Khám phá vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội

Khám phá vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội

 

Là trung tâm kinh tế – chính trị – văn hóa – xã hội của đất nước, Hà Nội mang trong mình những nét đẹp của một thành phố năng động thời hiện đại, nhưng ẩn chứa trong nó vẫn là hình dáng của một thành phố ngàn năm văn hiến với những nét đẹp cổ kính sống mãi cùng thời gian. Nếu bạn có dịp đến thăm Hà Nội thì đây là những địa điểm mà bạn không nên bỏ lỡ trong thời gian ở đây.
 

 
1. Hồ Hoàn Kiếm

 
Đẹp như một lẵng hoa giữa lòng thành phố, hồ Hoàn Kiếm được bao quanh bởi các đường phố Đinh Tiên Hoàng, Lê Thái Tổ, Hàng Khay. Ba con phố này dài khoảng 1.800m. Mặt nước hồ là tấm gương lớn soi bóng la đà những cây cổ thụ, những rặng liễu thướt tha tóc rủ, những mái đền, chùa cổ kính, tháp cũ rêu phong, các toà nhà mới cao tầng vươn lên trời xanh.
 
Trước đây hồ có tên là Lục Thủy vì sắc nước bốn mùa xanh trong. Thế kỉ XV, hồ Lục Thủy đổi tên là hồ Hoàn Kiếm (trả gươm), gọi tắt là hồ Gươm. Cái tên Hoàn Kiếm gắn liền với câu chuyện trả gươm cho rùa vàng của vua Lê Thái Tổ.
 

 

Hồ Hoàn Kiếm – Ảnh: news.zing.vn 


Rùa là một trong bốn vật linh (Long, ly, quy, phượng) trong tâm thức văn hoá dân gian. Giống rùa quý này vẫn còn sinh sống trong lòng hồ, hằng năm có đôi lần nhô lên mặt nước. Thật hạnh phúc cho du khách nào nhìn thấy rùa nổi trên mặt hồ.Trong hồ có hai đảo nổi. Đảo lớn là đảo Ngọc ở phía bắc hồ, gần bờ đông, có cầu Thê Húc sắc đỏ uốn cong nối ra đảo. Đảo Rùa nhỏ hơn, trên có ngọn tháp cổ ở phía nam hồ, giữa bốn bề lung linh bóng nước.Hồ Hoàn Kiếm là nơi hội tụ, điểm hẹn của du khách bốn mùa:
 

Mùa xuân đậm đà lễ hội truyền thống và rực rỡ sắc hoa đào.
Mùa hạ ùa ra từng cơn gió lồng lộng, quạt đi cái oi bức của phố phường râm ran tiếng ve.
Mùa thu với màn sương huyền ảo, dáng liễu mơ hồ như thực, như hư.
Mùa đông, lá vàng trải thảm, những giọt mưa phùn bay lất phất mang theo hơi lạnh.

 

 
2. Đền Ngọc Sơn

 
Đền được xây dựng trên đảo Ngọc, trong hồ Hoàn Kiếm cùng với Tháp Bút, Đài Nghiên, cầu Thê Húc (cầu đậu nắng ban mai), lầu Đắc Nguyệt (lầu được trăng), đình Trấn Ba (đình chắn sóng) và đền chính hợp thành cụm di tích lịch sử kiến trúc – nghệ thuật và danh lam, thắng cảnh tiêu biểu của thủ đô.
 
Đảo Ngọc Sơn xưa được gọi là Tượng Nhĩ (tai voi), vua Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long đặt tên là Ngọc Tượng, đến thời Trần đổi thành Ngọc Sơn. Truyền thuyết kể rằng, ở gò trong hồ đá, có các tiên nữ thường về đây múa hát. Thời vua Lê, Chúa Trịnh xây cung Khánh Thụy ở Ngọc Sơn làm nơi vui chơi. Cuối thời Lê, xây chùa Ngọc Sơn thờ Phật. Đến thời Nguyễn, chuyển thành đền thờ Văn Xương – Đế Quân, rồi lại phối thờ Lã Động Tân, Quan Đế (tức Quan Vân Trường), phật A Di Đà và đặc biệt là tướng quân Trần Hưng Đạo. Điều này thể hiện quan niệm Tam giáo đồng nguyên của người Việt.
 
Năm Tự Đức thứ mười tám (1865), nhà nho Nguyễn Văn Siêu đứng ra tu bổ lại đền. Đền mới sửa đắp thêm đất và xây kè đá chung quanh, xây đình Trấn Ba, bắc một cầu từ bờ đông đi vào gọi là cầu Thê Húc.
 
Trên núi Độc Tôn cũ, ông cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông, thân tháp có khắc ba chữ “Tả Thanh Thiên” (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút. Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là Đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội. Trên nghiên có khắc một bài minh nói về công dụng của cái nghiên mực xét về phương diện triết học. Người đời sau ca ngợi là: Nhất đài Phương Đình bút.

 
Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những người thi đỗ, khiến cho các sĩ tử đi qua càng gắng công học hành.
 
Tên cầu Thê Húc nghĩa là giữ lại ánh sáng đẹp của mặt trời. Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, còn gọi là Đắc Nguyệt Lâu (lầu được trăng) dưới bóng cây đa cổ thụ, ở giữa một vùng cây cối um tùm, trông như từ dưới nước nhô lên.
 
Đền chính gồm hai ngôi nối liền nhau, ngôi đền thứ nhất về phía bắc thờ Trần Hưng Đạo và Văn Xương. Tượng đặt ở hậu cung trên bệ đá cao khoảng 1m, hai bên có hai cầu thang bằng đá. Tượng Văn Xương đứng, tay cầm bút. Phía nam có đình Trấn Ba (đình chắn sóng – ngụ ý là cột trụ đứng vững giữa làn sóng không lành mạnh trong nền văn hoá đương thời). Đình hình vuông có tám mái, mái hai tầng có tám cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ.
 
Tuy là một ngôi đền kiến trúc mới, song đền Ngọc Sơn là một điển hình về không gian và tạo tác kiến trúc. Sự kết hợp giữa đền và hồ đã tạo thành một tổng thể kiến trúc Thiên – Nhân hợp nhất, tạo vẻ đẹp cổ kính, hài hoà, đăng đối cho đền và hồ, gợi nên những cảm giác chan hoà giữa con người và thiên nhiên. Đền và hồ đã trở thành những chứng tích gợi lại những hoài niệm về lịch sử dân tộc, thức tỉnh niềm tự hào chính đáng, lòng yêu nước, cũng như tâm linh, ý thức mỗi người Việt Nam trước sự trường tồn của dân tộc.
 

3.Tháp Hòa Phong

 
Tháp đứng trên vỉa hè bên phía hồ Hoàn Kiếm đối diện với Trung tâm Ngoại vụ Bưu điện Hà Nội qua trục đường Đinh Tiên Hoàng.
 
Đây là di vật còn sót lại của chùa Báo Ân, còn gọi là chùa Quan Thượng, một quần thể kiến trúc Phật giáo nổi tiếng một thời. Nguyên là vào giữa thế kỷ XIX ở chỗ này và toàn thể khu vực trung tâm Bưu điện có một ngôi chùa lớn. Khuôn viên hình tám cạnh gồm hai chục nếp nhà, nhà thờ Phật, nhà thờ Mẫu, nhà in Kinh, nhà cho các sư ở, cả thảy trên một trăm gian, bên trong trang trí rất tráng lệ. Ngoài chùa là hồ sen.
 
Trước cửa chùa là ngọn tháp Hoà Phong. Chùa được xây dựng vào năm 1846 theo sáng kiến của Quan Thượng (chức quan đứng đầu tỉnh Hà Nội) Nguyễn Đăng Giai.
 
 

Tháp Hòa Phong – Ảnh: news.zing.vn


Năm 1898, cùng với đà mở mang xây dựng đường phố mới, chùa bị phá hủy, chỉ còn ngọn tháp Hòa Phong. Đây là một loại tháp hiếm có ở Hà Nội, thuộc loại tháp bốn cửa, biến dạng của Stupa (một loại hình tháp của Phật giáo Ấn Độ). Bốn mặt tầng hai có hình bát quái. Bát quái ban đầu là công cụ chỉ phương hướng, theo vũ trụ quan Trung Hoa. Tháp Hòa Phong là tổng hợp những quan niệm về vũ trụ của Phật giáo.
 

4. Chùa Một Cột

 
Là một cụm kiến trúc gồm ngôi chùa và tòa đài xây dựng giữa hồ vuông. Cả cụm có tên là đài Liên Hoa. Đài này lâu nay quen gọi là chùa Một Cột, hình vuông, mỗi bề 3m, mái cong, dựng trên cột đá hình trụ. Cột có đường kính 1,20m; cao 4m (chưa kể phần chìm dưới đất) đỡ một hệ thống những thanh gỗ tạo thành bộ khung sườn kiên cố đỡ cho ngôi đài dựng bên trên khác nào một đóa hoa sen vươn thẳng trên khu ao hình vuông có lan can bằng gạch bao quanh. Từ bên ngoài có lối nhỏ bằng gạch đi qua ao đến một chiếc thang xinh xắn dẫn lên Phật đài. Trên cửa Phật đài có biển đề “Liên Hoa đài” (Đài hoa sen) ghi nhớ sự tích nằm mộng của vua Lý dẫn tới việc xây chùa.

