LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI: Tây Âu trung đại
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI: Tây Âu trung đại
I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ
1.Sự thành lập các quốc gia mới ở Tây Âu
– Trong những thế kỉ III, IV, đế quốc Tây bộ Rôma đã rơi vào tình trạng khủng hoảng, đặc biệt từ cuối thế kỉ IV, đầu thế kỉ V, chế độ chiếm nô ở Tây bộ Rôma đã khủng hoảng trầm trọng trên tất cả các lĩnh vực.
+ Về kinh tế: Sự tan rã của nền kinh tế đại điền trang
+ Về chính trị: đây là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt trong nội bộ giai cấp thống trị chủ nô.
+ Xã hội: là thời kỳ diễn ra những cuộc cách mạng của nô lệ và dân nghèo
– Người Gecmanh vốn là những tộc người sống ở phía Bắc và Đông Bắc của đế quốc Rôma cổ đại từ nhiều thế kỉ trước. Họ là những chủng tộc lớn thuộc chủng Ấn- Âu. Ngay từ thế kỉ II- III, họ đã thiên di vào lãnh thổ đế quốc Rôma. Họ là những bộ tộc đang ở giai đoạn cuối cùng của chế độ xã hội nguyên thủy.
Cuối thế kỉ IV, đầu thế kỉ V, nhân sự suy yếu của đế quốc Rôma, người Gecmanh đã tràn vào một cách ồ ạt, chiếm đất của người Rôma và lập nên những vương quốc riêng của họ như vương quốc Tây Gôt (thành lập trên lãnh thổ miền nam xứ Gôlơ, lãnh thổ Tây Ban Nha), Vương quốc Văngđan (bao gồm Bắc Phi, các đảo phía tây Địa Trung Hải), vương quốc Buôcgôngđơ (gồm miền đông nam xứ Gôlơ), vương quốc Ănglôxăcxông (gồm bán đảo Britani), vương quốc Đông Gôt (bán đảo Italia), vương quốc Phrăng (Đông Bắc xứ Gôlơ).
Trong số các vương quốc do người Gecmanh thành lập, chỉ có vương quốc Phrăng tồn tại lâu dài nhất và đồng thời là quốc gia có vai trò quan trọng nhất ở Tây Âu trong thời sơ kì trung đại.
2. Sự hình thành và phát triển của chế độ phong kiến
Từ thế kỉ V- IX là thời kì xác lập của chế độ phong kiến ở Tây Âu, sự ra đời của chế độ phong kiến ở Tây Âu được hình thành trên cơ sở đổ nát của chế độ chiếm hữu nô lệ Rôma và sự giải thể của chế độ thị tộc của người Gecmanh. Sự ra đời của quan hệ sản xuất phong kiến gắn liền với sự hình thành hai giai cấp cơ bản của xã hội phong kiến đó là giai cấp lãnh chúa và giai cấp nông nô. Muốn có hai giai cấp này phải trải qua một quá trình phong kiến hóa, đó là quá trình ruộng đất vào trong tay một số người để biến thành lãnh chúa phong kiến và đồng thời với quá trình trên là quá trình người nông dân tự do bị tước đoạt mất ruộng đất cùng với các tầng lớp nhân dân khác biến thành nông nô.
2.1. Sơ kì trung đại (thế kỉ V- XI): thời kì hình thành chế độ phong kiến
– Từ thế kỉ V – IX, chế độ phong kiến ở Tây Âu đã được hình thành thông qua quá trình “phong kiến hóa„
+ Dưới thời Clôvit thực hiện chế độ ban tặng ruộng đất cho quý tộc thị tộc Gecmanh, thân binh, chủ nô Rôma phục tùng chính quyền mới, tăng lữ trong nhà thời Kitô giáo. Lúc đầu đó là ruộng đất “ân tứ„- một hình thức cho không ruộng đất, như một ân huệ của nhà vua đối với người có công. Sau dần biến thành đất Anlơ (đất tự do)- có quyền nhượng lại, mua bán, trao đổi.
