươi. Điều lạ lùng là mỗi ngày ở ngôi mộ này đều có khoảng gần trăm người, trong thôn, trong xã hoặc ỏ những nơi xa đến ngồi trật tự, xếp bằng, hai tay để trên gốì, lưng thẳng mắt khép hơ, tư thế thiền định như những người theo đạo Phật. Họ ngồi tĩnh tâm như vậy 420

hàng giờ trong không khí tĩnh lặng hướng về ngôi mộ với sự thành kính đến lạ lùng. Trong sô” đó, có nhiều người bệnh tật đến đây để thu nhận năng lượng chữa bệnh. Nhìn qua, đây chỉ là một ngôi mộ bình thường, được cất từ năm 1983 với tên húy trên văn bia là cụ Nguyễn Đức c ầ n (Trưởng cần ) ở Đại Yên, Hà Nội. Ngày 4- 7- 2011 (tức ngày 4- 6 năm Tân Mão) nhân ngày giỗ lần thứ 28 của cụ, hàng trăm ân nhân và các nhà nghiên cứu đã cùng về tri ân. Tại buổi lễ, nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải, Chủ nhiệm bộ môn Thông tin dự báo, Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người, người nghiên cứu về khả năng chữa bệnh của cụ từ năm 1974 và Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin đã giới thiệu cuốn sách được tái bản lần thứ 2 đầu năm 2011: Nguyễn Đức c ầ n – N h à văn h ó a tâm lin h . Ông Hải cho biết ngày 22- 11- 2009, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của cụ, tại Hội trường lớn Học viện Hành chính Quốc gia, Câu lạc bộ Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người đã tổ chức buổi tọa đàm về cụ. Có hàng trăm bài báo cả trong nước và quốc tế đã viết về cách chữa bệnh của cụ khi còn sống và các nghiên cứu về nguồn năng lượng lổn trên mộ sau khi chết. Giễu cợ t m ê tín Ông Hải kể, cụ Nguyễn Đức c ầ n sinh trưỏng trong một gia đình nhà nho có truyền thống yêu nước, bản

421

thân cụ cũng tham gia cách mạng, từng là đại đội trưỗng Đại đội Lam Sơn. Cụ là người đầu tiên vượt qua hàng rào vào chiếm Bắc Bộ Phủ trong ngày 19- 8- 1945. Trước đây bô” của cụ làm Phó chánh tổng thập tam trại (mười ba làng trại trong Tổng nội- thành Thăng Long xưa ), bị một cái u to như quả trứng trong bụng, càng uống thuốc u càng chạy lung tung. Chạy chữa thuốc Tây, Nam, Bắc không khỏi, mẹ cụ đã lặn lội ngược xuôi mòi được một vị thầy về chữa. Người làng không hiểu ông thầy đó chữa bệnh như th ế nào, nhưng sau đó vài hôm thì bô” cụ khỏi. Để trả ơn thầy, mẹ cụ đã xin phép thầy cho cụ theo học. Từ đó, cụ c ầ n được theo thầy đi khắp nơi chữa bệnh và được đưa lên đĩnh non Tản truyền dạy luyện thần nhãn, về hang động sông Đà truyền dạy Tuệ quang, đến thượng Lào để tu luyện… cụ đã được thầy của mình truyền dạy cho cách thu nhận linh khí của trời đất trường năng lượng vũ trụ. Vào những thập niên 70, cụ thực hiện việc chữa bệnh cứu người. Điều đáng nói là cụ còn giúp người bệnh thấy được những lỗi lầm của họ mà sửa sang tính nết, ăn ỗ đôi xử làm sao cho đúng nghĩa. Người ta gọi cụ là phù thủy, nhưng thực tê”, cụ luôn giễu cợt mọi trò mê tín dị đoan. Năm 1974, được phép của ú y ban Khoa học Nhà nưốc, nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải đã trực tiếp đến gặp cụ và tiên hành việc nghiên cứu việc chữa bệnh của cụ. Cụ bảo: Tôi chữa bệnh bằng cái đầu nhưng người ta lại bảo tôi là phù thủy.

422

N ăng lượng sinh h ọc Ông Hải lý giải, cách chữa bệnh của cụ nguồn năng lượng sinh học, trong Yoga gọi lượng Prama. Nguồn năng lượng này hiện nghiên cứu và nhiều nơi coi như nguồn y học trong điều trị bệnh. Nguồn năng lượng này truyền cho người bệnh.

là dùng là năng đã được bổ sung được cụ

Càng ngày càng có nhiều người kéo đến mộ cụ, nhất là khi ông Nguyễn Tiến Huy công bô” “công trình nghiên cứu” lập đồ hình đo năng lượng tại đó. Theo đó, lúc đầu ông lập ở mức 13.500BE (Bio Energy = năng lượng sinh học) thì phát hiện năng lượng tại mộ cụ c ầ n là năng lượng dương, đã vượt quá 33.000BE. Đặc biệt, nhiều nhà cảm xạ khi đặt tay vào mộ cụ thấy năng lượng truyền vào mình ào ạt. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Phúc Giác Hải, phương pháp đo cảm xạ của ông Huy mang tính chủ quan. Ông Hải đã cùng Viện nghiên cứu năng lượng cảm ứng, đứng đầu là Viện trưỏng- chuyên gia cảm xạ học Nguyễn Ngọc Sơn đã dùng máy đo năng lượng của Mỹ đến đo “năng lượng đất” nơi đặt mộ cụ. Kết quả, chỉ sô” năng lượng sinh học của đất đạt hơn 17.000 đơn vị BE. Thông thường, chỉ sô” này chỉ xuất hiện ỏ những nơi như cung vua, phủ chúa, những nơi sản sinh ra các hào kiệt. Theo các nhà cảm xạ học, những người có chỉ sô” B E xấu dưới 3.000 thường ô”m đau. Nếu thay đổi địa từ trường, đưa chỉ sô” Bovis trên 6.500 thì bệnh giảm rõ rệt. 423

Chính vì lẽ đó, khi chỉ sô” Bovis đo được ở khu mộ cụ Nguyễn Đức c ầ n là 17.000 đơn vị được công bô”, đã khiến nhiều người có chỉ sô’ địa sinh học thấp và ngay cả với người có sức khỏe bình thường vẫn mong được đến mộ cụ Cần ngồi thiền để hấp thụ năng lượng. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, không phải ai cũng thu được nguồn năng lượng của cụ. Giải thích điều này, các chuyên gia cho rằng, phải có niềm tin và việc truyền năng lượng phải hợp sóng mối có kết quả. Nhật Hà Báo K hoa học & Đời sống sô’82 – thứ bảy ngày 9 tháng 7 năm 2011

GIẢI MÃ NGÔI MỘ CHỮA BỆNH N gôi m ộ của cụ Nguyễn Đức c ầ n , vị lương y lừng d a n h m ột thời ở H à Nội nằm ngay giữ a cán h đồng làng T h an h M ai (T han h Oai, H à Nội), được xây bao quanh k h a n g trang, sạch sẽ. Từ năm 1983 đến nay, ngôi mộ củ a cụ luôn có người lui đến thắp hương, m ỗi dịp cuối tuần có tới h àn g chục người, cố k h i cả trăm người, từ m ọi nơi đến th ăm viếng, ngồi thiền tại đây. Ngôi mộ lạ có chỉ sô” địa từ trư ờng cao Tiết thanh minh, trời sáng, nắng ửng hồng. Ngày cuốỉ tuần đẹp trời, tôi tìm về ngôi mộ nằm giữa cánh 424

đồng làng Thanh Mai. Sáng sớm, chút se lạnh còn vương vấn những giọt sương đọng trên lá lúa non nhưng nhiều người đã có mặt. Trước khi ngồi thiền, họ đã làm đầy đủ thủ tục thắp hương xin phép người nằm dưới mộ. Khoảng lOh, nắng lấp ló trên những tán lá cau thì dòng người đã về đây khoảng gần trăm người. Họ ngồi trật tự, xếp bằng, hai tay để trên gôl, lưng thẳng, mắt khép hờ, tư th ế thiền định như những người theo Phật. Họ ngồi tĩnh tâm như vậy hàng giờ trong không khí tĩnh lặng. Không cần người hưóng dẫn, tất cả rất tự giác ai đến trước ngồi trước, đến sau tìm chỗ ngồi sau, tất cả hướng về phía ngôi mộ vói sự thành kính đến lạ lùng. Thú thật, trước khi tới đây trong đầu tôi hình dung đó là một ngôi mộ cổ được xây dựng trang trí đẹp. Song ỏ đây chỉ có một ngôi mộ bình thưòng, người mất được cất mộ từ năm 1983 vối tên huý trên văn bia là cụ Nguyễn Đức Cần (Trưởng cần). Trong sô’ những người ngồi thiền quanh ngôi mộ, không ít người coi người đã mất như ân nhân. Chị Hoàng Hải Vân là người kết thúc buổi thiền sớm vui vẻ chia sẻ vối tôi: Cuốỉ tuần, thu xếp được công việc mình lại đến đây thắp hương, ngồi thiền để được hấp thụ năng lượng. Mỗi khi đi như vậy, mình cảm thấy người khoẻ hơn, thư thái hơn, mệt mỏi sau một tuần làm việc tiêu tán hết. Kỳ lạ lắm. Mình đã xuống đây nhiều lần, cuối tuần nào các bà, các bác, các cô chú… đều về đây đông như hội. Theo chị Vân cho biết, cụ Cần là người chữa bệnh 425

bằng phương pháp lạ. Nhiều người đã nhò cụ mà khỏi những bệnh nan y. Đa phần những ngưòi đến đây là những bệnh nhân trước đây của cụ. Họ đến để dưõng bệnh nhờ năng lượng phát ra từ mộ của cụ. Còn anh Đỗ Văn Nhân (phô” Sơn Tây, Hà Nội) là người đã được cụ Trưởng c ầ n cứu sống. Hồi còn trẻ, có lần anh bị vỡ ruột thừa từ hôm trưóc, đến viện đã muộn. Nhập viện được mổ nhưng nhiễm trùng sâu, những người cùng tình trạng như anh đã có người qua đời. Gia đình cũng nghĩ đến tình huống xấu nhất, nhưng mẹ anh đã tìm đến cụ Trưỏng cần. Cụ nhận lời chữa bệnh và anh đã khỏi. Đến bây giờ, bằng một lòng biết ơn người đã tái sinh mình, có thời gian anh lại cùng mẹ già đến thắp hương nhố cụ. Anh nói: Đến bây giờ tôi vẫn thiền để hấp thu địa năng. Khi ngồi thiền mỏ hết luân xa, mình sẽ thu nhận được nguồn năng lượng lớn rất tốt cho sức khoẻ. Cả những người già như cụ Thân hơn 80 tuổi (Thanh Xuân, Hà Nội) cứ một tháng đôi lẩn lại cùng con dâu đến mộ cụ thắp hương, ngồi thiền. Cụ nói, thây mạnh khoẻ hơn mỗi khi được đến ngồi trước mộ cụ Trưỏng Cần… Và có rất nhiều người đã đến đây thiền mong nhận điều kỳ diệu cho sức khỏe. Chỉ số địa từ trư ờng cao có tá c dụng tố t với sức khoẻ? Vợ chồng bà Nguyễn Thị Sinh là người hương khói, chăm lo cho ngôi mộ giữa cánh đồng làng Thanh Mai. Bà là con gái thứ hai của cụ cần . Bà Sinh cho biết: Khi 426

còn sống, ông cụ thân sinh của tôi chữa khỏi bệnh nan y cho nhiều người. Họ đến đây để nhớ đến cụ. Còn chuyện năng lượng từ nơi này phát ra là tôi và mọi người đều thấy các nhà khoa học nghiên cứu mà nói vậy. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu về cảm xạ học (năng lượng địa sinh học) đo đếm và đưa ra kết luận khá đặc biệt: Cụ Nguyễn Đức c ầ n đã mất gần 30 năm, nhưng khu vực này, được một sô” nhà cảm xạ học đo đạc cho thấy chỉ sô” năng lượng địa sinh rất cao, chỉ sô” Bovis lên tới 16.000 đơn vị. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì chỉ sô” năng lượng này người thường hấp thụ được sẽ có khả năng cải thiện sức khoẻ. Bỏi sức khoẻ của mỗi người liên quan trực tiếp đến năng lượng địa sinh. Theo nhà nghiên cứu Dư Quang Châu (bộ môn cảm xạ học, đại học Hồng Bàng), ngày nay con người càng quan tâm đến sức khoẻ và nơi ở. Đó là cơ sỏ của khoa học địa sinh học hình thành. Thực tế, chúng ta ghi nhận đa sô” những người mắc bệnh hiểm nghèo đều có những điểm giông nhau, đó là nơi họ ngủ phần nhiều có những điểm có chỉ sô” địa từ trưồng xấu, chỉ sô” Bovis dưới 3.000. Chỉ cần thay đổi chỗ ngủ hoặc chuyển đi nơi khác có chỉ sô” địa từ trường tốt, chỉ sô” Bovis trên 6.500 thì bệnh giảm rõ rệt. Chính vì lẽ đó, với chỉ sô” Bovis đo được ỏ khu vực mộ cụ Nguyễn Đức c ầ n là 16.000 đơn vị được công bô” đã khiến nhiều người bệnh (chỉ sô” địa sinh học thấp), và ngay cả với người có sức khoẻ bình thường vẫn mong được đến mộ cụ c ầ n ngồi thiền đế … hấp thụ năng lượng. Nhìn nhận về năng lượng địa sinh học, ông Châu 427

cũng khẳng định: Một sự tiếp cận mới gần đây khuyến cáo ta cần phải quan tâm đến việc mỗi người đều có liên quan mật thiết đến nơi ở của mình. Và phải làm thế nào để có thể thuần hoá các địa điểm trên đang bị chi phối bỏi những sức mạnh hiện diện một cách vô hình: các trường hay bức xạ khác nhau, năng lượng, khí hậu sinh học, thuỷ thổ. Nhiều nhà nghiên cứu cảm xạ học đều cho rằng, con người là một tổng thể, sông trong môi trường phức tạp mà chỉ cần một sự mất cân đối nhỏ từ bất cứ nguyên nhân nào cũng có thể phát sinh bệnh tật. Sóng địa từ trường hiện diện khắp nơi trong vũ trụ và nó có những ảnh hưởng nhất định đến sức khoẻ chúng ta. Năng lượng cảm xạ địa sinh học sẽ mang lại cho chúng ta một sự hòa hợp tốt đẹp giữa con người vối môi trường xung quanh. N ăng lượng địa sinh học là phương pháp chữa bệnh có tên gọi y h ọc bổ sung Bác sĩ Kim Loan, khoa Xét nghiệm, Bệnh viện Quốc tế Việt – Pháp cho biết: Chúng tôi được biết đến phương pháp tác động bằng năng lượng địa sinh học. Đây là một phương pháp khá lạ nhưng không mói. Người ta gọi chữa bệnh bằng cách này là y học bổ sung. Hiện nay nhiều nước trên th ế giới đã đưa y học bổ sung vào hỗ trợ cho y học tiên tiến chính thống. Bỏi trên thực tế, có nhiều căn bệnh lạ, thuộc tâm bệnh thì y học hiện đại không thể chẩn đoán được bệnh và không thể chữa được. Chính vì th ế việc hấp thụ năng lượng địa sinh ở một môi

