Hành trình Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN: Nhìn lại và đi tới
TCCS – Với mục tiêu xây dựng một cộng đồng các dân tộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) hài hòa, đoàn kết, đùm bọc và chia sẻ, hướng tới người dân, chăm lo về thể chất, phúc lợi, môi trường sống ngày càng tốt hơn của người dân và tạo dựng một bản sắc chung của khu vực, Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN (ASCC) có một vị trí đặc biệt quan trọng trong tiến trình xây dựng Cộng đồng ASEAN. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều việc cần làm sau khi Cộng đồng ASEAN được thành lập (năm 2015) để bảo đảm các mục tiêu, lợi ích cho người dân và duy trì kết quả tiến bộ toàn diện về văn hóa – xã hội của khu vực.
Những thành tựu và hạn chế trong thực hiện lộ trình xây dựng ASCC giai đoạn 2009 – 2015
Trong 7 năm qua kể từ khi Kế hoạch tổng thể Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN được thông qua (năm 2009), ASEAN đã đạt được nhiều mục tiêu mà ASCC đặt ra.
Thứ nhất, phát triển con người. ASEAN đã hướng ưu tiên vào giáo dục, tăng cường trao đổi sinh viên và học sinh, trao các chương trình học bổng trong ASEAN, tổ chức các chương trình giao lưu và thúc đẩy phát triển các nhà lãnh đạo trẻ trong ASEAN… ASEAN đã có nhiều đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực nhằm tăng cường kỹ năng cho người lao động; tổ chức các cuộc thi tay nghề trong ASEAN; thúc đẩy việc làm bền vững và tăng cường kỹ năng kinh doanh cho nhóm yếu thế và nâng cao năng lực dịch vụ dân sự. Tuyên bố ASEAN về phát triển nguồn nhân lực trong phục hồi kinh tế và phát triển được các nhà lãnh đạo ASEAN thông qua vào tháng 10-2010 tại Hà Nội trong dịp Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 17 đã khẳng định quyết tâm nâng cao năng lực và kỹ năng cho người dân ASEAN, xây dựng một nguồn nhân lực ASEAN cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, tăng an sinh và bảo trợ xã hội. ASEAN đã nỗ lực xây dựng và phát triển mạng lưới an sinh xã hội và bảo trợ xã hội, giúp người dân tránh được phần nào những ảnh hưởng tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập khu vực, thế giới; tăng cường an ninh và an toàn lương thực với việc thông qua Khung An ninh lương thực hợp nhất ASEAN năm 2009, Kế hoạch tăng cường an ninh lương thực II năm 2011 và Khung Chiến lược ASEAN về phát triển y tế giai đoạn 2011 – 2015. ASEAN đã có nhiều nỗ lực hướng tới một ASEAN không có ma túy thông qua Kế hoạch công tác của ASEAN chống lại việc sản xuất, buôn bán và sử dụng chất ma túy giai đoạn 2009 – 2015…
Thứ ba, thúc đẩy bình đẳng xã hội và các quyền. ASEAN thúc đẩy bình đẳng xã hội và lồng ghép quyền của người dân vào chính sách, bao gồm quyền và phúc lợi của các nhóm bị thiệt thòi, dễ bị tổn thương, như phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi, người khuyết tật và lao động di cư. ASEAN đã thành lập Ủy ban ASEAN về thúc đẩy và bảo vệ quyền của phụ nữ và trẻ em; thiết lập mạng lưới ASEAN về ngăn ngừa bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em; thực hiện chương trình về bảo vệ, phát triển và nuôi dưỡng trẻ em phù hợp với Công ước về quyền trẻ em; thiết lập mạng lưới những người làm công tác xã hội ASEAN vào năm 2013; tổ chức các chương trình xây dựng năng lực khu vực về dịch vụ xã hội và phục hồi chức năng cho người khuyết tật. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 23 (tại Bru-nây, tháng 10-2013), ASEAN đã ra Tuyên bố về xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em nhằm thúc đẩy các quyền của phụ nữ và trẻ em, bảo vệ phụ nữ và trẻ em khỏi mọi hình thức bạo lực trong khu vực với nhiều biện pháp quan trọng.