 

 

 

Chùa Một Cột – Ảnh: pbase.com


Sử chép “Lý Thái Tông (1028 – 1054) chiêm bao thấy Phật Quan Âm ngồi trên tòa sen, vua cũng được dắt lên đó. Khi tỉnh giấc vua đem việc ấy hỏi các quan. Có người khuyên vua làm chùa, dựng cột đá ở giữa ao, làm toà sen của Phật đặt trên cột như đã thấy trong mộng. Cho các sư chạy đàn, tụng kinh cầu cho vua sống lâu, vì thế gọi là chùa Diên Hựu (kéo dài cõi phúc)”.
 
Việc dựng chùa và đài hoa sen tiến hành vào năm 1049. Chưa rõ ngôi chùa như thế nào, chứ qui mô Liên Hoa Đài thì một tấm bia cổ ngay từ đời Lý đã ghi “…Đào hồ Linh Chiếu, giữa hồ vọt lên một cột đá đỉnh cột nở đóa hoa sen nghìn cánh, trên sen dựng tòa điện màu xanh. Trong điện đặt pho tượng Quan Âm. Vòng quanh hồ là dãy hành lang. Lại đào ao Bích Trì, mỗi bên đều bắc cầu vòng để đi qua. Phía sân cầu đằng trước, hai bên tả hữu xây tháp lưu ly” (Bia chùa Đọi ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam).
 
Như vậy, Liên Hoa Đài thời Lý lớn hơn ngày nay nhiều, cả những bộ phận hợp thành và hình dáng cũng phong phú hơn.
 
Trong thực tế, cụm chùa Một Cột đã qua nhiều lần sửa chữa. Ngày 11-9-1954, trước khi rút khỏi Hà Nội tạm chiếm, quân đội thực dân Pháp đã cho nổ mìn phá huỷ Liên Hoa Đài.
 

5. Thành cổ Hà Nội (Hoàng thành Thăng Long)

 
Thành cổ xưa nằm trong một khuôn viên khá rộng, phía tây giáp phường Hoàng Diệu, phía đông giáp đường Nguyễn Tri Phương, phía nam giáp đường Trần Phú, phía bắc giới hạn bởi phố Phan Đình Phùng, thuộc quận Ba Đình.
 
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, toà thành được xây dựng và mở rộng ở các vương triều sau. Thành Thăng Long được qui hoạch kiểu “Tam trùng thành quách” với ba vòng thành lồng nhau. Cấm thành, hay Long Phượng thành thời Lý – Trần ở trong cùng, là khu vực hoàng cung. Hoàng thành ở giữa bọc lấy khu kinh tế thị dân ở phía đông. Ngoài cùng là dải La thành hay Đại La thành. Năm 1805, nhà Nguyễn xây thành Hà Nội đã giữ lại khu vực Cấm thành làm hành cung cho vua ở mỗi khi tuần du phía bắc. Thời Pháp, khi phá thành Hà Nội, nguời Pháp cũng giữ lại khu này làm chỉ huy sở của quân đội.
 
Năm công trình kiến trúc cổ còn sót lại sau khi Pháp phá thành Hà nội, tính từ phía nam lên bắc gồm các hạng mục sau: Cột cờ, cửa Đoan Môn, nền điện Kính Thiên, Hậu Lâu và cửa chính Bắc Môn.
 

 

Hoàng Thành Thăng Long vào đêm – Ảnh: Internet


Cửa Đoan Môn là toà duy nhất còn được giữ lại trong tổng thể, bao gồm một vọng lầu có hai tầng, lầu trên tám mái, dưới gồm một lối vào mở năm cửa lớn. Phía trên cổng chính, mặt nam còn hàng chữ “Đoan Môn”. Hiện nay Đoan Môn còn tương đối nguyên vẹn.
 
Điện Kính Thiên, điện bị phá năm 1886 để làm toà nhà ban chỉ huy pháo binh (quân đội Pháp). Hiện chỉ còn lại những bậc thềm đá với hai hàng lan can rồng đá ở giữa, hai hàng lan can đá chạm khắc hai bên ở phía nam, phía bắc cũng có một bậc thềm trang trí rồng đá. Tam cấp ở điện Kính Thiên ở mặt nam có tất cả 10 bậc, mặt bắc có bảy bậc do những viên đá lớn ghép lại.
 
Hậu Lâu, còn gọi là Lầu công chúa, xây bằng gạch, phía dưới hình hộp, trên là công trình kiến trúc ba tầng. Lầu dưới có ba tầng mái, lầu trên là hai tầng mái.
 
Bắc Môn, có dạng hình thang mà hai bên là hình tam giác, lòng hình vòm cuốn xây bằng gạch, mép cửa kè đá hình chữ nhật, diềm trên bằng đá trang trí nền cánh sen. Phía bắc cửa có tấm biển đá viết chữ Hán “Chính Bắc Môn”. Bên cạnh phía phải cũng gắn một tấm biển đá khắc ngày 25-4-1882 và hai vết đạn đại bác – dấu vết của cuộc chiến tranh với Pháp. Cửa thành vẫn còn, Vọng Lâu ở trên nền cổng thành đã bị phá. Thành phố đã làm lại Vọng Lâu để khôi phục lại vẻ đường bệ, chững chạc vốn có của nó.
 
Năm điểm di tích trên tuy quy mô kiến trúc không lớn, song cùng với những di tích còn nằm lại dưới lòng đất minh chứng về một trung tâm chính trị, kinh đô của đất nước suốt gần nghìn năm lịch sử.
 
Ở phía nam thành cổ Hà Nội, còn lưu lại một phần kiến trúc của trường đại học đầu tiên ở Việt Nam: Văn Miếu – Quốc Tử Giám khởi dựng vào đầu thế kỉ XI dưới thời nhà Lý.
 

6. Cột Cờ

 
Cột cờ là một trong những công trình kiến trúc thuộc khu vực thành cổ Hà Nội còn nguyên vẹn. Cột cờ nằm trong khuôn viên Bảo tàng Quân đội, đường Điện Biên Phủ, phường Điện Biên, quận Ba Đình.
 

 

Cột Cờ Hà Nội – Ảnh: mytour.vn


Xây dựng năm 1812 dưới triều vua Gia Long, cột cờ gồm ba tầng bệ, thân cột và hệ thống cầu thang xoáy bên trong. Ba tầng dưới là ba khối vuông xây chồng lên nhau từ to đến nhỏ, trên cùng là thân cột cao chừng 20 m, hình lục lăng, có trổ các cửa hoa nhỏ để tạo không khí và ánh sáng cho bên trong. Đỉnh cột hình bát giác, có trụ để cắm cờ, trèo lên đỉnh cao nhất sẽ bao quát được toàn bộ khu vực xung quanh.
 

7. Hồ Trúc Bạch

 
Hồ Trúc Bạch cách Hồ Tây bởi con đường Thanh Niên. Đường Thanh Niên có từ năm 1957 – 1958 theo ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau khi hồ được thanh niên học sinh Hà Nội lao động trong những ngày thứ bảy cộng sản mở rộng như ngày nay. Trước gọi là đường Cổ Ngư, hình thành từ một con đê hẹp được đắp ngăn một góc Hồ Tây.
 
Hồ Trúc Bạch có từ thế kỉ XVII khi dân hai làng Yên Hoa (nay là Yên Phụ) và Yên Quang (nay là phố Quán Thánh) đắp con đê ngăn góc đông nam Hồ Tây để nuôi bắt cá. Từ khi thành một hồ biệt lập, hồ đã đi vào thư tịch cổ. Sách “Tây Hồ chí” cho biết nguyên ở phía nam hồ có làng Trúc Yên, có nghề làm mành, do đó nhà nào cũng trồng trúc, trúc mọc như rừng. Thời chúa Trịnh Giang (1729 – 1740) xây ở đây một cung điện gọi là Viện Trúc Lâm. Về sau, viện trở thành nơi giam cầm những cung nữ có lỗi, phải dệt lụa để mưu sinh. Lụa đẹp, bóng bẩy, nổi tiếng khắp kinh thành, gọi là lụa làng Trúc.

 

Hoàng hôn trên hồ Trúc Bạch – Ảnh: dulich24.com.vn

 

Ven hồ Trúc Bạch có nhiều di tích lịch sử và công trình kiến trúc đặc sắc như đền Quán Thánh ở ngay góc tây nam hồ. Phía đông có chùa Châu Long (phố Châu Long), tương truyền xây từ thời Trần, là nơi tu hành của công chúa con vua Trần Nhân Tông. Có đền An Trì, nơi thờ Uy Đô, một anh hùng chống quân Nguyên.
 
Ba phía chung quanh hồ phố xá che khuất, chỉ có phía tây giáp đường Thanh Niên mới bày ra vẻ đẹp êm ả phẳng lặng của mặt hồ. Phía bắc hồ có một gò đất nhỏ, trên gò có đền thờ Cẩu Nhi gắn với chuyện Lý Công Uẩn dời đô.
 
Hồ Trúc Bạch cùng với công viên Lý Tự Trọng và Hồ Tây tạo thành một tổng thể thiên nhiên hài hoà, làm thành một thắng cảnh đẹp của thủ đô Hà Nội.
 