428

trường tốt sẽ có tác dụng với sức khoẻ của ngưòi bệnh nói riêng và mọi người nói chung. Nhiều người sau khi ra khỏi phô” thị chật chội, ồn ào, đến vối một vùng quê thanh bình, không khí trong lành sẽ thấy khoẻ hơn. Điều này sẽ tốt cho sức khoẻ của mọi người. Từ những lý thuyết và thực tế như vậy, khiến ngôi mộ cụ Cần, nơi được coi có trường năng lượng cao đã được các nhà nghiên cứu quan tâm theo dõi. Bà Sinh cho biết: Nói trường năng lượng từ mộ cụ phát ra, tôi cũng chỉ nghe người ta nói vậy. Còn với những người biết tiếng mà đến viếng thăm nơi cụ yên nghĩ thì gia đình cũng trân trọng lắm. Vương Hà B áo Đời sống & Pháp luật, ngày 16 tháng 4 năm 2011

CỤ LANG CẦN: THAN Y HAY DỊ NHÂN? H àn g trăm cử tọa nhiệt liệt vỗ tay đồn g tình với đ ề xuất tôn d a n h N h à văn h ó a tâm lin h Nguyễn Đức c ầ n là T h ần y, là D ị n h ân trong cuộc T ọa đ à m k h o a học lần thứ h a i về cụ, tại H ội trường B ộ Tư lện h B ả o vệ L ăn g Chủ tịch H ồ C h í M inh ngày 2 7 – 8- 2011… Cuộc tọa đàm lần thứ nhất tổ chức ngày 22- 112009 tại Hội trường Học viện Hành chính Quốc gia nhân 429

kỉ niệm 100 năm sinh của cụ. Cuộc họp mặt lần đầu chủ yếu là con cháu của các ông bà, cha mẹ mang ơn cụ trong, ngoài nước và các nhà nghiên cứu còn ít thông tin nên nội dung bàn thảo chỉ xoay quanh tài danh chữa bệnh của cụ. Lần này, hai năm sau, có nhiều kiến giải, như Giáo sư, Anh hùng Lao động Vũ Khiêu nhận định: ■ Cụ Nguyễn Đức c ầ n khôn g chỉ đ ể lạ i những ân tình sâu sắ c trong lòng đông đ ả o người bệnh được cụ cứu sông m à qu an trọng hơn là cụ đ ã đ ể lại cho d ân tộc ta sự n h ận thức về sức m ạn h k ì lạ của tâm lin h . T hàn h công củ a cụ, nếu được đ i sâu tìm hiểu, cố th ể k h ắn g định tiềm năng vô tận của con người Việt N am trước m ọi thử thách củ a thiên tai địch họa, trước m ọi sự khủ n g hoản g và rôl ren củ a cả xã h ội và thiên nhiên trong thời đ ạ i ngày nay. C ác dẫn liệu Lão tưóng Chu Phác, người ban đầu không tin cách chữa bệnh của cụ, cho là mê tín, sau khi nghiên cứu về cụ, càng ngày càng bị chinh phục, cuốn hút, đến nỗi có lần ông đã bị GS. Vũ Khiêu phê bình dùng quá nhiều thời gian vào chuyện “mê tín”. Trong hội thảo này, dưới anh linh cụ Nguyễn Đức cần , một lần nữa GS. đã xin rút những nhận xét vội vàng ngày xưa. TS. Chu Phác đã dẫn ra nhiều chuyện thật sự là những bài học nóng bỏng cho hôm nay. Đó là, chuyện quả báo. Một “cậu ấm” con “quan cách mạng” chơi bời nghiện hút, xin tiền mãi, bố mẹ không cho, vác dao dọa chém, òông an đến, “máu con quan” càng hung. Anh công an rút súng dọa, chẳng 430

may cướp cò… Tay chân quan xúi kiện. Em quan lên hỏi, cụ bảo: “Gia đình bị quả báo nặng lắm, đáng lẽ phải đi mấy mạng người. Nay nó gánh cho rồi. Thôi…”, c ả nhà nghe theo. Chuyện nữa, bà vợ trẻ ốm liệt giường, chồng ngày đêm bên vợ chăm sóc. Nhờ cụ chữa khỏi bệnh. Đến lượt chồng ôm, vợ kêu bẩn, khó tính, bỏ mặc và còn muốn chồng “đi” cho nhẹ gánh. Cụ biết, gọi lên nói: Nghĩ, mong th ế là tội ác, quả báo đấy! Quả nhiên sau đó, chồng khỏe, vợ lại ốm, không dám lên xin cụ chữa. Cụ bảo: Không biết sám hối, chết thôi… Ông Nguyễn Quang Chiểu, Giám đốc nhà máy Cơ khí nông nghiệp nằm Bệnh viện Bạch Mai, bị cắt 3/4 dạ dày, mổ mật, u ác di căn lên não, xin về lo hậu sự. Có ngưòi mách còn nước còn tát, lên nhờ cửa cụ. Bệnh khỏi. Ồng Giám đốc chỏ lên nhà biếu cụ chiếc máy phát điện. Cụ dứt khoát từ chối, cảm ơn, rồi nói với mọi người: Mình ngồi quạt mát mà dân chịu nóng thì cứu được ai! Một bà bị ung thư lưõi được cụ chữa khỏi, biếu cụ máy bơm, cụ bảo: c ả làng gánh nước, tôi dùng máy bơm sao đành. Có khổ mới biết thương người khổ, dân nghèo… GS. TS Y khoa Đoàn Xuân Mượu từng đi nhiều nước nghiên cứu về các hiện tượng lạ chữa bệnh không dùng thuôc. Theo GS. sự tồn tại trên đời này của một số những nhà ngoại cảm chữa bệnh không dùng thuốc là ý của “Trời”. Giáo sư mượn tứ thơ của một ẩn sĩ muốn cùng mọi người tưỏng thưỏng công đức cụ:

431

Bốn phương độ thể âm vô lượng Ngàn dặm thành tâm khách hữu duyên San sẻ cho đời khang phúc thọ Trời Nam ỉưu mãi tiếng Chân Tiên.

Thiếu tướng – nhà văn Hồ Phương dùng đủ lời cao đẹp để kính trọng tri ân vị ân nhân đã cứu nạn con gái yêu 4 tuổi của mình, mà điều rất lạ là ân nhân không hề tiếp cận cháu, chỉ bảo: Dăm hôm nữa cháu sẽ khỏi cái u thôi. Cứ về đi!… Nhà văn “vẽ” chân dung cụ: Một lão nông hiền hậu. Vị Thiền sư cao minh. Một con người cỏi mỏ và mến khách. Một nhà ngoại cảm tài cao, đức lón. Một nhà đạo đức đáng quý. Một Dị nhân ân đức… Nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải trung thực, đầy dũng khí thà chịu kỉ luật (15 năm ra khỏi biên chế) chứ không chịu thừa nhận ý kiến cấp trên cho việc chữa bệnh của cụ Lang c ầ n là “mê tín dị đoan” hoặc dùng phép thôi miên phù thủy mà cơ quan y tế ngày ấy ấu trĩ ra lệnh cấm. c ả hội trường nhiệt liệt vỗ tay hoan nghênh “đáp nghĩa” ông. lấau ông Giác Hải, là Thiếu tướng Chu Phác, người nhiều năm dày công sức nghiên cứu, tôn vinh nhà ngoại cảm siêu phàm Nguyễn Đức Cần cũng được nhiệt liệt hoan nghênh. Các phim, ảnh được nhà nghiên cứu Giác Hải sưu tập trình chiếu và thuyết minh là những tư liệu quý hiếm rất có sức thuyết phục. Đặc biệt, như có sự phù trợ của ân nhân, ông được một “quý nhân” trao tặng tập sấm Trung Quốc nhị thiên niên d i d ự ngôn. Trong đó, “Sấm” đã tiên tri nhiều sự

432

kiện xảy ra, nào K h ả i du th ần k h í chung vô dụ n g, tức là chiếc B52 rơi, trong bụng còn đầy bom, chưa có tên lửa, đạn pháo nào chạm đến máy bay mà tên giặc lái đã bật dù nhảy ra vì khi đến tọa độ Ba Đình thì đầu óc bị rốì loạn. Hắn bị bắt đã khai vậy, nhà văn Hữu Mai có mặt ghi được, sau viết truyện, c ả Thủy biên hữu nữ… tức cô gái Ngọc Hà tưới hoa bên bờ hồ Hữu Tiệp, cạnh xác pháo đài bay B52. Nào T am th ập niên trung tử tôn k ết, nghĩa là 30 năm sau con cháu trung kiên sẽ tôn vinh thành tựu – Là bây giờ đây (1983- 2011) con cháu chúng ta tôn danh Người. Nào B ấ t tín k ì tài sả n N gô V iệt… Rằng khó tin ở đất Ngô đất Việt lại sản sinh được người kì tài? Kì tài dùng vũ khí tâm linh như cụ Trưỏng c ầ n hạ pháo đài bay Mỹ. “Hạ” th ế nào, ông Hải bối rối hỏi cụ. Cụ nỏ nụ cười thông cảm: Ong Hải, tôi có thể chữa cái đầu đang điên thành lành thì tôi càng dễ hơn làm cái đầu đang lành hóa điên chứ? Cái thứ vũ khí lợi hại này Viện sĩ Liên Xô Kaznatchep đã nói tới trong cuộc chiến tranh tương lai và giới khoa học Âu Mỹ thì gọi là “siêu vũ khí” – Super Weapon. Bộ óc quân sự thiên tài – đại danh tướng Võ Nguyên Giáp kính yêu đã từng npi với Thiếu tưống Chu Phác rằng “biết đâu lĩnh vực ngoại cảm sẽ là khoa học tương lai, ai nắm được thì sẽ có sức mạnh” đó sao? T h ần y h ay dị n h ân ? Chúng tôi đã mấy chục năm học hỏi, tập luyện, thực hành, có dăm bảy năm đi hướng dẫn dưỡng sinh chữa 433

bệnh và viết bài về các môn pháp khí công, yoga, năng lượng sinh học, cảm xạ học… mối ngộ ra một điều, các sư phụ chỉ nêu rõ, rằng khả năng mở thiên nhãn, thiên nhĩ… cần một trong 4 điều kiện: bẩm sinh, tai nạn, tọa thiền và tập luyện. Không, như thế giỏi lắm mới đạt công năng có thể phóng chưởng công, chỉ công, miêu công, thần X công, linh công, chứ chưa đạt quyền năng, là điều kiện “đủ” phải được yếu tô” “thần linh” hỗ trợ. Trong thiên cổ kì thư “Thái ất Kim Hoa Tông chỉ” của tác giả thuộc “Bát tiên quá hải” ngay ỏ chương Một đã viết: Con người trong “Tam tài” Thiên Địa Nhân, ai cũng có “Thiên tâm”. Song do “lục căn”, ‘lục trần” tham dục, tâm không thanh thì Thiên tâm không khai mở, có chút thiên huệ chăng cũng chỉ nhất thời, đơn năng. Cụ Nguyễn Đức cần 13 năm tầm sư học đạo, khổ luyện nơi núi cao rừng thẳm, giữ trọn đời tâm nguyện cứu nhân độ thế, không tơ hào của ai một cái kim sợi chỉ mà nên “thần” như Phật. Nhưng cụ cười bảo với ông Hải: Tôi không phải thánh hay chúa gì, sợ “câu rút” lắm… Chúng ta chỉ có một Đạo là Tổ quốc Việt Nam. Thật là một siêu nhân đất Việt! Chỉ có điều “nhân” chưa hòa vì thời thế khi ấy, chúng ta không biết được cụ Lang cần là ai trong tâm linh. Chúng tôi đốĩ chiếu, thường các “dị nhân” hay “thần y” cổ kim Đông Tây chỉ được “thần” giúp có mức độ, có thời gian và quyền năng về một mặt nào đó. Cụ Lang cần khác hẳn, y đạo, y đức, y thuật xưa nay chưa có thần y nào tài đức thiên thần, thánh thiện như cụ.

