HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ANH MỸ

  1. HỆ THỐNG THÔNG LUẬT- TƯƠNG QUAN SO SÁNH VỚI DÂN LUẬT

1.1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời

Truyền thống luật thông lệ khởi nguồn ở nước Anh. Một hệ thống pháp luật mới được thiết lập từ năm 1006 khi người Norman chinh phục nước Anh, nhưng không thể nói là pháp luật thông lệ đã hình thành năm 1006. William the Conqueror, thủ lĩnh cuộc chinh phục, đã không huỷ bỏ các tập quán và hệ thống toà án địa phương. Các toà án này vẫn tiếp tục áp dụng thông lệ từ trước của họ. Không có bộ luật nào chung cho toàn vương quốc. Tuy nhiên, nhà vua có thành lập một số toà án hoàng gia tại thủ đô Westminster. Thẩm quyền các toà án này lúc đầu rất hạn chế nhưng về sau được mở rộng đến mức các toà án địa phương mất tác dụng. Quyết định của các toà án hoàng gia trở thành dần luật chung cho cả vương quốc và được gọi là luật thông lệ.

Luật thông lệ bắt nguồn từ quyết định của các toà án. Do đó, xuất xứ truyền thống của luật thông lệ là các án lệ chứ không phải luật do cơ quan lập pháp ban hành. Truyền thống dựa lên án lệ lâu đời đến nỗi, khi luật thông lệ biến thành một tập hợp các quy định tố tụng cứng nhắc và máy móc, nhà vua đã không chấn chỉnh bằng cách ban hành luật mới mà lại thành lập một loại toà án mới. Nếu một thần dân cho rằng một quyết định theo luật thông lệ không công bằng thì có thể thỉnh cầu lên nhà vua. Do có quá nhiều thỉnh cầu như vậy, nhà vua phải cho thành lập Toà Đại pháp (the court of Chancery– toà án tối cao); dựa trên các nguyên tắc công bình(“in equity”– công bằng và bình đẳng), toà án này được phép tự quyết định cách điều chỉnh sự phán xử theo luật thông lệ trước đó. Quyết định của toà án này đã sản sinh ra một loại luật được gọi là luật công bình, cũng dựa trên quyết định các toà án từ trước. Cả hai loại, luật thông lệ và luật công bình, đều là thành phần của truyền thống luật thông lệ nói chung.

Đế quốc Anh đã mang luật thông lệ sang tất cả các lục địa. Luật thông lệ đã được tiếp nhận ở nhiều nước, nhưng thành công nhất là ở các quốc gia nơi người định cư Châu Âu chiếm số đông và áp đặt luật lệ của họ lên người bản địa. Đó là thực tế xảy ra ở Úc, Anh, Canađa, Niu-Zi Lân, và Hoa Kỳ (trừ bang Louisiana, đã có luật thành văn trước khi trở thành một bang của Hoa Kỳ). Luật thông lệ cũng được áp đặt ở nhiều thuộc địa khác nhưng thường được điều chỉnh để thích ứng với tập tục địa phương. Trong một vài trường hợp, Hoa Kỳ đã áp đặt nhiều phần của luật thông lệ đối với các lãnh thổ uỷ trị mới  (như Philippin). Tại châu Phi và châu Á, luật thông lệ vẫn được áp dụng ở các thuộc địa cũ của Anh quốc. Ngày nay, Ấn độ là nước theo luật thông lệ đông dân nhất. Tiếp sau Chiến tranh Thế giới thứ II, sự thịnh trị kinh tế của Hoa Kỳ đã tạo điều kiện cho luật thông lệ ngày càng bành trướng. Hợp đồng được soạn thảo theo các điều khoản của luật thông lệ và trọng tài quốc tế thường xuyên áp dụng các nguyên tắc của hệ thống này.

Chú giải về luật thông lệ ở Hoa Kỳ.:

Do Hoa Kỳ giành độc lập sớm nên luật thông lệ tại đây phát triển tách biệt với luật thông lệ ở Anh quốc và các nước thuộc Khối Thịnh vượng Anh. Các nước này giành được độc lập chỉ mới gần đây, nhưng thậm chí trong một thời gian dài sau khi đã được độc lập, một số nước vẫn tiếp tục cho phép việc kháng án lên Uỷ ban Tư pháp của Hội đồng Cơ Mật (the Privy Council) tại Luân Đôn ( và hiện nay vẫn cho phép). Điều này đã giúp làm cho pháp luật các nước đó nhất quán, và ngày nay toà án các nước trong Khối vẫn tuân thủ phán quyết của nhau. Ngược lại, rất hiếm khi một toà án của Mỹ viện dẫn quyết định của một toà án nước ngoài khi phân xử một vấn đề thuộc pháp luật Mỹ. Do vậy, thật đáng ngạc nhiên khi thấy rằng, mặc dù có thời gian dài “tách biệt về mặt pháp lý”, pháp luật Hoa Kỳ vẫn có rất nhiều điểm chung với pháp luật của các nước khác theo luật thông lệ .

1.2. Sự khác biệt giữa thông luật với dân luật

Khác biệt đầu tiên là tiền lệ pháp được phát triển từ các bản án, quyết định của tòa án bắt đầu trước khi có các văn bản quy phạm pháp luật và vẫn còn được áp dụng bởi các tòa án khi đã có văn bản quy phạm pháp luật. Trong khi đó, Dân luật phát triển từ bộ luật của pháp luật La Mã. Nét đặc trưng rõ ràng nhất giữa Dân luật và tiền lệ pháp là hệ thống Dân luật được pháp điển hóa, trái lại tiền lệ pháp không được tạo ra bởi cách ban hành pháp luật mà dựa trên đường lối xét xử các án lệ.

Hệ thống tiền lệ pháp và Dân luật là sản phẩm của hai quá trình tiếp cận pháp luật khác nhau một cách cơ bản. Ở Dân luật, các nguyên tắc và quy định có chứa trong điều lệ và đạo luật, mà được áp dụng bởi tòa án. Vì thế, các đạo luật và điều lệ được lưu hành rộng rãi, trong khi án lệ tạo thành chỉ là nguồn pháp luật thứ yếu. Mặt khác, trong hệ thống tiền lệ pháp, pháp luật được tạo ra bởi các phán quyết của tòa án, trong khi khái niệm cơ cấu thì thường bị thiếu. Sự khác biệt này là kết quả của vai trò khác nhau của người lập pháp trong hệ thống Dân luật và tiền lệ pháp. Hệ thống Dân luật dựa vào học thuyết phân chia quyền lực, nhờ đó vai trò của người lập pháp là thiết lập nên pháp luật, trong khi các tòa án sẽ áp dụng chúng. Mặt khác, trong hệ thống tiền lệ pháp, tòa án được giao nhiệm vụ chính là làm luật.

Một trong những sự khác biệt giữa hệ thống tiền lệ pháp và Dân luật đó là sự ràng buộc có hiệu lực của các tiền lệ. Trong khi các tòa án trong hệ thống Dân luật có nhiệm vụ chính là quyết định các vụ việc bằng cách áp dụng và giải thích các quy tắc tiêu chuẩn pháp luật. Trong hệ thống tiền lệ pháp, các tòa án không chỉ quyết định các vấn đề tranh cãi giữa các bên liên quan, mà còn đưa ra hướng dẫn làm sao để giải quyết các vụ án tương tự trong tương lai. Việc giải thích pháp luật này của tòa án trong vụ việc cụ thể có sự ràng buộc tới các tòa án khác thấp hơn. Do đó, dưới hệ thống tiền lệ pháp, phán quyết của tòa án tạo ra nền tảng cho việc giải thích pháp luật.

Mặt khác, trái ngược với tiền lệ pháp, đường lối xét xử dựa trên án lệ trong Dân luật không có hiệu lực ràng buộc. Nghĩa vụ tuân theo tiền lệ pháp không được áp dụng vào các tòa án Dân luật, nên phán quyết của tòa án thì không ràng buộc các tòa án thấp hơn trong các vụ việc xảy ra sau, và đó cũng không có gì là lạ đối với các tòa án khi có những quyết định trái ngược nhau trong các vụ việc tương tự. Trong Dân luật, tòa án có nhiệm vụ giải thích pháp luật có trong bộ luật, mà không bị ràng buộc bởi việc giải thích cùng một đạo luật của tòa án cao hơn; điều này có nghĩa là dưới hệ thống Dân luật, thẩm phán là người giải thích pháp luật chứ không phải là người sáng tạo pháp luật.

  1. HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VƯƠNG QUỐC ANH

Hệ thống pháp luật này cũng được biết đến dưới nhiều tên gọi khác nhau, như: Hệ thống pháp luật thông luật, Hệ thống pháp luật Anh – Mỹ…Hệ thống pháp luật này bao gồm tổng thể các hệ thống pháp luật các quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ với pháp luật nước Anh. Hệ thống pháp luật này gắn chặt với sự hình thành và phát triển của nền pháp luật nước Anh.

2.1. Sự hình thành pháp luật thông luật Anh

Lịch sử phát triển của pháp luật Anh trải qua 4 giai đoạn sau:

Giai đoạn từ năm 600 – 1066 (thời ký Ăng lô – xắc xông).

Thời kỳ này nước Anh bị người Giéc Manh và người Scandinavé xâm lược nên còn lại rất ít tư liệu về pháp luật. Nghiên cứu các tư liệu còn lại cho thấy thời kỳ này người Anh đã có luật thành văn và ngôn ngữ sử dụng là ngôn ngữ Ăng lô – Xắc xông, đây chính là cơ sở cho sự hình thành hệ thống thông luật sau này. Nhìn chung, pháp luật này còn mang tính manh mún, tản mạn chịu ảnh hưởng sâu sắc của tập quán tại các địa phương.

Giai đoạn 2 (Thời kỳ 1066 đến 1485): đây là thời kỳ hình thành hệ thống thông luật.

Năm 1066, người Normand (sống ở Pháp) xâm lược nước Anh. William trở thành vua nước Anh, nhà vua tìm cách thâu tóm quyền lực vào tay chính quyền trung ương, nước Anh chuyển từ giai đoạn phân quyền cát cứ sang Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền, đây chính là yếu tố quan trọng dẫn tới sự hình thành hệ thống thông luật.

Nhà vua để củng cố chính quyền trung ương đã thi hành hàng loạt các biện pháp như: phong tước cho các thuộc hạ, cử các thẩm phán của triều đình đến các địa phương để xét xử. Ban đầu Toà án Hoàng gia chỉ can thiệp trong phạm vi rất hạn chế, luật địa phương vẫn là cơ sở chủ yếu được áp dụng trên mọi miền của nước Anh, chính vì tính phân tán và manh mún như vậy đã dẫn tới tình trạng hết  sức tuỳ tiện trong hoạt động áp dụng pháp luật, do đó nhiều vụ việc toà địa phương không giải quyết được phải gửi lên Toà án Hoàng gia. Ban đầu, chỉ rất ít các vụ việc có thể được xem xét tại Toà án Hoàng gia bởi thủ tục quá chặt chẽ của nó. Để có thể được thụ lý vụ kiện, về thủ tục người yêu cầu phải đệ đơn lên nhà vua để có được Lệnh hầu toà (trên thực tế hoạt động này nhà vua đã uỷ quyền lại cho đại pháp quan) cho phép đưa việc kiện tụng ra xem xét tại toà. Lúc đầu điều này chỉ được thực hiện trong những trường hợp đặc biệt, về sau, danh sách các việc được xem xét tại Toà án này được mở rộng. Trong quá trình hoạt động,  Toà án Hoàng gia đã dần hình thành được hệ thống các quy định mà Toà án phải tuân thủ trong các trường hợp kế tiếp sau đó. Quy tắc án lệ đã được hình thành: quyết định xét xử được hình thành một lần trong trường hợp tiếp theo trở thành bắt buộc đối với tất cả các thẩm phán khác khi xét xử những vụ việc có nội dung tương tự. Đến thế kỷ XIX, Toà án Hoàng gia mới trở thành “cơ quan tài phán luật chung”. Dần dần, các nguyên tắc mà Toà án Hoàng gia áp dụng đã thay thế luật địa phương và áp dụng trên toàn bộ nước Anh. Như vậy, pháp luật nước Anh được hình thành ngay từ toà án. Đặc trưng cơ bản của pháp luật thời kỳ này là khẳng định hệ thống thông luật “common law” và khắc phục sự ảnh hưởng của luật địa phương.

Giai đoạn 3: (từ 1485 đến 1832).Thời kỳ xuất hiện Luật công bằng (Equity) bên cạnh Common law.

Vào cuối thế kỷ XIV, sang thế kỷ XV nền kinh tế nước Anh có sự thay đổi to lớn, sản xuất nông nghiệp phân tán đã dần được thay thế bởi nền kinh tế hàng hoá với thương mại phát triển. Hệ thống thông luật với thủ tục mang tính chất hình thức đã trở nên chật hẹp so với nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội, điều này đã dẫn đến kết quả là xuất hiện Luật công bằng bên cạnh Hệ thống thông luật.

Giai đoạn 4 (từ 1832 đến nay): Thời kỳ Pháp luật Anh hiện đại.

Trong suốt thời kỳ này hệ thống thông luật vẫn được khẳng định tại Anh. Bên cạnh đó do các yếu tố chính trị, kinh tế và xu thế quốc tế đòi hỏi mà hệ thống pháp luật thực định cũng dần được khẳng định vị trí của mình bên cạnh hệ thống thông luật. Nhìn chung trong giai đoạn này thông luật đã phải chịu sự chi phối của hệ thống luật thực định và chế độ quan liêu nhà nước ở một mức độ nhất định.

2.2. Sự ảnh hưởng của pháp luật Anh đối với thế giới

Tuy chỉ mới xuất hiện vào thế kỷ XI song pháp luật Anh đã có sự bành trướng cực mạnh. Quá trình thuộc địa hoá chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự ảnh hưởng của pháp luật Anh ra ngoài phạm vi châu Âu. Rất nhiều nước trên thế giới chịu sự ảnh hưởng của pháp luật Anh, mà điển hình là trường hợp của Mỹ, Australia, Canada, New Zcaland v.v.. Các nước này được gọi là các nước theo hệ thống pháp luật Anh – Mỹ[1].

  • Sự ảnh hưởng của pháp luật Anh ở Bắc Mỹ

Sự ảnh hưởng của pháp luật Anh ở Mỹ

Người Anh xuất hiện lần đầu tiên ở Bắc Mỹ vào thế kỷ XVII, tạo ra các thuộc địa ở James Town (Tiểu bang Virginia) (thuộc địa đầu tiên) năm 1607, ở Plymouth, Massachusetts năm 1620, ở Maryland năm 1632, thuộc địa New York – vốn của người Hà Lan – đã về tay người Anh năm 1664, thuộc địa Pennsylvania – vốn của người Thuỵ Điển, đã về tay người Anh năm 1681. Đến năn 1722, ở Bắc Mỹ có 13 thuộc địa của Anh.

Vào thế kỷ XVII, trên thực tế, common law của Anh không phù hợp với hoàn cảnh của nước Mỹ. Thủ tục tố tụng của pháp luật Anh vốn rất phức tạp, đòi hỏi sự thao tác của các luật gia rất chuyên nghiệp. Trong khi đó, trên thực tế, thời kỳ đó ở Mỹ không có một luật gia nào. Mặt khác, các quy phạm common law được ra đời để phục vụ cho một xã hội  phong kiến, không hề giống xã hội Mỹ, một xã hội với hàng loạt các vấn đề mới nằm ngoài giải pháp của common law. Do đó những người nhập cư không thích common law của nước Anh.

Vậy thì người ta phải áp dụng luật gì ở Mỹ? Đó là: các quy định riêng của quan chức địa phương, và một loạt pháp luật khá sơ khai trên cơ sở Kinh Thánh, từ đó tạo ra quyền tuỳ ý quyết định (tuỳ tiện) của quan toà. Để chống lại sự tuỳ tiện nói trên, người ta đã phải soạn thảo những Bộ luật đơn giản. Những Bộ luật đơn giản đã được soạn thảo từ năm 1634 (ở Tiểu bang Massachusetts) đến năm 1682 (ở Tiểu bang Pennsylvania). Tuy nhiên nó không giống như pháp điển hoá với kỹ năng hiện đại. Đây là kiểu tư duy pháp lý hoàn toàn khác người Anh.