+ Dưới thời trị vì của tể tướng Saclơ Macten, thực hiện chế độ ban cấp ruộng đất, gọi là Bênêphixium (đất phong quân vụ). Có nghĩa là người nhận ruộng đất phong cấp phải có nghĩa vụ quân sự đối với người ban cấp ruộng đất cho mình. Người được phong đất phải thề trung thành với tôn chủ (người phong đất) và phải thực hiện nghĩa vụ quân sự 40 ngày/năm, đất phong chỉ được sử dụng suốt đời chứ không được truyền cho con cháu, có thể bị chủ đất lấy lại nếu người nhận đất không làm tròn bổn phận.
=> Hình thành hai giai cấp mới trong xã hội là giai cấp lãnh chúa phong kiến và giai cấp nông nô. Người nông dân tự do bị chiếm đoạt ruộng đất, bị lệ thuộc vào lãnh chúa và trở thành nông nô, phải nộp địa tô cho lãnh chúa (địa tô lao dịch, hiện vật, tiền) và phải chịu nhiều nghĩa vụ khác (lao dịch, binh dịch).
– Từ thế kỉ IX- XI: là thời kì tồn tại của chế độ phong kiến phân quyền. Toàn bộ nền kinh tế Tây Âu tập trung trong các lãnh địa phong kiến. Mỗi lãnh địa phong kiến là một vương quốc khép kín riêng, mỗi lãnh chúa là 1 ông vua con và mỗi lãnh địa là một đơn vị kinh tế- chính trị độc lập.
2.2. Trung kì trung đại (XI- XV): thời kì phát triển của chế độ phong kiến.
– Thế kỉ XI, thành thị trung đại Tây Âu ra đời đã làm thay đổi toàn bộ bộ mặt của chế độ phong kiến Tây Âu trên tất cả các mặt kinh tế- chính trị – xã hội – văn hóa.
+ Thành thị ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế hàng hóa, làm tan rã nhanh chóng nền kinh tế tự nhiên.
+Thành thị ra đời góp phần làm giải thế chế độ nông nô. Đồng thời làm xuất hiện một tầng lớp xã hội mới là tầng lớp thị dân. Thị dân tuy ít về số lượng nhưng lại nắm phần lớn của cải của xã hội và ngày càng lớn mạnh. Họ có vai trò to lớn trong đời sống chính trị Tây Âu, là lực lượng đồng minh của nhà vua, là hạt nhân để chuyển từ chế độ phong kiến phân quyền sang tập quyền.
+ Thành thị ra đời đóng vai trò tích cực chuyển từ chế độ phong kiến phân quyền sang tập quyền.
– Mac đã nhận xét: thành thị ở phương Đông giống như những cái bướu thừa mọc trên cơ thể, còn ở phương Tây thành thị là những bông hoa rực rỡ của thời trung đại…
Thành thị không chỉ là trung tâm chính trị, mà còn là trung tâm kinh tế- văn hóa. Có thể nói, sự ra đời và phát triển của thành thị trung đại Tây Âu đã chứa đựng trong nó những nhân tố làm tan rã chế độ phong kiến từ trong lòng của chế độ đó.
2.3. Hậu kì trung đại (thế kỉ XV- XVI)
Đây là thời kì suy tàn của chế độ phong kiến Tây Âu, quan hệ sản xuất TBCN đã xuất hiện trong lòng chế độ phong kiến Tây Âu.
– Về kinh tế:
+ Kinh tế hàng hóa tiền tệ phát triển, đẩy lùi kinh tế tự nhiên, các tổ chức kinh tế theo lối phong kiến được thay thế bằng các hình thức sản xuất mới theo lối TBCN. VD: phường hội được thay thế bằng các công trường thủ công.
+ Các tổ chức hội buôn được thay bằng các công ty thương mại.
+ Trong nông nghiệp: các lãnh địa bị xóa bỏ, thay bằng các trang trại kinh doanh theo lối TBCN.
– Về xã hội: quan hệ xã hội đã có sự thay đổi, ở thời sơ và trung kì quan hệ bóc lột là lãnh chúa đối với nông nô đã thay bằng quan hệ bóc lột giữa chủ và thợ. Hình thức bóc lột lao động làm thuê, bóc lột giá trị thặng dư thay cho hình thức bóc lột có tính chất cưỡng bức người nông nô. Công thức là chủ xuất vốn, thợ xuất sức.