434

Năm 2004, chúng tôi được mời lên Chùa Đồng Yên Tử (ông Nguyễn Mạnh Can trưỏng đoàn) làm lễ triệt tiêu tác động ác xạ từ xa thì nhà ngoại cảm (xin giấu tên) cho hay, chỉ có Nhị Tổ Huyền Quang và nhà văn hóa Ngô Thì Nhậm biết rõ Vua Phật Trần Nhân Tông lui về Yên Tử để lo việc đời, vì Ngài nắm rõ bọn bành trướng Nguyên Mông rất sỢ hồn thiêng sông núi và anh linh Tổ quốc Việt Nam. Điều rlày cụ Lang c ầ n đã nói rõ: Bọn ngoại bang đe nẹt thôi, không dám đánh Hà Nội đâu (năm 1979). Do vậy, cử tọa cuộc tọa đàm đều nhiệt liệt vỗ tay khi chúng tôi đề nghị tôn danh cụ Nguyễn Đức c ầ n là Thần y – Nhà tâm linh tinh thông việc Đ ất- Trời (sự vinh danh này thuộc tín ngưỡng dân gian, nhiều dân tộc có thần y riêng của mình). Mọi người tham gia tọa đàm nhiệt liệt hưởng ứng chủ trương sẽ tôn tạo mỏ rộng Lăng mộ cụ có biển đề: Thần y – Nhà tâm linh Nguyễn Đức Cần mãi mãi ở bên cạnh chúng ta (1909 – 1983) N goài ra, cuộc h ộ i thảo còn vạch ra thực trạng vàng thau lẫn lộn g iữ a những người thực sự có k h ả năng công tâm ch ân ch ín h với m ột sô’ cá nhân, tổ chức tâm linh, ngoại cảm g iả d an h , biến ch ất; thậm chí, cả những tên tay sa i q u á k h íc h p h ụ c vụ nhu cầu chín h trị cản trở công việc vì lợi ích chung… Trịnh Tố Long B áo Người cao tuổi – s ố 957, ngày 10 /9 /2 0 1 1

435

BÍ MẬT VỂ NGƯỜI CHỮA BỆNH BANG TÂM LINH M ặc dù những câu chuyện k ể về cụ Trưởng c ầ n hầu như khôn g nói g ì về P h ật g iá o . Trong n hà cụ củng không thờ các đức P h ật và các chư vị B ồ Tát, nhưng trong câu nói của cụ, p h on g cách con người cụ, cuộc sống thanh tao đ ạ m bạc của cụ luôn toát lên hìn h ản h của một vị chân tu đ ạ t đạo. Ở thời của cụ Trưỏng cầ n , khổng chỉ đạo Phật mà hầu hết các tôn giáo khác cũng bị hạn chế, ngăn cấm. Có thể vì điều đó mà cho đến nay, cụ đắc đạo nào, tu theo pháp môn nào vẫn là một bí ẩn đốĩ với nhiều người. Thêm nữa, những vị chân tu đạt đạo trong Phật giáo đều ẩn mình hành đạo Bồ Tát. Vị th iền SƯ hành đạo Bồ T át Nhiều người khâm phục trước năng lực kỳ diệu của cụ, đã suy tôn cụ lên ngôi thần thánh, nhưng cụ nói: “Tôi chỉ là người, cũng ăn uống sống chết như mọi người khác.” Cụ còn khôi hài nói: “Tôi sợ đinh câu rút lắm”. Thật sự với khả năng và công đức của cụ, đối với Phật giáo thì các vị thần thánh chưa đạt xứng tầm với một con người như cụ Trưởng cần. Nói đến đây, có thể nhiều người sẽ hỏi: Trong cõi giới con người còn có rất nhiều đạo giáo khác cũng tu luyện không khác nhiều so với Phật giáo. Vì sao tác giả cho là cụ tu theo pháp môn của đạo Phật? Vì sao tôi nói cụ Trưỏng c ầ n là một vị thiền sư tu luyện theo các pháp 436

môn Phật giáo. Xin được trích dẫn một sô” tư liệu lây từ trong cuộc đời cụ. Trong lời kể do nhà giáo Vũ Văn Ngọc ghi, khi nghe xong nội dung của cuốn H ồi dương nhân q u ả , nội dung: Việc ăn chay là ép xác sửa lòng, miễn là làm 10 điều lành, lánh 10 điều dữ thì đủ rồi. Nếu ăn chay niệm Phật mà 10 điều dữ không bỏ, 10 điều lành không làm chẳng những không phúc, không công mà lại nhiều tội, nhiều lỗi. Nếu chân tu thì phải sửa mình, giữ đạo là thứ nhất, bô” thí ăn chay là thứ nhì. Cái nào cũng quý tại chữ Tâm, bô” thí khó tại -lòng Nhân, không khó đều ra có của. An chay khó tại lòng Chính, không khó miệng cữ kiêng. Cụ Trưỏng c ầ n đã nói: Cuốn kinh H ồi dương N hân qu ả là kinh tu tắt. Và cụ dạy thêm rằng: Tu là việc khó, nên điều trước tiên là phải biết sửa mình. Qua câu trả lời của cụ, ta hiểu được một điều là cụ rất am hiểu về kinh Phật, rất am hiểu về quy luật nhân quả. Mà quy luật nhân quả là cốt lõi của đạo Phật. Cụ có nói là bệnh của con người có hai vấn đề: “thân bệnh và nghiệp bệnh”. Thân bệnh thì có thể chữa được, còn nghiệp bệnh thì khó. Nghĩa là có người có thể khỏi bệnh, có người không khỏi. Vì vậy, mà cùng một thứ bệnh có người cụ nhận lời có người cụ không nhận lời. Cụ bảo chữa bệnh phải có “Đức”. Tên của cụ là Ngityễn Đức Cần ồ đây có chữ “Đức”. Ở đây, khái niệm đạo đức của cụ là con ngưòi sông không làm điều ác, không phạm các

437

tội lỗi với xã hội, không bất hiếu vối cha mẹ, đó là đạo đức thông thường và cụ khuyên người ta làm việc thiện. Những điều cụ Trưởng cần nói chính là năm điều đức Phật dạy con người (Làm điều thiện. Không làm điều ác. Làm trong sạch tâm ý mình…) Thuyết nhân quả, nghiệp luân hồi đều là những thuyết lý của nhà Phật. Người chưa tiếp cận với đạo Phật thì có thể khó hiểu, nhưng đốỉ với các Phật tử thì rất hiểu những điều cụ nói. Khi một hành giả đã tu theo một pháp môn của Phật giáo sẽ hiểu, gieo nhân nào thì gánh quả đó. Nghiệp là do con người tự tạo và con người tự gánh. Thần thánh cũng không giúp được gì. Vì lẽ đó mà cụ Trưởng cần đã đưa hết những bát hương của bệnh nhân mang đến cụ để ra ngoài sân. Cụ cho rằng ôm thì phải chữa bệnh chứ không phải cúng thờ hàng năm tốn phí biết bao nhiêu tiền. Trong tư liệu về c.uộc đời cụ viết: Cụ chữa bệnh và còn bài trừ mê tín dị đoan, cụ đã giải đồng cho biết bao người, cụ cho đồng bóng là mê tín. Cụ dạy làm người phải ăn ỏ có đức thì mới được đẹp, sinh sống hàng ngày phải lao động cần cù, phong tục tập quán thì nước nào cũng có, còn mê tín dị đoan thì nên bỏ. Vốn là người lao động, mục đích cuộc đời của cụ là: Tôi chữa bệnh không lấy tiền, như vậy tôi đã làm lợi cho dân. Đó là điều làm tôi sung sưóng. Tôi chĩ muốn mọi người đều có cơm no, áo ấm, không bị ốm đau, thế thôi. “Sống mang lại hạnh phúc cho chúng sinh”. Đó cũng là cuộc sông của các vị Bồ Tát thị hiện trong cõi giới con người. 438

Phật giáo hiện nay có ba tông phái chính là: Tịnh độ, Thiền tông và M ật tông. Khả năng thần thông, bắt ấn, trì chú chữa bệnh của cụ rất gần vối pháp môn Mật tông. M ật tông là sự kết hợp giữa đạo Bon truyền thông của người Tây Tạng với đạo Phật nên có những phép tu luyện huyền bí chuyên về bắt ấn, trì chú. Để có thể tu luyện thành công theo tông pháp này, người tu thiền phải có căn cơ rất cao, phải trải qua sự khổ luyện rất lớn. Cũng để có được những thành tựu, khả năng chữa bệnh như cụ Trưởng cầ n trong kiếp này, nhất định cụ đã trải qua hàng trăm kiếp tu hành trong quá khứ. Có một chi tiết trong cuộc đời của cụ đã chứng minh, cụ đã tu đạt tới mức mỏ được thiên nhãn, thiên nhĩ tiếp cận với th ế giới siêu hình trong lục đạo luân hồi. Trong câu chuyện nhà giáo Vũ Văn Ngọc kể lại: Tôi cũng được cụ cho xem những lá thơ của những bệnh nhân trước đây đã được cụ cứu chữa hoặc là có quan hệ với cụ. Trong đó có một bài thơ viết bằng chữ Hán, nội dung của bài thơ là sự giao lưu giữa các vĩ nhân.Tôi có hỏi cụ: – Con thấy bài thơ này lạ quá, rất đặc biệt, con không hiểu, ngưòi viết bài thơ này là người như th ế nào? Cụ trả lòi: – Ông cụ này là Thần sông Tô Lịch, có đến đây gặp tôi mầy lần. – Thưa ông, bài thơ đó có nhan đề: T hơ bái tặng 439

N guyễn chân nhàn với bút danh là Long thành Hoài qu an g cư sỹ. Quả thật là bài thơ ấy có một khẩu khí rất lạ, nó thể hiện lòng kính mến đốì vói cụ. Ở Trung Quốc những vị thầy cao tăng như vậy rất nổi tiếng. Thành tựu tu tập của cụ đã đạt tới quyền năng sai khiến được thế lực siêu nhiên (trời, rồng, quỷ thần…). Phương pháp chữa bệnh Trì ân vào một tờ giấy, cụ đã đạt được thành tựu sử dụng được sự diệu dụng Bảo ấn của 42 Thủ nhãn ấn pháp. Theo HT. Tuyên hoá thì người đã có Bảo ấn này thì có thể sai khiến cả được Diêm vương, khiến cho người chết sống lại. Bản thân HT. Tuyên Hoá cũng đã dùng Bảo ấn cứu sông được 2 bệnh nhân đã chết ỏ Hương Cảng và Mãn Châu. Cụ Trưỏng c ầ n cũng là người đã từng mang lại sự sống cho những người vô phương cứu chữa mà có người tưởng như đã chết. HT. Tuyên Hoá cho rằng: Nếu quí vị muốn sử dụng được Bảo ấn này thì phải công phu tu trì qua cả bốn mươi hai thủ nhãn. Diệu dụng của Bảo ấn có thể giúp cho người chết sông lại. Nhưng để sử dụng được Bảo ấn này, trước hết quí vị phải thành tựu công phu tu tập đã. Nếu công phu chưa thành tựu thì chẳng có kết quả gì. T hế nào là thành tựu công phu tu hành? Cũng giông như đi học. Trước hết, quí vị phải vào tiểu học, rồi lên trung học, rồi thi vào đại học. Rồi cuốỉ cùng có thể được học vị Tiến sĩ. Tu tập để thành tựu Bảo ân này

440

cũng như đạt được học vị Tiến sĩ vậy. Nhưng là tạm ví dụ vậy thôi, chứ Bảo ấn này không có gì so sánh được. Chữa bệnh bằng nước lạnh hay một vật dụng khác… ỏ Việt Nam đã có một sô” người làm được, nhưng chữa bệnh bằng việc Trì chú, bắt ấn như cụ Trưỏng cần ỏ Việt Nam từ trước đến nay chưa từng có ai. Vì lẽ đó mà tôi xin được xưng dương tán thán không những công đức chữa bệnh của cụ mà cả những năng lực thần thông cụ đã đạt được. Theo HT. Tuyên Hoá, Đại Bi Chú và 42 Thủ nhãn Ân pháp là “một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong 300 năm trỏ lại đây, không có ai hành trì được bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này”. Cho đến nay, vì chưa có một lời giải thích thuyết phục nào nên phương pháp chữa bệnh của cụ Trưỏng Cần vẫn j à một hiện tượng thần bí đốì với nhiều người. Vói bài viết này tôi xin được thành ý, tri ân đến Cụ. Xin được tán thán công đức chữa bệnh của Cụ. Và xin được vinh danh sự vi diệu, bất khả tư nghi cho các thuyết lý Nhà Phật. Hồng V ân