Đến thế kỷ XVII thì sự việc đã thay đổi. Mức sống của người nhập cư đã được cải thiện, nền kinh tế và tình cảm cũng đang có sự chuyển đổi. Người ta cần một loại pháp luật phát triễn hơn. Mặt khác, common law bắt đầu được tiếp cận theo cách khác.

Một mặt, common law được coi như biểu hiện của sự đoàn kết giữa những người Anh ở Bắc Mỹ, để đối mặt với mối đe doạ từ vùng Louisiana và vùng Canada thuộc Pháp. Các toà án Mỹ đã ủng hộ việc áp dụng luật thành văn của Anh, như Luật về sự gian lận năm 1677 (Statute of Frands). Các sách bình luận common law của Blackstone đã được in tại Philadelphia từ năm 1771-1772. Tuy nhiên, nước Mỹ vẫn trong tình trạng thiếu luật gia, rất ít quan toà được đào tạo về pháp luật.

Mặt khác, sự kiện nước Mỹ độc lập năm 1776 đã tạo ra những điều kiện mới. Không còn mối đe doạ từ vùng Canada thuộc Pháp (kể từ năm 1763) và vùng Louisiana (kể từ năm 1803). Nước Pháp đã trở nên thân thiện với Mỹ. Nước Mỹ chỉ còn đối đầu với nước Anh. Ý tưởng về một hệ thống pháp luật độc lập là hoàn toàn phù hợp với nền độc lập về chính trị vừa mới giành được ở nước Mỹ. Mặt khác, lý tưởng về một nền cộng hoà và sự hâm mộ dành cho pháp luật tự nhiên đã làm người Mỹ ủng hộ việc ban hành những Bộ luật. Ở Tiểu bang New Orleans còn có cả một Bộ luật dân sự năm 1808 theo kiểu của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Ở một số Tiểu bang còn cấm viện dẫn án lệ Anh kể từ sau năm 1776. Còn một số vùng lãnh thổ khi sáp nhập vào nước Mỹ vẫn duy trì việc áp dụng luật của Pháp hoặc Tây Ban Nha.

Sự xung đột giữa common law và quan điểm của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa đã diễn ra suốt hơn nửa thể kỷ.

Rất nhiều quy phạm common law không bao giờ được áp dụng ở Mỹ, bởi vì nó không phù hợp với hoàn cảnh của nước Mỹ. Một số quy phạm khác lại không thể được áp dụng bởi vì đây không phải là những quy phạm phát sinh từ án lệ. Theo pháp luật Anh, những luật thành văn được thông qua tại Nghị viện Westminster chỉ được áp dụng ở ngoài nước Anh nếu Nghị viện Westminster quy định rõ điều này.

Tuy nhiên, một điều quan trọng nhất phải ghi nhận ở đây là: pháp luật Anh mà nước Mỹ tiếp nhận là pháp luật đã có hiệu lực ở Anh trong thời kỳ mà người Anh thống trị Bắc Mỹ. Đương nhiên, người Mỹ không áp dụng luật Anh sau năm 1776. Sau năm 1776, pháp luật Anh và pháp luật Mỹ trở thành hai hệ thống pháp luật độc lập và phát triễn theo những hướng khác nhau. Pháp luật Anh cũng có thay đổi lớn so với pháp luật thế kỷ XVIII. Còn ở Mỹ, lối sống, cách tư duy, sự phát triễn kinh tế đã sản sinh ra những điều kiện hoàn toàn khác thời kỳ thuộc địa, và khác nước Anh. Pháp luật Mỹ không thể giống pháp luật Anh.

Song, trong một thời gian dài, đối với các luật gia Mỹ, pháp luật Anh vẫn là một hình mẫu, bởi vì thời đó các trường đại học và học thuyết ở nước Mỹ chưa phát triễn. Đồng thời, sự cải cách pháp luật nước Anh hồi thế kỷ XIX cũng gây tác động lớn đối với nước Mỹ. Đến thế kỷ XX, cả ở Anh và Mỹ, người ta đều muốn sử dụng pháp luật để tổ chức và cải tổ xã hội. Lúc này, pháp luật không chỉ đơn giản là một công cụ để giải quyết tranh chấp, mà dần dần trở thành một công cụ đặc thù để tạo ra một xã hội mới. “Quyền lực hành chính” bắt đầu phát triễn ở cả phạm vi Liên bang lẫn phạm vi các Tiểu bang, bên cạnh ba loại quyền lực truyền thống (lập pháp, hành pháp, tư pháp). Có thể nói, từ sau khi nước Mỹ độc lập (năm 1776), hai hệ thống pháp luật Anh và Mỹ có sự phát triễn tương tự nhau.

Tuy nhiên, cần khẳng định rằng pháp luật Anh và pháp luật Mỹ tồn tại rất độc lập, bởi vì hoàn cảnh của nước Anh và của nước Mỹ có sự khác nhau rất cơ bản:

  • Nước Anh là một đảo quốc ở châu Âu, còn nước Mỹ ở vị trí một lục địa rộng lớn.
  • Nước Anh là một quốc gia có bề dày truyền thống, còn nước Mỹ lại tự hào về ông cha mình là những người đã chống lại ách thuộc địa, là những người nhập cư với nhiều chủng tộc, đã đến đây để tìm một Tổ quốc mới, kiên quyết quay lưng với những truyền thống quá cũ kỹ.
  • Nước Anh là một nước quân chủ nghị viện, còn nước Mỹ là một nước cộng hoà tổng thống.
  • Nước Anh luôn luôn là một quốc gia đơn nhất, rất tập quyền trong lĩnh vực quản lý tư pháp, còn nước Mỹ là một nước quốc gia Liên bang, trong đó có sự dung hoà lợi ích của các Tiểu bang.
  • Giữa nước Anh và nước Mỹ có sự khác nhau rất lớn về cơ cấu kinh tế, cơ cấu chủng tộc, tôn giáo, mức sống, tư tưởng tình cảm, giáo dục, thậm chí tiếng Anh của người Mỹ cũng có những điểm khác biệt với người Anh.

Do đó, về mặt pháp lý, những vấn đề đặt ra và giải quyết vấn đề của người Mỹ cũng rất khác người Anh. Pháp luật Anh chủ yếu gây ảnh hưởng đối với pháp luật Mỹ ở những lĩnh vực tạm gọi là “luật tư”. Còn đối với những lĩnh vực khác như luật hình sự, luật tố tụng, v.v.., ảnh hưởng của pháp luật Anh khá lu mờ. Bởi vì hệ thống tổ chức Nhà nước ở Anh không được người Mỹ ưa thích. Các luật gia Mỹ cũng được đào tạo và tổ chức hoạt động một cách rất chuyên nghiệp, khác với các luật gia Anh.

Tất cả những điều trên làm cho common law ở Mỹ có nét đặc thù so với common law ở Anh. Tuy nhiên, chắc chắn là không nên phóng đại sự khác biệt giữa common law ở Mỹ và common law ở Anh. Dù có sự khác biệt, giữa hai hệ thống pháp luật vẫn có một nền tảng chung, và đây là điều quan trọng để các luật gia Mỹ nhận thức rằng pháp luật Mỹ thuộc về hệ thống common law. Mặc dù sự thắng lợi của common law ở nước Mỹ đã diễn ra một cách rất khó khăn, và nó cũng không hoàn chỉnh, nhưng pháp luật Mỹ vẫn thuộc về hệ thống common law, bởi vì: pháp luật Mỹ nói chung vẫn sử dụng những khái niệm, cách thức lập luận, lý thuyết về nguồn luật của pháp luật Anh[2]. Lý do mà người Mỹ lựa chọn common law của Anh rất đơn giản. Sự tồn tại của tiếng Anh và người nhập cư gốc Anh ở Mỹ đã làm cho  pháp luật nước Mỹ thuộc về hệ thống common law.

Tuy nhiên, sự khác biệt trên thực tế giữa pháp luật Anh và pháp luật Mỹ đem lại hệ quả sau: một luật gia Mỹ có thể dễ dàng tiếp cận luật Anh, nhưng ngược lại một luật gia Anh sẽ khó khăn khi tiếp cận luật Mỹ.

Sự ảnh hưởng của pháp luật Anh ở Canada

Nhà nước tự trị Canada (Dominion of Canada) được thành lập từ năm 1867 trên cơ sở Luật về vấn đề Bắc Mỹ thuộc Anh (British North America Act). Vào thời điểm này, Nhà nước Liên bang Canada bao gồm 4 “tỉnh” (tương đương Nhà nước thành viên của Liên bang): Québec, Ontario, New Brunswick, Nova Scotia. Đến năm 1869 mua thêm lãnh thổ của Công ty Vịnh Hudson (Hudson’s Bay Company). Sau này một số tỉnh mới được thành lập: British Columbia (năm 1871), Manitoba (năm 1879), Saskatchewan và Alberta (năm 1905), New Land (năm 1949). Hiện nay, Canada có 10 tỉnh.

Về tổ chức tư pháp: ở mỗi tỉnh có một hệ thống tư pháp riêng. Toà án tối cao Canada là toà án cấp phúc thẩm, bao gồm 9 thẩm phán, trong đó có 3 thẩm phán đến từ Québec – với tư duy pháp lý theo kiểu của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa được các luật gia common law (common lawyers) giải thích và biểu quyết theo đa số.

2.2.2. Sự ảnh hưởng của pháp luật Anh ở Australia

Năm 1770, triều đình Anh thiết lập quyền sở hữu của mình trên vùng đất Astralia. Những người Anh đầu tiên trên mãnh đất này là những phạm nhân chịu hình phạt đi đày. Đến năm 1828, Luật về Nghị viện (Act of Parliament) quy định: luật áp dụng ở thuộc địa Australia là common law và luật thành văn (statute) có hiệu lực ở nước Anh. Thời kỳ này, ở Astralia đã có tổ chức chính trị ở cấp địa phương (hội đồng địa phương ra đời từ bầu cử). Đến năm 1860, người ta phát hiện ra mỏ vàng ở Australia. Ngày càng nhiều người nhập cư đến mảnh đất này. Nước Anh không cần thiết phải đầy phạm nhân đến Australia nữa. Lúc này, Australia đang tiến tới một Nhà nước Liên bang. Luật về Hiến pháp Liên bang Australia năm 1900 (The Commonwealth of Australia Constitution Act) ghi nhận sự tồn tại của 6 Bang: New South Wales, Victoria, Queensland, Tasmania, South Australia và West Australia. Mỗi Bang có Hiến pháp và hệ thống pháp luật riêng. Nội dung pháp luật của các Bang tương tự nhau, vì đều theo khuôn mẫu của pháp luật Anh. Án lệ của Australia có thể có giá trị tham khảo đối với toà án Anh. Ở Australia có tổ chức tư pháp tương tự như ở Anh.

2.2.3. Sự ảnh hưởng của pháp luật Anh ở Ấn Độ

Công ty Đông Ấn của Anh (East India Company) đến Ấn Độ từ năm 1600 và có quyền lập pháp để bảo đảm việc quản lý các hoạt động của mình trên đất Ấn Độ. Những quan chức cao cấp có thể trừng phạt tội phạm hình sự. Đây chính là tiền thân của các toà án thị trưởng (Mayor’s Court) ở Bombay, Madras, Calcutta. Pháp lệnh của triều đình Anh năm 1726 trao cho họ quyền xét xử theo công lý và pháp luật, nghĩa là theo common law và luật thành văn của nước Anh, nếu nó không mâu thuẫn với tập quán địa phương. Các toà án thị trưởng trở thành toà án tối cao ở các Bang của Ấn Độ. Tại đây, common law được áp dụng với tư cách “pháp luật chung”.

Từ khi Ấn Độ độc lập năm 1950, Ấn Độ là một nhà nước Liên bang với 15 Bang thành viên. Những quyền cơ bản được ghi nhận trong Hiến pháp. Còn án lệ Ấn Độ cũng theo mô hình của nước Anh.

Trong một thời gian dài, Vương Quốc Anh là một quốc gia dẫn đầu thế giới về thương mại và hàng hải. Thực tế này đã góp phần phổ biến pháp luật Anh trong lĩnh vực thương mại và hàng hải tới cả những nước trước đây chưa từng là thuộc địa của Anh.

  • Hình thức pháp luật

2.3.1. Án l

Trong pháp luật nước Anh, Luật án lệ là nguồn chủ yếu của pháp luật. Quy tắc chung của luật án lệ, trước tiên, khi xem xét vụ việc Tòa án phải làm sáng tỏ có vụ việc như vậy đã trở thành đối tượng của việc xét xử trước đây hay chưa và trong trường hợp đã có vụ việc như vậy thì cần phải tuân thủ quyết định đã có.

Án lệ xét xử là nguồn cơ bản của pháp luật nước Anh. Hiện nay ở Anh có khoảng 800 000 án lệ và hàng năm, các Tòa án bổ sung khoảng 20 000 án lệ mới. Tất cả các án lệ xét xử tạo thành 300 tuyển tập theo pháp luật bên trong quốc gia và theo pháp luật Châu Âu.

Quy tắc điều chỉnh việc áp dụng án lệ

Vấn đề đặt ra là: một bản án của toà án sẽ được áp dụng trong tương lai cho một vụ việc tương tự trong những điều kiện nào?

  • Chỉ có những bản án được coi là có tính bắt buộc (binding) mới tạo thành án lệ và có giá trị pháp lý (decisive authority). Còn những bản án khác chỉ có giá trị tham khảo (persuasive authority). Những bản án về những vấn đề quá lạc hậu (ví dụ: quan niệm về trọng nam khinh nữ) sẽ bị huỷ bỏ tư cách án lệ, không còn được coi là có tính bắt buộc (binding).
  • Chỉ có phần lập luận (speech) của bản án được coi là án lệ, bởi vì trong phần này, thẩm phán trình bày lý do và đưa ra ý kiến. Phán quyết của toà án thường là rất dài. Bởi vì: thứ nhất, toà án ra phán quyết trên cở sở phương thức tiếp cận cá nhân, nên các quan toà đều đưa ra ý kiến của mình. Cách làm này khác với hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, theo đó hội đồng xét xử áp dụng phương thức tập thể khi ra phán quyết, nên bản án thường chỉ dài 1-2 trang. Thứ hai, các bên tham gia phiên toà có thể viện dẫn rất nhiều án lệ. Trong vụ kiện nổi tiếng trong pháp luật nước Anh – Vụ Donoghue kiện Stevenson do Toà án tối cao Anh xử năm 1932, có 32 án lệ đã được viện dẫn trong phán quyết này.

Quy tắc điều chỉnh việc áp dụng án lệ của Anh được gọi là Rule of precedent, còn quy tắc điều chỉnh việc áp dụng án lệ của Mỹ được gọi là Rule of stare decisis.

Ở Anh, các án lệ mang tính bắt buộc thường được ghi chép trong law Reports, All England Law Reports, Weekly Law Reports. Còn tập hợp các án lệ của Mỹ được in trong tuyển tập Trình bày về pháp luật (Restatement of the Law) của Hiệp hội tư nhân có tên là Viện luật Hoà Kỳ (American Law Institute).

Án lệ gắn chặt với Tòa án, trong tổ chức hệ thống Tòa án ở Anh tình hình được thể hiện như sau:

  • Các quyết định của cấp xét xử cao nhất – Viện các Công tước có ý nghĩa bắt buộc đối với các tòa án khác.
  • Tòa án thượng thẩm bao gồm hai tòa (Tòa Dân sự và Tòa Hình sự) có nghĩa vụ tuân thủ các án lệ của Viện các Công tước và quyết định của Tòa thượng thẩm có ý nghĩa bắt buộc đối với các tòa cấp dưới.
  • Tòa án cấp trên (tất cả các tòa của nó) buộc phải tuận thủ án lệ của Tòa án cấp xét xử cao hơn và các quyết định của nó có ý nghĩa bắt buộc đối với cấp xét xử thấp hơn, cũng như ảnh hưởng đến việc xem xét vụ việc ở các tòa của chính mình.
  • Các Tòa án khu vực và các Tòa án thị chính bắt buộc phải tuân thủ các án lệ của tất cả các cấp xét xử cấp trên và các quyết định riêng của Tòa án đó không phải là án lệ.