Trong xã hội xuất hiện một giai cấp mới là giai cấp tư sản (một số thương nhân giàu có, một số chủ đất, một bộ phận thị dân giàu có). Bên cạnh những mâu thuẫn cũ trong xã hội, xuất hiện thêm những mâu thuẫn mới: Tư sản và phong kiến, tư sản và vô sản. Trong đó mâu thuẫn tư sản và vô sản mới nảy sinh, chưa sâu sắc. Còn mâu thuẫn giữa tư sản và phong kiến mới là mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu ở thời hậu kì. Do đó, đấu tranh của tư sản chống phong kiến là động lực thúc đẩy xã hội phong kiến Tây Âu hậu kì, làm cho xã hội phong kiến tan rã nhanh hơn, mở đường cho sức sản xuất TBCN phát triển.
– Về chính trị: Từ cuối thế kỉ XV, chế độ phong kiến trung ương tập quyền đã hình thành, tiếp tục phát triển thành nhà nước quân chủ chuyên chế (Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha). Bên cạnh vua vẫn có nghị viện, hội nghị 3 đẳng cấp như một cơ quan tư vấn giúp nhà vua cai trị. Nhà nước quân chủ chuyên chế thời kì này có sự liên minh giữa tư sản và phong kiến. Chính quyền phong kiến khuyến khích tư sản kinh doanh phát triển kinh tế nhưng trong khuôn khổ của chế độ phong kiến.
– Về văn hóa: thời kì này diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt về văn hóa tư tưởng giữa giai cấp tư sản và phong kiến, được biểu hiện qua các phong trào Văn hóa Phục hưng, cải cách tôn giáo, chiến tranh nông dân Đức, Cách mạng tư sản Nêđeclan.
3. Vai trò và thế lực của giáo hội Rôma
– Đạo Kitô ra đời vào thế kỉ I CN ở vùng Giêrudalem, đến cuối thế kỉ IV trở thành quốc giáo của đế quốc Rôma
– Để quản lí việc đạo trong toàn đế quốc, đạo Kitô đã thành lập 5 trung tâm giáo hội là: Côngxtăngtinôp, Antcôt, Giêrudalem, Alêchxangđri và Rôma. Đứng đầu mỗi trung tâm là một Tổng giám mục.
– Năm 1054, giáo hội Kitô giáo đã bị phân ly thành 2 giáo hội: giáo hội phương Tây hay giáo hội Rôma (trụ sở là tòa thánh Vatican) và giáo hội phương Đông hay giáo hội Hy Lạp (giáo hội chính thống). Hai giáo hội này tồn tại độc lập thậm chí thù địch nhau.
Trong suốt thời trung đại, giáo hội Kitô có thế lực rất lớn về kinh tế, chính trị, văn hóa và là chỗ dựa vững chắc của chính quyền phong kiến.
II. VĂN HÓA TÂY ÂU TỪ THẾ KỈ V ĐẾN THẾ KỈ X
1. Tình hình chung về văn hóa, giáo dục, tư tưởng
– Khi vào lãnh thổ Tây bộ Rôma, người Gecman đã tàn phá nặng nề những di sản của nền văn minh cổ đại ở đây, chỉ duy nhất không xâm phạm các nhà thờ và tu viện Kitô giáo.
– Trong các vương quốc của người Gecman, hầu hết giai cấp quý tộc, kể cả nhà vua đều mù chữ, cũng như không có trường học nào ngoài trường Dòng. Tầng lớp giáo sĩ là tầng lớp duy nhất biết chữ (nhưng họ biết chữ chỉ để học và giảng kinh thánh)
– Nội dung học tập chủ yếu trong các trường Dòng là Thần học- môn học được coi là “bà chúa của khoa học„. Các môn học khác như: Ngữ pháp, Tu từ học, Lôgic học, Số học, Hình học, Thiên văn học, Âm nhạc…đều nhằm bổ trợ và phục vụ cho Thần học.