441

ĐẠO THUẦN VIỆT Trong p h ầ n I I có đ ề cập đến ha phương p h á p chữa bệnh của cụ Nguyễn Đức c ầ n . C ách chữa này có th ể so sán h với M ật tông tâm p h á p của nhà Phật. V ấn đ ề này thu hút sự qu an tâm của những người nghiên cứu m uốn tìm hiểu những quyền năng huyền bí củ a thiên nhiên. Đ ể cung cấp thêm những tư liệu từ nhiều nguồn k h á c nhau, chúng tôi xin giới thiệu sơ lược các kiến thức sâu sắc cùng những luận chứng của những n h à nghiên cứu trên t h ế giới về P hật p h á p M ật tông và Đ ạo giáo. Đ ề tài này đ ã có hàn g ngàn trang sách viết tới, nhưng trong khuôn k h ổ của cuốn sách này, chúng tôi xin p h ép c h ỉ chuyển tải m ột s ố nội dung tri thức văn h ó a sâu xa từ thời c ổ xưa. Bùa chú và Phù thuật xuất hiện trên thế giới từ lâu, và khỏi đầu từ những vị chân tu có ý đồ nghiên cứu, tìm hiểu và thực hành bùa chú với chủ đích cứu đời, cứu người. Từ ngàn xưa, bùa chú đã xuất hiện ngay cả trong những kinh sách của nhiều tôn giáo. Phần lớn các bùa chú này nhằm mục đích để cầu an, giúp cho thân tâm, gia đình yên ổn, ngoài ra còn giúp để trị bệnh, trừ tà, phá bùa yếm đối… Những bùa chú này do một sô” lớn những nhà nghiên cứu về hiện tượng siêu linh huyền bí tìm ra. Một sô” bùa chú còn được tìm thây do những tài liệu cổ từ Mật tông truyền lại. Mật tông (Vajrayna) khỗi thủy từ Ấn Độ, đó là một học vân nốĩ liền hai bình diện Hiển – Mật trong Phật 442

giáo . Đại thừa. Vào giữa th ế kỷ VII, M ật tông đã trỏ thành một tông phái độc lập tại An Độ. Theo nhà viết sử nổi danh William jam es Durant thì những phương thuật này phần lớn là những bùa chú hay những thẫn chú được tìm thấy rất nhiều trong kinh Atharva – Veda. Ngày xưa một sô’ lớn người ấn rất quý trọng những gì viết trong kinh này, họ thường đọc thần chú để được có con tốt lành, để sinh dễ dàng, mẹ tròn con vuông, để tránh tai nạn bệnh tật, để ngủ yên giấc, chống lại ác tâm của kẻ thù hoặc làm nản lòng chúng… Cũng theo William Jam es Durant thì trong kinh Atharva – Ve da đôi khi còn có những câu thần chú mà lời lẽ rất mạnh mẽ dữ dội và đôi khi man rỢ để cho phụ nữ đọc khi nào muôn chông lại tình địch. Atharva – Veda là một trong bốn loại kinh Veda giá trị và thiêng liêng nhất xứ ấn gồm có các tri thức về các thần chú với các Mạn – đà – la, với những câu thần chú, những lời cầu nguyện. Theo các nhà nghiên cứu thì có những Thánh ca giá trị đầy năng lực nhiệm mầu trong các kinh Veda. v ề xuất xứ thì theo họ, đã xuất hiện cách đây từ 6000 đến 10.000 năm trưốc Công nguyên. Trên thế giói ngày nay, Phật giáo Tây Tạng cùng với Phật giáo Nam truyền và Phật giáo Trung Hoa đã trở thành ba dòng truyền thừa lón nhất của Phật giáo, và Phật giáo Tây Tạng là chủ lưu trong hai dòng phái chính của M ật thừa gồm Đông mật – Nhật Bản và Tây mật – Tạng 443

mật. M ật thừa được coi là giai đoạn phát triển tối cao của Đại thừa. Con đường tu hành Mật pháp nhanh chóng, tiện lợi hơn, đặc biệt thích hợp với những người có căn khí cao. Quá trình tu M ật vô cùng gian khổ, nhằm làm thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu và ý. Có ba phương pháp tu chứng cơ bản của Mật tông là Thân mật, Khẩu mật và ý mật. Vậy, cụ Nguyễn Đức c ầ n tu theo dòng M ật tông nào: Đông mật hay Tây mật, hay dòng truyền thừa nào khác? Đến nay chúng ta chưa tìm được câu trả lời, nhưng điều chắc chắn rằng những vị Thầy tâm linh của cụ đều là người Việt Nam và Đạo của cụ là thuần Việt. Cụ từng nói rằng: Nước ta thì không có Đạo nào cả, toàn ở nước ngoài vào, “Nam vô Phật”. Nhưng sẽ có ngày chỉ còn có một Đạo – một Chính Đạo cho tất cả loài người trên th ế giói này. Như chúng ta đã biết, cụ Nguyễn Đức cần thưòng sử dụng ba phương pháp chữa bệnh bằng lời nói, tờ Đạo và điều khiển bằng đôi tay. Cụ đã kết hợp cả ba phương pháp trên một cách tài tình và đạt được nhiều kết quả trong việc cứu đời, trị bệnh. Ba phương pháp chữa bệnh của cụ có thể so sánh vói Chú – Phù – Ân trong Mật tông. Chữa bệnh bằng lởi nói (Mật chú -Mật ngữ – Dharani)

M ật Chú hay gọi ngắn gọn là Chú. Chú gọi theo Phạn ngữ là Dharani. Chú là một từ Hán Việt có nhiều 444

nghĩa. Theo nghĩa chiết tự tầm nguyên thì Chú viết vối bộ khẩu có nghĩa là: 1. Lòi nguyền rủa 2. Câu thần chú 3. Lời chúc nguvện Chú là lời nói bí mật có thể đọc thành tiếng (Mật thanh) hay đọc thầm (Mật tâm). Chú thường không được giải thích. Chú có nghĩa là niệm, rót sức vào những lời tốt đẹp tha thiết nhất để đạt được một cái gì đó, hoặc tông một cái gì đi. Những lời chú chứa đựng rất nhiều và rất mật. Tác dụng của lời niệm Chú, tụng ca có thể làm rung động đến ba kinh mạch, bảy luân xa trong thân thể, đả thông kinh mạch trung ương, khiến nó tương ứng vối tần sô” âm thanh của vũ trụ, từ đó phát quật được những tiềm năng của sinh mệnh, khơi thông nguồn trí tuệ siêu việt. Chú còn được gọi là Chân ngôn, có nghĩa là “Lời nói chân thật”. Chú là những lời nói thần bí, huyền nhiệm của chư Phật, Bồ Tát, những lòi nói mang tính chân lý, cực kỳ màu nhiệm, hoàn toàn chân thức, có tác dụng nốỉ thông trời đất vũ trụ và con người. Có rất nhiều chân ngôn. Căn cứ vào mặt hình thức, có thể chia thành các loại đại chú, trung chú, tiểu chú, căn bản chú, tâm chú… Có thể chia ngôn ngữ thành năm loại, có bổh loại vọng ngữ và một loại ngôn ngữ chân thật. Bôn loại vọng ngữ là: – Ngồn ngữ tướng

445

– Ngôn ngữ mộng – Ngôn ngữ vọng chấp – Ngôn ngữ vô thủy Những loại ngôn ngữ này chỉ có tác dụng tại một địa điểm hoặc một thời điểm nhất định. Còn chân ngôn có thể quán thông tam thế, thu nhiếp thập phương và hoàn toàn khác với khẩu nghiệp của người phàm. M ật tông phân chia thân thể thành ba tầng : 1. Samaya (thân Tam muội da) là thân xác máu thịt do cha mẹ sinh ra được hợp thành bởi tứ đại: Đất, nước, gió, lửa. 2. Jn a n a (thân trí tuệ) tức trường năng lượng nội tại của sự sông trong cơ thể con người được cấu thành bỏi khí (prana) mạch (nadi) và tinh chất (bindu) 3. Samadhi (thân Tam ma địa) nằm ở kinh mạch trung ương ỗ khoảng giữa của luân xa (chakra) tim, là trường năng lượng vốn có của con người và cũng là Chính thể ánh sáng. Trong cơ thể con người, có vô sô” đường kinh mạch chạy khắp cơ thể, khí huyết sẽ được lưu thông qua những con đường này. Trong sô” đó, quan trọng nhất là ba đường kinh mạch trung ương (Sushumna), kinh mạch trái (Ida) và kinh mạch phải (Pingala). Đưòng kinh mạch trung ương, còn được gọi là Mệnh mạch (kinh mạch của sự sông) có vai trò quan trọng nhất. Từ một sô” điểm chủ yếu trên kinh mạch trung ương tỏa ra các 446

kinh mạch nhánh chạy đến các phần thân thể xung quanh tựa như vô vàn chiếc nan hoa trên một bánh xe. Bỏi vậy mà mỗi tổ hợp nhánh xuất phát từ mỗi điểm trên mệnh mạch được gọi là Luân xa (Chakra) có nghĩa là bánh xe. Trong con người bình ihường, khí trong cơ thể họ sẽ tản mát trong các đường kinh mạch nhánh, nhất là kinh mạch trái vẵ kinh mạch phải và đó là nguyên nhân nảy sinh các loại tư duy tham, sân, si… Chỉ khi nào khí đi vào kinh mạch trung ương, sẽ khiến các khí nghiệp kiếp trong cơ thể được chuyển hóa thành khí trí tuệ, tạo nên sự chuyển biến của các luân xa, khiến năm thứ độc: Tham, sân, si, ngạo mạn, nghi kỵ bị loại trừ và khí trí tuệ tràn khắp cơ thể, kinh mạch trung ương được mồ thông hoàn toàn, ánh sáng trí tuệ tuôn trào, dấy lên niềm đại lạc bản nhiên. Công năng của thần chú được mô tả trong nhiều kinh sách M ật giáo. Tuy nhiên, tựu trung thần chú có 5 công năng vi diệu sau đây: 1. Kính ái: Ai đọc thần chú sẽ được người, trời, quỷ thần kính trọng và quý mến. 2. Tăng ích: Được gia tăng những lợi ích trong đời sông như tuổi thọ, sức khỏe, sự thành đạt. 3. Tiêu tai: Tai ách sẽ dần tiêu trừ theo diễn trình từ nặng hóa nhẹ, từ nhẹ trở thành không còn nữa. 447

4. Hàng phục: Trừ tà, diệt ma, tức là những thế lực xấu ác vô hình gây tổn hại cho con người. 5. Câu triệu: Tập trung được những năng lực tinh tế của vũ trụ, từ các cảnh giới cao diệu… Nhiều người thường quan niệm rằng chân ngôn là những điều thần bí, nhưng chân ngôn là sự thể hiện của chân lý vũ trụ và bản tính chân thực. Tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng SUÔI chảy, tiếng chim hót… tất cả mọi biểu hiện của cái đẹp tự nhiên trong vũ trụ, là chân ngôn. Có thể nghe thây chân ngôn ở khắp mọi nơi. Nhưng chỉ có chân ngôn của Chư Phật, Bồ Tát mới có được sức mạnh gia trì siêu nhiên. Chúng ta khi vào chùa, thường niệm câu “Nam mô A Di Đà Phật”. Đó chính là một câu chân ngôn vậy, và âm thanh của lời niệm Phật mang vẻ đẹp hài hòa, hàm chứa sức mạnh gia trì siêu nhiên, khiến người nghe nảy sinh niềm hạnh phúc. Chữa bệnh bằng tờ đạo (Linh thẩn phù ■Bùa chú- Amulet-Mandala)

Danh từ bùa chú trong ngôn ngữ tây phương gọi là “Amulet” là chứng vật bảo đảm cho người giữ nó khỏi sự hiểm nghèo. Linh thần phù – phù trong dân gian gọi là bùa, người Việt dùng từ bùa thay cho phù là âm Hán Việt. Chữ Phù trong Hán tự viết vối bộ Trúc, nghĩa nguyên thủy là cái thẻ làm bằng tre, viết chữ vào rồi chẻ 448

ra làm đôi, mỗi người giữ một mảnh, khi so lại với nhau mà đúng thì phải, thẻ tre này dùng để làm tin. Khi xưa, lúc vua ra lệnh cho tướng ra trận thì giao cho một tấm thẻ, thay quyền uy của mình để chỉ huy ba quân thì đó là Lệnh phù… Như vậy, phù là một thứ biểu hiện một sứ vụ lệnh, một vật chứng minh, về sau còn có nghĩa rộng là vật tốt lành, một thứ bùa may mắn, lấy phúc hay một vật hộ phù. Bùa được làm bằng nhiều thứ vật liệu như đá, ngọc, vàng, tượng thần, da thú, xăm trên cơ thể người, vẽ trên vải… Lá bùa mang những dòng bí ngữ, câu chúc phúc hay lời chú nguyền rủa. Bùa còn được họa trên giấy hay vẽ vào trong hư không bằng khói hương (thư hương). Bùa diễn đạt tác dụng của khí để dùng trong chữa bệnh, phong thủy, hộ mệnh, trừ tà… Những ký hiệu mà chúng ta thấy trong lá bùa có chức năng truyền tải thông tin và năng lượng. Với những bùa sử dụng trong chữa bệnh, nó tác động tới thể xác và tinh thần nên có thể chữa thân bệnh và tâm bệnh. Trên khắp th ế giới, hầu như mọi dân tộc đều có những phong tục nghi lễ với những lá bùa viết bằng những cổ tự huyền bí. ở nưốc Việt ta, từ thời Hùng Vương, nhà vua đã sai mọi người vẽ (xăm) hình thủy quái trên mình, để tránh tai nạn sông nưóc (Đ ại Việt sử ký toàn thư có chép việc này). Thời phong kiến, ỏ miền Bắc, mỗi khi đón xuân về

449

ỏ những làng quê, người ta lấy những thanh tre làm bùa “Tứ tung ngũ hoành” treo trên các ngọn tre (cây nêu) trước sân, để trừ ma quỷ, hoặc trồng đào trước sân nhà và dán bốn chữ “Thần Trà – Uất Lũy” để cầu sự bình an, yên vui. Còn những cô thôn nữ Việt thuở xưa, đeo những lá bùa hình bát quái hay hình củ ấu ở cổ yếm đã đi vào câu ca dao: …Nam thương cổ yếm đeo bùa Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng

Như vậy, có thể nói rằng: Bùa chú là một phần phong tục của dân tộc Việt Nam, pha trộn hai nguồn tôn giáo lớn trong xã hội á Đổng xưa là Đạo giáo và Phật giáo. Nói đến một Đạo bùa, thì phải nói Phù Văn. Vậy Phù Văn là gì? Phù Văn chính là văn tự của lá bùa. Nó chính là thành phần cốt yếu của lá bùa. Không có Phù văn, thì đó chỉ là một tờ giây. Văn tự của lá bùa chuyên chở một mệnh lệnh, một sự khuyến cáo, một sự ủy nhiệm, một lời dọa nạt chuyển đạt tới đốì tượng (ỏ đây là những sát thần, tà ma, quỷ mị). Trên th ế giói có nhiều dân tộc với những nền văn hóa khác nhau, thì đương nhiên là sẽ có nhiều thứ ký hiệu ngôn ngữ và văn tự khác nhau. Cho nên chúng ta thấy Phù Văn được viết theo những văn tự bí ẩn hay những bí ngữ của từng nơi.