Ở nước Anh, về mặt truyền thống quy tắc án lệ là quy tắc nghiêm ngặt. Các cấp xét xử không thể khước từ án lệ do cấp đó đưa ra trước đây và án lệ đó chỉ có thể do cấp xét xử cao nhất hoặc văn bản của Nghị viện có thể thay đổi.

Quan niệm cho rằng án lệ gò bó các thẩm phán hoàn toàn không chính xác, bởi lẽ chính các thẩm phán sẽ quyết định các vụ việc xảy ra có tương đồng nhau hay không, và trong trường hợp cần thiết chính các thẩm phán sẽ tạo ra án lệ mới.

2.3.2. Luật thành văn

Luật thành văn bao gồm hai loại: statute law do Nghị viện ban hành và delegated or subordinate legislation do những cơ quan được Nghị việc uỷ quyền ban hành.

Ở Anh không có Hiến pháp thành văn. Cái mà người Anh gọi là Hiến pháp chính là tổng thể các quy phạm có nguồn gốc luật thành văn hoặc nguồn gốc án lệ, có nội dung liên quan đến việc bảo đảm quyền tự do cơ bản của công dân và hạn chế sự độc đoán của chính quyền.

Vị trí của luật thành văn từ 100 năm nay đã có sự thay đổi, nhất là khi nước Anh gia nhập EEC (năm 1972), theo đó pháp luật Anh phải phù hợp với pháp luật cộng đồng về nội dung điều chỉnh. Những vấn đề mới phát sinh phải điều chỉnh kịp thời bằng luật thành văn. Sự xuất hiện của luật thành văn làm thay đổi sâu sắc pháp luật cũ và tạo ra nhiều lĩnh vực  mới trong pháp luật Anh.

Trong pháp luật nước Anh, không có trật tự đẳng cấp giữa Hiến pháp và Luật. Hệ quả của nó là:

  • Nếu có xung đột giữa hiến pháp và luật, thì áp dụng quy tắc lex posterior derogate priori, nghĩa là văn bản ban hành sau sẽ có giá trị áp dụng.
  • Không có thủ tục kiểm soát tính hợp hiến.
  • Nếu có sự xung đột giữa các văn bản pháp luật và án lệ, người ta sẽ áp dụng các văn vản pháp luật. Tuy nhiên, theo tư duy truyền thống vốn coi trọng án lệ, các thẩm phán Anh luôn cố gắng giải thích các văn bản pháp luật theo hướng nhằm làm hạn chế tối đa việc áp dụng chúng.

Luật thành văn được ghi chép trong Statutes of Law Reports hoặc Halsbury’s Statutes of England, Halsbury’s Statutory Instruments, H.M.Stationery Office, London.

2.3.3. Tập quán pháp

Theo quan điểm của hệ thống pháp luật Anh – Mỹ, tập quán thường được thể hiện trong các nguồn luật khác (án lệ và luật thành văn). Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tập quán không có vai trò gì trong hệ thống nguồn luật của hệ thống pháp luật Anh – Mỹ. Có những trường hợp tập quán không được “sáp nhập” vào các nguồn luật khác. Đó thường là các trường hợp sau đây:

  • Tập quán được áp dụng trong lĩnh vực rất riêng biệt, thường là tập quán địa phương (local customs);
  • Tập quán trong lĩnh vực thương mại (mercantile customs).

Trong thời kỳ trước đây, tính chất cứng nhắc của hệ thống common law (Case law) không phù hợp vời đòi hỏi của thương mại quốc tế. Do đó, từ thời Trung Cổ, tập quán thương mại quốc tế lex marcatoria đã thực sự có vai trò chủ đạo trên toàn châu Âu. Đến thế kỷ XVIII, lex marcatoria hoà nhập cùng common law.

2.3.4. Lẽ phải (luật hợp lý) (reasons)

Trong trường hợp không có luật thành văn, không có án lệ, không có tập quán điều chỉnh vấn đề mà thẩm phán đang phải giải quyết, thì thẩm phản sẽ phải thực hiện quyền sáng tạo ra pháp luật – sử dụng lẽ phải (có người sử dụng thuật ngữ luật hợp lý), với tư cách là một nguồn luật thực sự. Trong trường hợp này, lẽ phải có vai trò lấp chỗ trống của pháp luật. Thẩm phán sẽ thường sử dụng những thuật ngữ như: reason, reasonable man, reasonable price, reasonable time, v.v..đây là nguồn luật thể hiện nét đặc thù của hệ thống pháp luật Anh – Mỹ.

Lẽ phải có thể được thể hiện bằng cách:

  • Viện dẫn tập quán không có giá trị bắt buộc hoặc viện dẫn bản án không phải là án lệ, hoặc viện dẫn dicta;
  • Viện dẫn án lệ nước ngoài (Scotland, Irland, các nước khối thịnh vượng chung như Canada, Australia, Mỹ), thậm chí án lệ của các nước thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa.
    • Cấu trúc pháp luật

Hệ thống pháp luật Anh – Mỹ không phân chia pháp luật thành luật công và luật tư, mà phân chia thành common law và equity law.

2.4.1. Common law (thông luật)

2.4.1.1.  Đặc trưng của common law (thông luật)

Common law được bắt đầu từ pháp luật tố tụng: Trước đây, việc đem vụ việc của mình ra kiện trước Toà án Hoàng gia không phải là quyền, mà là một ưu đãi mà Toà án có thể ban phát hoặc không ban phát. Về thủ tục, người nào muốn xin sự ưu đãi này phải gửi đơn đến một quan chức cao cấp của nhà vua – gọi là đại pháp quan (Chancellor) – xin cấp một văn bản gọi là writ (tương tự như lệnh hầu toà hoặc giấy triệu tập của toà án), theo đó Toà án Hoàng gia có thẩm quyền xử kiện. Tuy nhiên, hồi thế kỷ XIII, không phải là trong mọi trường hợp đại pháp quan đều có thể cấp writ hoặc thẩm phán có thể chấp nhận xét xử. Có danh sách những trường hợp điển hình do luật quy định (brevia de cursu). Danh sách năm 1227 liệt kê được 56 trường hợp, năm 1832 liệt kê được 76 trường hợp. Theo pháp luật hiện nay, việc đề nghị Toà án cấp writ trở thành quyền của nguyên đơn.

Writ giống như tờ lệnh của vua ban cho quan chức của mình, để quan chức Nhà nước ra lệnh cho bị đơn hành động đúng luật, đáp ứng yêu cầu của nguyên đơn. Nếu bị đơn từ chối tuân lệnh, nguyên đơn sẽ hành động chống lại bị đơn. Thủ tục tố tụng tại Toà án Hoàng gia phục thuộc vào cách thức khởi kiện. Mỗi một cách thức khởi kiện tương ứng với một loại lệnh hầu toà nhất định (writ), trong đó xác định những hành vi phải thực hiện, cách thức điều chỉnh các vấn đề xảy ra, khả năng đại diện của các bên, điều kiện chấp nhận các chứng cứ, biện pháp bắt buộc thi hành quyết định của Toà án. Có hoạt động tố tụng đòi hỏi có hội đồng xét xử, có hoạt động tố tụng lại không cần hội đồng. Có hoạt động tố tụng được xét xử vắng mặt bị đơn, có hoạt động tố tụng khác lại không thể cho phép vắng mặt bị đơn khi xét xử. Có những thủ tục chỉ được áp dụng cho từng vụ việc riêng biệt (on the case). Loại thủ tục phổ biến nhất là thủ tục được quy định trong writ of trespass.

Cần phải nhấn mạnh rằng vấn đề thủ tục tố tụng là rất quan trọng đối với hoàn cảnh của nước Anh. Trong khi ở châu Âu lục địa, các luật gia quan tâm chủ yếu đến việc xác định quyền và nghĩa vụ của mỗi người, tức là quy phạm pháp luật nội dung, thì các luật gia Anh lại quan tâm đến các quy phạm tố tụng. Vấn đề là làm sao để Toà án Hoàng gia chấp nhận giải quyết vụ việc. Do đó, common law được bắt đầu từ pháp luật tố tụng.

Sự phân biệt giữa luật công và luật tư bị loại bỏ: Toà án Hoàng gia Anh mở rộng thẩm quyền của mình bằng cách cho rằng chính lợi ích của nhà vua sẽ chứng minh cho sự can thiệp của Toà án Hoàng gia. Các loại toà án khác chỉ giải quyết những vấn đề liên quan đến lợi ích tư nhân. Tuy nhiên, thẩm quyền của các toà án này cũng dần dần bị thu hẹp, và thậm chí ý tưởng về luật tư cũng dần dần biến mất ở nước Anh. Việc hầu hết các vụ kiện được xem xét ở Toà án Hoàng gia đã là sự xác nhận tầm quan trọng của luật công. Khía cạnh “luật công” của pháp luật Anh được thể hiện trong một kỹ thuật rất đặc biệt được gọi là writ. Trong một thời gian dài, pháp luật Anh không chấp nhận sự phân biệt giữa luật công và luật tư như cách hiểu của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Ngay cả hiện nay, trong cách phân loại pháp luật, các luật gia Anh, trong chừng mực nhất định, vẫn dựa theo cách phân loại truyền thống các loại writ, cho dù hệ thống writ đã bị loại bỏ từ thế kỷ XIX. Theo các luật gia thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa, cách phân loại này không phản ánh được mối liên hệ cở bản giữa các lĩnh vực pháp luật khác nhau, nó tách hệ thống pháp luật thành rất nhiều nhánh nhỏ và các nhánh này thường có phần chồng chéo lên nhau, dó đó cách phân loại này chưa thật hợp lý.

Pháp luật Anh ít chịu ảnh hưởng luật La Mã: Mặc dù nước Anh đã từng là một phần của Đế chế La Mã trong 4 thế kỷ, nhưng dường như pháp luật Anh không chịu ảnh hưởng quan trọng của luật La Mã. Có rất nhiều thuật ngữ luật học Anh là thuật ngữ La-tinh, nhưng chúng cũng không có mối liên hệ trực tiếp với luật La Mã về luật nội dung. Vào thời kỳ đầu của pháp luật Anh, Toà án Hoàng gia chỉ có thẩm quyền đối với từng trường hợp. Thủ tục của pháp luật Anh mang sắc thái rất cổ. Chỉ có thể học được sự phức tạp và tính kỹ thuật của các thủ tục này thông qua thực tiễn. Kiến thức ở trường Đại học, dựa trên nền tảng luật La Mã, có thể cho phép tìm ra các giải pháp đúng cho cuộc tranh chấp, nhưng chưa chắc cho phép thắng kiện. Chính pháp luật tố tụng Anh đã cản trở của sự ảnh hưởng của luật La Mã. Các luật gia Anh được đào tạo từ thực tiễn, quan tâm chủ yếu tới vấn đề thủ tục tố tụng và chứng cứ – nhờ những cái đó mà một hành vi khởi kiện có thể được thụ lý và thắng kiện.

2.4.1.2. Writ (lệnh hầu toà)

Theo pháp luật tố tụng của Anh, để khởi kiện, nguyên đơn có quyền đề nghị toà án ban hành lệnh hầu toà (writ) gửi tới bị đơn, theo đó ra lệnh cho bị đơn hành động đúng pháp luật, đáp ứng yêu cầu của nguyên đơn. Nếu bị đơn từ chối tuân lệnh, nguyên đơn sẽ hành động chống lại bị đơn. Ví dụ: writ có nội dung như sau: “…yêu cầu A phải trả là cho B ngay lập tức 100 Bảng mà B đã nợ A và hiện đang chiếm giữ bất hợp pháp…”. Writ này được gọi là writ đòi nợ (writ of debt). Sau đây là ví dụ về một số loại writ thông dụng:

  • Writ of praecipe: praecipe nghĩa là yêu cầu. Đây là loại writ cơ bản nhất.
  • Writ of right: writ có nội dung đòi quyền sở hữu bất động sản. Đây là lệnh yêu cầu trả lại bất động sản (chẳng hạn như mảnh đất) đang tranh chấp. Mục đích của lệnh này là bắt buộc khôi phục quyền sở hữu, chứ không phải là bồi thường tài chính.
  • Writ of trespass: từ trespass được hiểu là thiệt hại phát sinh từ sự cẩu thả, vô ý. Đây là lệnh ra hầu toà để bị đơn giải thích cho nguyên đơn tại sao lại có hành vi vi phạm dân sự. Trong trường hợp này, mục đích của writ không phải là nhằm khôi phục một quyền, mà là trừng phạt sự vi phạm.
  • Writ of assumpsit: assumpsit nghĩa là tôn trọng cam kết. Writ này được sử dụng trong lĩnh vực hợp đồng.
  • Writ of detinue: chủ sở hữu có thể thông qua lệnh này đòi trả lại tài sản cá nhân bị chiếm hữu bất hợp pháp.

Cùng với sự phát triễn của pháp luật, người ta tạo ra nhiều loại writ. Chẳng hạn: writ đòi nợ, writ đòi bồi thường do bị chiếm hữu tài sản trái phép, writ liên quan đến việc kiện những hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, v.v.. Thông qua thủ tục writ, Hoàng gia đã thừa nhận hay phên chuẩn việc khiếu kiện hợp pháp. Khả năng thắng kiện của nguyên đơn trong vụ việc phụ thuộc vào vấn đề: có loại writ nào phù hợp với vụ việc của mình không, hoặc đại pháp quan có chấp nhận ban hành writ hay không. Theo cách này, hệ thống writ đã tạo ra khung phía ngoài của nội dung thực định của common law. Do đó, người ta vẫn thường nói rằng: “không có writ, không có quyền”.

Hệ thống writ tiếp tục tồn tại cho đến giữa thế kỷ XIX, và bị loại bỏ dần vào năm 1852 – 1875. Mục đích của việc loại bỏ nhiều loại writ nhằm làm đơn giản hoá thủ tục tố tụng, nhưng không làm thay đổi luật nội dung. Hiện nay, trong pháp luật tố tụng, chỉ còn lại một số loại writ cơ bản. Khi được phát đi, writ mang tính hành chính. Nó có thể được gửi trả lại toà án, khi mà bị đơn không chấp nhận lệnh hành chính và chấp nhận ra hầu toà. Khi đó bắt đầu công việc xét xử của toà án. Lúc này, toà án lại phát đi một writ mới để bảo đảm thi hành các bước tố tụng. Loại writ này được gọi là writ tư pháp (judicial writ), bao gồm một số loại sau:

  • Writ of attachment: đây là lệnh theo đó bị đơn phải thực hiện một biện pháp bảo đảm nào đó để bảo đảm chắc chắn sự có mặt cảu mình trước toà (chẳng hạn: bảo đảm bằng một khoản tiền)
  • Writ of distringas: đây là lệnh tạm giữ tài sản của bị đơn.
  • Writ of capias ad respondum: lệnh bắt bị đơn.
  • Writ of habeas corpus: đây là loại writ theo đó một người bị mất quyền tự do có thể nhờ toà án xem xét. Loại writ này hiện nay tồn tại rất phổ biến ở các hệ thống pháp luật thuộc hệ thống pháp luật Anh – Mỹ.
  • Writ of trorer: đây là loại writ theo đó nguyên đơn có quyền được xét xử có sự có mặt của bồi thẩm đoàn.
  • Writ of detinne: đây là loại writ theo đó nguyên đơn không có quyền được xét xử với sự có mặt của bồi thẩm đoàn.

Hệ thống writ là một trong những biểu hiện bên ngoài thể hiện đặc trưng của pháp luật Anh. Nó chứng tỏ vai trò quan trọng của các quy định về thủ tục. Việc một người có đủ các cơ sở pháp luật nội dung không quan trọng bằng việc liệu người đó, theo các loại quy định phức tạp về thủ tục, có cơ hội thực hiện các quyền của mình hay không. Bên nguyên đơn phải lựa chọn được các loại writ, nghĩa là: ngay từ đầu quá trình tố tụng, bên nguyên đơn phải quyết định được phương thức tố tụng. Nếu người này không lựa chọn đúng loại writ, vụ việc sẽ không được xem xét.

2.4.2. Equity law (luật công bằng)

Sự phân biệt giữa common law và equity law trong pháp luật Anh cũng tương tự như sự phân biệt giữa luật công và luật tư trong pháp luật Pháp. Từ sự phân biệt này, có sự phân biệt giữa các luật gia common law (common lawyers) và luật gia equity law (equity lawyers).