Tóm lại, văn hóa Tây Âu thời sơ kì trung đại hết sức thấp kém và hoàn toàn bị giáo hội Kitô lũng đoạn. Những gì trái với Kinh thánh đều bị giáo hội vùi dập không thương tiếc. Châu Âu thời kì này chìm đắm trong “đêm trường trung cổ„
2. Văn hóa phục hưng thời Carôlanhgiêng (Đọc giáo trình)
III. VĂN HÓA TÂY ÂU TỪ THẾ KỈ XI ĐẾN THẾ KỈ XIV
1. Sự thành lập các trường đại học
– Do sự phát triển của nền kinh tế, các thành thị ra đời, đồng thời tầng lớp thị dân cũng xuất hiện. Tầng lớp này có nhu cầu rất lớn về tri thức để mở rộng tầm hiểu biết của mình. Xuất phát từ nhu cầu đó, các trường học đã ra đời, ban đầu là các trường phổ thông, sau đó là các trường đại học.
Trường đại học đầu tiên là Bôlôna (Ý), sau đến các trường như Paris, Ooclêăng (Pháp), Oxford, Cambridge (Anh), Xalamanca (Tây Ban Nha), Palecmo (Ý)…Cuối thế kỉ XIV ở Châu Âu có 40 trường đại học. Học sinh đủ mọi thành phần, từ con em quý tộc, tăng lữ đến thị dân, nông dân.
– Nội dung và phương pháp học tập: Ngôn ngữ dùng để giảng dạy trong các trường học là tiếng Latinh. Tiếng Latinh là ngôn ngữ chết (tử ngữ), có nghĩa là dân chúng không nói tiếng này. Vì thế đầu tiên, học sinh phải học đọc và viết tiếng Latinh. Khi đó, sách vở rất hiếm và rất đắt (sách vở làm bằng da cừu hoặc da dê dát mỏng, viết bằng bút lông ngỗng), cho nên chỉ thầy giáo (đều là thầy tu) mới có một quyển sách để dạy học, còn học trò học thuộc lòng những chữ và những câu do thầy đọc. Học trò tập viết vào một tấm bảng con xoa sáp, sau khi viết xong lại xóa đi và viết chữ khác. Vì tiếng Latinh rất khó đọc, khó viết nên thời gian học đọc, học viết này kéo dài 3 năm. Do việc học tiếng Latinh không có chút hào hứng nào đối với học sinh, nên cách dạy chủ yếu là bắt trẻ con phải học và đánh đập, học trò đi học luôn trong tình trạng “sống dưới roi vọt„.
Sau khi học sinh đã đọc thông, viết thạo tiếng Latinh, học sinh phải học tiếp “bảy nghệ thuật tự do”: văn phạm (hay ngữ pháp), tu từ học (nghệ thuật nói), biện chứng pháp (nghệ thuật tranh cãi), số học, hình học, thiên văn học và âm nhạc. Nhìn chung, các môn khoa học thời kì này đều bị giáo hội lợi dụng, lừa dối, xuyên tạc nhằm phục vụ lợi ích của giáo hội. Ví dụ, trong môn hình học, có cả những kiến thức địa lý, nhưng hết sức sai lầm và vô lý. Người ta dạy trái đất như một cái đĩa nổi trên mặt đất, giữa cái đĩa là cái rốn của vũ trụ, là thành phố Giêrudalem. Bản đồ thời bấy giờ chỉ vẽ 3 châu lục: châu Âu, châu Á và châu Phi, nhưng còn hết sức đơn giản và nhiều sai sót. Trong môn thiên văn học, người ta dạy trái đất đứng im một chỗ, còn tất cả các hành tinh khác (kể cả mặt trời) đều xoanh quanh trái đất.
Sau khi học xong “bảy nghệ thuật tự do” trong 5 hoặc 7 năm, học sinh có thể xin vào học tại trường đại học. Trường đại học thời đó thường chỉ có 3 khoa: Thần học, Luật học và Y học. Có một số trường chỉ dạy một khoa nhất định như trường Đại học Xoocbon ở Paris chủ yếu giảng dạy môn Thần học, trường Đại học Bôlônha ở Italia chủ yếu giảng dạy luật Rôma…Môn luật học Rôma được đề cao từ khi kinh tế hàng hóa – tiền tệ phát triển và chính quyền quân chủ tập quyền được thiết lập. Bộ luật Rôma trước kia đề cao quyền lực vô hạn của hoàng đế Rôma, thì nay giúp cho việc tăng cường uy quyền của nhà vua dưới chế độ quân chủ tập quyền. Muốn làm thẩm phán, luật sư, chánh án…phải tốt nghiệp khoa Luật các trường đại học.