450

Hiện nay tại thung lũng Mường Hoa , Sa Pa và ở xã Tả Phin (Lào Cai), Vị Xuyên (Hà Giang), còn ‘lưu giữ những bãi đá cổ cùng với những hoa văn, cổ ngữ và cách bài trí bí ẩn. Bãi đá cổ Sa Pa trải rộng 8km2 với gần 200 khôi đá là một bằng chứng về sự xuất hiện của người tiền sử ở đây. Tại những bãi đá này những hoa văn kỳ lạ trên đá vối nhiều hình dạng: bậc thang, hình người, con đường, chữ viết… có những rãnh tròn khá giống biểu tượng m ặt trời, có hình nam nữ giao phối – biểu tượng sự sinh sôi, và rất nhiều những vạch kẻ lạ mắt. Bãi đá cổ Sa Pa được nhà khảo cổ người Pháp gốc Nga Glubev của trường Viễn Đông Bác c ổ phát hiện vào năm 1925, và ông đã đưa ra những giả thuyết giải thích về các hoa văn này. Có rấ t nhiều cách giải mã khác nhau của các nhà khoa học khi đến nghiên cứu bãi đá cổ Sa Pa. Tuy nhiên, tất cả mối chỉ dừng lại ồ giả thiết. Bãi đá cổ là những di sản thiên nhiên vô cùng quý giá của dân tộc chúng ta, nó không chỉ chuyển tải vẻ đẹp nguyên sơ mà còn gợi mồ cho chúng ta về một nền triết học và văn hóa lâu đời của người Việt thời cổ xưa. Chữ trong lá bùa là một hình thức biểu trưng trừu tượng. Nghệ thuật của lá bùa không chấp nhận một ranh giới rõ ràng giữa thực tại và hư tưỏng. Nó đáp ứng đồng đều cho mọi ngưòi, từ kẻ có triết lý cao đẳng đến kẻ ít học hay suy nghĩ giản đơn.

451

Ngôn ngữ của lá bùa có nề nếp văn phạm cực kỳ phong phú, diễn tả những đường nét nhịp nhàng liên tục, phốỉ hợp cái có thể nhận được (như nhịp tim của cơ thể) với cái khí khinh khoát vô hình của hơi thỗ và hồn vía. Qua sự quan sát những đám mây hay sương mù lãng đãng, những đợt sóng nước nhấp nhô, những luồng hơi khói mỏng manh… người họa bùa đã dùng những đường nét mà diễn tả cái tính chất biến dịch, chuyển động và năng lực trong thiên nhiên… Trong những “tờ Đạo” mà cụ Nguyễn Đức c ầ n viết cho những bệnh nhân cũng vậy, đó là những ký tự rất lạ. Có những “tờ Đạo” ký tự như mây cuộn sóng dồn hay như dòng xoáy của những luân xa, có những ký tự như chữ khoa đẩu thời thượng cổ (thiên thư). Các nhà nghiên cứu gọi những lá bùa có những ký tự như những sợi mây trên trời là Phù Vân. Đa sô” những lá bùa được viết (họa) trên giấy, gọi là Chỉ phù. Hình thức phù văn (thư phù hay họa phù) cực kỳ biến hóa, có thể chia làm hai loại: 1. Đơn giản chỉ có ít ký tự hay ký hiệu nào đó. Người phương Tây gọi là Pantacle, những dấu hiệu gồm chứa cả một nguyên lý hợp với sự vận hành của tạo hóa như Thập tự giá của Thiên Chúa giáo, chữ Vạn của Phật giáo, hình ngũ giác đen trắng của vua Salomon… 2. Phức tạp vối nhiều ký tự ngoằn ngoèo. Tiêu biểu

452

là câu trúc của biểu tượng Mạn đà la, được xem như cái bánh xe m ặt tròi với nguồn sáng lung linh tuôn tràn từ trung tâm, tỏa ra muôn vạn hướng, rồi lại trở về trung tâm. Các nhà nghiên cứu tâm linh ghi nhận rằng: Trong vũ trụ bao la đều có dạng thể của Mạn đà la, từ những cá thể của bào tử, loài phiêu sinh, đến cả bông hoa hay chính con mắt người và loài thú cũng là hình ảnh của Mạn đà la. Có nhiều loại bùa khác nhau như: Bùa hộ thân, trừ tà giải bệnh, bùa bình an, bùa trị hóc xương, bùa an thai, bùa ngăn chặn con ranh con lộn… Mỗi một lá bùa lại có một tác dụng khác nhau, được coi như một thông điệp huyền bí để thông linh giữa con người vói th ế giói vô hình. Ngày nay, cùng vối sự tiến bộ vượt bậc của khoa học, những con tàu vũ trụ do con người chế tạo đã bay vào khoảng không gian bao la, bùa chú tưởng như chỉ là những tàn dư lạc hậu, dị đoan còn sót lại. Nhưng cho đến nay chưa một bộ óc điện tử tối tân nào có thể giải mã được những điều huyền bí của bùa chú. Chữa bệnh bằng tay (Ấn quyết – Mudra)

Mudra, người Trung Quốc gọi là yin , người Nhật gọi là in-zo, ta dùng chữ ấn (Thân ấn và Thủ ấn), ấn là biểu tượng, phù hiệu, khuôn dấu đóng vào tờ hiệp ước. Chúng ta thấy những bức tượng Phật trong những ngôi 453

chùa thường được trình bày với những kiểu tay đặc biệt, vừa là một cử chỉ tự nhiên, vừa là một dấu hiệu của tính chất Phật (Phật tính). Trong Đại thừa, các Thủ ấn chỉ các ấn nơi tay, đều tương ứng vối các ý nghĩa đặc biệt, khác với Thân ấn (Khế ấn) là nhữpg tư thế khác nhau như cầm ngọc, tọa thiền… Thủ ấn, là những tư thế khác nhau được tạo nên từ các ngón tay trên hai bàn tay. Năm ngón tay đại diện cho năm đại: Đất, nước, gió, lửa và không. Bàn tay phải tượng trưng cho Trí tuệ, bàn tay trái tượng trưng cho Định. Trí tuệ, Định cùng năm Đại, kết thành những hình dáng, tư thế cho những ý nghĩa khác nhau kết nối với năng lượng của bản thể vũ trụ, thông suốt với lục phủ ngũ tạng, để đạt tới cảnh giới vô ngã, trời người hợp nhất. Trong giáo lý Mật tông, các ngón tay có nhiều tên gọi khác nhau. Hai bàn tay gọi là Mãn nguyệt (trăng tròn), Mười ngón tay gọi là Thập độ hoặc Thập luân (10 luân xa), hav Thập phong (mười đỉnh núi). Bàn tay trái, ngón cái là Trí, ngón trỏ là Lực, ngón giữa là Nguyện, ngón đeo nhẫn là Phương, ngốn út là Huệ. Bàn tay phải, ngón cái là Thiền, ngón trỏ là Tiến, ngón giữa là Nhẫn, ngón áp út là Giới và ngón út là Thí (Đàn). Có rất nhiều loại Thủ ấn, không thể kể hết ra được, nhưng có sáu loại thủ ấn phổ biến nhất: 1. Ấn Thiền định (Dhyani- mudra), tượng trưng cho tư Thiền Ngộ đạo thường gặp ở Đức Phật A Di Đà 454

2. Ấn Thí nguyện (Varada – mudra) thể hiện sự ban tặng, Thủ ấn thường gặp ỏ Đức Bảo Sinh Như Lai. 3. Ân Vô húy (Abhaya- mudra) tượng trưng cho quyết tâm phổ độ chúng sinh, không ngại gian khổ, Thủ ấn thưòng gặp ỏ Phật B ất Không Thành Tựu 4. Ấn Trí quyền (Bodhyagri – Mudra) tượng trưng cho tư duy. Đây là Thủ ấn thường gặp ỏ Phật Đại Nhật Như Lai. 5. An Chuyến pháp luân (Dharm acakraprartanaMudra) tượng trưng cho sự truyền pháp và giáo hóa, kiểu Thủ ấn thường gặp ô Phật Đại Nhật Như Lai. 6. Ấn Xúc địa (Bhumisparsa- Mudra) tượng trưng cho hàng phục yêu ma. Đây là kiểu Thủ ân của Đức Thích Ca Mâu Ni khi đã chứng ngộ. Trong M ật pháp, sự thay đổi tư th ế các ngón tay để bắt kết thành rất nhiều loại Thủ ân và như vậy có thể cảm ứng với Thân mật của chư Phật, Bồ T át trong hư không, nhằm nhận được sự gia trì của chư Phật, đẩy nhanh hiệu quả trong việc tu hành. Chúng ta khi chắp tay kính lễ Trời, Phật, Tổ tiên ông bà, cha mẹ là một dạng Thủ ấn cơ bản nhất trong Đạo Phật. Bàn tay trái tượng trưng cho chúng sinh, bàn tay phải tượng trưng cho chư Phật, bởi vậy tư th ế chắp tay (hợp chưỏng, an ja li- mudra) mang ý nghĩa là chúng sinh hợp nhất với Phật.

455

Trong trị bệnh, ấn quyết dùng hai bàn tay để điều khiển khí lực. Những bậc thầy tâm linh khi chữa trị dùng hai bàn tay etheric (năng lượng) để kéo năng lượng tắc nghẽn ra khỏi trường năng lượng của bệnh nhân, khiến cho vầng hào quang của họ tuôn chảy và tái cấu trúc lại phần cơ thể bị đau, do đó cơ thể lành bệnh (Bàn tay ánh Sáng – Barbara Ann Brennan). Chữa bệnh bằng niềm tin – Chữa bệnh bằng tâm linh – Chữa bệnh bằng năng lượng của bàn tay là một phương thức cân bằng lại trường năng lượng của con người. Chúng ta và muôn vật sống trong giữa đại dương năng lượng và năng lượng ấy truyền sức mạnh cho ta, nuôi dưõng ta, cho ta cuộc sông.

456

Phần VIII

DI TÍCH LỊCH s ử VẪN HÚA

ĐỂN ĐÁ ĐEN Một buổi, thầy b ả o với cậu : N găy m ai ta sẽ vào đến rừng. H ôm ấy, k h i h a i thầy trò vừa mới đến cửa rừng, th ì g ặ p m ột ngôi đền nhỏ. T hầy b ả o cậu : C húng ta hãy vào lễ b à C hú a rừng. N gôi đ ền đ ó d â n qu an h vùng g ọi là đền Đ á Đen… Đền Đá Đen hay còn gọi là đền Chúa Đá Đen, nằm trên địa phận xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, cách Hà Nội chừng 60km về phía Tây bắc. Theo sự tích, đền Chúa Đá Đen là nơi thờ mẹ Đức Thánh Tản và bà Chúa Tiên, nên vì thê còn gọi là đền Mẹ. Truyền thuyết kể rằng: Khi xưa Chúa sinh ra Thánh Tản, lúc sắp thác Chúa có nắm tay Chúa Tiên dặn lại rằng: xin Chúa Tiên ỏ lại nuôi Đức Thánh Tản cho thành người. Sau khi Chúa thác đi, thi hài Người được mang về Vĩnh Phú, bên kia bờ bắc con sông Hồng.

457

Theo Ngọc phả đền Lăng Sương, chép lại: thì Thánh Tản Viên tên thật là Nguyễn Tuấn, phát tích tại xã Trung Nghĩa, Thanh Thủy, Phú Thọ, nằm phía bên kia sông Đà. Thân phụ ngài là ông Nguyễn Cao Hành, thân mẫu là bà Đinh Thị Đen. Năm 6 tuổi Nguyễn Tuấn mồ côi cha, hai mẹ con dời sang xóm Cốc ỏ núi Tản Viên, ở đó Nguyễn Tuấn đã được thần núi Ma Thị nhận làm con… Hòn Đá Đen hiện nay nằm ỏ chân dãy núi Ba Vì, chính là giọt nước mắt của Chúa rơi xuống cõi trần, sử xưa ghi rằng: Mẹ Đức Thánh Tản, tên là Đinh thị Đen (hoặc Đinh Thị Duyên), trước lúc thác bà có nhờ một người em họ là bà Ma Thị nuôi Đức Thánh Tản (có tài liệu cho rằng bà Ma Thị chính là mẹ của hai tướng Cao Sơn và Quý Minh). Theo lời kể của bà cụ Dậu người nhà đền thì khi xưa, đền chỉ là một ngôi nhà nhỏ đơn sơ, lều tranh vách sậy. Trải qua bao năm tháng với những biến đổi lịch sử, đền xưa đã ĩỊỊất mà đất thì vẫn còn. Ngôi đền mới gây dựng lại được 11 năm trên nền xưa đất cũ, cửa đền trông ngay ra hòn Đá Đen huyền thoại. Ngôi đền được xây dựng theo kiểu cổ kim pha trộn. Nơi chính điện phía trên thờ Tam tòa Thánh Mẫu, tiếp đó là nơi thờ Đức Chúa Bà bản đền. Bên trong hậu cung xây động tiên và là nơi thờ Tam toà Chúa Tiên. Phía bên ngoài đền có nơi thờ lầu cô, lầu cậu và năm dinh quan lớn cửa rừng. Hàng năm Đền Chúa Đá Đen mỏ hội vào bốn ngày mồng 8 của bốn mùa.