Sự hình thành common law phụ thuộc nhiều vào thủ tục tố tụng mang tính hình thức. Hơn nữa, sự không đầy đủ của common law dẫn tới sự xuất hiện một hệ thống pháp luật mới, gọi là equity law (“luật công bằng”).

Bên cạnh các quy phạm common law – sản phẩm của Toà án Hoàng gia (còn gọi là là Toà án common law), còn có các quy phạm equity law – cho phép bổ sung và sữa chữa các quy phạm common law. Chẳng hạn, theo common law, chủ sở hữu có thể đòi trả lại tài sản cá nhân bị chiếm hữu bất hợp pháp thông qua writ of detinue. Nhưng nếu bị đơn đã tẩu tán tài sản, thì writ of detinue trở nên vô nghĩa và common law không giải quyết được vấn đề đặt ra. Cần có quy phạm bổ sung, chẳng hạn như bị đơn phải bồi thường bằng tiền thay cho việc trả lại tài sản. Đó chính là quy phạm theo kiểu equity law.

Cho tới năm 1895, equity law chỉ được áp dụng tại một cơ quan tài phán đặc biệt – gọi là Chancery Court. Các quy phạm equity law cũng có tính pháp lý và chặt chẽ như quy phạm common law, và nó cũng không công bằng hơn quy phạm common law. Theo các luật gia Anh, trước đây equity law là tổng thể các quy phạm cho phép bổ sung pháp luật Anh, ngày nay nó là một bộ phận không thể tách rời của pháp luật Anh.

Có người dịch từ equity ra tiếng Việt là công bằng hay công lý. Nhưng theo người Anh, khi diễn tả vấn đề công bằng, người ta tránh dùng từ equity,  mà dùng từ justice, fairness hoặc good conscience. Từ equity là một thuật ngữ thuần tuý luật học, có nguồn gốc từ một từ tiếng Pháp – équité.

2.4.2.1. Các đặc trưng của equity law

  • Equity law được áp dụng theo nguyên tắc equity tôn trọng pháp luật (equity follows the law hoặc equitas sequitur legem). Sự can thiệp của Chancery Court không tạo ra quy phạm pháp luật mới, không thay đổi nội dung pháp luật.Toà án equity law can thiệp vì “sự công bằng”, mà không làm thay đổi quy phạm pháp luật được toà án common law không hoàn hảo. Nếu một người xử sự không tốt bằng cách lợi dụng sự không hoàn hảo của pháp luật, thì đó là một xử sự trái với lương tâm. Trong trường hợp có sự xung đột giữa common law và equity law, equity law sẽ được ưu tiên áp dụng. Quy định này đã được đưa vào Luật về cải cách tổ chức toà án năm 1873 và Luật toà án tối cao năm 1981. Tuy nhiên, equity law vẫn chỉ ở vị trí bổ sung cho common law. Trước mỗi vụ việc, luật sư Anh trước hết phải xem xét các quy định của common law, sau đó mới xem xét vấn đề: liệu equity law có thể tác động như thế nào đối với các quy định này.
  • Thẩm phán equity law hành động bằng cách ra lệnh cho bị đơn: cấm bị đơn xử sự theo cách này hay cách khác, và áp đặt cho bị đơn một cách xử sự phù hợp với đòi hỏi của đạo đức và lương tâm. Chẳng hạn: khi giải quyết những vụ việc liên quan đến trust, thẩm phán sẽ bắt buộc người được uỷ thác phải hành động theo cách trung thành với lời hứa. Nếu bị đơn không tuân lệnh thì sẽ bị bỏ tù hoặc tịch thu tài sản.
  • Các giải pháp equity law thường rất mềm dẻo, mang tính tuỳ ý.
  • Thẩm phán equity law chỉ can thiệp nếu hành động của bị đơn bị coi là trái với lương tâm, đồng thời nguyên đơn phải có tư cách đạo đức tốt, có “bàn tay sạch” (“clean hands”).
  • Thủ tục của Toà án equity law: do ảnh hưởng thủ tục của luật giáo hội, nên việc xét xử theo thủ tục equity law không cần sự tham gia của bồi thẩm đoàn, và theo thủ tục viết, nghĩa là xem xét vấn đề trên hồ sơ bằng văn bản. Với danh nghĩa đạo đức và lương tâm, thẩm phán equity law có thể sử dụng các biện pháp đặc biệt để làm sáng tỏ sự thật – các biện pháp mà thẩm phán equity law không được phép áp dụng. Chẳng hạn, common law quan niệm rằng vụ án là một cuộc đấu, trong đó thẩm phán đóng vai trò trọng tài. Mỗi bên phải đưa ra các chứng cứ của mình, và bên này không thể bắt buộc bên kia xuất trình tư liệu mà họ đang có. Còn khi equity law can thiệp, thì thẩm phán có thể ra lệnh cho một bên xuất trình tư liệu bằng một lệnh đặc biệt, gọi là discovery order. Nói chung, thủ tục của toà án equity law đơn giản hơn so với toà án common law. Để yêu cầu xét xử, đương sự chỉ cần gửi bill (khiếu nại), không cần toà án ban hành writ theo thủ tục phức tạp.
  • Equity law được áp dụng trong nhiều lĩnh vực: bồi thường thiệt hại khi không thực hiện hợp đồng, trust, hoặc trong thủ tục xử án. 

2.4.2.2. So sánh equity law và common law

Giữa equity law và common law có sự khác nhau sau đây:

Sự khác nhau
Equity law
Common law

Nguồn gốc lịch sử của quy phạm
Xuất phát từ Chancery Court
Xuất phát từ Toà án Hoàng gia

Quy phạm được áp dụng

 

Quy phạm equity law – có chức năng bổ sung cho quy phạm common law
Quy phạm common law

Thủ tục xét xử
Việc xét xử không cần sự tham gia của bồi thẩm đoàn;

Xem xét vấn đề trên hồ sơ (thủ tục viết), và thẩm vấn.

Việc xét xử phải có hội đồng;

Tranh luận bằng lời, theo nguyên tắc tố tụng đối kháng

Giải pháp pháp lý
Thường mang tính tuỳ nghi
Bị ràng buộc bởi án lệ và thủ tục phức tạp

Cở sở pháp lý để giải quyết vụ việc
Phụ thuộc hoàn toàn và thẩm phán, trên cơ sở đạo đức và lương tâm
Án lệ

Thủ tục yêu cầu xét xử
Bill (khiếu nại)
Writ

 

Các thuật ngữ mà Chancery Court sử dụng cũng khác với Toá án common law:

 

Toà án common law
Toà án equity

Khởi kiện (action)
Khiếu nại (suit)

Để bảo vệ các quyền (rights)
Để bảo vệ các lợi ích (interests)

Ra bản án (judgement)
Ra mệnh lệnh, quyết định (decree)

 

Có thể thực hiện cùng một lúc hai hoạt động khởi kiện đối với cùng một vụ việc, trước toà án common law và toà án equity law. Tình trạng này được chấm dứt vào năm 1873 – 1875, với Luật về cải cách tổ chức toà án (Judicature Acts). Thời kỳ đầu, equity law can thiệp vì lý do lương tâm, đạo đức. Nhưng sau này, từ năm 1875 đã có sự phát triễn mới: rất nhiều vấn đề không mang tính lương tâm, đạo đức cũng được toà án equity law xem xét (chẳng hạn: vấn đề thế chấp). Ngoài ra, mọi cơ quan tài phá đều có thể áp dụng các quy phạm equity law và common law. Đứng trên phương diện này, người ta nói rằng có sự thống nhất giữa common law và equity law. Trong thời hiện đại, sự phân biệt giữa hai loại luật này đôi khi bị mờ nhạt.

  • Một số chế định pháp lý đặc thù của hệ thống pháp luật Anh
    • Chế định trust (uỷ thác)

Đóng góp quan trọng nhất của equity law đối với sự phát triễn của pháp luật Anh là việc tạo ra chế định trust. Chế định này được coi như là một phương tiện để tránh các loại thuế và nghĩa vụ. Vào thời kỳ Trung Cổ, người nào được thừa kế bất động sản thì phải thực hiện nghĩa vụ đặc biệt. Để tránh phải thực hiện các nghĩa vụ này, chủ sở hữu tài sản (người uỷ thác), ngay từ khi còn sống,đã trao tài sản cho người được tin cậy (người được uỷ thác), để người này chuyển tài sản cho người thừa kế (người thụ hưởng) sau khi chủ sở hữu chết. Bằng cách này, việc tiếp nhận tài sản của người thụ hưởng không bị coi là quan hệ thừa kế và không phải chịu thuế thừa kế và các nghĩa vụ khác. Theo common law, người được uỷ thác có đầy đủ các quyền của chủ sở hữu tài sản. Nếu người được uỷ thác vi phạm sự tin cậy của người uỷ thác, thì người thụ hưởng không thể dựa vào common law để bảo vệ lợi ích của mình, mà phải dùng đến equity law. Sự tôn trọng common law thể hiện ở chỗ: equity law không phủ nhận quyền sở hữu của  người được uỷ thác, mà bắt buộc  người được uỷ thác hành động vì lợi ích của người thụ hưởng.

Người ta thường áp dụng chế định trust trong các trường hợp sau:

  • Bảo vệ lợi ích vật chất của người không có năng lực pháp luật. Chẳng hạn: người chưa thành niên không thể thừa kế bất động sản. Trong trường hợp này, trust tương tự như chế định đại diện.
  • Các mối quan hệ pháp nhân (người đứng đầu doanh nghiệp chính là người được uỷ thác), và giao dịch thương mại.
  • Giải quyết vấn đề thừa kế: ở Anh, trước khi trao tài sản cho người được thừa kế theo di chúc, phải trao tài sản cho một người quản lý tài sản (administrator) hoặc người thi hành di chúc (executor) – có vai trò như người được uỷ thác.

Cần lưu ý rằng chế định trust không bao gồm vấn đề hợp đồng. Đối với các luật gia Anh, trước đây là hợp đồng được thoả thuận được điều chỉnh bằng common law thông qua cách thức khởi kiện writ of assumpsit. Ngược lại, trust thuộc thẩm quyền riêng biệt của toà án equity law.

  • Chế định estoppel

Theo common law, để một giao kết hợp đồng có giá trị, thì trong hợp đồng phải có điều khoản consideration (cân nhắc lợi ích hay nghĩa vụ đối ứng) (xem Chương I, mục IV, 5). Điều đó nghĩa là: một lời hứa đơn thuần không có ý nghĩa gì đối với một cam kết, do đó không có giá trị ràng buộc. Trong một số tình huống cụ thể, thì điều này lại tỏ ra không hợp lý. Như vậy, equity law phải can thiệp vì lẽ công bằng, để bảo vệ lợi ích của bên đã tin tưởng vào lời hứa, từ đó sáng tạo ra chế định estoppel. Đây là một nguyên tắc pháp luật theo đó khi một người đã khẳng định điều gì thì sau đó không được bác bỏ. Như vậy, mặc dù theo common law lời hứa không có giá trị ràng buộc, nhưng equity law lại bắt buộc người đã hứa phải giữ lời hứa, và người được hứa có quyền đòi phía bên kia những gì họ đã hứa.

Nội dung của chế định này có ảnh hưởng đối với Công pháp quốc tế, nhất là khi pháp luật quốc tế được giải thích bởi các thẩm phán Toà án quốc tế đến từ hệ thống pháp luật Anh – Mỹ.

  • Quy phạm pháp luật và kỹ năng giải thích quy phạm pháp luật (kỹ năng distinction)

Về cơ bản, quy phạm pháp luật Anh được rút ra từ ratio decidendi của các bản án của Toà án cấp trên. Còn các tuyên bố không mang tính quyết định đối với giải pháp của tranh chấp – gọi là obiter dictum – không phải là quy phạm pháp luật. Như vậy, quy phạm pháp luật của hệ thống pháp luật Anh – Mỹ được rút ra từ bản án liên quan đến từng vụ việc cụ thể. Quy phạm pháp luật của hệ thống pháp luật Anh – Mỹ là quy phạm được sử dụng một cách trực tiếp để đưa ra giải pháp cho một tranh chấp. Còn quy phạm pháp luật của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa là quy phạm do các nhà lập pháp sáng tạo ra hoặc được tạo ra từ học thuyết, được sử dụng để điều chỉnh xử sự của các chủ thể pháp luật, mang tính khái quát cho mọi trường hợp, mà không liên quan trực tiếp đến một trường hợp cụ thể nào. Hai loại quy phạm pháp luật của hai hệ thống hướng tới hai mục đích khác nhau. Quy phạm pháp luật của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa có phạm vi rộng hơn quy phạm pháp luật của hệ thống pháp luật Anh – Mỹ.

Trong hệ thống pháp luật Anh – Mỹ, không có sự phân biệt giữa quy phạm mệnh lệnh va quy phạm tuỳ nghi. Hệ thống pháp luật châu Âu lục địa coi trọng quy phạm nội dung, còn hệ thống pháp luật Anh – Mỹ coi trọng quy phạm thủ tục. Ngày nay, pháp luật tố tụng Anh trở nên đơn giản hơn. Còn pháp luật nội dung cũng phong phú hơn, và chặt chẽ không kém gì pháp luật nội dung của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Ngày càng nhiều luật gia Anh đến trường luật để học các nguyên tắc, cũng tương tự như các nguyên tắc của hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Tuy nhiên, tư duy mang tính truyền thống của luật gia Anh – coi trọng pháp luật tố tụng – vẫn còn thể hiện rất dai dẳng.

Giải thích quy phạm pháp luật – kỹ năng distinction trong việc áp dụng án lệ:

Việc áp dụng án lệ đòi hỏi thẩm phán phải phân tích, giải thích bản án trước đó. Trong phần lập luận (cơ sở pháp lý) (speech hoặc reasons) của bản án, thẩm phán phải phân biệt được ratio decidendi và obiter dictum. Kỹ năng này được gọi là distinction. Đây là kỹ năng cơ bản của các luật gia thuộc hệ thống pháp luật Anh – Mỹ, tương tự như kỹ năng giải thích luật của các luật gia thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa. Tuy nhiên, bản chất của distinction trong hệ thống pháp luật Anh – Mỹ và giải thích luật trong hệ thống pháp luật châu Âu lục địa không giống nhau.

Trong thực tế, vấn đề phân biệt ratio và dicta phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí chủ quan của thẩm phán. Thẩm phán có thể cho rằng một lập luận nào đó không phải là ratio để phủ nhận tính bắt buộc của nó. Điều này đã tạo ra sự tuỳ tiện của thẩm phán. Bên cạnh đó, các thẩm phán còn có thể được tuỳ tiện trong việc xác định xem vụ việc đang giải quyết có tương tự hay không tương tự vụ việc trong án lệ. Nếu thẩm phán không tán thành việc áp dụng một án lệ cụ thể nào đó, thì thẩm phán sẽ né tránh bằng cách chỉ ra sự khác biệt giữa án lệ đó với vụ việc đang xem xét bằng mọi tình tiết có thể, và chỉ một chi tiết khác biệt cũng được coi là đủ. Một số phán quyết trước đây một thời được coi là những án lệ quan trọng, bằng cách này đã bị mất giá trị thực tiễn mà không cần có toà án nào tuyên bố một cách rõ ràng rằng các án lệ đó đã lạc hậu. Giới luật gia Anh cho rằng: việc chứng minh sự khác biệt giữa các vụ việc là nghệ thuật hơn là khoa học.

Việc xác định ratio của một án lệ sẽ rất khó khăn khi mà vụ việc được phán quyết bởi một hội đồng có nhiều thẩm phán, bởi vì các thẩm phán có thể có cùng một giải pháp nhưng đưa ra những lý do khác nhau. Việc tìm ra ratio sẽ còn phức tạp hơn nếu bản án ghi lại nhiều ý kiến bất đồng của các thẩm phán.

Như vậy, một kỹ năng distinction lý tưởng là phải vừa đảm bảo được sự an toàn pháp lý, vừa đảm bảo khả năng thích nghi với đòi hỏi của từng thời kỳ.

2.7. Hệ thống cơ quan tài phán ở Anh

Ở Anh có toà án cấp trên (cấp cao) và toà án cấp dưới (cấp thấp). Nhưng chỉ có toà án cấp trên mới có quyền tạo ra án lệ – với tư cách nguồn luật.