Bên cạnh đó, ASEAN còn ra Tuyên bố ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của lao động di cư, nhằm bảo đảm chính sách di cư công bằng và toàn diện, bảo vệ tất cả lao động di cư phù hợp với luật. ASEAN cũng đã triển khai hoạt động của Ủy ban ASEAN về Thực hiện Tuyên bố ASEAN về bảo vệ và thúc đẩy quyền của lao động di cư; Đẩy mạnh nỗ lực bảo vệ các quyền con người cơ bản, thúc đẩy lợi ích và giữ gìn phẩm giá con người của lao động di cư qua việc hỗ trợ chức năng lãnh sự của cơ quan lãnh sự hoặc ngoại giao, khi có lao động di cư bị bắt, bị tù hoặc bị giam giữ dưới bất kỳ cách thức nào theo luật và quy định của nước tiếp nhận lao động và theo Công ước Viên và quan hệ lãnh sự.
Thứ tư, bảo đảm môi trường bền vững, quản lý thiên tai. Là khu vực bị ảnh hưởng nhiều nhất của biến đổi khí hậu trên thế giới, ASEAN đã nỗ lực trong việc giúp các quốc gia thành viên nâng cao năng lực thích ứng trước những thiên tai và xây dựng cộng đồng an toàn hơn. ASEAN đã triển khai Kế hoạch hành động về ứng phó với biến đổi khí hậu (do Việt Nam chủ trì dự thảo); thực hiện Kế hoạch chiến lược ASEAN về quản lý tài nguyên nước; hợp tác bảo tồn đa dạng sinh học thông qua Trung tâm Đa dạng sinh học ASEAN; hợp tác bảo vệ rừng…
ASEAN đã triển khai Chương trình làm việc giai đoạn 2010 – 2015 và triển khai Hiệp định ASEAN về ứng phó khẩn cấp và quản lý thiên tai (ký năm 2005, có hiệu lực năm 2009), trong đó Chương trình làm việc giai đoạn 2010 – 2015 đã kết thúc với 35 dự án/hoạt động ưu tiên, đạt kết quả tích cực. Trong quản lý thiên tai, hoạt động nổi bật được ghi nhận là ASEAN đã thành lập Trung tâm Điều phối hỗ trợ nhân đạo (AHA) năm 2011 nhằm điều phối hoạt động và cung cấp hỗ trợ kỹ thuật. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 23, lãnh đạo các nước ASEAN đã thông qua Tuyên bố về Tăng cường hợp tác quản lý thiên tai trong ASEAN, thể hiện sự quan tâm và cam kết cao của các nhà lãnh đạo trong lĩnh vực này, tạo nền tảng để gia tăng nỗ lực hợp tác hiệu quả hơn, thống nhất, sâu rộng hơn trong ASEAN.
Thứ năm, xây dựng bản sắc ASEAN. Đây là một trong những lĩnh vực trọng tâm của ASEAN nhằm xây dựng ASCC với một Cộng đồng ASEAN đa dạng trong thống nhất. Các nước thành viên đã nỗ lực thúc đẩy nhận thức và ý thức về Cộng đồng ASEAN thông qua việc xuất bản các ấn phẩm; phát hành các bản tin trên các phương tiện thông tin đại chúng về ASEAN; thực hiện Chương trình ASEAN trong các chương trình tin tức truyền hình ASEAN; nâng cao nhận thức của ASEAN trong các trường học; tổ chức chương trình thi tìm hiểu về ASEAN; bảo tồn và thúc đẩy di sản văn hóa ASEAN với các chương trình biểu diễn, giao lưu văn hóa nghệ thuật…; thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng để xây dựng bản sắc ASEAN và một ASEAN hướng vào người dân. ASEAN cũng đã thống nhất thành lập Ban Thông tin ASEAN quốc gia ở mỗi nước nhằm đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, quảng bá về ASEAN đến mọi người dân ở mỗi nước trong khu vực.
Thứ sáu, thu hẹp khoảng cách phát triển. Các nước thành viên ASEAN đều tăng cường hợp tác để giảm khoảng cách phát triển, đặc biệt về khía cạnh kinh tế và xã hội. Biên bản ghi nhớ giữa ASEAN và Ủy hội sông Mê Công ký năm 2010 nhằm hỗ trợ Cam-pu-chia, Lào và Việt Nam xây dựng kế hoạch phát triển lưu vực sông Mê Công, thực hiện các chương trình và dự án nâng cao năng lực và hỗ trợ cho các nước kém phát triển hơn.