7. Phủ Chủ tịch

 

Phủ Chủ tịch – Ảnh: Internet


Phủ Chủ tịch là toà nhà bốn tầng nhìn ra đường Hùng Vương, được xây dựng năm 1901. Thời Pháp thuộc, đây là nơi ở và làm việc của Toàn quyền Pháp ở Đông Dương (có tên là Phủ Toàn quyền). Hiện nay, địa điểm này là nơi các vị đứng đầu Nhà nước ta tiếp đón các đoàn khách quan trọng nước ngoài và là nơi để các đại sứ các nước đến trình quốc thư. Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trì nhiều cuộc họp Hội đồng Chính phủ.
 

8. Quảng trường Ba Đình

 
Hà Nội là trái tim của nước Việt Nam, Quảng trường Ba Đình là trái tim của Hà Nội. Tại đây đã diễn ra những sự kiện trọng đại của thủ đô và cả nước. Ngày trước, đây vốn là khu vực cửa tây của thành Hà Nội cổ. Thực dân Pháp phá thành làm một vườn hoa nhỏ gọi là điểm tròn Puy-gi-ni-nơ. Năm 1945 mới có tên là vườn hoa Ba Đình. Chữ Ba Đình là để gợi nhớ dải đất Ba Đình ở tỉnh Thanh Hoá, nơi đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp kéo dài từ tháng 9 -1886 đến tháng 1-1887.

Quảng trường là nơi chứng kiến hàng trăm nghìn người về dự lễ Độc lập ngày 2-9-1945. Ngày 9-9-1969, sáu ngày sau khi Hồ Chủ tịch qua đời, tại Quảng trường này, đồng bào thủ đô và các địa phương cùng 34 đoàn đại biểu quốc tế đã tới đây dự lễ truy điệu trọng thể vị Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, nhà văn hoá kiệt xuất.

 

Ngày nay, mặt chính của quảng trường là Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trước lăng là khoảng không gian rộng lớn với 320m chiều dài và 100m chiều rộng, đủ chỗ cho 200 nghìn người dự mít tinh. Quảng trường có 168 ô cỏ bốn mùa xanh tươi. Chính giữa là cột cờ. Quảng trường Ba Đình đã trở thành không gian thiêng liêng của thủ đô Hà Nội.
 

9. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh

 
Lăng là nơi giữ gìn thi hài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, có mặt chính nhìn ra Quảng trường Ba Đình lịch sử. Đây là kết quả lao động sáng tạo của các nhà khoa học Nga và Việt Nam. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là nơi an nghỉ vĩnh hằng của người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Lăng chính thức được khởi công ngày 2/9/1973, tại vị trí của lễ đài cũ giữa quảng trường Ba Đình, nơi Bác Hồ đã từng chủ tọa các cuộc mít tinh lớn.
 


 

Lăng Bác – Ảnh: Internet

 
Lăng được khánh thành vào ngày 29/8/1975. Toàn bộ khu di tích lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh rộng 14ha. Lăng cao 21,6m gồm ba lớp. Lớp dưới tạo dáng bậc thềm là lễ đài dành cho Đoàn Chủ tịch trong các cuộc mít tinh. Lớp giữa, phần trung tâm của lăng gồm phòng thi hài và những hành lang, cầu thang lên xuống. Quanh bốn mặt là những hàng cột vuông ốp đá hoa cương, nhìn từ bên ngoài, mặt nào cũng thấy năm khoảng đều nhau, gợi nhớ ngôi nhà năm gian truyền thống Việt Nam. Lớp trên cùng là mái lăng hình tam cấp bằng đá hồng ngọc mầu mận chín. Nhìn tổng thể lăng có hình bông hoa sen cách điệu.
 
Trước mặt lăng có cột cờ cao 30m. Hàng tre ngà hai bên biểu tượng hình ảnh làng quê Việt Nam. Hai bên trái và phải ở mặt trước lăng được trồng 18 cây vạn tuế (mỗi bên chín cây). Vào gần hơn, hai bên cửa lăng là hai cây đại, tượng trưng cho sự trong sáng, thanh cao của Bác Hồ.
 
Ở mặt chính lăng có dòng chữ Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng đá hồng ngọc màu mận chín. Hai bên lăng là vườn cây, hoa quả tiêu biểu của các vùng quê Việt Nam bốn mùa tươi tốt, quần tụ toả bóng mát và trổ hoa.
 
Bước vào phòng ngoài, trước mặt trên tường đá hoa cương màu đỏ sẫm có hàng chữ vàng óng ánh “Không có gì quí hơn độc lập tự do”, dưới đó là chữ ký quen thuộc của Bác.
 
Lên hết cầu thang là tới phòng thi hài, nơi Bác an nghỉ. Phía đầu Bác nằm, trên nền tường ốp đá trắng gắn nổi hình cờ Đảng và cờ Tổ quốc. Hòm kính có thi hài Bác bên trong đặt trên đài hoa đước ghép bằng đá đen huyền lấp lánh muôn ngàn hạt sáng. Cách bố trí lối đi từ ba phía cho phép mọi người chiêm ngưỡng Bác được lâu hơn, lối đi rộng, nên nhiều người cùng lúc đều được nhìn thấy Bác. Qua lớp kính trong suốt, Bác như vừa ngả lưng chợp mắt. Vẫn bộ quần áo ka-ki bạc mầu, dưới chân Bác vẫn là đôi dép cao su giản dị.
 
Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh là nơi an nghỉ vĩnh hằng của Người, là biểu tượng lòng tôn kính và biết ơn vô hạn của dân tộc Việt Nam đối với lãnh tụ của mình.
 

10. Nhà sàn Bác Hồ

 
Trong khu vườn rộng sau Phủ Chủ tịch, có một con đường hẹp trải sỏi, hai bên trồng xoài dẫn tới một ngôi nhà sàn nhỏ nhắn bình dị, nằm giữa những vòm cây. Hàng rào dâm bụt bao quanh nhà, cổng vào kết bằng cành cây đan xen nhau. Đó là ngôi nhà Bác Hồ ở và làm việc từ ngày 17-5-1958 cho tới khi Người qua đời.
 
Tầng dưới nhà sàn là nơi Bác thường họp với Bộ Chính trị. Tầng trên là hai phòng nhỏ, nơi Bác làm việc và phòng ngủ với những vật dụng đơn sơ giản dị. Trước nhà là ao cá Bác nuôi, bên bờ ao là các loài hoa phong lan nở quanh năm.
 

Nhà sàn Bác Hồ – Ảnh: Internet


Nhân dân từ mọi miền đất nước cũng như du khách quốc tế đến thủ đô Hà Nội, ai cũng muốn đến viếng lăng, thăm nhà ở của Bác và đi dạo quanh Quảng trường Ba Đình lịch sử.
 
Sau nhà là vườn quả với hàng trăm loài cây quý do các địa phương đưa về trồng, như cây vú sữa của đồng bào miền nam gửi biếu Bác năm 1954, bưởi Phúc Trạch, Biên Hòa, Mê Linh; cam Hải Hưng, Xuân Mai, Vân Du, Xã Đoài; quýt Hương Cần, Lý Nhân; táo Thiện Phiến, Ngọc Hồ; song mai Đông Mỹ; hồng Tiên Điền (quê hương nhà thơ Nguyễn Du). Trong vườn còn có cả những loại cây từ nước ngoài như ngân hoa, cây bụt mọc quanh ao, cây cau vua gốc từ Caribê.
 

11. Nhà Hát Lớn

 
Nhà hát lớn Hà Nội là công trình văn hoá vào bậc nhất nước ta được xây dựng vào năm 1902 và khánh thành năm 1911.

 

Nhà hát Lớn Hà Nội – Ảnh: diendan.dulichhue.com.vn

 

Tổng diện tích nhà hát là 2600m2. Nội thất hiện đại, thoả mãn các yêu cầu biểu diễn và thưởng thức nghệ thuật, các hoạt động văn hoá lớn trong và ngoài nước. Nhà hát đã được tu bổ, nâng cấp và hoạt động rất hiệu quả với phương châm: mở rộng giao lưu quốc tế và giữ gìn, phát huy những giá trị văn hoá dân tộc. Tại đây, luôn luôn diễn ra những sự kiện văn hoá lớn của thủ đô và đất nước, các buổi tiếp khách quan trọng, các cuộc mít tinh, hội thảo, giao lưu văn hoá.
 

12. Thư viện quốc gia

 
Nằm trên phố Tràng Thi, Thư viện Quốc gia là thư viện tổng hợp lớn nhất của Việt Nam. Thành lập khoảng năm 1919 và mang tên toàn quyền Đông Dương Pi-e Pát ki ơ, vào lúc phát triển nhất (năm 1939), thư viện có 92.163 cuốn sách, trong đó khoảng hai phần mười là sách tiếng Việt.
 
Năm 1954, được cải tổ thành Thư viện trung ương, với vốn sách báo cũ, cộng với vốn sách báo của thư viện của Chính phủ đưa từ chiến khu Việt Bắc về chừng 180 nghìn cuốn.
 
Ngày 26-6-1957, Thư viện trung ương được chính thức mang tên Thư viện quốc gia Việt Nam, đồng thời cũng là cơ quan lưu chiểu sách báo in trong nước. Bốn chục năm qua, Thư viện quốc gia Việt Narn không ngừng bổ sung sách báo trong nước và nước ngoài.
 