2.7.1. Toà án cấp dưới

  • Các toà án cấp dưới chỉ có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, bao gồm các loại sau đây:
  • Các toà dân sự (Toà dân sự sơ thẩm cấp 1) (County Court) tương tự như toà án cấp quận (ra đời trên cơ sở luật năm 1846), có thẩm quyền giải quyết tranh chấp với lợi ích dưới 5.000 Bảng, và ly hôn thuận tình. Có khoảng 400 toà án loại này. Tại các thành phố lớn, toá án có các thẩm phán chuyên nghiệp được đào tạo nghề luật, nhưng ở các vùng nông thôn, thẩm phán là những nhà công lý vì sự bình yên (Justice of Peace) không được trả lương và hạn chế về kiến thức pháp luật.
  • Các toà hình sự (Toà hình sự sơ thẩm cấp 1) (Magistrate’s Court): có thẩm quyền giải quyết những vụ án liên quan đến tội phạm ít nghiêm trọng. Có khoảng 1.000 toà án loại này.
  • Các toà hành chính.

Sơ đồ: Hệ thống Toà án Anh Quốc và xứ Wales

2.7.2. Toà án cấp trên

Các toà án cấp trên có thẩm quyền xét xử cả sơ thẩm và phúc thẩm.

Cấp sơ thẩm

  • Toà án công lý cấp cao (Toà dân sự sơ thẩm cấp 2) (High Court of Justice), bao gồm:
  • Toà án Nữ Hoàng (Queen’s Bench), bao gồm: Toà án hàng hải, Toà án thương mại.
  • Chancery Court, bao gồm: Toà án về công ty, Toà án về phá sản, Toà án gia đình (toà này được thiết lập vào năm 1970, thay thế cho Toà lao cải, ly hôn và đăng cải).

Toà án công lý cấp cao có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ việc mang tính dân sự, trong những trường hợp mà lợi ích tranh chấp trên 5.000 Bảng.

  • Toà án triều đình (Toà hình sự sơ thẩm cấp 2) (Crown Court) ra đời trên cơ sở Luật về các toà án (Courts Act) năm 1971, có thầm quyền xét xử sơ thẩm đối với các tội phạm hình sự nghiêm trọng (đòi hỏi phải có bồi thẩm đoàn 12 thành viên).

Cấp phúc thẩm:

Toà án phúc thẩm (Court of Appeal): bao gồm hai toà: Toà dân sự và Toà hình sự. Toà phúc thẩm có 16 thẩm phán.

Các toà án cấp trên hợp thành toà tối cao (Supreme Court of Judicature), nhưng cấp tối cao lại thuộc về các cơ quan khác.

Cấp tối cao:

Toà án tối cao nước Anh (Supreme Court of Judicature) chịu sự kiểm soát của Uỷ ban phúc thẩm Thượng nghị viện (Appellate Committee of the House of Lords, hay còn gọi là House of Lords) và Hội đồng cơ mật của Hoàng gia (Privy Council).

Trên thực tế, Uỷ ban phúc thẩm Thượng nghị viện (House of Lords) thường chỉ thực hiện thẩm quyền xét xử phúc thẩm, nghĩa là nó tự giới hạn trong việc giữ nguyên hoặc huỷ bỏ quyết định phúc thẩm mà không thay thế bằng phán quyết cuối cùng của chính mình. Trong trường hợp phải huỷ án, vụ việc thường được gửi trả cho toà sơ thẩm và toà sơ thẩm có nghĩa vụ xem xét lại một số khía cạnh pháp luật theo quan điểm của Uỷ ban phúc thẩm Thượng nghị viện (House of Lords).

Hội đồng cơ mật (Privy Council) là cơ quan tư vấn chính thức của Hoàng gia, bao gồm các luật gia đáng kính nhất của nước Anh và của khối thịnh vượng chung (Commomwealth). Hiện nay, một số quốc gia thuộc khối thịnh vượng chung vẫn tiếp tục công nhận Hội đồng cơ mật là cơ quan xét xử cấp cao nhất của quốc gia mình. Luật mà Hội đồng cơ mật áp dụng không chỉ đơn giản là pháp luật của nước Anh, mà là pháp luật của hệ thống pháp luật Anh – Mỹ. Các quyết định của Hội đồng cơ mật không có tính ràng buộc. Tuy nhiên, nó có tính thuyết phục rất lớn.

Ở Anh, bên cạnh những tranh chấp mang tính tư pháp, còn có những tranh chấp được gọi là gần như mang tính tư pháp. Chẳng hạn: tranh chấp hành chính, kinh tế, tranh chấp trong lĩnh vực thuế, đất đai, các vấn đề xã hội, thuê nhà, nghĩa vụ quân sự, v.v.. Các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực này chịu sự kiểm soát của Toà án công lý cấp cao. Cần nhấn mạnh rằng: không có hệ thống tài phán hành chính độc lập trong pháp luật Anh.

Ở Anh, không có Viện công tố, không có Bộ tư pháp. Theo người Anh, sự có mặt của Viện công tố thể hiện sự bất bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội trong vụ án hình sự. Bên cạnh đó, Bộ tư pháp – sự hiện diện của đại diện quyền hành pháp, sẽ không phù hợp với tính độc lập của quyền tư pháp.

TỔNG KẾT: Các đặc điểm đặc trưng của pháp luật thông luật Anh

Các đặc điểm đặc trưng của Hệ thống thông luật hoàn toàn khác biệt với những đặc trưng của Hệ thống pháp luật Rô man – Giéc manh, nó bao gồm các đặc trưng tiêu biểu sau:

  • Pháp luật thông luật Anh được phát triển không phải ở các Trường đại học, không phải bởi các nhà nghiên cứu luật học, không mang tính chất học thuyết, mà bởi các nhà luật học thực tiễn.
  • Pháp luật Anh không phân chia thành các ngành luật, dù rằng các ngành luật nền tảng cơ bản được phát triển vững chắc. Các chế định pháp luật có trọng lượng, quan trọng hơn các ngành luật. Trong Hệ thống pháp luật này lĩnh vực luật hình thức được chú trọng hơn so với lĩnh vực luật nội dung. Đối với các thẩm phán, thủ tục giải quyết các tranh chấp pháp lý có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, chiếm vị trí hàng đầu. Sự tồn tại của Tòa án bồi thẩm ở các nước thuộc hệ thống pháp luật này cũng góp phần tạo điều kiện cho sự phát triển của pháp luật tố tụng, bởi vì thẩm phán chỉ giải quyết những vấn đề pháp luật, còn những vấn đề sự kiện do các bồi thẩm giải quyết.
  • Các quy phạm của thông luật được sinh ra trong quá trình Tòa án Hoàng gia giải quyết các vụ án cụ thể, do đó chúng ít mang tính chất trừu tượng và được tính toán cho việc giải quyết các tranh chấp cụ thể, chứ không được dự liệu cho cho công việc xác lập các quy tắc chung của hành vi.
  • Án lệ tồn tại phổ biến trong Hệ thống pháp luật này. Các quy phạm của pháp luật do các thẩm phán xây dựng trong khi đưa ra các quyết định về các vụ án cụ thể.
  • Hoàn toàn không có sự chồng khít giữa các án lệ xét xử và thực tiễn xét xử đã được hình thành. Các quy phạm chứa đựng trong các án lệ có thể thực hiện vai trò hai nghĩa: hình thành các luận điểm không có trong các văn bản quy phạm, giải thích và làm sáng tỏ các điều luật của pháp luật hiện hành.
  • Án lệ là hiện tượng pháp luật thú vị bảo đảm tính hiệu quả, tính dự báo và tính thống nhất của thực tiễn xét xử. Tính hiệu quả được thể hiện ở việc nhanh chóng đưa ra các quyết định trên cơ sở của các vụ việc tương tự đã được xem xét trước đây. Tính dự báo được biểu hiện ở hai mặt: sự hiểu biết các án lệ đang có cho phép hoặc là thu hẹp số lượng các vụ việc đang được xem xét ở Tòa án hoặc là soạn thảo trong sự phù hợp với các án lệ đã ó trước đây nền tảng pháp luật của vụ án. Tính thống nhất có nghĩa là chỉ có một cách tiếp cận đối với vụ việc tương tự là cách tiếp cận trên cơ sở án lệ.
  • Các văn bản quy phạm pháp luật với tư cách là nguồn của pháp luật đang dần trở nên chiếm ưu thế trong hệ thống thông luật so với trước đây. Mặc dù án lệ vẫn đóng vai trò là nguồn hàng đầu.
  • Sự điều chỉnh hiện nay đối với quá trình giải quyết các vụ việc vẫn diễn ra ở Tòa án, dù rằng đã được ghi nhận ở mức độ đạo luật do các thẩm phán soạn thảo.
  • Vai trò của khoa học pháp lý làm thay đổi mối tương quan hiện nay của thực tiễn xét xử và của các văn bản quy phạm pháp luật.
  • Pháp điển hóa không đặc trưng cho hệ thống pháp luật thông luật. Ngay cả nếu có các Bộ luật, thì các Bộ luật cũng mang tính chất khác so với các Bộ luật thuộc Hệ thống pháp luật Rô man – Giéc manh. Các Bộ luật này thực chất là kết quả của sự củng cố pháp luật.
  • Sự hiện có chế định Tòa án bồi thẩm là đặc điểm đặc trưng của Hệ thống pháp luật thông luật.
  • Ở Anh, vai trò của các tập quán cổ xưa vẫn có ý nghĩa, bởi vì các tập quán này có đặc trưng là tính ổn định qua nhiều thế kỷ và sự thừa nhận của xã hội. Tiêu biểu nhất là lĩnh vực Hiến pháp, thay vì Hiến pháp thành văn, ở nước Anh tập quán Hiến pháp được coi là nguồn chủ yếu.
  1. Hệ thống pháp luật Scotland

Pháp luật Scotland chịu nhiều ảnh hưởng của hệ thống thông luật Anh. Trong nhiều giai đoạn phát triển của mình các Quốc vương Scotland đã tiếp thu nhiều chế định của pháp luật Anh như chế định bồi thẩm và tỏ chức hệ thống tòa án. Tuy nhiên sau “các cuộc chiến tranh vì độc lập” tiến hành với nước Anh (1298 – 1326) ở Scotland bắt đầu có sự tiếp thu pháp luật của Pháp. Chính vì thế các chế định hợp đồng, chế định về sở hữu động sản… của pháp luật La mã được tiếp nhận vào pháp luật Scotland. Điều này càng diễn ra mạnh mẽ hơn vì trước thế kỷ XV ở Scotland không có các Trường đại học Tổng hợp của mình vì thế để đào tạo các nhà luật học tương lai đã được gửi đến học tại các trường đại học của các nước Châu Âu lục địa ở Pháp, Đức, Hà Lan. Sự ảnh hưởng của Luật La mã được lưu giữ ở một số chế định của Luật dân sự, trong thuật ngữ pháp lý, trong việc phân chia pháp luật thành luật công và luật tư. Sự hợp nhất của Scotland với Anh năm 1707 đã tạo điều kiện cho việc củng cố các truyền thống của thông luật. điều này được thể hiện thông qua việc tiếp nhận hệ thống tòa án theo mô hình tòa án Anh. Pháp luật của Scotland không được pháp điển hóa ngay từ đầu mà được hình thành từ các quyết định xét xử của Tòa án. Song dù như vậy nhưng ở Scotland, phương pháp giải thích vẫn trên cơ sở của truyền thống pháp luật Civil law.

Khi so sánh pháp luật Scotland với pháp luật Anh trong lịch sử phát triển, có thể chú ý tới 3 nhân tố sau:

  • Khác với pháp luật Anh, Pháp luật Scotland không có sự nhị nguyên trong pháp luật dân sự, thể hiện ở sự cùng tồn tại của các quy phạm pháp luật công bằng và thông luật.
  • Ở Scotland không có sự phát triển của các mệnh lệnh tố tụng như ở Anh.
  • Tư tưởng buộc tội công (quyền công tố) ở Scotland đã biến thành hình thức cụ thể của sự phục vụ được tổ chức rõ ràng trong việc điều tra vụ án hình sự cả các cơ quan nhà nước.

Ngoài ra, pháp luật Scotland vẫn duy trì được những tập quán dân tộc. Nguồn của pháp luật Scotland, bao gồm: án lệ (cuối thế kỷ XIX Scotland) được sáp nhập vào nước Anh bằng vũ lực và từ đây nguyên tắc án lệ được khẳng định ở Scotland), văn bản quy phạm pháp luật. Hiện nay pháp luật Scotland phát triển theo hướng pháp luật thông luật Anh.

  1. Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ

    • Sự hình thành pháp luật Nước Mỹ

Cùng với quá trình di dân từ nước Anh tới vùng đất mới tìm thấy trong công cuộc khai canh những tư tưởng và ý thức hệ pháp luật Anh đã theo chân những người khai canh tới các vùng đất thuộc Anh từ 1607 – ngày hình thành thuộc địa. Cùng với quá trình diễn ra cánh mạng tư sản ở vùng đất này và tư tưởng độc lập đã là cho pháp luật nước Mỹ có những đặc thù không hoàn toàn giống như pháp luật nước Anh. Mặc dù ở Mỹ cũng đã hình thành hệ thống pháp luật nhị nguyên giống với hệ thống pháp luật Anh: pháp luật án lệ trong sự tác động lẫn nhau với pháp luật lập pháp. Song với hình thức cấu trúc nhà nước liên bang, các bang thuộc Hợp chủng quốc có thẩm quyền rất lớn và trong giới hạn của thẩm quyền đó các bang xây dựng pháp luật của mình (các văn bản quy phạm pháp luật ) và hệ thống án lệ của mình. Do đó, có thể nói ở Hợp chủng quốc Hoa kỳ tồn tại 51 hệ thống pháp luật, trong đó 50 hệ thống pháp luật của các bang thành viên và 01 hệ thống chung cho liên bang.

Hệ thống pháp luật Hoa Kỳ có nhiều cấp, có thể là nhiều hơn hầu hết các nước khác. Nguyên nhân một phần là do có sự phân chia giữa luật liên bang và bang. Để hiểu được điều đó, cần nhắc lại rằng lịch sử Hoa Kỳ không phải hình thành từ một quốc gia, mà là một liên minh 13 khu vực thuộc địa, mỗi khu vực đều độc lập tách khỏi Anh Quốc. Do đó, Tuyên ngôn độc lập (1776) có nói đến “Dân tộc các khu vực thuộc địa”, nhưng đồng thời cũng thừa nhận “Các khu vực thuộc địa Hợp chúng quốc là, và có quyền được làm, CÁC BANG TỰ DO VÀ ĐỘC LẬP”. Sự giằng kéo giữa một dân tộc và nhiều bang là một vấn đề bao trùm lịch sử pháp lý Mỹ. Như giải thích ở dưới, Hiến pháp Mỹ (thông qua năm 1787, phê chuẩn năm 1788) bắt đầu một quá trình chuyển đổi đầy tranh cãi, chậm chạp và gián đoạn, từ chỗ quyền lực và thẩm quyền pháp lý nằm trong tay các bang, đã chuyển giao cho nhà nước liên bang. Tuy nhiên, đến nay các bang vẫn giữ nhiều thẩm quyền lớn. Các sinh viên nghiên cứu hệ thống pháp luật Mỹ phải hiểu được tại sao phạm vi thẩm quyền lại được phân chia giữa chính quyền liên bang và các bang.

Hiến pháp đã xác định nhiều ranh giới giữa luật liên bang và bang. Nó cũng phân chia quyền lực liên bang thành các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp (tạo ra cái gọi là “tam quyền phân lập” và gìn giữ một cách thiêng liêng hệ thống “kiềm chế và đối trọng”, nhằm ngăn chặn không cho một ngành nào đó có thể lạm dụng quyền lực của các ngành khác); và mỗi ngành có đóng góp riêng biệt vào hệ thống pháp lý. Trong hệ thống đó, Hiến pháp quy định những loại luật mà Quốc hội có thể thông qua.