Việc thực hiện Kế hoạch tổng thể ASCC được triển khai tích cực, trong đó hầu hết các dòng hành động đã được thực hiện thông qua việc tiến hành các hoạt động khác nhau của các cơ quan chuyên ngành ASEAN. Một số hợp tác mang tính chương trình và liên ngành. Hệ thống quản trị nhà nước trở nên năng động và có trách nhiệm giải trình hơn. ASCC đã mang đến một Cộng đồng, trong đó các thành viên gần với nhau hơn, sẵn sàng hành động, với sự điều phối và hỗ trợ lẫn nhau tốt hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của ASCC vẫn còn có một số hạn chế nhất định.
Một là, các dòng hành động đã được thực hiện mới dừng lại ở mức độ hoàn thành hoạt động, còn chất lượng của hoạt động đó chưa được đánh giá sâu.
Hai là, khoảng cách giữa các nước về trình độ phát triển kinh tế cũng như sự khác nhau trong các ưu tiên của chính sách quốc gia vẫn tồn tại.
Ba là, nhận thức về Cộng đồng ASEAN nói chung và ASCC nói riêng chưa đầy đủ, đặc biệt là về các mục tiêu và Kế hoạch tổng thể ASCC.
Bốn là, những gắn kết của Kế hoạch tổng thể đối với các mục tiêu và chương trình phát triển kinh tế – xã hội của các quốc gia thành viên chưa được tốt. Các biện pháp phù hợp để thực hiện các cam kết và các ưu tiên đã được xác định trong Kế hoạch tổng thể ASCC chưa đủ mạnh, công tác kiểm tra, giám sát để bảo đảm tính thực thi hiệu quả các thoả thuận chưa được tăng cường.
Năm là, các quốc gia thành viên ASEAN vẫn thiếu khung pháp lý, kiện toàn hệ thống pháp luật trên cơ sở lấy con người làm trung tâm, bảo đảm hệ thống pháp luật quốc gia hài hòa và tương thích với các chuẩn mực luật pháp quốc tế.
Sáu là, các quốc gia thành viên ASEAN chưa dành đủ thời gian và nguồn lực thích hợp cho việc tham vấn liên ngành trong nước cũng như tham vấn trong từng bộ, ngành; trao đổi thông tin và bài học kinh nghiệm về lồng ghép và triển khai Kế hoạch tổng thể ASCC giai đoạn 2009 – 2015.
Những định hướng chiến lược để xây dựng ASCC đến năm 2025
Để thực hiện mục tiêu xây dựng ASCC, trong Tầm nhìn đến năm 2025, các nước ASEAN xác định cần triển khai theo 5 định hướng: 1- Tăng cường sự tham gia và trách nhiệm xã hội của các dân tộc trong ASEAN nhằm gắn kết và mang lại lợi ích cho người dân. 2- Xây dựng một tập hợp các dân tộc hòa hợp, chất lượng cuộc sống được cải thiện, không còn các rào cản đối với việc hưởng các quyền tiếp cận với cơ hội bình đẳng cho tất cả người dân ASEAN. 3- Bảo đảm một môi trường tự nhiên bền vững trong bối cảnh có nhiều thay đổi xã hội và phát triển kinh tế, thúc đẩy cân bằng giữa phát triển xã hội và bảo vệ môi trường tự nhiên bền vững, đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai của người dân. 4- Tăng cường năng lực ứng phó và thích ứng chung của các nước thành viên với những thách thức hiện tại và các xu hướng mới nổi. 5- Tăng cường khả năng liên tục đổi mới và trở thành một thành viên tích cực của cộng đồng toàn cầu.