Hiện nay, đã có hơn một triệu cuốn sách, bảy nghìn loại báo và tạp chí tiếng Việt và các thứ tiếng khác. Các luận án tiến sĩ của cán bộ khoa học Việt Nam, được bảo vệ trong nước và ngoài nước, cũng tập trung ở đây.
 
Đây là một trong những trung tâm văn hoá Việt Nam có những mối liên hệ quốc tế rộng rãi nhất, thường xuyên trao đổi sách báo với hơn 300 thư viện cơ quan khoa học lớn của 100 nước trên thế giới.
 
Thư viện quốc gia Việt Nam là thành viên của Hiệp hội Quốc tế các thư viện (LFLA). Bằng những trao đổi và hợp tác đã thu thập được hàng trăm nghìn sách báo của nước ngoài có giá trị thuộc nhiều lĩnh vực.Những phòng đọc thoáng mát, những nơi tra cứu và mượn sách thuận tiện, những phương tiện sao chụp của thư viện ngày càng hoàn thiện.
 
Thư viện thường xuyên tổ chức các buổi nói chuyện về đời sống, kinh tế, văn hoá, lịch sử, khoa học kỹ thuật công nghệ, các danh nhân…phục vụ bạn đọc. Diễn giả là các nhà khoa học, văn nghệ sĩ danh tiếng. Thư viện quốc gia Việt Nam còn là cơ quan hướng dẫn nghiệp vụ cho hệ thống thư viện trong cả nước.

 
13. Khu phố cổ Hà Nội

 
Khu phố cổ Hà Nội, từng được các du khách phương Tây ví với thành Venice cổ kính, cho đến hôm hay vẫn là khu phố cổ xưa độc đáo ở Việt Nam.

 

 

Phố cổ Hà Nội – Ảnh: Internet

Khu phố cổ Hà Nội thường được gọi là khu 36 phố phường nằm ở trung tâm thành phố Hà Nội, thuộc quận Hoàn Kiếm, có diện tích là 100 ha, được giới hạn phía bắc là đường Hàng Đậu, phía nam là các đường phố Hàng Bông – Hàng Gai – Cầu Gỗ và Hàng Thùng; phía đông là đường Trần Nhật Duật – Trần Quang Khải, phía tây là đường Phùng Hưng.
 
Nơi đây, xưa là các phường hội thủ công. Mỗi phố mang tên một hàng hoá: Hàng Nón, Hàng Chiếu… Trong khu phố cổ Hà Nội, xen lẫn các ngôi nhà truyền thống là các công trình văn hóa, lịch sử, tôn giáo và các nhà hàng ẩm thực. Khu phố cổ còn giữ được dáng vẻ kiến trúc của dân tộc Việt Nam và châu Á – tạo thành một quần thể kiến trúc độc đáo – nhà cửa san sát, phố xá tấp nập. Nhiều hoạt động trong đời sống hằng ngày của người dân đô thị diễn ra tấp nập: sinh hoạt, bán hàng, sản xuất, vui chơi, nghỉ ngơi, lễ hội, tạo nên sức sống mãnh liệt để khu phố tồn tại và phát triển liên tục.
 
Hà Nội xưa phân chia thành hai khu vực rõ rệt: khu thành cấm dành cho vua chúa, quan lại và khu buôn bán dành cho dân chúng – chính là khu phố cổ ngày nay. Thời trước, khu phố cổ được hình thành từ một mạng lưới giao thông đường sông với hệ thống kênh rạch tạo bởi các nhánh của sông Hồng và sông Tô Lịch. Những thợ thủ công lành nghề được triều đình tuyển chọn đã lập ra các làng nghề ngay gần khu vực các cổng hoàng thành. Thế kỷ XI, đây đã trở thành một khu phố buôn bán sầm uất với những phường thợ tách biệt chuyên làm một loại mặt hàng. Chính vì vậy, đến ngày nay, thành phố vẫn thường được gọi là Hà Nội – 36 phố phường. Mỗi phường bắt đầu bằng chữ “Hàng” như Hàng Đào, Hàng Bạc, Hàng Thiếc, Hàng Giấy, Hàng Mã, Hàng Giầy… “Hàng” tiếng Việt cổ có nghĩa là hàng hóa, và các khu phố được đặt tên theo loại mặt hàng bán nhất định. Một vài khu phố ngày nay vẫn bán những mặt hàng truyền thống đó.
 
Phố cổ thực sự là khu vực rất hấp dẫn để du khách khám phá. Những ngôi nhà “ống” trong khu vực này là những ngôi nhà bề ngang hẹp và kéo dài về phía sau. Để thấy độ sâu của chúng, có thể xuôi theo những ngõ hẻm giữa các tòa nhà hoặc thăm một trong những cửa hàng trên phố Hàng Gai.
 
cuộc sống trên phố cổ hiện tại vẫn diễn ra sôi động. Ngay từ sáng sớm, đường phố đã đông người: người đi làm, người bán hàng, người đi chơi… Những người đàn ông làm những nghề do cha ông truyền lại, các cụ bà trông coi nhà thờ họ, trông cháu hay bán thuốc lá, trông coi nhà cửa… Thậm chí trong những đêm đông giá lạnh, người Hà Nội vẫn có thói quen tụ tập, cùng nhau thưởng thức món ăn.
 
Phố cổ Hà Nội đang đứng trước những biến động to lớn và phức tạp của sự thích ứng với đời sống xã hội phát triển, làm cho một số ngôi nhà, đoạn phố bị thay thế bởi những khối kiến trúc mới, hiện đại. Song phố cổ vẫn còn đầy vẻ quyến rũ với những ngôi nhà ống nhỏ nhắn, xinh xắn và rêu phong, thấp thoáng ẩn mình trong màu xanh mượt mà và ngọt ngào hương hoa của cây lá. Phố cổ không bao giờ phai mờ vẻ đẹp thuần khiết, thanh tao.
 

13. Ngôi nhà cổ 87 Mã Mây

 
Ngôi nhà cổ 87 Mã Mây nằm ở phía bắc hồ Hoàn Kiếm. Phố Mã Mây xưa kia là hai phố: đoạn đầu là phố Hàng Mây chuyên bán song mây, đoạn sau là phố Hàng Mã, thời Pháp thuộc còn có tên Quân Cờ Đen.

 

Nhà cổ 87 Mã Mây – Ảnh: hanoitrip.net

 

Ngôi nhà được xây dựng khoảng cuối thế kỷ XIX. Với kiến trúc kiểu nhà truyền thống: giữa các lớp nhà có sân trong để lấy gió và ánh sáng, tầng một (phần tiếp giáp mặt phố) dùng để bán hàng, phía trong để ở và sản xuất, phần trong cùng là bếp và khu vệ sinh. Tầng hai, phòng ngoài để thờ và tiếp khách, phòng trong là nơi ở. Ngôi nhà còn được giữ lại các chi tiết kiến trúc cổ Hà Nội.
 
Ngôi nhà được cải tạo, bảo tồn năm 1999 và hoàn thành tháng 10 năm 1999. Ngôi nhà là nơi giới thiệu kiến trúc cổ Hà Nội và gợi ý nhân dân phố cổ cách bảo tồn, tôn tạo nhà cổ.
 

14. Ngôi nhà cổ 38 Hàng Đào
 

Ngôi nhà 38 Hàng Đào, nguyên là đình Đồng Lạc (đình chợ bán yếm lụa). Đình được xây dựng từ thời Lê (thế kỷ XVII) với quy mô rộng rãi: Nhưng vì chiến tranh, đình bị phá huỷ. Khoảng năm 1856 (niên hiệu Tự Đức, Bính Thìn), ngôi đình này được trùng tu.

 

 

Nhà cổ 38 Hàng Đào – Ảnh: mytour.vn

 


Năm 1941 (niên đại Bảo Đại 15), đình được xây dựng lại với quy mô hai tầng. Tầng một sử dụng để ở, điện thờ được đưa lên tầng hai. Trước và sau nhà có sân trồng cây. Ngồi nhà còn giữ lại được tấm bia đá cách đây hơn 150 năm một di vật hiếm có ở các đình Hà Nội) và một số họa tiết trang trí của đình.
 
Ngôi nhà được cải tạo, bảo tồn từ đầu năm 2000 và khánh thành vào tháng 4 năm 2000. Nơi này giới thiệu kỹ thuật xây dựng truyền thống, kết hợp kỹ thuật tôn tạo hiện đại cũng như những thông tin về bảo tồn, tôn tạo phố cổ.
 

15. Ô Quan Chưởng

 
Đây là một trong 21 cửa ô còn sót lại của toà thành Thăng Long cũ xây dựng vào năm Cảnh Hưng thứ 10 (1749), đến năm Gia Long thứ ba được xây dựng lại và giữ nguyên kiểu cách đến ngày nay.
 

Ô Quan Chưởng – Ảnh: Internet

 

 
Hiện cửa ô còn nguyên cửa chính và hai cửa con hai bên, trên tường cửa chính có gắn một tấm đá đặt năm 1882 ghi lệnh cấm người canh gác không được sách nhiễu nhân dân mỗi khi qua lại cửa ô. Bên trên cửa lớn có ba chữ Hán “Đông Hà Môn” tức là cửa ô Đông Hà, tên gọi một phường thời Lê bao gồm khu vực Hàng Chiếu, Thanh Hà, Đào Duy Từ. Cửa ô còn có tên gọi khác là Ô Quan Chưởng.
 