Nhưng ngoài ra còn nhiều vấn đề phức tạp khác: luật Mỹ không chỉ là các đạo luật do Quốc hội thông qua. Trong một số lĩnh vực, Quốc hội có thể cho phép các cơ quan hành pháp được ban hành các quy tắc chi tiết hóa luật định. Và toàn bộ hệ thống được dựa trên các quy tắc pháp lý truyền thống của Thông luật Anh. Mặc dù Hiến pháp và các đạo luật đều có giá trị cao hơn thông luật, toà án vẫn tiếp tục áp dụng các nguyên tắc thông luật bất thành văn để lấp các chỗ trống chưa được Hiến pháp đề cập, cũng như không được Quốc hội luật hóa.

Các tòa án của từng bang thực hiện thẩm quyền xét xử của mình một cách độc lập và do vậy hoàn toàn không có tính bắt buộc là Tòa án của các bang này phải tuân thủ các quyết định do Toà án ở các bang khác đưa ra. Hàng năm tại Mỹ có khoảng 300 tập thực tiễn xét xử được công bố.

Mặt khác, sự tập trung hóa theo xu hướng làm tăng quyền lực của chính quyền liên bang đã dẫn đến sự  tăng lên đáng kể khối lượng các văn bản quy phạm pháp luật của liên bang (bao gồm cả văn bản của Nghị viện và văn bản do Tổng thống ban hành).

Cũng như ở Anh, ở Mỹ, pháp luật tập quán có một vị trí đáng kể trong lĩnh vực hoạt động của cơ chế quyền lực nhà nước. Hiến pháp Mỹ là Hiến pháp cổ điển, nó không làm rõ nhiều mặt cơ bản của tổ chức nhà nước và những chỗ hổng này được bổ sung bằng việc thừa nhận các tập quán đã được hình thành, các truyền thống đã có.

Như vậy, có thể nói rằng pháp luật Mỹ được hình thành dưới sự ảnh hưởng của các truyền thống pháp lý của nước Anh và trong quá trình du nhập vào Mỹ đã có những thay đổi đáng kể. Đã xuất hiện những chế định pháp luật mới và các chế định này đã phân biệt pháp luật nước Mỹ với pháp luật nước Anh.

4.2. Các nguồn của pháp luật Mỹ

4.2.1. Nguồn luật thành văn của liên bang

4.2.1.1. Hiến pháp liên bang và tính tối cao của Luật liên bang

Trong giai đoạn 1781–1788, đã có một thỏa thuận gọi là Hiến chương liên minh điều chỉnh mối quan hệ giữa 13 bang. Một Quốc hội toàn quốc tương đối lỏng lẻo được thành lập. Mặc dù mỗi bang đều cam kết danh dự sẽ tuân thủ phán quyết tòa án của các bang khác (theo cơ chế “tin cậy và tín nhiệm hoàn toàn”), nhưng Hiến chương không có quy định nào về thẩm quyền pháp lý liên bang, trừ quy định về tòa án hàng hải.

Năm 1787, đại biểu của các Tiểu bang ở Mỹ tiến hành họp để sửa đổi Điều lệ Liên bang. Tuy nhiên, việc này không thực hiện được, và các đại biểu đã đi đến thống nhất soạn thảo ra một văn bản mới – Hiến pháp Liên bang. Hiến pháp này có hiệu lực ngày 04/03/1789.

Đây là bản Hiến pháp lâu đời nhất vẫn còn hiệu lực, nhờ tính đơn giản và tính linh hoạt của nó, bao gồm 7 điều khoản cơ bản, đã qua 27 lần sửa đổi và bổ sung. Nội dung chính của Hiến pháp Mỹ đề cập tới việc tổ chức và phân chia quyền lực. Những sửa đổi, bổ sung sau này, tuy có nhiều điều khoản nói về quyền công dân, nhưng nội dung phần lớn các điều sửa đổi cũng vẫn là các quy định về tổ chức và phân chia quyền lực. Khi nói về nguồn của luật hiến pháp Mỹ, cần lưu ý rằng: bên cạnh bản Hiến pháp thành văn, còn có các nguồn luật khác, như: Tuyên bố về các quyền của công dân Mỹ (Bill of Rights) và 600 cuốn Tuyển tập án lệ bổ sung cho Hiến pháp.

Sự tồn tại của Hiến pháp thành văn (bao gồm Tuyên bố về các quyền của công dân Mỹ) là một trong những yếu tố làm luật Mỹ khác luật Anh. Luật Hiến pháp Mỹ khác về cơ bản với luật hiến pháp Anh ở chỗ: ở Mỹ có nguyên tắc kiểm soát tính hợp hiến của luật thành văn bằng con đường toà án. Nguyên tắc này ra đời từ án lệ Marbury v.Madison (năm 1803). Không chỉ luật thành văn, mà cả án lệ cũng phải hợp  hiến. Hiến pháp Mỹ không chỉ có giá trị hình thức mà trên thực tế còn là cốt lõi của hệ thống pháp luật Liên bang Mỹ. Hiến pháp Mỹ không chỉ là tuyên ngôn chính trị mà còn là các quy định pháp luật có giá trị thực tiễn cao và thường xuyên được các toà án áp dụng.

Hiến pháp được giải thích theo nguyên tắc bảo đảm sự mềm dẻo của Hiến pháp để nó có thể thích nghi với mọi hoàn cảnh. Thực tế cho thấy Hiến pháp Mỹ là bản Hiến pháp đã tồn tại hàng thế kỷ. Để giải thích Hiến pháp, các thẩm phán của Toà án tối cao Liên bang thường sử dụng phương pháp mục đích luận – phương pháp do Josserand người Pháp khởi xướng. Bên cạnh đó, các thẩm phán còn viện dẫn án lệ.

Bên cạnh Hiến pháp Liên bang, mỗi Tiểu bang lại có Hiến pháp riêng, được soạn thảo và ban hành dựa trên Hiến pháp Liên bang, và không được xung đột với Hiến pháp Liên bang.

Việc xây dựng và phê chuẩn Hiến pháp thể hiện ngày càng có sự đồng thuận trong vấn đề cần phải củng cố nhà nước liên bang. Hệ thống pháp luật là một trong những lĩnh vực thực hiện được vấn đề đó. Nội dung quan trọng nhất là “điều khoản tối cao”, trong Điều VI của Hiến pháp: Hiến pháp này, và các luật của Hợp chúng quốc được xây dựng trên cơ sở tuân thủ Hiến pháp, và tất cả các hiệp ước đã được ký kết hoặc sẽ được ký kết, với tư cách thẩm quyền Hợp chúng quốc, sẽ là luật tối cao của tổ quốc; và mang tính ràng buộc đối với thẩm phán ở tất cả các bang, cho dù trong Hiến pháp và luật của các bang có bất cứ nội dung gì trái ngược.

Quy định này đã thiết lập nguyên tắc tiên quyết của luật Hoa Kỳ: Một khi Hiến pháp đã quy định, không bang nào được quyền làm trái. Có một điểm vẫn chưa rõ, là điều cấm này sẽ được áp dụng cho bản thân chính quyền liên bang như thế nào, và hệ thống pháp luật từng bang có vai trò như thế nào trong những lĩnh vực mà Hiến pháp không quy định rõ. Các tu chính án Hiến pháp đã phần nào trả lời vấn đề này; lịch sử còn nhiều thăng trầm, và thậm chí đến nay, người Mỹ vẫn tiếp tục vật lộn để định ra đường phân giới rõ ràng giữa thẩm quyền liên bang với thẩm quyền bang.

4.2.1.2. Thẩm quyền ban hành luật của cơ quan lập pháp liên bang

Hiến pháp trao quyền thông qua luật cho Quốc hội. Một đề xuất được Quốc hội xem xét được gọi là một dự luật (bill). Nếu đa số thành viên mỗi viện (Thượng viện và Hạ viện) thông qua (trong trường hợp Tổng thống phủ quyết, thì tỷ lệ đa số phải là hai phần ba), thì dự luật sẽ trở thành luật. Luật liên bang được gọi là đạo luật (statute). Còn Bộ luật Hoa Kỳ (United States Code) là kết quả của việc “pháp điển hoá” các đạo luật liên bang. Bản thân Bộ luật không phải là một luật, mà nó chỉ là các đạo luật được sắp xếp theo trật tự lôgích. Ví dụ, Tiêu mục (Title) 20 bao gồm các đạo luật về Giáo dục, còn Tiêu mục 22 bao gồm các đạo luật về Đối ngoại.

Quyền làm luật của Quốc hội bị giới hạn. Nói chính xác hơn, nó được người dân Mỹ ủy quyền thông qua Hiến pháp, trong đó quy định những lĩnh vực mà Quốc hội có quyền hoặc không có quyền làm luật. Điều I, Mục 9 của Hiến pháp cấm Quốc hội thông qua một số loại luật. Ví dụ, Quốc hội không được thông qua một đạo luật hồi tố “ex post facto” (luật áp dụng hồi tố, “sau khi sự kiện đã diễn ra”), hoặc áp đặt thuế xuất khẩu. Điều I, Mục 8 liệt kê các lĩnh vực Quốc hội được làm luật. Một số nội dung khá là cụ thể (như “Xây dựng Bưu điện”), nhưng nhiều nội dung khác thì lại rất chung chung, nổi bật nhất là quy định “được điều chỉnh thương mại với nước ngoài, và giữa các bang”. Tất nhiên, quyền diễn giải các quy định thẩm quyền kém chính xác là cực kỳ quan trọng. Do đó, trong giai đoạn đầu của lịch sử nền cộng hòa, nhờ nắm được vai trò diễn giải, nên ngành tư pháp đã nắm thêm một vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ.

4.2.1.3. Thẩm quyền giải thích pháp luật của cơ quan tư pháp liên bang

Cũng như các ngành khác, quyền của ngành tư pháp Hoa Kỳ được quy định trong Hiến pháp. Hiến pháp chỉ quy định thẩm quyền xét xử liên bang trong một số loại tranh chấp nhất định. Điều III, Mục 2 liệt kê những nội dung này. Hai loại tranh chấp quan trọng nhất là các vụ việc liên quan đến nghi vấn luật liên bang (“Tất cả các vụ việc về luật và công bằng, phát sinh từ Hiến pháp, các đạo luật của Hợp chúng quốc và các hiệp ước đã ký kết …”) và các vụ việc “đa chủng”, tức là các vụ tranh chấp giữa công dân của hai bang khác nhau. Thẩm quyền xét xử này cho phép mỗi bên có thể tránh đưa vấn đề ra trước các tòa án của bang của nhau.

Quyền xét xử thứ hai xuất hiện trong những năm đầu của nền cộng hòa. Như giải thích trong Chương 2, phán quyết của Tòa án tối cao Hoa Kỳ trong vụ Marbury kiện Madison (1803) đã giải thích thẩm quyền (được Hiến pháp ủy quyền) của nó là được phép xác định một đạo luật vi hiến, và tuyên bố luật vô hiệu. Một đạo luật có thể vi hiến nếu nó xâm phạm các quyền của người dân được Hiến pháp bảo vệ, hoặc nếu Điều I không cho phép Quốc hội được thông qua loại luật đó.

Do đó, quyền diễn giải các quy định hiến pháp mô tả lĩnh vực nào Quốc hội được làm luật là rất quan trọng. Theo truyền thống, Quốc hội thường chứng minh rằng các đạo luật là cần thiết nhằm điều chỉnh “thương mại … giữa một số bang”, hay còn gọi là thương mại xuyên bang. Đây là một khái niệm mềm dẻo, khó mô tả chính xác. Thực tế, mỗi người đều có thể cho rằng gần như tất cả các đạo luật đều có sự ràng buộc hợp lý giữa mục đích của nó với việc điều chỉnh thương mại xuyên bang. Nhưng nhiều lúc ngành tư pháp diễn giải “điều khoản thương mại” một cách bó hẹp. Ví dụ, năm 1935, Tòa án tối cao đã vô hiệu hóa một đạo luật liên bang quy định số giờ làm và mức lương của người lao động ở các lò mổ New York, vì tất cả thịt gà được xử lý ở đây đều được bán cho các cửa hàng và quầy thịt ở New York và do vậy không có yếu tố thương mại xuyên bang. Tuy nhiên, ngay sau đó, Tòa án tối cao bắt đầu ủng hộ các chương trình thuộc Chính sách mới (New Deal) của Tổng thống Franklin D. Roosevelt một cách rộng rãi hơn, và ngày nay các tòa án liên bang vẫn tiếp tục diễn giải quyền thương mại theo nghĩa rộng, mặc dù không rộng đến mức có thể cho phép Quốc hội có thể thông qua bất cứ loại luật nào.

4.2.1.4. Vấn đề hướng dẫn pháp luật của các cơ quan hành pháp liên bang

Điều II trao “Quyền hành pháp” cho Tổng thống Hợp chúng quốc. Trong nhiệm kỳ của Tổng thống George Washington, toàn bộ ngành hành pháp bao gồm một Tổng thống, một Phó tổng thống, và các bộ Ngoại giao, Ngân khố, Chiến tranh và Tư pháp. Nhưng khi đất nước lớn mạnh lên, ngành hành pháp cũng phát triển thêm. Ngày nay, có đến 15 bộ cấp nội các. Mỗi bộ có một số tổng cục, cục và các cơ quan khác. Ngoài ra còn có một phần ngành hành pháp nằm ngoài các bộ. Tất cả đều thực thi quyền hành pháp do Tổng thống ủy nhiệm và chịu trách nhiệm cuối cùng trước Tổng thống.

Trong một số lĩnh vực, mối quan hệ giữa hành pháp và hai ngành kia là không rõ ràng. Giả sử có một hoặc một số người cướp ngân hàng. Quốc hội thông qua một đạo luật quy định hành vi cướp ngân hàng là phạm tội (Bộ luật Hoa Kỳ, Tiêu mục 18, Mục 21131). Cục điều tra liên bang (FBI), một cục thuộc Bộ Tư pháp, có thể sẽ điều tra vụ việc. Khi nó phát hiện một hoặc một số người tình nghi, một viên Công tố liên bang (cũng thuộc Bộ Tư pháp) có thể cố gắng chứng minh người tình nghi là tội phạm trong một phiên xét xử do một Tòa án sơ thẩm cấp hạt Hoa Kỳ tiến hành. Cướp ngân hàng là một vụ việc đơn giản. Nhưng khi đất nước ngày càng phát triển và hiện đại hóa, mối quan hệ giữa ba ngành trong hệ thống luật pháp cũng phát triển để giải quyết các vấn đề phức tạp hơn của xã hội công nghiệp và hậu công nghiệp. Vai trò của ngành hành pháp thay đổi nhiều nhất. Trong ví dụ cướp ngân hàng, Quốc hội hầu như không cần đến chuyên môn để có thể dự thảo một đạo luật quy định hành vi cướp ngân hàng là tội phạm. Hãy giả sử các nhà làm luật muốn cấm các lọai dược phẩm “nguy hiểm” trên thị trường, hay hạn chế lượng ô nhiễm “độc hại” trong không khí. Quốc hội có thể chọn cách quy định chính xác định nghĩa của các thuật ngữ đó. Đôi lúc Quốc hội cũng làm vậy, nhưng có xu thế là Quốc hội ngày càng tăng cường trao bớt một phần thẩm quyền của nó cho các cơ quan hành chính công trong ngành hành pháp. Do đó, Cục quản lý thực phẩm và thuốc (FDA) là cơ quan giám sát độ tinh sạch của thực phẩm và dược phẩm quốc gia, còn Cơ quan bảo vệ môi trường (EPA) là cơ quan điều chỉnh vấn đề tác động môi trường đất, nướ c và không khí của các ngành công nghiệp.

Mặc dù các cơ quan nhà nước chỉ nắm giữ những thẩm quyền được Quốc hội ủy quyền theo luật, nhưng phạm vi thẩm quyền đó có thể khá lớn. Nó có thể bao gồm quyền được ban hành các quy tắc quy định chính xác các thuật ngữ chung chung trong luật. Luật có thể cấm lượng ô nhiễm “nguy hiểm” trong không khí, còn EPA sẽ quy định loại chất và hàm lượng của mỗi loại chất được coi là nguy hiểm. Đôi lúc luật trao quyền cho một cơ quan nhà nước được phép điều tra các hành vi vi phạm các quy tắc của nó, phán xử các vi phạm đó, và thậm chí là cả việc áp dụng lệnh trừng phạt.