Các trường đại học thời trung đại thường được xây dựng ở các thành thị sầm uất, mượn một số trong tu viện hay nhà thờ làm giảng đường. Các giáo sư giảng dạy ở các trường đại học phần đông là các giám mục và một số học giả. Thiết bị của nhà trường rất sơ sài, sinh viên ngồi trên những mảnh ván, mùa đông thì trải đệm cỏ lên ván cho ấm để nghe giáo sư giảng bài.
– Tuy nhiên, giáo hội vẫn tìm mọi cách để chi phối, khống chế các trường đại học (đuổi nhiều giáo sư tiến bộ, thay bằng các giáo sĩ), triết học kinh viện chiếm vị trí quan trọng nhất trong trường đại học.
2. Triết học kinh viện
Đây là môn học rất được chú trọng trong các trường đại học. Triết học kinh viện là một thuật ngữ dịch từ chữ scolasticus trong tiếng Latinh có nghĩa là triết học nhà trường.
– Nội dung – đặc điểm: Áp dụng những phương pháp biện luận cực kì rắc rối, chú trọng lôgic hình thức. Các nhà triết học kinh viện cho rằng đối với các hiện tượng tự nhiên không cần phải quan sát, thí nghiệm mà chỉ cần dùng phương pháp tư duy trừu tượng thì cũng có thể đạt tới chân lý.
– Trong khi nghiên cứu vấn đề khái niệm chung, triết học kinh viện đã chia làm hai phái:
+ Phái duy thực: khái niệm có trước sự vật. Là chủ nghĩa duy tâm hoàn toàn.
+ Phái duy danh: sự vật có trước, khái niệm có sau. Là trường phái có nhân tố của chủ nghĩa duy vật. Chính vì thế, tuy vẫn tin ở Chúa những các nhà duy danh thường bị giáo hội ngược đãi và rút phép thông công, trái lại những người duy thực rất được đề cao.
– Sang thế kỉ XIV, triết học kinh viện bắt đầu suy thoái. Từ đây các nhà triết học kinh viện không nghiên cứu khoa học tự nhiên và các tác phẩm cổ điển nữa mà chỉ làm công việc biện hộ cho giáo lý của đạo Thiên chúa, đồng thời họ đấu tranh mạnh mẽ với những nhà khoa học của giai cấp tư sản mới ra đời tức là những người theo chủ nghĩa nhân văn.
3. Văn học
Bao gồm có văn học dân gian, văn học Latinh, văn học kị sĩ và văn học thành thị.
– Văn học kị sĩ:
+ là các câu chuyện, bài thơ ca ngợi những con người mang đầy đủ các tính cách của giới kị sĩ, đó là trung thành với lãnh chúa, ngoan đạo, tôn thờ người đẹp và dũng cảm trong chiến đấu.
+ Được chia làm hai loại: anh hùng ca và trữ tình
+ Tác phẩm tiêu biểu: Bài ca Rôlăng, Bài ca Xit, Bài ca Nibêlunghen, Tơrixtăng và Ydơ…
– Văn học thành thị:
+ Nội dung: là tiếng nói của thị dân nhằm đả kích giai cấp phong kiến vạch trần sự tham lam và những hành vi xấu xa của tầng lớp giáo sĩ, đồng thời miêu tả sự thông minh, tháo vát của nhân dân.
+ Hình thức phong phú: Kịch, thơ, truyện ngắn…
+ Tác phẩm tiêu biểu: Di chúc của con lừa, Thầy lang vườn…
4. Nghệ thuật kiến trúc
– Nghệ thuật kiến trúc Tây Âu thời kì này bị suy thoái. Kiến trúc Rôman thô kệch, những nhà thờ xây bằng đá, tường dày, cửa sổ nhỏ, mái tròn, cột to và thấp, nơi cửa ra vào có tháp chuông nhọn và đồ sộ.