Tương truyền, tên gọi này bắt nguồn từ sự kiện năm Tự Đức thứ 26, khi thực dân Pháp đánh thành Hà Nội (20-11-1873), chúng kéo quân từ dưới tàu chiến đậu ở bến sông lên, khi bắt đầu qua cửa ô Đông Hà thì vấp phải sức kháng cự quyết liệt của quân Hà Nội do một viên quan chưởng cơ chỉ huy và bị thiệt hại khá nặng. Về sau Pháp có thêm viện binh.
 
Kết cục, viên chưởng cơ cùng toàn thể binh lính gồm một trăm người đều anh dũng hy sinh. Để tỏ lòng ngưỡng mộ người chưởng cơ anh dũng, nhân dân đổi gọi cửa ô là ô Quan Chưởng.
 
Tuy nhiên, sự kiện năm 1873 cho đến nay vẫn chưa được xác minh. Vì vậy, tên ô Quan Chưởng vẫn còn đó như một tồn nghi.
 

15. Hồ Tây

 
Hồ Tây, mặt gương của Hà Nội, có diện tích rộng hơn 500 ha với một bề dày lịch sử mấy nghìn năm. Đường vòng quanh hồ dài tới 17km. Ngành địa lý lịch sử đã chứng minh rằng hồ là một đoạn sông Hồng cũ còn rớt lại sau khi sông đã đổi dòng… Có thể do sông hồ biến đổi như vậy mà đã xuất hiện nhiều truyền thuyết về hồ và tên gọi của hồ. Ví như theo truyện “Hồ Tinh” thì có tên là hồ (hoặc đầm) Xác Cáo, vì truyện kể là có một con cáo chín đuôi ẩn nấp nơi đây làm hại dân. Long Quân mới dâng nước lên phá hang cáo, hang sập thành ra hồ.
 
Theo truyện “Khổng lồ đúc chuông” thì hồ lại có tên là Trâu Vàng. Truyện kể rằng có ông khổng lồ có tài thu hết đồng đen của phương bắc đem đúc thành chuông. Khi thỉnh chuông, tiếng vang sang bên bắc. Vì đồng đen là mẹ vàng nên con trâu vàng phương Bắc nghe tiếng chuông liền vùng đi tìm mẹ. Tới đây nó quần mãi đất, khiến sụt thành hồ. Theo thư tịch thì thế kỷ XI, hồ này đi vào lịch sử với tên là Dâm Đàm (Đầm mù sương), tới thế kỷ XV thì đã gọi là Tây Hồ. Hồ còn có tên là Lãng Bạc, trùng với tên nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quân của Hai Bà Trưng và quân Hán ở vùng Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh. Hồ Tây từ lâu lắm đã là thắng cảnh.

 

 

Hoàng hôn trên Hồ Tây – Ảnh: xomnhiepanh.com

 


Thời Lý – Trần, các vua chúa lập quanh hồ nhiều cung điện làm nơi nghỉ mát, giải trí, như cung Thúy Hoa thời Lý, điện Hàm Nguyên thời Trần nay là khu chùa Trấn Quốc, cung Từ Hoa thời Lý nay là khu chùa Kim Liên, điện Thuỵ Chương thời Lê nay là khu trường Chu Văn An… Những ngày sóng yên gió lặng, chơi thuyền Hồ Tây là một thú tao nhã. Lướt trên sóng hồ nhiều thi sĩ đã có những vần thơ tuyệt tác như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến…
 
Nếu làm một cuộc đi dạo quanh hồ thì đồng thời cũng được thăm khá nhiều di tích và thắng cảnh. Làng Nghi Tàm, quê hương nhà thơ “Bà huyện Thanh Quan” với chùa Kim Liên có kiến trúc độc đáo; làng Nhật Tân nguồn hoa đào mỗi độ xuân về. Rồi làng Xuân Tảo với đền Sóc thờ Thánh Gióng, làng Trích Sài có chùa Thiên Niên thờ bà tổ nghề dệt lĩnh, sang làng Kẻ Bưởi có nghề làm giấy cổ truyền và đền Đồng Cổ nơi bách quan hội thề thời Lý, làng Thụy Khuê có chùa Bà Đanh nổi tiếng một thời… Và đặc sắc nhất là đền Quán Thánh. Lại còn cả một số công trình nhà ở mới xây dựng bên hồ làm quang cảnh thêm đa dạng. Cùng với hồ Trúc Bạch, Hồ Tây làm giàu thêm chất thơ ở nội thành Hà Nội đồng thời cũng làm giàu cho Hà Nội về kinh tế, vì đó là những vựa cá đem lại nguồn thu lớn.
 

16. Đền Kim Liên

 
Đền Kim Liên là một trấn ở phía nam thành Thăng Long, cùng với đền Quán Thánh trấn phía bắc (còn gọi là Trấn Vũ), đền Bạch Mã ở phía đông, đền Voi Phục phía tây (còn gọi là Thủ Lệ, Linh Lang) họp thành Thăng Long tứ trấn tạo nên ý nghĩa và tầm vóc của mảnh đất kinh kỳ.Đền trước đây thuộc địa phận phường Kim Hoa, sau thuộc phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức nay là phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội. Đền thờ thần Cao Sơn.

 

Đền Kim Liên – Ảnh: trunghoccholach.com

 


Tương truyền thần đã có công giúp Sơn Tinh chiến thắng Thuỷ Tinh và sau này lại giúp vua Lê Tương Dực dẹp loạn, khôi phục nhà Lê. Do đó vua Lê cho xây đền, dựng bia để hương khói phụng thờ. Chịu tác động của thăng trầm lịch sử, đến nay đền không còn nguyên dạng (toàn bộ nhà bái đường đã bị tàn phá), chỉ còn lại nhà hậu đường ba gian, tam quan, cổng gạch và hai giải vũ. Tam quan và đền xây trên gò đất cao, từ sân bước lên phải qua chín bậc gạch, hai bên thềm là hai sấu đá niên đại thời Lê. Tam quan xây thành nhà hoàn chỉnh, kiểu tường hồi bít đốc. Bốn góc tường hồi có bốn cột trụ, bốn bộ vì đỡ mái làm theo kiểu chồng giường, giá chiêng, cột trốn. Các con giường chạm nổi hình mây cuốn, câu đầu và hai bẩy hai vì ngoài chạm bong kênh và chạm lộng nhiều lớp hình tứ linh. Trong đền vẫn còn long ngai thờ thần Cao Sơn và hai nữ thần phối hưởng: Thuỷ Tinh đệ Tam Tôn nữ và Huệ Minh phu nhân (không rõ sự tích). Đền còn giữ được 39 đạo sắc phong trong đó 26 đạo thời Lê Trung Hưng, 13 đạo thời Nguyễn, ngoài ra là các câu đối, bia đá trong hốc cây có bài văn bia của Lê Trung Hưng.
 

17. Đền Voi Phục

 
Sở dĩ gọi là đền Voi Phục vì tại cửa đền có đắp hai con voi quỳ ngay ở cổng đi vào. Đền còn có tên là đền Thủ Lệ; Linh Lang do thờ thần Linh Lang đại vương. Đền nằm phía tây kinh thành Thăng Long cũ, nay thuộc phường Cầu Giấy, quận Ba Đình, Hà Nội. Đền là một trong “Thăng Long tứ trấn”, được dựng năm Chương Thánh Gia Khánh thứ bảy (1065) đời vua Lý Thánh Tông. Tương truyền Linh Lang là con trai thứ tư của ông.
 

Đền Voi Phục – Ảnh: toiditim.vn

 

 
Trong đền có hai pho tượng đồng và hòn đá to có vết lõm, tương truyền là nơi Linh Lang nằm gối đầu lên rồi hoá thành con giao long và trườn xuống hồ. Đầu năm 1994, nhân dân Thủ Lệ quyên góp đúc lại quả chuông chiều cao 93cm, đường kính miệng 70cm, thân chia 4 múi, mỗi múi có hai hàng chữ Hán đúc nổi: “Tây trấn thượng đẳng”. Đường vào đền có nhiều cây cổ thụ, đền được xây cạnh hồ Thủ Lệ, có khuôn viên rộng rãi, cây cối xanh um tùm nên được coi là một cảnh đẹp của thủ đô Hà Nội. 

Mục lục bài viết

 

18. Đền Quán Thánh
 

Đền hiện ở ngã tư đường Thanh Niên và đường Quán Thánh, đời Lê thuộc đất phường Thụy Chương, huyện Vĩnh Thuận, phía nam Hồ Tây. Đền được lập từ khi vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long (năm 1010). Vua cho rước bài vị của thần về ở phía tây bắc thành, gọi là Huyền Thiên Trấn Vũ đại đế quán. Quán là nơi thờ tự của đạo Giáo, dân chúng quen gọi là đền Trấn Vũ hoặc đền Quán Thánh.
 

 

Đền Quán Thánh – Ảnh: choidau.vn

 

 
Sự tích đền cho biết: Huyền Thiên Trấn Vũ là thần cai quản phương bắc giúp dân trừ tà ma, yêu quái phá hoại đời sống yên lành vùng chung quanh thành Thăng Long: trừ rùa thành tinh (đời Hùng Vương 14), trừ cáo chín đuôi ở Tây Hồ, giúp An Dương Vương trừ tinh gà trắng xây thành Cổ Loa, diệt hồ ly tinh trên sông Hồng đời vua Lý Thánh Tông… Đến thời nhà Lê, các vua cũng thường đến đây để cầu mưa mỗi khi có hạn hán. Ngôi đền hiện nay đã được sửa chữa nhiều lần.
 