Các tòa án sẽ vô hiệu hóa một đạo luật trao quá nhiều quyền cho một cơ quan. Một đạo luật quan trọng là Đạo luật thủ tục hành chính (Bộ luật Hoa Kỳ, Tiêu mục 5, Mục 551, và mục tiếp theo) đã giải thích các thủ tục mà một cơ quan phải tuân thủ khi ban hành các quy tắc, đánh giá vi phạm và áp dụng chế tài. Nó cũng quy định các bên được phép đưa một quyết định của cơ quan hành pháp ra xem xét trước toà như thế nào.

4.2.2. Các nguồn luật khác

Nguồn rõ ràng nhất của luật pháp Mỹ là các đạo luật do Quốc hội thông qua, được bổ sung bằng các quy định hành chính. Đôi khi những nguồn này quy định rõ ràng ranh giới giữa hành vi hợp pháp và phạm pháp – như trong ví dụ cướp ngân hàng – nhưng không có nhà nước nào có thể ban hành đủ luật để khép kín được tất cả các tình huống. Rất may là đã có một thực thể khác quy định các nguyên tắc và chuẩn mực pháp lý giúp lấp các chỗ trống, như trình bày dưới đây:

Thông luật:

Khi không có sự khống chế của các quy định hiến pháp và đạo luật, các tòa án liên bang và bang thường đối chiếu với thông luật; đó là một tuyển tập các quyết định tư pháp, thông tục và quy tắc chung có từ nhiều thế kỷ trước ở nước Anh và vẫn tiếp tục phát triển cho đến nay. Ở nhiều bang, thông luật tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong tranh chấp hợp đồng, do các nhà làm luật của bang thấy không cần thiết phải thông qua các đạo luật quy định tất cả những trường hợp bất thường về hợp đồng có thể xảy ra.

Tiền lệ tư pháp:

Các tòa án xét xử các hành vi vi phạm luật và các tranh chấp nảy sinh từ luật. Thông thường, tòa án cần phải diễn giải luật. Để làm điều đó, các tòa án tự ràng buộc bởi cách giải thích luật trước đó của các toà án cùng cấp hoặc cao hơn. Đây được gọi là nguyên tắc “theo quyết định trước”, hay đơn giản gọi là tiền lệ. Nó giúp bảo đảm sự nhất quán và có thể lường trước. Nếu phải đối mặt với các tiền lệ hoặc luật án lệ (case law) bất lợi, bên bị thường tìm cách phân biệt sự khác nhau giữa những yếu tố khách quan của vụ việc đang xem xét với các sự kiện đã dẫn đến quyết định trước đó.

Đôi khi các tòa án diễn giải luật không giống nhau. Ví dụ, Tu chính án Hiến pháp thứ mười lăm có một quy định là “trong bất kỳ vụ án hình sự nào, không ai … bị buộc phải làm chứng chống lại mình”. Thỉnh thoảng lại có các vụ án trong đó một cá nhân từ chối trả lời các câu hỏi hoặc khai nhận dưới hình thức khác, trên cơ sở lập luận rằng lời khai đó có thể sẽ được dùng làm cơ sở khởi tố cá nhân này ở một nước khác (không phải ở Hoa Kỳ). Có thể áp dụng điều luật tự buộc tội trong trường hợp này hay không? Toà phúc thẩm địa phận số 2 của Hoa Kỳ cho rằng có thể áp dụng, nhưng Tòa phúc thẩm các địa phận số 4 và 11 lại diễn giải ngược lại. Điều đó có nghĩa là luật pháp khác nhau phụ thuộc nơi mà vụ việc đó phát sinh!

Các tòa án cấp cao hơn tìm cách giải quyết sự thiếu nhất quán này. Ví dụ, Tòa án tối cao Hoa Kỳ thường chọn việc xét xử các vụ án nếu phán quyết của vụ đó có thể giải quyết sự bất đồng giữa các tòa phúc thẩm. Tiền lệ của Tòa án tối cao sẽ khống chế, hoặc áp dụng cho tất cả các toà án liên bang cấp dưới. Trong vụ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ kiện Balsys, 524 U.S. 666 (1998), Tòa án tối cao đã phán quyết rằng sợ bị truy tố ở nước ngoài là vượt quá phạm vi của Điều luật tự buộc tội3.  Phán quyết này trở thành luật của toàn nước Mỹ, kể cả ở khu vực Tòa phúc thẩm địa phận số 2. Bất kỳ tòa án liên bang nào sau này gặp phải vấn đề đó đều bị ràng buộc bởi phán quyết của tòa cấp cao trong vụ Balsys. Tương tự, phán quyết của toà phúc thẩm lưu động vùng có giá trị ràng buộc tất cả các tòa án hạt trong khu vực. Tiền lệ cũng được áp dụng ở nhiều hệ thống tòa án bang. Do đó, tiền lệ ngày càng phát triển cả về số lượng lẫn nội dung diễn giải.

Luật lẽ phải (công bằng)

Hệ thống pháp luật Mỹ cho phép rất nhiều biện pháp khắc phục (remedy) khác nhau, nhưng tất nhiên là không phải vô hạn. Đối với mỗi tội danh, các đạo luật hình sự thường liệt kê một loạt các hình phạt hoặc thời hạn giam giữ mà tòa án có thể áp dụng. Các phần khác của bộ luật hình sự có thể cho phép một số khu vực tài phán có quyền áp dụng các hình phạt cứng rắn hơn. Chế tài đối với các tội nghiêm trọng nhất, hay còn gọi là tội đặc biệt nghiêm trọng (trọng tội – felony), thường nghiêm khắc hơn so với các tội ít nghiêm trọng (khinh tội – misdemeanor).

Trong các vụ dân sự, hầu hết toà án Hoa Kỳ được quyền chọn biện pháp khắc phục pháp lý hoặc công bằng. Trước đây, sự phân biệt giữa hai loại biện pháp khắc phục này có ý nghĩa hơn nhiều so với hiện nay, nhưng vẫn cần phải hiểu rõ. Ở nước Anh vào thế kỷ XIII, “các tòa án luật pháp” chỉ được quyền áp dụng biện pháp khắc phục bằng tiền. Nếu bên bị mà vi phạm hợp đồng làm cho bên nguyên bị thiệt hại 50 bảng, thì tòa án có thể lệnh cho bên bị phải trả khoản tiền đó cho bên nguyên. Trong nhiều trường hợp, khoản bồi thường này đủ bù đắp thiệt hại, song trong nhiều trường hợp không thể đủ được, như trong các hợp đồng mua bán một tác phẩm nghệ thuật quý hiếm hoặc một khoảnh đất. Trong thế kỷ XIII và XIV, “các tòa án công bằng” đã được thành lập. Các cơ quan xét xử này thường chọn biện pháp khắc phục công bằng như làm một việc cụ thể, buộc các bên liên quan phải thực hiện nghĩa vụ, chứ không chỉ bắt trả tiền bồi thường thiệt hại do không thực hiện. Đến thế kỷ XIX, hầu hết các khu vực tài phán Mỹ đều đã xóa bỏ ranh giới giữa biện pháp khắc phục pháp lý và công bằng. Ngày nay, ngoại trừ một số rất ít ngoại lệ, các tòa án Mỹ có thể phán quyết yêu cầu biện pháp khắc phục pháp lý hoặc công bằng tùy theo từng trường hợp. Sau đây là một ví dụ điển hình minh họa cho sự khác nhau giữa luật dân sự và hình sự, và các giải pháp khắc phục của mỗi ngành luật. Bang California cáo buộc cựu danh thủ bóng bầu dục O. J. Simpson phạm tội giết người. Nếu Simpson bị kết tội, anh ta sẽ phải ngồi tù. Tuy nhiên, anh ta không bị kết tội, vì bồi thẩm đoàn cho rằng phía công tố không thể chứng minh là Simpson có tội mà “không còn nghi ngờ hợp lý gì nữa”. Sau đó, gia đình bà Simpson kiện Simpson vì một cái chết bất công của người vợ, tức là một vụ kiện dân sự. Bồi thẩm đoàn trong vụ này xác định ưu thế chứng cứ chứng minh trách nhiệm của Simpson đối với cái chết của vợ. Tòa buộc Simpson phải trả tiền bồi thường cho nguyên đơn, tức là buộc phải thực hiện một biện pháp khắc phục pháp lý.

4.2.3. Mối quan hệ giữa luật liên bang và luật của tiểu bang

Hiến pháp có quy định cụ thể về việc cấm các bang thông qua một số loại luật nhất định (tham gia ký hiệp ước với nước ngòai, phát hành tiền). Điều VI (Điều khoản tối cao) cũng không cho phép luật của bang trái với Hiến pháp và luật liên bang. Tuy vậy, một phần lớn hệ thống pháp luật vẫn thuộc quyền kiểm soát của bang. Hiến pháp đã cẩn thận quy định những lĩnh vực Quốc hội được quyền làm luật. Tu chính án Hiến pháp thứ mười (năm 1791) quy định rõ ràng luật của bang cần kiểm soát những lĩnh vực khác: “Những quyền lực không được Hiến pháp ủy quyền cho Hợp chúng quốc, đồng thời các bang cũng không bị Hiến pháp cấm nắm giữ quyền lực đó, thì thuộc về các bang, hoặc thuộc về nhân dân, theo thứ tự lần lượt”.

Tuy nhiên, vẫn còn sự giằng co giữa chính quyền liên bang và các bang về vấn đề nô lệ và quyền tối thượng của các bang được quyền tách ra khỏi liên minh. Cuộc nội chiến năm 1861-1865 đã giải quyết cả hai vấn đề này. Nó cũng đặt ra các giới hạn mới đối với vai trò của bang trong hệ thống pháp luật: theo Tu chính án Hiến pháp thứ mười bốn (1868), “Không bang nào có thể … tước quyền được sống, quyền tự do và quyền tài sản của bất kỳ người nào, nếu không theo đúng trình tự pháp lý; hoặc từ chối quyền được pháp luật bảo vệ công bằng đối với bất kỳ người nào trong khu vực tài phán của nó”. Tu chính án này đã mở rộng rất lớn khả năng vô hiệu hoá luật bang của các tòa án liên bang. Trong vụ Brown kiện Hội đồng giáo dục (1954), căn cứ theo “điều khoản bảo vệ công bằng” này, tòa án đã cấm hệ thống giáo dục bang Arkansas phân tách học sinh theo chủng tộc.

Bắt đầu từ thế kỷ XX, đã xuất hiện một số xu hướng định hình vấn đề nêu trên – đó là sự xuất hiện vấn đề bang hành chính, một cách lý giải tư pháp mở rộng hơn và mạnh mẽ hơn đối với khái niệm “trình tự pháp lý” và “bảo vệ công bằng”, cũng như sự mở rộng quyền lực của Quốc hội trong việc điều chỉnh thương mại. Hai xu hướng này kết hợp với nhau, đã làm tăng vai trò của liên bang trong hệ thống pháp lý. Nhưng dù sao còn nhiều lĩnh vực trong hệ thống pháp luật vẫn thuộc thẩm quyề n của bang. Mặc dù không bang nào được quyền từ chối trao cho công dân các quyền được Hiến pháp bảo vệ, nhiều bang vẫn giải thích hiến pháp riêng của mình theo hướng trao nhiều quyền và đặc quyền rộng rãi hơn. Các tòa án bang áp dụng luật của bang vẫn tiếp tục xem xét hầu hết các tranh chấp hợp đồng, cũng như các vụ án hình sự, và các hành động pháp lý về trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng. Luật gia đình, bao gồm cả kết hôn và ly hôn, hầu như là một vấn đề thuộc thẩm quyền chuyên biệt của bang. Đối với hầu hết người Mỹ, đụng đến hệ thống pháp luật có nghĩa là chỉ đụng đến các viên cảnh sát, tòa án bang, chính quyền khu và phân khu trong phạm vi bang đó.

Có thể khái quát một số đặc điểm của pháp luật Mỹ hiện nay như sau:

  • Sự phát triển song song hai hệ thống pháp luật: pháp luật liên bang và pháp luật bang.
  • Vị trí tối cao của Hiến pháp liên bang.
  • Việc thực hiện nguyên tắc phân chia các nhánh quyền lực được bổ sung bằng việc áp dụng sự giám sát của Tòa án với tính hợp Hiến của các đạo luật. Ở đây Tòa án tối cao Hoa Kỳ nhắc nhở cơ quan lập pháp nhanh hơn cơ quan áp dụng pháp luật, đặc biệt khi quy phạm pháp luật do cơ quan lập pháp xây dựng được áp dụng không phải đối với vụ việc đang được xem xét mà là đối với các vụ việc sẽ xuất hiện trong tương lai.
  • Việc coi vị trí số 1 của án lệ bên cạnh sự phát triển các văn bản quy phạm pháp luật.
  • Sự khác biệt trong thuật ngữ giữa pháp luật nước Anh với pháp luật nước Mỹ.
  • Án lệ nước Mỹ linh hoạt, mềm dẻo hơn so với pháp luật nước Anh.
    • Hệ thống Tòa án ở Hoa Kỳ

Một trong những đặc điểm quan trọng nhất, thú vị nhất và có lẽ rối rắm nhất của tư pháp Hoa Kỳ là hệ thống tòa án kép; tức là tại mỗi cấp chính quyền (bang và quốc gia) có một hệ thống tòa án riêng. Do đó, có một hệ thống tòa án riêng cho mỗi bang, một cho Hạt Columbia (Washington, D.C) và một cho chính quyền liên bang. Một số vấn đề pháp lý được giải quyết hoàn toàn ở tòa án bang, trong khi các vấn đề khác được giải quyết hoàn toàn tại tòa án liên bang. Nhưng vẫn còn các vấn đề khác được cả hai hệ thống xét xử quan tâm, và đôi khi có xuất hiện va chạm.

HỆ THỐNG TÒA ÁN HOA KỲ

(*) Mười hai Tòa phúc thẩm vùng (hay còn gọi là Tòa phúc thẩm lưu động) còn thụ lý các vụ việc từ một số cơ quan liên bang. (**) Tòa phúc thẩm liên bang còn thụ lý các vụ từ Ủy ban thương mại quốc tế, Hội đồng bảo vệ hệ thống năng lực, Văn phòng bằng sáng chế và thương hiệu và Hội đồng phúc thẩm hợp đồng.

  • Tòa án tối cao Hoa Kỳ

Thẩm phán Tòa án tối cao Charles Evans Hughes đã viết trong cuốn Tòa án tối cao Hoa Kỳ (Supreme Court of the United States) (1966) rằng Tòa án này “là sản phẩm đặc trưng của người Mỹ cả về mặt khái niệm và chức năng, không kế thừa gì nhiều từ các tổ chức tư pháp trước đó”. Để hiểu được ý định của những người định khung Hiến pháp, cần phải xem xét một khái niệm khác của người Mỹ: hình thức chính quyền liên bang. Các nhà lập quốc quy định hai hình thức chính quyền: chính quyền quốc gia và chính quyền bang; tòa án bang bị ràng buộc bởi luật liên bang. Tuy nhiên, quyền giải thích cuối cùng đối với luật liên bang không thể để cho tòa án bang tự quyết định, và chắc chắn cũng không thể đặt trong tay cơ quan xét xử của một vài tiểu bang, vì có thể sẽ nảy sinh bất đồng. Do đó, Tòa án tối cao phải giải thích các văn kiện lập pháp liên bang. Một chủ định khác của các nhà lập quốc là cho phép chính quyền liên bang được hành động đối với các cá nhân cũng như các bang.

Tòa án tối cao với tư cách là cơ quan xét xử cuối cùng

Tòa án tối cao vừa có thẩm quyền xét xử sơ thẩm lẫn phúc thẩm. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm nghĩa là tòa án có quyền xét xử một vụ việc lần đầu tiên. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm nghĩa là một tòa án cấp cao hơn có quyền xem xét lại các vụ việc đã được xét xử ở một tòa án cấp dưới. Tòa án tối cao chủ yếu làm nhiệm vụ phúc thẩm vì phần lớn thời gian của nó được dành để xem xét lại các phán quyết của tòa cấp dưới. Nó là cơ quan xét xử phúc thẩm tối cao ở Hoa Kỳ. Do đó, nó là cơ quan có tiếng nói cuối cùng trong việc giải thích Hiến pháp, các đạo luật của các cơ quan lập pháp và các hiệp ước – trừ khi quyết định của Tòa bị thay đổi thông qua sửa đổi hiến pháp, hoặc trong một số trường hợp là thông qua đạo luật của Quốc hội.