Có thể thấy, trong bối cảnh mới sau khi Cộng đồng đi vào hoạt động, quá trình triển khai Tầm nhìn đến năm 2025 có nhiều cơ sở thuận lợi: Thứ nhất, ASEAN là một tập hợp các quốc gia đa văn hóa, đa sắc tộc, do đó các hợp tác văn hóa và xã hội rất được các nước ASEAN quan tâm. Ngay từ khi thành lập, ASEAN đã chú trọng tăng cường các hoạt động giao lưu văn hóa, nâng cao hiểu biết về các nền văn hóa trong ASEAN và ngoài khu vực. Thứ hai, ASEAN rất chú trọng việc xây dựng một bản sắc riêng của khu vực: bản sắc ASEAN. Thứ ba, để đạt được những mục tiêu đề ra, các nước ASEAN đã có được các cơ chế, bộ máy vận hành tương đối tốt và không ngừng được hoàn thiện để thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác chuyên sâu do các ủy ban chuyên ngành phụ trách, ví dụ Ủy ban về hoạt động văn hóa – xã hội, Ủy ban về thông tin đại chúng… Thứ tư, các lĩnh vực hợp tác văn hóa – xã hội giữa các quốc gia ASEAN được tiến hành theo chiều dọc và làm rõ chi tiết, nhờ vậy việc triển khai rất cụ thể, chẳng hạn hợp tác về phát thanh – truyền hình và phim – video; hợp tác về in ấn và thông tin công cộng; hợp tác về văn học và nghiên cứu ASEAN; hợp tác bảo tồn di sản văn hóa… Thứ năm, trong quá trình tăng cường liên kết và đẩy mạnh hợp tác, ASEAN tiếp tục phát huy chủ trương giải quyết mọi khác biệt trên tinh thần “Phương cách ASEAN” đề cao đoàn kết, tham vấn và đồng thuận. Một vấn đề xảy ra ở khu vực, dù có tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các nước thành viên, vẫn luôn được cả 10 nước cùng quan tâm, trao đổi để tìm ra giải pháp chung. Thực tế cho thấy, các vấn đề từ phát triển bền vững, bảo vệ và sử dụng hiệu quả nguồn nước sông Mê Công đến giảm ô nhiễm khói mù xuyên biên giới… đã trở thành chủ đề được cả Hiệp hội cùng chia sẻ, đề ra hướng giải quyết phù hợp. Thứ sáu, các chương trình hợp tác kinh tế tạo nền tảng tốt cho những bước tiến xa hơn trong tiến trình hội nhập văn hóa và xã hội. Các tranh chấp song phương và đa phương giữa các nước thành viên đã được giải quyết phần nào và các quy tắc ứng xử được trải nghiệm trong thực tế phát triển của Hiệp hội là những cơ sở vững chắc tiến tới các xã hội đùm bọc nhau. Thứ bảy, đã đạt một số thành quả ban đầu, như xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của Cộng đồng; xây dựng lộ trình và xác định các giai đoạn ưu tiên để thực hiện các kế hoạch; xây dựng các chương trình và giải pháp để giải quyết nhiều vấn đề chính thuộc lĩnh vực của cộng đồng, như lao động, y tế, giáo dục, môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và hỗ trợ nhân đạo, thúc đẩy bảo vệ quyền của người lao động di cư, của phụ nữ và trẻ em trong ASEAN…
Bên cạnh những thuận lợi, lộ trình xây dựng ASCC cũng phải đối phó với nhiều khó khăn. Thứ nhất, khoảng cách phát triển là khó khăn lớn nhất để hiện thực hóa ASCC. Thứ hai, bản chất của ASEAN là một tổ chức liên chính phủ, không phải siêu chính phủ, trong khi đó không có một cơ chế, một luật định nào có thể áp chế các xã hội ASEAN. Thứ ba, nguyên tắc không can thiệp là khó khăn rất lớn cho việc thúc đẩy các xã hội hòa nhập. Thứ tư, người dân, chủ thể chính của Cộng đồng còn có những hạn chế trong hiểu biết về Cộng đồng. Thứ năm, từ góc độ chuyên ngành, ASCC đang phải đối mặt với những khó khăn trong nâng cao chất lượng giáo dục, khả năng sáng tạo và ứng dụng khoa học – công nghệ hiện đại, nỗ lực giảm đói nghèo, bảo đảm sự bền vững của môi trường, xây dựng bản sắc ASEAN và thu hẹp khoảng cách phát triển. Phần lớn các nước thành viên ASEAN đang gặp khó khăn lớn trong các nỗ lực “tăng cường và ưu tiên cho giáo dục”, ngân sách dành cho giáo dục thấp, ngoại trừ một số nước có nền giáo dục tiên tiến, như Xin-ga-po, Thái Lan và Ma-lai-xi-a.