Năm Đinh Tỵ niên hiệu Vĩnh Trị II (1677), đời Lê Hy Tông, chúa Trịnh Tạc sai đình thần là Nguyễn Đình Luân trùng tu. Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ được triều đình cho đúc lại bằng đồng đen (hun). Tượng cao khoảng 3,96m, chu vi 8m. Tượng mặt vuông, mắt nhìn thẳng, râu dài, tóc xoã không đội mũ, mặc áo đạo sĩ, ngồi trên bục đá, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm có rắn quấn và chống lên lưng một con rùa. Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ là một công trình nghệ thuật độc đáo, đánh dấu kỹ thuật đúc đồng và tài nghệ của dân ta cách đây ba thế kỷ. Tại nhà bái đường còn một pho tượng nữa, nhỏ hơn, cũng bằng đồng đen, nhiều người cho rằng đây là tượng ông Trùm Trọng, người thợ cả đã chỉ huy việc đúc pho tượng Trấn Vũ. Tượng này là do các học trò của ông đúc để ghi nhớ công ơn thầy. Cùng đúc với tượng là quả chuông cao gần 1,5m treo ở gác tam quan. Văn bia tại đền do trạng nguyên Đặng Công Chất và tiến sĩ Hồ Sĩ Dương soạn. Thời Tây Sơn, đô đốc Lê Văn Ngữ, cùng nhiều người nữa đã quyên tiền đúc chiếc khánh bằng đồng (1,10m x 1,25m) vào năm Cảnh Thịnh thứ hai. Đến thời Nguyễn, vua Minh Mạng đến thăm đền, đã cấp tiền tu sửa. Năm 1923, cho đổi là Trấn Vũ quán.
 
Năm 1856, bố chánh Sơn Tây là Phạm Xuân Quế, bố chánh Hà Nội là Tôn Thất Giáo, tri huyện Vĩnh Thuận là Phan Huy Khiêm đã tổ chức quyên góp trùng tu, sửa lại chính điện, đình thiêu hương, bái đường và gác chuông, làm thêm hai dãy hành lang bên phải và bên trái, đắp lại bốn pho tượng đại nguyên soái, tượng thần Đương Niên hành khiển, Văn Xương Đế Quân và dời xuống hậu đường phía sau. Năm 1842, vua Thiệu Trị đến thăm và dâng một đồng tiền vàng, cộng với số tiền vàng do các hoàng thân dâng, đúc lại thành vòng. Vòng dùng sợi dây bạc xâu để treo ở cổ tay tượng thần. Đằng sau đền lại đắp hòn núi non bộ trong một bể con và dựng một đền nhỏ gọi là Vũ Đương Sơn. Sửa chữa xong, có dựng bia do tiến sĩ Lê Hy Vĩnh soạn. Đền hiện nay có sáu bia, kiến trúc, trang trí của đền hiện nay mang phong cách thời Nguyễn.
 

19. Đền Bạch Mã

 
Đền thuộc phường Hà Khẩu, tổng Hữu Túc, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, nay là 76 Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đền thờ thần Long Đỗ tức Bạch Mã, vị thần bảo hộ kinh thành Thăng Long. Theo một bộ sách soạn ở thế kỷ XIV thì chính thần Bạch Mã đã cảnh cáo Cao Biền, một viên quan Trung Quốc, sang cai trị, khoảng thời gian từ năm 866 đến năm 875, khiến y sợ hãi phải lập đền thờ. Một truyền thuyết khác kể thêm: khi vua Lý Công Uẩn định đô Thăng Long (1010), xây thành mà cứ bị sụt lở, ông tới đây cầu lễ và lạ thay, một buổi sáng chợt thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra, chạy vòng quanh khu vực đang xây thành, chạy đến đâu để dấu chân đến đấy rồi trở lại đền và vụt biến. Vua Lý cứ theo vết chân ngựa mà xây, thành không lở nữa. Vua bèn phong thần Long Đỗ làm thành hoàng bảo vệ cho Thăng Long. Từ đó thần có thêm tên là Bạch Mã.
 

 

Đền Bạch Mã – Ảnh: ashui.com

 


Đền đã được sửa chữa nhiều lần, cuối thế kỷ XVII được tôn nền cũ và mở rộng. Năm 1781, chúa Trịnh cho dân các giáp Mật Thái, Bắc Thượng, Bắc Hạ thuộc phường Hà Khẩu chung quanh đền Bạch Mã được “tạo lệ” (sắm lễ vật tế, không phải sưu sai, tạp dịch khác). Năm 1829, sửa chữa đền thêm tráng lệ. Năm 1839, dựng văn chỉ ở bên trái đền, dựng Phương đình để làm nơi cúng lễ các tuần tiết. Trong đền hiện nay còn lưu giữ được khá nhiều hiện vật có giá trị như 15 văn bia (nội dung các văn bia đề cập sự tích của đền, thần, nghi lễ cúng thần, các lần trùng tu tôn tạo), đồ thờ gồm các vũ khí thời cổ như xích, đao, thương, câu liêm… được sơn son thếp vàng, chạm khắc tinh xảo. Trong đền, cùng với các lư hương đồng, bình đồng, còn có tượng Phật và một đôi hạc, đôi phỗng trong tư thế đứng trang nghiêm.
 

20. Văn Miếu – Quốc Tử Giám

 
Văn Miếu – Quốc Tử Giám là trường học cổ của kinh thành Thăng Long và là trường đại học đầu tiên ở vùng Đông Nam Á. Văn Miếu không những là một di tích lịch sử – văn hoá cổ kính, mà còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hoá, khoa học đậm đà bản sắc dân tộc của thủ đô Hà Nội.
 

 

Văn Miếu Quốc Tử Giám – Ảnh: vietnamesefood.com.vn

Văn Miếu được xây dựng tháng 8 năm Canh Tuất, tức tháng 10 năm 1070 (đời vua Lý Thánh Tông) là nơi thờ các thánh hiền đạo nho (Khổng Tử, Mạnh Tử…). Sáu năm sau (1076), Lý Nhân Tông lập thêm Quốc Tử Giám ở kề phía sau, ban đầu là nơi học của các hoàng tử, sau mở rộng thu nhận cả những học trò giỏi trong thiên hạ. Văn Miếu có tường bao quanh xây bằng gạch Bát Tràng. Bên trong có những lớp tường ngăn thành năm khu. Khu thứ nhất bắt đầu với cổng chính. Trên cổng có chữ Văn Miếu Môn, dưới cổng có đôi rồng đá mang phong cách thời Lê Sơ (thế kỷ XV).
 
Lối đi ở giữa dẫn đến cổng Đại Trung Môn mở đầu cho khu thứ hai. Hai bên còn có hai cổng nhỏ có tên là Thành Đức và Thành Đạt. Vẫn lối đi ấy dẫn tới Khuê Văn Các (gác vẻ đẹp của sao khuê, sao chủ về văn học). Hai bên gác có hai cổng nhỏ có tên là Súc Văn và Bí Văn (Văn hàm súc và Văn sáng đẹp).
 
Khu thứ ba từ gác Khuê Văn tới Đại Thành Môn. Ở giữa khu này có một hồ vuông gọi là Thiên Quang Tỉnh (Giếng trời trong sáng) có tường hoa bao quanh. Hai bên là khu nhà bia (nơi dựng bia ghi tên những người đỗ tiến sĩ). Hiện nay có 82 bia, xưa nhất là bia ghi khoa Đại Bảo thứ ba (năm 1442), muộn nhất là bia Cảnh Hưng thứ 40 (năm 1779). Đó là những di vật quý nhất của khu di tích này.
 
Bước qua cửa Đại Thành là tới khu thứ tư. Một sân rộng, hai bên là hai dãy nhà tả vu, hữu vu, vốn dùng làm nơi thờ các danh nho. Cuối sân là nhà Đại Bái, kiến trúc đẹp và hoành tráng.
 
Tại đây có một số hiện vật quý: bên trái có chuông Bích Ung đại chung (chuông lớn của nhà Giám) do Nguyễn Nghiễm đúc năm 1768; bên phải có một tấm khánh đá, mặt trong có hai chữ Thọ Xương, mặt ngoài khắc bài minh viết kiểu chữ lệ, nói về công dụng của loại nhạc khí này. Tiếp sau Đại Bái là Hậu Cung nơi đặt tượng Khổng Tử và bốn môn đệ là Nhan Tử, Tăng Tử, Mạnh Tử, Tử Tư. Sau khu Đại Bái vốn là trường Quốc Tử Giám thời Lê, khi nhà Nguyễn chuyển trường này vào Huế thì ở đây dựng đền Khải Thánh thờ cha mẹ Khổng Tử. Năm 1947, giặc Pháp đã đốt trụi khu này.
 
Ngày nay, thành phố Hà Nội đã lập tại đây “Trung tâm hoạt động văn hoá – khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám” để phát huy tác dụng của di tích.
 