Từ năm 1925, xuất hiện một công cụ gọi là “đặc lệnh lấy lên xét xử lại” (certiorari), cho phép Tòa án tối cao được quyền tự quyết định những vụ việc nào nó sẽ xem xét lại. Theo phương pháp này, một người có thể yêu cầu Tòa án tối cao xem xét lại một phán quyết của tòa cấp dưới; và các đại thẩm phán sẽ quyết định xem có đồng ý với yêu cầu đó hay không. Nếu Tòa án tối cao đồng ý xem xét lại, nó sẽ phát “trát đòi lấy lên xét xử lại”, tức là lệnh yêu cầu tòa cấp dưới chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc lên Tòa án tối cao. Nếu yêu cầu đó bị từ chối, quyết định của toà cấp dưới vẫn giữ nguyên giá trị.

  • Tòa phúc thẩm Hoa Kỳ

Các tòa phúc thẩm ít được chú ý hơn so với Tòa án tối cao, nhưng chúng đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống tư pháp Hoa Kỳ. Do Tòa án tối cao chỉ đưa ra quyết định với ý kiến đầy đủ trong khoảng 80–90 vụ trong một năm, nên rõ ràng các tòa phúc thẩm thường là các tòa cuối cùng giải quyết hầu hết các đơn phúc thẩm trong hệ thống tòa án liên bang.

Hầu hết các vụ việc được tòa phúc thẩm xem xét lại đều bắt đầu từ các tòa án hạt liên bang. Các bên nguyên đơn không thỏa mãn với quyết định của tòa cấp dưới có thể kháng cáo lên tòa phúc thẩm vùng có tòa án hạt liên bang đó. Các toà phúc thẩm cũng có quyền xem xét lại quyết định của một số cơ quan hành chính.

Do tòa phúc thẩm không thể kiểm soát vụ việc nào sẽ được xét xử theo trình tự phúc thẩm, nên nó phải giải quyết cả những công việc hàng ngày lẫn những việc rất quan trọng. Một đằng là các kháng cáo và kiến nghị nhỏ nhặt, không có ý nghĩa gì hoặc rất ít cơ hội thay đổi bản án. Nhưng mặt khác, cũng có các vụ việc phát sinh những vấn đề lớn về chính sách công và nảy sinh nhiều bất đồng. Quyết định của tòa phúc thẩm trong các vụ đó có nhiều khả năng sẽ tạo lập chính sách chung cho tòan xã hội, chứ không chỉ những nguyên đơn liên quan. Các vụ việc về quyền tự do công dân, phân chia địa hạt, tôn giáo và giáo dục là những ví dụ điển hình của loại tranh chấp có thể ảnh hưởng đến mọi công dân.

Việc xem xét lại của tòa phúc thẩm có hai mục đích. Thứ nhất là sửa lỗi. Thẩm phán vùng thường được kêu gọi đứng ra giám sát hoạt động của các tòa án hạt liên bang và cơ quan hành pháp liên bang, và giám sát việc các cơ quan này áp dụng và diễn giải luật liên bang và bang như thế nào. Để thực hiện nhiệm vụ đó, tòa phúc thẩm không cần tìm kiếm bằng chứng tình tiết mới, mà là kiểm tra ghi chép của toà cấp dưới để tìm lỗi. Trong quá trình sửa lỗi, tòa phúc thẩm cũng đồng thời giải quyết tranh chấp và thực thi luật quốc gia.

Chức năng thứ hai là phân loại và phát triển một số ít các vụ việc cần được Tòa án tối cao xem xét lại. Thẩm phán vùng giải quyết các vấn đề pháp lý trước khi đưa lên các thẩm phán Tòa án tối cao, và có thể giúp xếp loại những kiến nghị nào cần được xem xét lại. Các học giả tư pháp nhận thấy rằng thường có sự khác nhau giữa phiên xét xử lần đầu và lần thứ hai trong các vụ được phúc thẩm.

  • Tòa án hạt Hoa Kỳ

Tòa án hạt Hoa Kỳ là đơn vị nhỏ nhất của hệ thống tư pháp liên bang. Mặc dù một số vụ việc được kháng cáo kháng nghị lên tòa phúc thẩm hay thậm chí là Toà án tối cao, nhưng hầu hết các vụ án liên bang đều chỉ được xét xử ở các tòa sơ thẩm Hoa Kỳ. Nếu xét về mặt số lượng tuyệt đối các vụ được xét xử, thì tòa án hạt là những con ngựa thồ của ngành tư pháp liên bang. Nhưng tầm quan trọng của nó không chỉ đơn thuần là số vụ được xét xử.

Trong quá trình phát triển của đất nước, nhiều tòa án hạt được thành lậ p. Và Quốc hội bắt đầu chia các bang thành nhiều hạt. Các bang California, New York, và Texas có bốn hạt mỗi bang, nhiều nhất so với các bang khác. Tổ chức khu vực hạt không còn theo đường ranh giới bang, mà việc chia hạt hầu như không theo một cơ sở nào cả. Diện tích và số dân của các hạt rất khác nhau. Qua nhiều năm, một tòa án hạt đã được thành lập cho Hạt Columbia, và một số khu vực lãnh thổ đã có tòa án hạt riêng. Hiện có đủ tòa án hạt ở 50 bang, Hạt Columbia, Guam, Puerto Rico, Quần đảo Virgin và Quần đảo Bắc Mariana.

Tòa án hạt với tư cách là tòa án sơ thẩm

Quốc hội đã xây dựng tòa án hạt làm cơ quan xét xử sơ thẩm của hệ thống tư pháp liên bang, và trao quyền tài phán sơ khởi cho chúng trong gần như tất cả các vụ việc. Tòa án hạt là tòa án liên bang duy nhất trong đó luật sư được làm việc và đối chất giữa những người làm chứng. Do đó, các ghi chép tình tiết được thực hiện tại giai đoạn này. Quá trình phúc thẩm chỉ tập trung vào việc sửa lỗi chứ không phải xây dựng lại tình tiết.

Nhiệm vụ xác định tình tiết vụ việc thuộc về bồi thẩm đoàn, bao gồm một nhóm công dân của cộng đồng, đóng vai trò làm người phân xử không thiên vị, và áp dụng luật cho tình tiết đó. Hiến pháp bảo vệ quyền của bồi thẩm trong các vụ hình sự theo Tu chính án Hiến pháp thứ sáu, và trong các vụ dân sự theo Tu chính án Hiến pháp thứ bảy. Tuy nhiên, quyền đó có thể bị từ chối, và trong trường hợp đó, thẩm phán sẽ trở thành người phân xử cả về tình tiết lẫn các vấn đề luật pháp. Trường hợp này gọi là thẩm phán sơ thẩm (bench trial).

Có hai loại bồi thẩm đi kèm với tòa án hạt liên bang. Đại bồi thẩm đoàn là một nhóm nam giới và nữ giới họp lại để xác định xem có thể có cơ sở tin rằng một người bị truy tố có phạm tội liên bang hay không. Các đại bồi thẩm họp định kỳ để nghe những lời buộc tội do chưởng lý Hoa Kỳ đưa ra. Ngược lại, tiểu bồi thẩm được chọn ngẫu nhiên trong cộng đồng để nghe các bằng chứng, và quyết định xem một người bị kiện trong một vụ sơ thẩm dân sự có phải chịu trách nhiệm pháp lý hay không, hoặc một bị can trong một vụ sơ thẩm hình sự có tội hay không có tội. Quy tắc liên bang yêu cầu trong các vụ hình sự phải có 12 bồi thẩm, nhưng số lượng bồi thẩm trong các vụ dân sự thường ít hơn. Các tòa án hạt liên bang thường có bồi thẩm đoàn sáu người trong các vụ dân sự.

Tòa án sơ thẩm được coi là tham gia chủ yếu vào việc cưỡng chế quy phạm, trong khi các tòa phúc thẩm được coi là có nhiều cơ hội trong việc lập chính sách. Cưỡng chế quy phạm gắn chặt với việc thực thi công lý, vì tất cả các nước đều phát triển các chuẩn mực căn bản để đạt được một xã hội công bằng và trật tự. Quy phạm xã hội được đưa vào trong các đạo luật, quy định hành pháp, tiền lệ án và truyền thống cộng đồng. Ví dụ, luật hình sự quy định thành luật các khái niệm về hành vi có thể chấp nhận và không thể chấp nhận. Một thẩm phán quyết định một vụ việc buộc tội vi phạm pháp luật tức là đã cưỡng chế quy phạm. Do các vụ việc loại này hiếm khi cho phép thẩm phán được vượt quá các giới hạn nghiêm khắc của yêu cầu pháp luật và yêu cầu thủ tục, nên các thẩm phán ít có cơ hội được tạo ra các quy định luật mới hoặc xây dựng chính sách mới. Trong các vụ dân sự cũng vậy, thẩm phán thường bị giới hạn trong việc cưỡng chế quy phạm, vì các vụ kiện thường phát sinh từ tranh chấp cá nhân, và hậu quả của nó chỉ liên quan đến các bên tham tụng.

 

  • Nghề luật ở Hoa Kỳ

Cũng giống như ở Anh, nghề luật ở nước Hoa Kỳ bao gồm luật sư, chuyên gia pháp lý của doanh nghiệp, chuyên gia pháp lý của các cơ quan hành chính, nghề dạy học ở các trường luật, thẩm phán, v.v.. Luật sư và thẩm phán hoạt động dưới sự kiểm soát của Toà án tối cao cấp Tiểu bang nơi họ hành nghề. Còn những người dạy học ở các trường luật và luật gia doanh nghiệp không chịu sự kiểm soát của toà án, những hầu như luôn luôn là thành viên của Đoàn luật sư của Tiểu bang nào đó, không nhất thiết là Tiểu bang nơi họ hành nghề.

Điều kiện trở thành luật sư (lawer) ở các Tiểu bang không giống nhau. Một người được thừa nhận là luật sư ở một Tiểu bang thì chỉ được hành nghề ở Tiểu bang đó, và trước toà án Liên bang. Mọi luật sư đều có thể được đăng ký và danh sách luật sư (và phải trả một khoản thuế không lớn lắm). Hiện nay, ở nhiều Tiểu bang, muốn hành nghề luật sư phải chấp nhận qua kỳ kiểm tra được tổ chức dưới sự kiểm soát của toà án. Ở ¾ số Tiểu bang ở nước Mỹ, có bằng đại học là điều kiện cần nhưng chưa đủ để trở thành luật sư.

Đa số các luật sư Hoa Kỳ hành nghề với danh nghĩa cá nhân (70%) hoặc liên kết với duy nhất một đồng nghiệp khác (15%). Tuy nhiên, ở những thành phố lớn, luật sư thường làm việc trong một văn phòng luật bao gồm khoảng từ 10 đến 200 luật sư. Một số ít luật sư theo chuyên ngành luật sư tranh tụng (trial lawer), tham gia hoạt động tố tụng trước phiên toà (hỏi cung và phản cung) trong các vụ án dân sự và hình sự. Một số khác theo chuyên ngành tương tự như luật sư công của Pháp (avoué). Còn lại đa số luật sư hoạt động ngoài lĩnh vực tranh tụng, thực hiện vai trò tương tự như công chứng viên, nhà tư vấn pháp luật, nhà tư vấn thuế. Rất nhiều luật sư được tuyển dụng tại các cơ quan hành chính, các doanh nghiệp Nhà nước hoặc tư nhân.

Ở Hoa Kỳ không có sự phân biệt giữa luật sư tư vấn và luật sư bào chữa. Thông thường họ được gọi là lawer, còn khi đi bào chữa được gọi là attorney[3].

Mỹ là một xã hội ưa kiện tụng nhất thế giới nên số lượng luật sư ở Mỹ rất lớn. Họ hoạt động nghề nghiệp trong khuôn khổ Đoàn luật sư (Bar Association). Có Đoàn luật sư ở cấp Tiểu bang và cấp Liên bang. Sự kiểm soát của Đoàn luật sư đối với luật sư Mỹ không chặt chẽ bằng sự kiểm soát của Inns of Court đối với luật sư bào chữa (barristers) hoặc Law Society đối với luật sư tư vấn (solicitors) ở Anh.

Cũng giống như ở Anh, các thẩm phán thường được chỉ định trong số các  luật sư thực hành nổi tiếng. Thẩm phán ở Mỹ có hai loại: thẩm phán cấp Liên bang và thẩm phán cấp Tiểu bang. Tương tự như thẩm phán ở Anh, thẩm phán cấp Liên bang ở Mỹ được chỉ định chức vụ suốt đời. Tổng thống Mỹ lựa chọn thẩm phán Liên bang trên cơ sở sự phê chuẩn của Nghị viện. Cũng có khi thẩm phán được lựa chọn trong số các giáo sư luật của các trường đại học lớn. Điều đó cho thấy: mối quan hệ giữa học thuyết và án lệ trong nguồn luật Mỹ có thể khác so với quan điểm của người Anh.

Trường luật ở Mỹ:

Sau khi học xong chương trình phổ thông, học sinh phải học 3-4 năm chương trình đại học đại cương để có văn hoá cơ bản, sau đó sẽ và trường luật để học một chương trình chủ yếu thiên về thực hành. Sau khi ra trường, sinh viên có khả năng hành nghề. Phương pháp dạy – học ở trường luật của Mỹ rất khác so với phương pháp của các trường ở Pháp và Anh. Sinh viên phải đọc tài liệu trước khi đến lớp (theo yêu cầu của giáo sư). Tài liệu bao gồm: các bản án (case method), văn bản pháp luật, học thuyết pháp lý (đoạn trích), một số bài viết về kinh tế và xã hội học (modified case method). Trong hầu hết các giờ học, người ta sử dụng phương pháp socrate, theo đó sinh viên làm việc theo nhóm dưới sự chỉ đạo của giáo sư, trình bày về những gì họ đã học, những vấn đề mà họ nhận thức được, những lợi ích mà các bên đang tranh chấp trong vụ việc. Về phía mình, giáo sư sẽ đặt câu hỏi cho các học viên, để làm cho họ phát hiện được mối quan hệ giữa vấn đề đang nghiên cứu và những vấn đề có liên quan. Giáo sư có thể thay đổi mộ số tình tiết của vụ việc để xem xem: liệu giải pháp có gì thay đổi? Trong khi mỗi  người đưa ra câu hỏi và trình bày ý kiến của mình, thì cả nhóm phải tham gia vào thảo luận dưới sự kiểm soát nghiêm túc của giáo sư. Đối với sinh viên năm thứ 3, người ta có thể áp dụng phương pháp thực hành trực tiếp (clinical method) theo đó một sinh viên tham gia tư vấn và đại diện cho khác hàng thực sự, trong khuôn khổ trợ giúp tư pháp, dưới sự kiểm soát của luật sư đồng thời là giáo sư. Ở Mỹ có xu hướng kết hợp giữa đào tạo lý thuyết với đào tạo nghề trong chương trình đại học luật. Cách đào tạo này khác so với châu Âu lục địa và Anh Quốc, theo đó các nước này thường đưa đào tạo luật vào chương trình đại học cơ bản. Ở châu Âu, sinh viên tốt nghiệp không đủ khả năng hành nghề ngay những người muốn hành nghề phải qua một khoá đào tạo nghề. Trong khi đó, sinh viên tốt nghiệp trường luật ở Mỹ chỉ cần qua thời gian tập sự ngắn là có thể làm việc được.

[1] Một số người gọi hệ thống pháp luậ này là hệ thống pháp luật Anh –  Mỹ. Cách gọi này không hoàn toàn chính xác, bởi vì hệ thống luật này không chỉ tồn tại ở Anh – Mỹ, mà còn tồn tại ở rất nhiều nước trên thế giới.

[2] Trừ Tiểu bang New Orleans (đến năn 1812 trở thàn Tiểu bang Louisiana). Còn các Tiểu bang Texas, Califonia chỉ chịu ảnh hưởng của pháp luật Pháp, Tây Ban Nha, Mexico ở một số chế định đặc thù (chề độ tài sản vợ chồng, chế độ ruộng đất).

[3] Từ attorney theo cách hiểu của người Mỹ không giống từ attorney theo cách hiểu của người Anh (xem mục a).

Liên hệ với chúng tôi:

CÔNG TY LUẬT TNHH UNILAW

Hotline: 0912266811