458

Mùa Xuân, ngày mồng 8 tháng giêng. Mùa Hạ, ngày mồng 8 tháng tư. Mùa Thu, ngày mồng 8 tháng bẩy. Mùa Đông, ngày mồng 8 tháng chạp. Truyền thuyết Đền Chúa Đá Đen là một câu chuyện đượm mầu huyền thoại cổ tích. Nhưng trong đó chúng ta như thấy được sự đồng cảm tương ứng của bà Mẹ thiên nhiên vối con ngưòi Việt. Trong bao la của đất trời, tình Mẹ vẫn chứa chan và rất đỗi xiết bao gần gũi. Văn Chúa Đá Đen Ai qua miền Phong Châu c ổ kính Lai nhớ về mảnh đất hoang vu Quanh năm mây phủ mịt mù Sương rơi lác đác họa cùng tiếng thông già vi vu Trập trùng núi Tản nhấp nhô Hiên ngang sừng sững vút cao bầu trời Thuyền xuôi ngược giương buồm bẻ lái Đội ngư phường sớm tối buông câu Trải bao nắng dãi mưa dầu Sông Đà uốn khúc qua miền Sơn Tây Lệnh truyền các tướng về đây Ánh hồng năm sắc vây quanh núi Bà Tiếng thổ mán khoan thai điểm đốt Cảnh lâm truyền vượn hót chim kêu Rong chơi cung cấm động dào Đá đen chúa ngự cây cao giúp người

459

Dạo khắp nơi Tản Viên tụ khí Trỏ ra về thành nội Sơn Tây Rong chơi phủ tía ìầu hồng Thấy người hợp sô’chấm đồng không tha Tiếng anh linh đồn khắp gần xa Đấy là nơi núi thờ hà Đá đen Cũng có khi chơi Tản Viên, Tam Đảo Lúc lọi về cây gạo ngự chơi Suôi tiên tắm mát thảnh thơi Khi vui chúa độ cho người nhất tâm Đ ể cho trăm họ ngóng trông Đêm ngày nghi ngút khói hương phụng thờ Công bà sánh tựa non cao Đức dày như nước ở ngoài hiển Đông Đông vui náo nức tưng bừng Rủ nhau hái yết chúa hà Đá đen Chúa hà độ cho quốc thái dân an Độ cho trăm họ nhà nhà được yên vui.

ĐỂN THƯỢNG – BA v ì Chuyện k ể rằn g: N gay từ k h i còn trẻ tuổi cậu bé N guyễn Đức Cần đ ã có duyên m ay g ặp được một vị thầy tâm linh. Cậu đ ã đ i theo thầy đến các vùng núi cao rừng th ẳm và m ột trong những nơi đó là đĩn h M ẫu trong dãy núi B a Vỉ, nơi lin h k h í thiêng liêng của nước Việt. Cụ Nguyễn Đức c ầ n k ể lạ i rằng, k h i xưa, lúc còn trẻ cụ đ ã theo T hầy lên Đền Thượng- B a Vì. Cụ nói rằng: L ạ lắm ,

460

trên đ ỉn h M ấu có nhữ ng lo ạ i cỏ m ềm như tóc người và ở đó còn có m ột bà n cờ tiên. Núi Tản như con gà cổ đại Khổng ỉồ mào đỏ thắp bình minh

Một ngày đầu xuân, đoàn chúng tôi hành hương lên Đền Thượng – Ba Vì, lần theo dâu chân năm xưa của nhà văn hóa tâm linh Nguyễn Đức cần . Đền Thượng nằm trong khu Vườn Quốc gia Ba Vì, cách Hà Nội chừng 70km về phía Tây bắc.Từ Hà Nội, chúng tôi đi theo con đường Láng – Hoà Lạc, đến cuối đường này bạn gặp một ngã ba, nếu rẽ trái là lốỉ đi Xuân M ai- Hòa Bỉnh, chúng tôi rẽ phải theo đưòng 21A, đến Sơn Tây đi chừng hơn 15km thì lại gặp một ngã ba, chỗ có ngôi trường tiểu học Sơn Lộc, nếu đi thẳng sẽ vào thị xã Sơn Tây, chúng tôi rẽ trái theo đường 87A lốỉ đi Đá Chông. Từ đây đi chừng hơn 7km thì đến chân núi Ba Vì. Biển chỉ dẫn bên đường ghi: Vườn Quốc gia Ba Vì. Chúng ta rẽ trái theo một con đường nhỏ để lên núi Tản. Ngay dưới chân núi là ngôi đền Đá Đen, một di tích có từ ngàn xưa. Từ đây nếu đi con đường phía bên dưới là đến khu du lịch Thiên Sơn-Suốì Ngà, một khu du lịch khá đẹp với những ngôi nhà sàn xinh xắn, bên dòng suối chảy róc rách. Chúng tôi đi theo con đường trên để lên đền Thượng. Đường lên đền Thượng dốc uốn quanh Thông xanh, núi biếc như tranh hoạ đồ.

Dãy núi Ba Vì là một dãy núi đất và đá vôi lớn trải trên một phạm vi rộng chừng 5000ha ở ba huyện Ba Vì 461

(Hà Nội), Lương Sơn và Kỳ Sơn (Hòa Bình). Trên Ba Vì có nhiều ngọn núi, nhưng nổi tiếng nhất là Tản Viên (còn gọi là Ngọc Tản, Tản Sơn, hoặc Phượng Hoàng; Sơn). Núi này cao 128m, gần đỉnh thắt lại, đến đỉnh lại xòe ra như chiếc ô nên gọi là Tản, còn chữ Viên có nghĩa là tròn. Chân núi này có đền Hạ, lưng chừng núi có đền Trung, đỉnh núi có đền Thượng là nơi thờ Sơn Tinh (Đức Thánh Tản). Ngoài Tản Viên, trên Ba Vì còn có các núi cao là Ngọc Lĩnh, Tương Miêu, Ư Bò, Núi Tre, Ghẹ Đùng, Trăm Voi, Ngọc Hoa (đặt theo tên của công chúa con vua Hùng thứ XVIII được gả cho Sơn Tinh), và núi Vua. Núi Vua cao nhất tới 1296m. Trên đỉnh núi Vua có đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, ở chân núi phía Tây của dãy Ba Vì có dòng sông Đà, phía Đông có hồ nhân tạo Suối Hai dài 7km, rộng 4km vối 14 đảo lớn nhỏ thực chất là những ngọn đồi nhô lên mặt nưốc. Trên dãy Ba Vì còn có nhiều cánh rừng nguyên sinh. Hệ sinh thái động thực vật của Ba Vì rất đa dạng. Vườn quốc gia Ba Vi là nơi bảo tồn sự đa dạng sinh học của nước ta. Ba Vì còn là một khu du lịch sinh thái nổi tiếng ở miền Bắc Việt Nam với các điểm du lịch như Khòang Xanh- Suôi Tiên, khu du lịch Ao Vua, Đầm Long, Thác Đa, hồ Tiên Sa, suối nước khoáng Tản Đà, các đền thờ. ở các độ cao 400m và 600m còn có hai khu nghỉ mát bên những cánh rừng thông xanh tươi. Vườn Quốc gia Ba Vì được xây dựng năm 1991, con đường lên núi được mở rộng và trải nhựa đến gần khu 462

vực đỉnh núi. Nếu lần đầu tối đây, chắc hẳn bạn sẽ ngạc nhiên và thích thú, vì chỉ sau khoảng 2 giờ xe chạy từ Hà Nội, chúng ta đã thấy cảnh dãy núi Ba Vì mở ra trước mắt. Từ chân núi đi lên, con đường dôc cao uốn lượn quanh sườn núi, qua bạt ngàn rừng trúc xanh tươi bên dưới là biển mây trắng bồng bềnh. Bây giờ tiết trời đang còn là những ngày xuân, cỏ cây sau một mùa đông lạnh giá đang thi nhau đâm chồi nảy lộc. Ven đường những bông hoa mua đang khoe màu tím biếc, xen lẫn những bụi hoa rừng với muôn hồng ngàn tía và ỗ dưới kia những thửa ruộng bậc thang trông tựa như trong một bức tranh vẽ. Chúng tôi dừng chân ỏ lưng chừng núi. Ở đây có một khu nhà nghỉ xinh xắn, bên những rừng thông vào mùa này đang độ nỏ hoa, phong cảnh mây trời mờ ảo, đẹp tựa cảnh thần tiên. Leo tiếp 7 cây sô” nữa thì đến bãi xe trên. Nơi đây, có hai lốĩ lên núi, nếu rẽ phải về phía Đông thì lên đến đỉnh Vua, nơi có đền thờ Bác Hồ. Chúng tôi đi về phía Tây nam lối lên đỉnh Mẫu, nơi có ngôi đền thờ Đức Thánh Tản. Theo những nhà phong thuỷ, thì th ế đất ỏ đây giống tựa như đồ hình của Hậu Thiên bát quái, con đường từ dưói núi đi lên vào đúng cung Càn (Tây bắc), ở phía bên trái là cung chân (phía Đông) là lốỉ lên đỉnh Vua, còn ỏ phía cung Khôn (phía Tây nam) có một con đường để lên đỉnh Mẫu. Chúng ta đi từ cung Càn sang đến cung Khôn để lên đỉnh Mẫu, th ế mối biết đến sự diệu kỳ của trời đất là vậy.

463

vẫn biết rằng từ ngàn xưa dãy núi Ba Vì là nơi linh khí của đất Việt ta, nơi mà mây lành quanh năm luôn quấn quýt trên đỉnh và cũng là nơi các vị thánh thần của ngàn xưa nước Việt ngự trị. Nên khi bạn lên đến đây, thấy tâm hồn mình thư thái mọi thứ bụi trần như được gột rửa, bước chân nhẹ bước lâng lâng… Chợt nhớ đến câu chuyện Trên đỉn h non Tản của nhà văn Nguyễn Tuân, tả lại chốn bồng lai tiên cảnh vói bao điều kỳ lạ. Dãy núi Ba Vì có ba ngọn, đỉnh cao nhất là đỉnh Vua, cao 1296m. Đỉnh giữa là đỉnh Tản Viên, cao 1281m. Đỉnh thứ ba là đỉnh Ngọc Hoa, cao 1120m. Người xưa cho rằng: Theo phong thuỷ thì núi Tản Viên là quả núi chủ của kinh thành Thăng Long. T h ế đ ấ t lưng dự a núi Tản, m ặt nhìn ra sông N hị H à, đ ất rộng m à bằn g p h a n g như rồng cuộn h ổ ngồi. Thực là nơi thượng đ ô của kin h sư muôn đời. Từ xa xưa trong dân ta đã lưu truyền về ngôi đền thiêng trên đỉnh núi Tản. Năm 1993 đền Thượng đã được xây dựng ngay chân vách núi đá dựng đứng, dưổi đĩnh Tản Viên, mà ngưồi ta cho rằng trên dấu tích xưa của ngôi đền cổ. Người thiết kế ngôi đền Thượng là kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính, con trai của cụ Hoàng Đạo Thuý. Các câu đốì trong đền do giáo sư viện sỹ Vũ Tuyên Hoàng làm và chữ do cụ Lê Xuân Hoà, một nhà thư pháp nổi tiếng viết. Đền Thượng được xây theo hướng Bắc – Nam, cửa đền trông xuống phương Nam. Bên trong đền, phía trên 464

chính giữa, bức hoành phi có bốn chữ đại tự ghi: Tản Lĩnh Linh Thần. Hai bên phía ngoài có đôi câu đối: Núi Tản tựa trời cao, ba đỉnh lừng danh từ vạn cổ Sông Đà trừ thác dữ một dồng rực sáng đến mai sau.