21. Chợ Đồng Xuân

Mặc dù các trung tâm thương mại và siêu thị hiện đại cứ đua nhau mọc lên cùng trào lưu hội nhập kinh tế thế giới, nhưng giữa lòng Hà Nội, vẫn có một khu chợ truyền thống tấp nập kẻ bán người mua – chợ Đồng Xuân. Đây không chỉ là những cuộc giao thương thuần túy, mà nó đã trở thành nét đẹp văn hóa trường tồn bao đời nay của người dân Hà Thành.

 

Chợ Đồng Xuân – Ảnh: Internet

 


Chợ Đồng Xuân được chính thức xây dựng từ giữa năm 1889 do một công ty thầu khoán của Pháp thi công trên diện tích khoảng 6500m2. Thiết kế ban đầu của chợ Đồng Xuân gồm năm dãy nhà và được phân vòm cuốn mặt trước, bên trong chia cách bởi đường đi giữa các vòm. Khu phía Đông Bắc là chợ Bắc Qua, khu phía Tây là chợ Đồng Xuân.
 
 
Sau năm 1954, thành phố cho sửa sang, lợp lại mái tôn, sắp xếp lại bố cục bên trong, chợ Đồng Xuân đã trở thành một khu giao thương sầm uất. Tuy nhiên, vào năm 1994 chợ Đồng Xuân bị hỏa hoạn, thiêu rụi toàn bộ các sạp hàng gây thiệt hại lớn cho các hộ kinh doanh. Sau đó chợ được xây lại mới ba tầng như hiện nay. Chợ Đồng Xuân với ba mái vòm chính chạy dọc theo phố Đồng Xuân, nằm giữa lòng Thủ đô Hà Nội, với diện tích hơn 14000m2 và trên 2000 hộ kinh doanh trong khu chợ chính, gần 1000 hộ trong khu chợ đêm với nhiều ngành nghề khác nhau.
 
Sau Ngày Toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), Khu Đồng Xuân và chợ Đồng Xuân trở thành cửa ngõ của Liên khu I gồm khu Hoàn Kiếm, Long Biên, Đồng Xuân, Đông Kinh Nghĩa Thục và Đông Thành. Khi quân viễn chinh Pháp đánh chiếm Hà Nội, tại đây đã diễn ra trận chiến đấu “60 ngày đêm khói lửa” bảo vệ Thủ đô. Các Vệ quốc quân và nhân dân Thủ đô đã chiến đấu anh dũng quả cảm, đập tan âm mưu đánh chiếm nhanh Hà Nội của thực dân Pháp; đồng thời tạo điều kiện để các lực lượng của ta rút ra ngoài, chuẩn bị cuộc kháng chiến trường kỳ.
 
Ngày nay, bức phù điêu các Vệ quốc quân đã được dựng lên phía trước cửa chợ Đồng Xuân để tưởng nhớ công lao to lớn, ngợi ca tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của những chiến sĩ “gan vàng dạ sắt” đã cống hiến xương máu cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc. Chính sự hấp dẫn đến từ truyền thống văn hóa lịch sử, chợ Đồng Xuân luôn được người dân Thủ đô và nhân dân cả nước biết đến như một chứng tích của chiến tranh. Nhân dân các miền đến thăm Thủ đô, một trong những địa điểm mà nhiều người muốn đến là chợ Đồng Xuân, có khi chỉ để mua một món quà làm kỷ niệm.
 
 

22. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam

 
 
Nằm trên một khu đất rộng 3ha, bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được khai trương vào cuối năm 1997. Ngay từ khi ra đời, nơi đây đã thực sự thu hút sự quan tâm của nhiều khách du lịch và các nhà nghiên cứu văn hoá, dân tộc học trong nước và quốc tế. Bảo tàng Dân tộc học lưu giữ 10.000 hiện vật, 15.000 ảnh đen trắng, hàng trăm băng video, băng cát-sét phản ánh mọi mặt đời sống, sinh hoạt, phong tục, tập quán của 54 dân tộc trên khắp đất nước Việt Nam.
 

 

Nhà Đông Nam Á tại Bảo tàng – Ảnh: thethaovanhoa.vn

 


Khu trưng bày ngoài trời giới thiệu những phong cách kiến trúc đặc trưng nhất của các dân tộc Việt Nam. Hiện tại đã có trưng bày về ngôi nhà dài Ê-Đê, nhà sàn Tày, ngôi nhà nửa sàn và nửa trệt của người Dao, nhà mái lợp bằng gỗ pơ-mu của người H’Mông, ngôi nhà Việt với mái lợp ngói, ngôi nhà mồ Gia-Rai, nhà Rông của người Ba-Na, ngôi nhà Chăm và ngôi nhà đất trình tường của người Hà Nhì.
 
Trong tương lai, Bảo tàng dự định trưng bày ngôi nhà mồ của dân tộc Cơ-Tu và khuôn viên hoàn thiện của ngôi nhà Việt. Một số loại cây thuộc địa phương của mỗi ngôi nhà cũng được mang đến và trồng tại đây.
 

 
 

23. Chùa Lý Quốc Sư

 

Chùa Lý Quốc Sư – Ảnh: asobi.vn

Chùa được xây cất từ năm 1131 và gọi là “Lý Quốc Sư Tự”.  Chùa trước đây được gọi là đền bởi nơi đây thờ thiền sư Nguyễn Minh Không – người đã chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thần Tông. Ông được phong làm quốc sư và được triều đình phong ấp ở làng Tiên Thị. Khi ông mất, dân làng lập đền thờ gọi là “Lý Quốc Sư Tự”. Năm 1932, thiền sư Nguyễn Văn Định trụ trì đã bài trí thêm tượng Phật nên đền được gọi là chùa từ đó.
Chùa có qui hoạch tương đối gọn gồm cổng tam quan, phương đình, hai dãy dải vũ và nhà thờ mẫu. Các kiến trúc này tuy mới được trùng tu vào năm 1954 nhưng vẫn giữ được tính cổ truyền trong phong cách kiến trúc và nghệ thuật.
Chùa hiện nay lưu giữ nhiều di vật có giá trị nhưng nổi bật nhất là trụ đá “Long Nữ thiên tài” được tạc bằng đá trên cột cao 3m, có trang trí các hoa sen, hoa cúc dây, hoa thị, lá đề…vòng quanh cột. Nhóm tượng có cấu trúc khác lạ mang dấu ấn phong cách nghệ thuật thế kỷ thứ 18.
 

24. Vườn Quốc gia Ba Vì


Nằm cách thủ đô Hà Nội 60km về phía Tây, Vườn Quốc gia Ba Vì là một trong những khu bảo tồn, thăm quan, giải trí đẹp, thuộc xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây.
 

 

Một góc của vườn Quốc gia Ba Vì – Ảnh: baogiaothong.vn

 


Nơi đây phong cảnh ngoạn mục, cảnh sắc thiên nhiên hòa quyện với con người. Tổng diện tích Vườn Quốc gia Ba Vì rộng 11.372 ha; trong đó, rừng nguyên sinh trải rộng 2.752 ha, ở độ cao từ 100 – 1.296m của dãy núi Ba Vì hùng vĩ, có hệ thực vật nhiệt đới và á nhiệt đới khá điển hình ở Việt Nam; bốn mùa cây cối xanh tươi, khí hậu trong lành.
 
Do địa hình núi cao, độ che phủ của rừng lớn tạo cho vùng Ba Vì có khí hậu rất mát mẻ, nhất là vào mùa hè (từ tháng 4 đến tháng 10 dương lịch). Về mùa đông, mây mù bao phủ tạo một cảnh quan rất ấn tượng.
Vườn Quốc gia Ba Vì không chỉ được mệnh danh là lá phổi của thủ đô Hà Nội mà còn là nơi sinh sống của hàng trăm loài động vật hoang dã, có rất nhiều loài quý, hiếm có tên trong sách đỏ của Việt Nam.
 
Được sự ưu ái của thiên nhiên về địa hình, khí hậu đã tạo cho Vườn Quốc gia Ba Vì trở thành một trong bốn khu du lịch sinh thái vùng núi cao nổi tiếng (Đà Lạt, Sa Pa, Ba Vì, Tam Đảo). Không những thế, vùng núi Ba Vì còn là nơi du lịch tâm linh của người Việt. Hàng năm, Vườn Quốc gia Ba Vì đón vài chục nghìn lượt người đến tham quan và học tập. Đến đây, du khách được tận hưởng cái không khí trong lành mát dịu; hương vị của núi rừng, cây cối; chim hót, suối reo hai bên đường.
 
 

25. Làng gốm Bát Tràng

Sản phẩm của làng gốm Bát Tràng – Ảnh: thebeautyofvietnam.com

Nằm bên bờ tả ngạn sông Hồng, làng gốm Bát Tràng thuộc huyện Gia Lâm, cách trung tâm thủ đô Hà Nội hơn 10km về phía đông – nam. Làng gốm Bát Tràng đã tồn tại ở ven đô Thăng Long với tư cách một làng nghề khoảng hơn 500 năm nay. Tại đây có nhiều động vui chơi khám phá, đặc biệt là cưỡi xe trâu đi du lịch quanh làng. Bát Tràng còn là thiên đường của các đồ vật bằng gốm, gốm ở đây vừa rẻ vừa đẹp, bạn có thể mua do người ta làm sẵn hoặc tự tay làm lấy.

