Giai đoạn Bắc thuộc (111 TCN – 938)

Chính trị nhà Tây Hán: Chiếm nước ta rồi cải tên nước là Giao Chỉ và chia ra làm 9 quận, mỗi quận có quan thái thú coi việc cai trị trong quận và có quan thứ sử để giám sát các quận. Ở trong quận Giao Chỉ thì có những Lạc tướng hay Lạc hầu vẫn được thế tập giữ quyền cai trị các bộ lạc.

1. Nam Hải (Quảng Ðông).
2. Thương Ngô (Quảng Tây).
3. Uất Lâm (Quảng Tây).
4. Hợp Phố ( Quảng Ðông).
5. Giao Chỉ.

6. Giao Chỉ.
7. Nhật Nam.
8. Châu Nhai (đảo Hải Nam).
9. Ðạm Nhĩ (đảo Hải Nam).

 ♦ Bắc thuộc lần thứ hai (từ năm 43 – 544):

Chính trị Nhà Ðông Hán (năm 25-220): Mã Viện đánh được Trưng Vương, rồi chỉnh đốn binh lương, đem quân đi đánh dẹp các nơi, đi đến đâu xây thành đắp luỹ đến đấy và cải cách chính trị trong các châu quận. Ðem phủ trị về đóng ở Mê Linh. Từ đó chính trị nhà Ðông Hán càng ngày càng ngặt thêm, quan lại sang cai trị tham lam độc ác, bắt dân lên rừng xuống bể để tìm những châu báu.

Ðời Tam quốc (năm 220-265):
Nhà Ðông Ngô (222-280): Nhà Ðông Hán mất ngôi thì nước Tàu phân ra là ba nước: Bắc Ngụy, Tây Thục, Ðông Ngô. Ðất Giao Châu bấy giờ thuộc về Ðông Ngô.
Nhà Tấn (năm 265-420): Nhà Tấn làm vua được 50 năm thì mất cả đất ở phía tây bắc. Dòng dõi nhà vua lại dựng nghiệp ở phía đông nam, đóng đô ở thành Kiến Nghiệp (thành Nam Kinh) gọi là nhà Ðông Tấn. Ðất Giao Châu ta vẫn thuộc nhà Tấn. Những quan lại sang cai trị thỉnh thoảng mới gặp đuợc người nhân từ tử tế, thì dân mới được yên ổn. Còn thì những người tham lam độc ác làm cho nhân dân phải lầm than khổ sở.
Nam Bắc triều (năm 420-588): Năm Canh thân (420) Lưu Dụ cướp ngôi nhà Ðông Tấn, lập ra nhà Tống ở phía nam. Lúc bấy giờ ở phía bắc thì nhà Ngụy gồm cả nước Lương, nước Yên, nước Hạ. Nước Tàu phân ra làm Nam triều và Bắc triều. Bắc triều thì có nhà Ngụy, nhà Tề, nhà Chu nối nhau làm vua; Nam triều thì có nhà Tống, nhà Tề, nhà Lương và nhà Trần kế nghiệp trị vì. Lúc bấy giờ Giao Châu phụ thuộc về Nam triều.

 ♦ Bắc thuộc lần thứ ba (603 -939):

Nhà Tuỳ (năm 589-617): Làm vua bên Tàu được 28 năm thì mất.
Nhà Ðường (năm 618-907): Năm Mậu Dần (618) nhà Tuỳ mất nước; nhà Ðường kế nghiệp làm vua nước Tàu. Ðến năm tân tị (621) vua Cao Tổ nhà Ðường sai Khâu Hòa làm đại tổng quản sang cai trị Giao Châu. Nhà Ðường cai trị nước ta nghiệt ngã. Năm Kỷ Mão (679) vua Cao Tông nhà Ðường chia đất Giao Châu ra làm 12 châu, 59 huyện và đặt An Nam đô hộ phủ. Nước ta gọi là An Nam khởi đầu từ đấy.
Mười hai Châu đời Ðường:
 

1. Giao Châu – có 8 huyện (Hà Nội, Nam Ðịnh…).
2. Lục Châu – có 3 huyện (Quảng Yên, Lạng Sơn).
3. Phúc Lộc Châu – có 3 huyện (Sơn Tây).
4. Phong Châu – có 3 huyện (Sơn Tây).
5. Thang Châu -có 3 huyện.
6. Trường Châu – có 4 huyện.

7. Chi Châu -có 7 huyện.
8. Võ Nga Châu -có 7 huyện.
9. Võ An Châu-có 2 huyện.
10. Ái Châu – có 6 huyện (Thanh Hóa)
11. Hoan Châu – có 4 huyện (Nghệ An)
12. Diễn Châu – có 7 huyện ( Nghệ An)

Theo lệ cứ hàng năm phải triều cống vua nhà Ðường. Các cuộc nổi dậy của nhân dân dành chủ quyền như: khởi nghĩa của Mai Thúc Loan (năm 722), khởi nghĩa của Phùng Hưng (năm 766-791).

Ðời Ngũ Quí (năm 907 – 959): Năm Đinh Mão (907) nhà Ðường mất ngôi, nhà Hậu Lương, Hậu Ðường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu, tranh nhau làm vua. Mỗi nhà được mấy năm, gồm tất cả 52 năm, gọi là Ngũ Quí hay là Ngũ Ðại. Tại nước ta liên tục các cuộc dấy binh chống lại đô hộ của phía Bắc và các chính quyền tự chủ được thành lập.