Đền Thượng hiện nay thờ tam vị, chính giữa đền là nơi thò Đức Thánh Tản, hai bên là hai vị thánh Cao Sơn và Quý Minh là hai tướng giỏi của Ngài. Từ đền Thượng đi về hướng Tây chừng mươi bước chân thì thấy một lối đi nhỏ ngược theo vách núi để lên đỉnh. Đỉnh Tản Viên còn được gọi là đỉnh Mẫu. Xưa tương truyền rằng người trần tục không ai có thể lên được, và ỏ đây còn có một bàn cờ tiên, từ khi con đường lên đỉnh Mẫu được khai mỏ, khách thập phương được lên đây kính lễ, nhưng bàn cờ tiên thì không còn thấy nữa. Hôm nay đây, chúng tôi được lên đến đỉnh Mẫu, giữa hương bay ngào ngạt, trong bao la của trời đất, ngắm nhìn hàng tùng bách đứng hiên ngang trong sương ngàn gió núi, lòng hằng mong ước rằng nước Nam ta, hoa thơm sẽ sớm nỏ cho mãi ngát hương đời. ĐỂN VÀ – SƠN TÂY N ăm ấy, do thời cuộc, cụ N guyễn Đức c ầ n p h ả i d ỡ đ iện th ờ M ầu trong sâ n nhà, cụ m an g b a chiếc chén ngọc và bát hương công đồng lên đ ặ t tại Đền Và – Sơn Tây . Lú c đ ầ u những người trông coi ngôi đền kh ôn g đồn g ý,

465

cụ nói: T hôi được, tùy các ông th ôi. N hưng khi cụ vừa bước ra đến sân đền thì một cơn giôn g bỗng kéo đến, m ây đen p h ủ kín bầu trời và g ió m ạn h từng cơn làm rung chuyển, xao động cây cối trong đền. Cho đó ỉà điềm trời nổi giận, bẩy ông từ m ặc á o thụng xanh, sợ h ã i cùng chạy ra sân mời cụ trỗ lại. K h i bát hương cụ đ ặt tại ch ín h điện đ ã yên vị, thỉ trời lạ i qu an g m inh sáng tỏ, và lạ thay bao nhiêu chim rừng từ đ âu bay về đ ậu đầy trên những ngọn cây trong khu đền và líu lô như hót mừng… C húng tôi xin trân trọng giới thiệu ngôi Đền Và Sơn Tây Đền Và còn có tên gọi khác là Đông cung thuộc thôn Vân Gia (Vân Già), xã Trung Hưng, huyện Tùng Thiện, thành phô” Hà Nội. Là nơi thờ Tam vị đức thánh Tản, sắc phong Tam vị Quốc chúa thượng đẳng thần là Đệ nhất phúc thần Tản Viên, hay còn gọi là Nam thiên thánh tổ – vị tổ của bách thần ỏ phương Nam và hai người em là Cao Sơn (Sùng công) và Quý Minh (Hiển công). Theo truyền thuyết, sau khi đức Thánh Tản giúp vua Hùng dẹp xong giặc, Ngài đi du ngoạn qua đây, thây nơi này đất đai mầu mỡ, phong cảnh hữu tình, bỗng chợt thấy mây lành ngũ sắc che phủ trên đầu, cho đó là điềm lành, Ngài liền cho xây dựng ở đây một hành cung gọi là Đông cung và đặt tên làng này là Vân Già. Đền Và có tổng diện tích khoảng 2.000m2. Tọa lạc trên một quả đồi rộng thâm u .bóng lim cổ thụ, bao

466

quanh là những bức tường xây bằng đá ong. Đền được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc. Khu vực bên ngoài là dinh thờ Ngũ hổ, động Sơn Trang và giếng Cô Tiên. Tam quan (hay còn gọi là Nghi môn) của ngôi đền gồm ba gian xây theo kiểu đầu hồi bít đốc tay ngai, hai bên là những cây đại già có đến vài trăm năm tuổi, phía trước là cột trụ biểu vuông đầu đắp đèn lồng đội bôn con phượng. Trên nóc tam quan đắp hình “Lưỡng long chầu nguyệt”. Qua Tam quan, vào khu vực Ngoại cung là một khoảng sân rộng lát gạch vuông, bên phải có gác chuông, bên trái có gác trống, được kiến trúc theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái. K ế đến là nhà tiền tế (được gọi là đền Hạ) vói hai dãy tả, hữu mạc hai bên thuộc khu vực Nội cung. Theo nội dung tấm bia “Vân Già đông trấn cung ký” dựng ỗ đầu hồi nhà tiền tế năm Tự Đức thứ 36, thì đền Và đã có từ thời nước ta còn bị nhà Đường đô hộ, nhưng quy mô nhỏ. Đền đã qua tu tạo, sửa chữa nhiều lần. Nhà tiền tế có kiến trúc hình chữ nhất (-), năm gian, để trống bốn bề, treo rất nhiều hoành phi, câu đốỉ, trong đó đáng chú ý có bức hoành phi bằng đá với bốn chữ Sơn d ữ thiên tề (núi cao ngang trời) và một bức hoành phi sơn son thiếp vàng có bốn chữ đại tự N am T hiên T h án h Tổ. Thông với nhà tiền tế (đền Hạ) là gian ngoài của hậu cung (đền Trung). Tại đây, có hai pho tượng, một văn, một vố (văn võ lưỡng ban) trong tư th ế ngồi, quay mặt vào nhau và bốn pho tượng Tử trấn kích cố tương đương người thật, mỗi bên

467

hai vị, đứng đối diện nhau mặc áo bào đỏ tay cầm vũ khí, đó là bốn vị trấn ỗ bốn cung của Tam vị đức thánh Tản. Qua đền Trung đến gian trong của hậu cung (đền Thượng). Ngay ở vi trí trang trọng của thượng cung là bức đại tự với dòng chữ Thượng đ ắn g tối linh có niên đại năm Tự Đức – Quý Mùi (1883). Phía trong cùng của hậu cung là một chiếc khám lớn sơn son thếp vàng, cao trên 3m trong đặt bài vị đức Quốc mẫu là bà Đinh Thị Điêng (tục gọi là bà Đen), mẹ của Đức Thánh Tản. Trước khám thờ là hương án trên có ba cỗ long ngai của Tam vị đức Thánh Tản, cỗ long ngai của Thánh Tản Viên ở giữa, hai bên là Cao Sơn và Quý Minh. Hiện ỏ đền Và còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị như Sắc phong của các triều đại, các đồ tế tự (trong đó có hai cây đèn đá thời Lê) và đặc biệt là những tấm ván gỗ khắc văn thơ của các danh sĩ như Nguyễn Khản, Nguyễn Thiện Kế, Trần Lê Nhân… khiến cho không gian thiêng và không gian văn hóa ở đây hòa quyện vào nhau, mang đậm bản sắc văn hóa xứ Đoài. Xuân thu nhị kỳ, lễ hội đền Và được tổ chức một năm hai lần vào các ngày từ 13 đến 15 tháng giêng và từ 14 đến 16 tháng chín (âm lịch). Lại định ba năm một lần, vào các năm Tí, Ngọ, Mão, Dậu, tổ chức đại hội. Lễ hội Rằm tháng giêng ỏ đền Và là lễ hội của một vùng xứ Đoài. Những năm đại hội có sự tham gia của tám làng thuộc ba huyện của hai tỉnh là các làng Vân

468

Gia, Thanh Trì, Nghĩa Phủ, Mai Trai, Đạm Trai (thị xã Sơn Tây) và Di Bình (thuộc xã Vĩnh Ninh, huyện Vĩnh Tưòng, tỉnh Vĩnh Phúc). B ắt đầu từ sáng ngày 13 tháng giêng, mọi công việc chuẩn bị cho lễ hội như trang hoàng, bày biện ỏ trong và quanh khu vực đền đã được làng Vân Gia sỏ tại hoàn tất. Buổi chiều, các thôn cho người rưóc kiệu và lễ vật của thôn mình về tập trung trước sân đền. Ngày 15, chủ yếu là dành cho hội. Trong sô” các trò chơi dân gian được tổ chức, đáng chú ý có trò vật chầu bóng thánh và sau đó là vật giải để cho các đô vật đua tài, đua sức và thể hiện tinh thần thượng võ của mình. Lễ hội Rằm tháng chín ỏ đền Và chỉ có năm thôn của xã Trung Hưng là Vân Gia, Nghĩa Phủ, Thanh Trì, Mai Trai và Đạm Trai tham gia. Từ ngày 14, dân các thôn trên mang theo những dụng cụ đánh bắt cá ra sông Tích, đoạn từ cầu Vang (thuộc xã Đường Lâm) đến Mả Mang (thuộc xã Trung Hưng), tổ chức đánh bắt cá tập thể để làm tiệc tế thánh. Quy định: Đánh được cá trắng và là cá to thì nộp cho làng, còn cá đen hoặc cá nhỏ thì lấy. Lại quy định sô” cá làm tiệc tế thánh phải đủ 99 con; vì vậy, thời gian không kể lâu mau, khi nào đủ sô”, cuộc đánh bắt mới dừng lại. Theo quan niệm, những ai có cá trong sô” 99 con được chọn để tế thánh là người trong năm làm ăn sẽ gặp nhiều may mắn. Lễ hội Rằm tháng chín còn được gọi là lễ hội Đả ngư

469

– Tiệc cá để tế thánh bao gồm các món luộc, nướng, nham, gỏi và được bày làm mười mâm, một mâm cúng ông Táo, còn chín mâm chia làm ba, bày trước ba ngai Tam vị đức thánh Tản. Một miếng lộc thánh bằng một gánh lộc trần, sau khi tế xong, mọi người lại cùng nhau vui vẻ thụ lộc. Đặc biệt, trong ngày này cỗ cúng ỏ đây không có muối và sau khi thụ lộc xong, có tục ăn trầu không có vôi, nên mói có câu: H ội đền Và trầu khôn g vôi, xôi kh ôn g m uối. Sự thờ phụng ỏ đền Và cũng như các nghi thức trong lễ hội của nó mang đậm đặc đời sống sinh hoạt của người Việt cổ. K h i xưa, h àn g năm vào những ngày đ ầu xuân, cụ Nguyễn Đức c ầ n thường d ẫ n m ọi người đi du X uân Đền Và. M ùa xuân năm Quý Hợi (1983), có kh oản g 500 người đ ã được đi du X uân cùng với cụ. ĐỂN BA CÂY H àn g năm , Cụ Nguyễn Đức c ầ n thường d ẫn con cháu, những người chịu ơn, những bệnh nhân đ i du X uân Đền Và, Đ ền B a Cây. Đền B a Cây ỉà ngôi đền thờ Đức Thánh Mẫu và là nơi thờ vọng người Thầy của cụ. Những ngày xuân ấy, đoàn người đ i theo cụ ngồi kín cả ba vòng đ ai trên đỉnh quả đồi. Những anh chị em nghệ sỹ, m ang tiếng đàn lời hát ngợi ca công đức của Cụ và chào đốn một m ùa Xuân mới… 470

Đền Ba Cây hay còn gọi là Đền Ba Đai nằm trong địa phận thôn Yên Mỹ, xã Thanh Mỹ nay thuộc thị xã Sơn Tây, cách Đền Và chừng 3km về phía Tây nam. Đền nằm trên một ngọn đồi tĩnh mịch, chung quanh là rừng lim và bạch đàn. Trên đỉnh quả đồi mà ngôi đền toạ lạc có hình thể ba vòng tròn như ba vòng đai, nên gọi là Ba Đai. T h ế đất như vậy phong thuỷ gọi là “Đại hựu viên khâu”, nơi đất lành có nhiều vượng khí. Theo ông Kiều Xuân Minh, người đang trông coi đền hiện nay, thì đền Ba Đai khi xưa có tên gọi là đền Hoàng Anh và còn được gọi là đền Ba Cây. Vì nguyên trước đây, trên đỉnh quả đồi này có ba cây thông cổ thụ. Sau quân Pháp đến chiếm đóng và đã tàn phá đốt cháy cả ba cây thông này. Dưối chân đồi, chỗ lôT đi lên có xây một chiếc cổng. Con đường đất lên đền đã được lát gạch và rải bê tông. Trước cổng đền phía trên có hai cây xanh mọc, cành lá giao nhau trông như chiếc cổng chào. Xưa ỏ đây chỉ là một ngôi đền nhỏ, mái ngói rêu phong, bên ngoài có một mái bếp lợp rơm rạ, sớm chiều khói lam lan toả. Xung quanh đồi là cả một rừng lim bốn mùa xanh tươi. Cảnh vật nơi đây thật tĩnh mịch và êm ả thanh bình. Ngày lành mùa thu năm Tân Tỵ (2001), ngôi đền Ba Đai đã được xây dựng lại vói quy mô như ngày nay. Cửa đền mỏ về hưống Đông, phía trên toà chính điện có ghi bốn chữ “Anh Sơn Linh Từ”. Thật đúng là ngôi đền thiêng trên núi cao. Xưa có câu đốĩ ghi rằng: 471

Anh linh thiên cổ tại Hiển hách tứ thời tân

Dịch nghĩa: Anh linh muôn thủa còn nguyên Hiển hách bốn mùa đổi mới.

Đền Ba Đai là nơi thờ ĐứcThánh Mẫu.Từ xưa người ta đã quan niệm rằng vạn vật trong vũ trụ này đều có Mẹ. Đó là lẽ dĩ nhiên của trời đất. Tôn vinh Mẫu chính là một đạo lý của người Việt Nam ta. Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ các nữ thần (thường gọi là các Thánh Mẫu). Đạo Mẫu là một phần quan trọng trong hệ thông tín ngưỡng dân gian và bản sắc dân tộc của Việt Nam. Nguồn gốc lịch sử của đạo Mẫu không được ghi lại rõ ràng trong sách vỏ. Có người cho rằng nó có nguồn gốc từ thời tiền sử, khi người Việt thờ các thần linh thiên nhiên, các thần linh này được kết hợp lại trong khái niệm Thánh Mẫu hay Nữ thần Mẹ. Theo thời gian, khái niệm Thánh Mẫu được mở rộng để bao hàm cả các nữ anh hùng trong dân gian – những người phụ nữ có thật nổi lên trong lịch sử với vai trò ngưòi bảo hộ hoặc trị bệnh. Những nhân vật lịch sử này được kính trọng, tôn thờ, và cuối cùng được thần thánh hóa để thành một trong các hiện thân của Thánh Mẫu. Các vị thần trong đạo Mẫu phản ánh các phẩm chất của một người Mẹ vừa thần thánh lại vừa con người. Đạo Mẫu không chú trọng vào cuộc sống sau khi chết, 4 72

nó quan tâm đến cuộc sống hiện tại và câu hỏi làm thế nầo để người ta có thể đạt được một cuộc sống hạnh phúc và đầy đủ trên trần gian. Trong tín ngưỡng của người Việt Nam, việc tôn thờ Nữ thần, thờ Mẫu là một hiện tượng khá phổ biến, có căn cỗi lịch sử và xã hội sâu xa. Từ râ”t lâu đời, ỗ nước ta Nữ thần đã được nhân dân tôn vinh và thờ cúng. Người xưa cũng đã từng tập hợp các vị tiên có nguồn gốc thuần Việt, thì trong tổng sô” 27 vị, đã có 14 là Tiên nữ. Trong truyền thuyết Nữ thần Mặt Trời và Nữ thần M ặt Trăng đã soi sáng và sưỏi ấm cho mặt đất, tạo lập nên vũ trụ. Huyền thoại về bà Nữ Oa đội đá vá trời. Các nữ thần Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Phong, Pháp Điện tạo ra mây, gió, sấm chóp… Sinh thành ra dân tộc Việt Nam có Mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trứng, nỏ thành 100 người con. Các bà Mẹ cũng là các vị thần sáng tạo ra văn hoá và các giá trị văn hoá, là tổ của nhiều ngành nghề truyền thống như Mẹ Lúa, Mẹ Mía, Mẹ Lửa… Nhiều nữ thần là các danh tướng anh hùng ngoài trận mạc, là những nhân tài xây dựng đâ”t nước như hai Bà Trưng, bà Triệu, Ỷ Lan, Bùi Thị Xuân… Các vị Nữ thần từ bao đời nay được nhân dân tôn làm Thánh, Thần, được triều đình sắc phong thành các vị Thần, Thành Hoàng của nhiều làng. Đạo Mẫu có các nghi lễ tổ chức theo Âm lịch với các tín đồ và nhiều người đi lễ tham gia. Các nghi thức hành lễ không được đào tạo chính thức mà chủ yếu 473