 

26. Nhà tù Hỏa Lò – Địa ngục trần gian

Bên trong nhà tù Hỏa Lò – Ảnh: Internet

 

Nhà tù Hỏa Lò được xây từ năm 1896 bởi thực dân Pháp, với mục đích giam giữ những người chống chế độ thực dân. Thiết kế của nhà tù khá khắc nghiệt như bức tường bằng đá, cao 4m, dày 0,5m, lại còn được gia cố thêm những dây thép gai được kích hoạt điện. Trong khuôn viên của nhà tù, bốn góc chiếu theo bốn hướng đều có những tháp canh để theo dõi và quan sát nhất cử nhất động. Lúc ban đầu, thiết kế xây dựng chỉ cho pháp Hỏa Lò giam giữ khoảng 500 tù nhân. Nhưng càng ngày, diện tích Hỏa Lò càng tăng dần, số lượng tù nhân giam giữ càng ngày càng lớn. Theo Phó trưởng Ban quản lí di tích nhà tù Hòa Lò hiện nay cho biết: vào năm 1950 – 1953, nhà tù Hỏa Lò chứa gần 2000 tù binh. Các máy chém trong nhà tù hoạt động liên tục, được dùng lưu chuyển từ nhà giam này tới nhà giam khác. Có thời gian, một vài máy chém còn được đưa lên tận Yên Bái để hành hình hơn 10 cộng sản Việt Nam, trong đó có Nguyễn Thái Học. Tuy nhiên, theo nhiều nghiên cứu và ghi chép được lưu giữ lại, cùng nhiều câu chuyện được kể từ chính chiến sĩ còn sống sót. Một số lớp học chính trị được mở ngay trong trại giam, các tờ báo như Lao tù đỏ, Lao tù tạp chí đều có nhiều bài viết từ chính những người cộng sản đang bị giam giữ đó. Nhiều thế hệ chiến sĩ bị giam giữ tại đây vẫn giữ được ý chí yêu nước, kiên cường của mình có lẽ là do chính môi trường lúc nào cũng hừng hực khí thế căm hận bọn cướp nước ấy.
 
Hiện nay, mỗi năm, di tích nhà tù Hòa Lò đớn hơn ngàn lượt khách tham quan mỗi năm, trong đó đều là những khách tham quan nước ngoài muốn quay trở lại Việt Nam. Một số người Việt Nam tới đây vì muốn tìm hiểu ý nghĩa và những gian khó của cuộc chiến đấu xưa kia của cha ông ta.
 

27. Nhà hát Múa Rối nước Thăng Long


Múa Rối nước là nghệ thuật sân khấu truyền thống không thể bỏ lỡ tại Việt Nam nói chung và đặc biệt tại Hà Nội. Tuy được diễn hoàn toàn bằng tiếng Việt, âm nhạc và những cử chỉ của các chú rối gỗ vẫn có thể truyền tải trọn vẹn nội dung câu chuyện đến mọi đối tượng, vì thế nhà hát luôn đông đúc du khách trong và ngoài nước.

 

 

 

Múa Rối nước – Ảnh: mytour.blogspot.com

 


Nhà hát Múa Rối nước Thăng Long được thành lập năm 1959 va là một trong những địa điểm biểu diễn nghệ thuật múa rối nước nổi tiếng nhất Việt Nam. Nghệ thuật rối đặc sắc này bắt nguồn từ khoảng thế kì 11, trên mặt nước sông Hồng chảy quanh Hà Nội.

Ngày nay, Nhà hát múa rối nước Thăng Long là một trong những nhà hát múa rối nước truyền thống còn hoạt động và những con rối bằng gỗ sơn mài của nhà hát đã trở nên nổi tiếng khắp thế giới. Từ năm 1990, Nhà hát thường xuyên tổ chức lưu diễn quốc tế và đã tham dự nhiều liên hoan nghệ thuật trên thế giới. Nhà hát Múa Rối nước Thăng Long nằm trong khu vực phố Cổ. Nhà hát mở cửa tất cả các ngày trong tuần và có tói đa 6 suất diễn trong ngày. Một số suất còn có cả phụ đề tiếng Anh trên màn hình cho khán giả quốc tế.
 

28. Cầu Long Biên

 
Trong mắt người Việt Nam và cả bạn bè trên thế giới, cầu Long Biên là một nhân chứng lịch sử trong suốt 12 thập kỷ qua và đã trở thành biểu tượng của Hà Nội cũng giống như là tháp Eiffel của Paris.

 

Vẻ đẹp mê hồn của cầu Long Biên – Ảnh: news.zing.vn

 


Cầu Long Biên được công ty Daydé và Pillé khởi công xây dựng vào năm 1898, hoàn thành năm 1903. Vào thời điểm đó Long Biên là một trong 4 cây cầu dài nhất thế giới và nổi bật ở Viễn Đông. Còn được gọi là cầu Doumer, cây cầu thép có tuyến đường sắt chạy qua này đã trở thành mạch nối qua sông Hồng, đến Lào Cai và sang Trung Quốc. Với chiều dài 1.682m, cây cầu tượng trưng cho vẻ đẹp của các công trình kiến trúc lúc bấy giờ được kết cấu theo kiến trúc của tháp Eiffel, cây cầu được ví là tháp Eiffel nằm ngang sông Hồng.

Hơn 100 năm trôi qua, dấu chân thời gian đã làm cây cầu “già nua” đi nhiều nhưng giá trị quá khứ như vẫn lắng đọng trên từng nhịp cầu. Đất nước thay đổi, thủ đô thay đổi nhưng giá trị biểu tượng của cầu Long Biên vẫn mãi trường tồn trong lòng mỗi người cả những thế hệ mai sau.
 

29. Công viên Thủ Lệ


Công viên Thủ Lệ thuộc quận Ba Đình, Hà Nội, nằm sát đường Kim Mã, đường Bưởi và phố Nguyễn Văn Ngọc. Đây là một khu vui chơi giải trí lớn, được xây dựng từ năm 1975, đến năm 1996 thì tương đối hoàn thiện. Công viên rộng 29ha, trong đó có 6ha là mặt hồ nước, có 5 khu trưng bày, 40 điểm thả động vật với khoảng 600 con thú của trên 100 loài. Trong công viên rợp bóng cây xanh và mặt hồ tĩnh lặng, rất nhiều con đường dạo lát gạch Blok  ven hồ, có đảo, có những cây cầu nối các bờ. Ngoài thú rừng, chim muông trong nước: Voi, hổ, báo, gấu, hươu, nai, công, trĩ, khỉ, vượn… còn có rất nhiều cá cảnh quý, các giống bò sát như trăn, kỳ đà, cá sấu và nhiều thú hiếm: Ngựa vằn, sư tử, trâu bò rừng, đà điểu, sói bờm… được gửi tới từ các châu: Âu, Phi, Úc, Mỹ.

 

Công viên Thủ Lệ – Ảnh: mytour.vn

 

Công viên Thủ Lệ ngày xưa là phía tây kinh thành nhưng bây giờ được coi như trung tâm Hà Nội. Hằng ngày, nhất là những ngày nghỉ, công viên đón tiếp hàng ngàn lượt khách đến tham quan và dạo chơi thư giãn. Nhất là trẻ em, được bố mẹ dẫn đi chơi thường rất thích thú khi xem những loài thú như trong truyện cổ tích ở công viên.
 
Không những vậy, công viên Thủ Lệ từ ngàn năm nay còn là một di tích lịch sử, một trung tâm tín ngưỡng của nhân dân Hà Nội và cả nước. Công viên Thủ Lệ nằm trên địa phận làng Thủ Lệ. Sự tích làng này gắn liền với sự tích Thánh Linh Lang, được thờ trong ngôi đền Voi Phục, ngay cổng phía tây công viên.
 
 

30. Bảo tàng phụ nữ Việt Nam – Nơi tôn vinh phụ nữ Việt

 
Với thiết kế hiện đại, trưng bày bắt mắt, nội dung phong phú, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam được nhiều du khách trong và ngoài nước đánh giá là điểm du lịch hấp dẫn. Bên cạnh những khu trưng bày thường niên, bảo tàng còn tổ chức các chuyên đề riêng về hình ảnh người phụ nữ từ quá khứ đến hiện tại, điều này đã làm cho du khách tới đây luôn có cảm giác mới lạ.

 

Bên trong bảo tàng Phụ nữ Việt Nam – Ảnh: baotangphunu.org.vn

 


Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, trực thuộc Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nằm trên phố Lý Thường Kiệt quận Hoàn Kiếm thành phố Hà Nội, với diện tích trưng bày gần 2.000m2 và hệ thống kho lưu giữ hơn 25.000 tài liệu, hiện vật phản ánh những đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử và cuộc sống đương đại. Tới đây, khách tham quan bị cuốn hút ngay từ  những hiện vật, hình ảnh về phụ nữ Việt Nam xưa và nay, cách trưng bày tái hiện chân thực hình ảnh người phụ nữ trong muôn mặt cuộc sống giúp Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam trở thành điểm tham quan thú vị.
 
Với không gian sáng tạo, Bảo tàng Phụ nữ giới thiệu cho du khách nhiều chủ đề như Tín ngưỡng thờ Mẫu, Phụ nữ trong gia đình, Phụ nữ trong lịch sử… mang lại cho du khách cái nhìn trung thực về người phụ nữ Việt. Rất nhiều du khách nước ngoài cho biết, thông qua bảo tàng họ rất ấn tượng người phụ nữ Việt Nam.
 

Nguồn: Sưu tầm