Bản thân các nước thành viên ASEAN đều nhận thấy những thách thức không nhỏ ở phía trước. Một là, sự khác biệt về chế độ chính trị và hệ tư tưởng giữa các nước ASEAN là một trở ngại không dễ vượt qua. Điều này có thể tạo ra phân cực chính trị hay duy trì tình trạng lỏng lẻo trong liên kết các xã hội ASEAN. Hai là, sự tồn tại nhiều cấp độ dân chủ và sự quá đa dạng về tôn giáo, sắc tộc sẽ ít nhiều cản trở liên kết văn hóa – xã hội trong ASEAN. Ba là, quá trình di chuyển lao động sẽ tạo ra sự thay đổi về cơ cấu dân cư, dân số, cơ cấu phân bổ lao động, việc làm, dẫn đến những chi phí xã hội và chi phí kinh tế cao cho các quốc gia. Bốn là, môi trường bị xuống cấp do thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Biến đổi môi trường và khí hậu dễ dẫn đến sự phát sinh các loại bệnh dịch nguy hiểm mới. Những thách thức liên quan đến môi trường ở các nước ASEAN còn thể hiện ở chỗ tỷ lệ bao phủ của rừng giảm sút (do bị chặt phá, đốt hoặc cháy), sự gia tăng về dân số, sự tăng lên nhanh chóng của dân cư thành thị, việc sử dụng thuốc trừ sâu và bảo vệ thực vật tràn lan ở một số nước thành viên cùng việc sử dụng công nghệ lạc hậu (trong ngành công nghiệp) phổ biến ở nhiều nước thành viên ASEAN đang là những thách thức lớn đối với nỗ lực “bảo đảm sự bền vững của môi trường” như đã được vạch ra trong Kế hoạch chi tiết ASCC. Năm là, sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông, tác động vừa tích cực nhưng cũng có mặt tiêu cực đến nội dung của giáo dục. Sáu là, sự giao thoa các nền văn hóa có thể làm thay đổi giá trị gia đình, thay đổi thái độ ứng xử với xã hội… Bảy là, tính chất hai mặt trong giao lưu văn hóa, toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa, một mặt tạo điều kiện cho các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau, qua đó tăng thêm sự hiểu biết đối với các nền văn hóa khác nhau; mặt khác, cũng tạo nên nguy cơ về sự đồng nhất hóa các hệ thống giá trị, đe dọa làm suy kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hóa. Tám là, trong ASEAN vẫn tiềm ẩn các nguy cơ xung đột sắc tộc, tôn giáo, lãnh thổ, lãnh hải và nạn khủng bố. Kế hoạch tổng thể ASCC chủ yếu tập trung vào các chương trình giáo dục nâng cao nhận thức và hiểu biết về sự đa dạng về văn hóa, lịch sử, thể chế… của các quốc gia ASEAN. Trong khi đó, bản sắc chung ASEAN vẫn chưa được xây dựng thành khái niệm rõ ràng. Vì vậy, trong mục tiêu “hòa nhập trong đa dạng” của ASCC thì mặt “đa dạng” vẫn rõ nét hơn mặt “hòa nhập”.
Với những thuận lợi, khó khăn và thách thức đã nêu, có thể thấy trong 10 năm tới, xu thế phát triển của ASCC có thể diễn ra theo các kịch bản sau đây: 1- ASCC sẽ đạt được Tầm nhìn đến năm 2025 và tất cả các mục tiêu đề ra. Khả năng diễn ra kịch bản này không cao, thiếu tính hiện thực bởi ASEAN đề ra rất nhiều mục tiêu trong khi thiếu nguồn lực và chưa có ưu tiên trọng lực để thực hiện. 2- ASCC chỉ đạt được rất ít mục tiêu, không thực sự hiệu quả, thậm chí mang tính hình thức. Khả năng này ít xảy ra vì các nhà lãnh đạo ASEAN bày tỏ quyết tâm để các cam kết của họ có kết quả và phải giữ hình ảnh của ASEAN. 3- Khả năng hiện thực nhất là ASEAN thực hiện được hơn một nửa số mục tiêu đề ra, thay đổi từng bước bộ mặt của Cộng đồng, tính liên kết giữa các thành viên sẽ dần đi vào chiều sâu./.
Nguyễn Thị Thu Hoài