được truyền khẩu từ đời này qua đời khác. Nghi lễ phổ biến nhất là lên đồng (hay còn gọi là hầu bóng). Trong nghi lễ này, người ta tin rằng linh hồn của các vị thần sẽ nhập vào người lên đồng, linh hồn này được vời đến để nghe lời cầu nguyện của người đi lễ. Trong các nghi lễ, phụ nữ thường đóng vai trò chính, người lên đồng cũng thường là phụ nữ (bà đồng), đôi khi mói do nam giói đảm nhận (ông đồng). Các giá đồng (các điệu múa linh thiêng) là một phần quan trọng của nghi lễ. Có 72 giá đồng, bao gồm giá các quan lớn, giá các cậu, giá chầu bà, giá các cô… Trong buổi lễ, các giá đồng được biểu diễn cùng với hát văn (hay chầu văn). Hát văn là một thể loại hát nói (vừa hát vừa nói). Hát văn do người đồng biểu diễn cùng với dàn nhạc cung văn. Người ta nói rằng, chầu văn tạo nên một khung cảnh và âm nhạc tâm linh để giúp cho ngưòi đồng nhập vào vai mối, nó gắn kết với những con người và nơi chốn ở bên ngoài thế giới địa phương của họ. Tục thờ Mẫu và Tam toà Thánh Mẫu có quan hệ mật thiết vối tục thờ Nữ thần. Mẫu là Nữ thần nhưng không phải tất cả các nữ thần đều là Mẫu, mà chỉ có một s ố nữ thần được tôn vinh là Mẫu. Danh từ Mẫu là gốc Hán Việt, còn thuần Việt gọi là Mẹ. Nghĩa ban đầu, Mẫu hay Mẹ đều để chỉ người phụ nữ đã sinh ra một người nào đó, là tiếng xưng của người con đôi với người sinh ra mình. Ngoài ý nghĩa xưng hồ thông thường đó, từ Mẫu và Mẹ có ý nghĩa rộng rãi tôn vinh những bà Mẹ

4 74

chung của mọi người. Tín ngưỡng thờ Mẫu chứa đựng những nhân tô’ về một hệ thông vũ trụ luận nguyên sơ, thể hiện một ý thức nhân sinh, ý thức cội nguồn, dân tộc, lòng yêu nước đã được thiêng liêng hoá mà Mẫu là biểu tượng cao nhất. s Đạo Mẫu tiếp thu những ảnh hưỏng của tục thờ cúng tổ tiên, một tín ngưỡng có vai trò quan trọng hàng đầu trong tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Trong quá trình đạo Phật du nhập vào nước ta và một bộ phận quan trọng của nó đã phát triển theo khuynh hướng dân gian hoá, giữa đạo Phật và đạo Mẫu có sự thâm nhập và tiếp thu ảnh hưỏng lẫn nhau khá sâu sắc. Điều dễ nhận biết là ỏ hầu hết các ngôi chùa hiện nay đều có điện thò Mẫu, trong đó phổ biến nhâ’t là dạng “tiền Phật hậu Mẫu”, phía trước thờ Phật, phía sau thờ Mâu. Chúng ta thấy trong những điện thò Mẫu có một hệ thống được thờ như sau: Trên cao nhất của thượng điện là Đức Ngọc Hoàng Thượng đế. Tuy vậy, ít nơi thờ, vì đúng lẽ chỉ có những vị tiên trên thượng giới mới được thờ Thượng đế. Tiếp đến là thờ Tam toà Thánh Mẫu (Mẫu tam phủ, Mẫu tứ phủ). Mẫu là quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất và hoá thân thành Tam vị, Tứ vị cai quản các cõi các miền khác nhau của vũ trụ: Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn. Thường chúng ta thấy Tam toà Thánh mẫu trong

475

các điện thờ: Mẫu Thượng Thiên hay còn gọi là Mẫu Cửu Trùng (Cửu Thiên Huyền Nữ) mặc áo đỏ, ngồi chính giữa. Sau này một sô” điện thờ Mẫu, nơi chính giữa thờ Mẫu Liễu Hạnh. Theo những nhà nghiên cứu văn hóa thì Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện vào khoảng đời hậu Lê, nhưng nhanh chóng trỏ thành vị Thần chủ của Đạo Mẫu Việt Nam và được tôn vinh với tư cách là Mâu Thượng Thiên, được thò ở vị trí trung tâm, mặc trang phục màu đỏ. Tại làng Tây Hồ – Hà Nội có Phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh, dựng trên doi đất trông ra Hồ Tây, cảnh đẹp, gió lộng từ ba phía. Ngoài ra còn có những đền thờ nổi tiếng ỏ nhiều nơi như Phủ Giầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, đền Sòng, Phô” Cát- Thanh Hoá… Mẫu Thượng Thiên sáng tạo bầu trời và làm chủ quyền năng mây, gió, sấm, chốp… Mẫu Thượng Ngàn là hoá thân Thánh Mẫu toàn năng trông coi miền rừng núi, ngồi bên trái, mặc áo xanh. Các đền thờ Mẫu Thượng Ngàn có ỏ nhiều nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng chính được nhiều người biết đến là ỏ Suối Mỡ (Bắc Giang) và Bắc Lệ (Lạng Sơn). Đền thò Mẫu Thượng Ngàn ỏ Suô”i Mỡ thờ Mỵ Nương Quê” Hoa, con gái vua Hùng. Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn ở Bắc Lệ thờ công chúa La Bình, con gái đức Thánh Tản và Ngọc Hoa. Mâu Thoải (Mẫu Thuỷ) là vị Thánh trị vì vùng sông

476

nước, xuất thân từ dòng dõi Long Vương, liên quan đến thuỷ tổ dân tộc Việt ngồi bên phải, mặc trang phục màu tráng. Mẫu Địa là vị thánh trông coi đất đai, mặc áo màu vàng. Sau hàng Mẫu là Ngũ vị Quan Lớn, gọi tên từ Quan Đệ Nhất đến Quan Đệ Ngũ. Các vị đều mặc võ quan, mang kiếm hay kích, màu sắc trang phục Thoải Phủ màu trắng, Thiên Phủ màu đỏ, Nhạc Phủ màu xanh, Địa Phủ màu vàng. Các vị Quan lốn đều có nguồn gốc là thiên thần, vâng mệnh trời xuống giúp dân lành. Nhưng cũng có nơi gắn các vị Quan lốn với các Nhân thần, những vị tưống có công với nước. Tiếp đến là Tứ vị Thánh Bà (hay Tứ vị Chầu Bà) được coi như hoá thân, phục vụ trực tiếp của Tứ vị Thánh Mẫu. Dưới hàng Chầu là hàng các ông Hoàng, được gọi theo thứ tự từ ông Hoàng đệ Nhất đến ông Hoàng Mười. Hàng Cô được gọi từ Cô Đệ Nhất (cô cả) đến Cô thứ Mười Hai (cô bé), đều là các thị nữ của Thánh Mẫu. Các cô ăn mặc rất đẹp, áo các màu, thắt lưng hồng, tóc cài hoa… Các Cậu quận là những ngưòi chết trẻ hiển linh, họ là những phụ tá của các ông Hoàng. Tại các điện thờ Mẫu ỏ hạ ban hoặc ngoài sân còn có sự hiện diện của các vị quan Ngũ Hổ hay ông Lốt (rắn). Trong quan niệm dân gian, thần Ngũ Hổ cai quản núi rừng, là vị thần linh canh giữ các ngôi đền. Còn Rắn Thần cai quản nơi sông nưóc. Con người trong cuộc sông hàng ngày lao động phải chịu đựng bao gian lao, khó nhọc có khi cả đắng cay khổ 477

cực, tìm đến Mâu là để cầu xin, tăng thêm sức mạnh tinh thần, vững niềm tin để vươn lên một cuộc sổng tốt đẹp hơn, hoặc ngay cả khi đã được ấm no sung sướng, con người cũng tìm đến Mẹ để bày tỏ tấm lòng thành kính biết ơn. Ngày 30 tháng 4 năm 2011, Đền Ba Cây đã được Nhà nưốc công nhận và cấp bằng là Di tích Lịch sử Văn hóa. Mùa Xuân năm Nhâm Thìn 2012

Nguyễn Tài Đức

478

NHÀ XUẤT BẢN VÃN HOÁ – THÔNG TIN Số 43 Lò Đúc, Hà Nội. ĐT: (04) 39712448

NGUYỄN ĐỨC CẦN NHÀ VĂN HÓA TÂM LINH NGUYỄN PHÚC GIÁC HẢI – NGUYỄN TẢI ĐỨC

Chịu trách nhiệm xuất bản

L Ê T IẾ N D Ũ N G Biên tập: Sửa bần in: Bìa: Trinh bày:

BỂ MINH HÀ QƯÔC THI PHẠM TUÂN NGUYEN t h a n h

In 1.000 cuốn, khuôn khổ 14.5×20.5 cm. Tại Xí nghiệp in Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc. Đăng ký kế hoạch xuất bản số: 182 – 2013/CXB/l 15-06/VHTT. Quylt định xuất bản sổ: 114/VHTT, ngày 22/03/2013. In xong và nộp lưu chiểu quý II năm 2013.

Cụ Nguyễn Đức Cần khi còn trẻ

Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải đang xem thư từ bệnh nhân gửi cho cụ.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải chụp ảnh lưu niệm với cụ nhân ngày đầu tiên 30-41974, nhà nước tổ chức chính thức quay phim chụp ảnh một hiện tượng ngoại cảm

cụ Nguyễn Đức Cần đang điều khiển chữa bệnh liệt tay cho trung tá Vũ Hữu Hiếu (viện Quân y 108). (người mặt áo trắng đứng cạnh cụ là nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải.) Trung tá Vũ Hữu Hiếu lúc đó công tác tại Viện quân y 108, bị bệnh nhũn não, một bên cánh tay bị liệt, đã đi chữa tại Liên Xô (cũ) nhưng không khỏi. Khi ông Hiếu lên gặp Cụ Nguyễn Đức Cần xin chữa bệnh, cụ đã điều khiển ngay tại chỗ cho ông Vũ Hữu Hiếu giơ bên tay bị liệt lên. Chúng ta thấy bàn tay trái của cụ, ngón chỏ là Lực đang hướng về phía người bệnh, bàn tay phải của cụ giơ cao, ngón trỏ là Tiến đang điều khiển người bệnh giơ tay lên.

Gia đình cụ Nguyễn Đức Cần

Cụ đang tiếp chuyện tại Đại Yên

Đêm 30 Tết Quý Hợi 1983 tại Đại Yên

Cụ ngồi giữa con cháu bệnh nhân đêm 30 tết Quý Hợi 1983

Một tờ đạo cụ dùng để chữa bệnh.

Ngôi nhà năm xưa của cụ, số 86 Đại Yên, Hà Nội.

Bàn thờ cụ Nguyễn Đức Cần

Nơi cụ đang an nghỉ – Xã Thanh Mai, huyện Thanh Oai – Hà Nội ( đi qua Bình Đà khoảng 3Km về phía nam )

Nơi đây, cụ an nghỉ..

Những người chịu ơn và gia đình đã tiến hành tôn tạo khu lăng mộ cụ, trên cơ sở diện tích đang sử dụng, xây dựng mở rộng hàng rào bên ngoài, lát gạch nền, trồng thêm cây xanh, nâng cấp con đường dẫn vào lăng mộ… Công trình hoàn tất vào tháng 11/2012.

Lăng mộ cụ trước khi tôn tạo.

Khách thập phương về viếng cụ, Buổi lễ kỷ niệm 26 năm ngày mất của Cụ, (4/6 Kỷ Sửu 2009)

Hàng cau xanh mát nơi cụ an nghĩ

Nhà ngoại cảm Dương Mạnh Hùng (trái)

Các nhà ngoại cảm đến viếng mộ cụ

Các đại biểu tham dự buổi họp mặt đầu năm 2012, nhân dịp tái bản cuốn sách lần thứ 3. (ảnh chụp sáng ngày 1/1/2012 tại nơi cụ đang an nghỉ)

Buổi lễ kỷ niệm 26 năm ngày mất của Cụ, (4/6 Kỷ Sửu 2009) (cũng là lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh cụ, 25/7/2009)

Sáng ngày 27 tháng 8 năm 2011, Bộ môn thông tin dự báo và Bộ môn Cận tâm lý, tổ chức buổi Tọa đàm “Nhà chữa bệnh Nguyễn Đức Cần và những bước đi đầu tiên của khoa học ngoại cảm ở nước ta” tại địa điểm: Bộ tư lệnh Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Số 1 Ông Ích Khiêm, Hà Nội.

\