– Nửa sau thế kỉ XII, kiến trúc Gôtich xuất hiện ở miền Bắc nước Pháp: vòm cửa nhọn, nóc nhà nhọn, bên ngoài có tháp cao vút, tường mỏng, cửa sổ lớn, được trang trí bằng nhiều kính màu làm cho trong nhà có đầy đủ ánh sáng.
IV. VĂN HÓA TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯNG
1. Nguyên nhân, điều kiện của phong trào
1.1. Nguyên nhân
– Suốt thời sơ kỳ và trung kỳ trung đại, văn hoá Tây Âu bị giáo hội chi phối và lũng đoạn. Thần học được coi là “Bá chúa của các môn khoa học”. Cả thầy dạy lẫn nội dung giảng dạy đều bị giáo hội chi phối. Tư tưởng duy tâm thần học giam hãm con người trong vòng u tối, lạc hậu. Trong khi đó, xét về đẳng cấp xã hội, tầng lớp tu sĩ trói buộc mình trong chủ nghĩa khổ hạnh, giam hãm mình trong 4 bức tường của nhà thờ, tu viện. Quý tộc võ sĩ thì chỉ suốt ngày tiệc tùng, săn bắn, gây chiến tranh cướp bóc lẫn nhau, không quan tâm đến phát triển văn hoá. Mọi tư tưởng, hành động trái với những điều trong Kinh thánh đã dạy đều bị coi là phản động. Các toà án tôn giáo được thiết lập để trừng phạt những kẻ tà đạo, dị giáo.
– Đến thời hậu kỳ, khi quan hệ sản xuất TBCN xuất hiện, giai cấp tư sản ra đời và ngay từ khi mới ra đời giai cấp tư sản đã mâu thuẫn với giai cấp phong kiến về quan niệm sống, quan niệm đối với văn hoá, khoa học kỹ thuật.
+ Giai cấp phong kiến cho rằng cuộc đời con người chỉ là “thung lũng đầy nước mắt”, “con người là một ngọn đèn trước gió” “con người là khách bộ hành lang thang trên mặt đất và mặt đất chỉ hoàn toàn là nơi mang tính chất tạm thời, không đáng giá, chỉ là ngưỡng cửa để đi vào cõi vĩnh hằng”. Do đó, con người cần nhẫn nhục chịu đựng, làm theo lời răn của Chúa mới mong có cuộc sống tốt đẹp nơi thiên đường.
Trái lại, giai cấp tư sản lại lên tiếng đòi quyền sống tự do, phóng khoáng, đòi được hưởng thụ đầy đủ mọi hạnh phúc của cuộc đời, phải được thoả mãn mọi nhu cầu ăn ngon, mặc đẹp, vui choi, giải trí, mọi nhu cầu về tinh thần, không phải ở trên thiên đường mà phải ở ngay trần thế này. Cuộc sống trần thế rất cần và hoàn toàn có ý nghĩa đối với cuộc sống con người.
+ Trong khi giai cấp phong kiến không quan tâm tới phát triển văn hoá, không cần đến văn hoá, thì giai cấp tư sản lại muốn con người phải được hiểu biết, mở rộng tầm nhìn, phải xây dựng một nền văn hoá mới.
– Xây dựng nền văn hoá mới, giai cấp tư sản vừa mới ra đời không thể bắt đầu từ con số không mà phải tiếp nối, phát triển những giá trị văn hoá từ trong quá khứ. Chính trong thời điểm đó, những trí thức, những nghệ sĩ của giai cấp tư sản đã bắt gặp những giá trị của nền văn hoá Hy Lạp – La Mã rực rỡ cổ xưa, ở đó họ tìm thấy những giá trị đích thực mà thời đại họ cần. Từ đó, bắt đầu một trào lưu nghiên cứu, tìm hiểu, giới thiệu, dịch thuật những tác phẩm văn học Hy Lạp, khôi phục lại những giá trị đích thực của văn hoá Hy Lạp – La Mã. Do đó, phong trào “Văn hoá Phục hưng” đã ra đời trên cơ sở phục hưng những giá trị của văn hóa Hy – La.
1.2. Điều kiện của phong trào
Phong trào Văn hoá Phục hưng đã diễn ra với những điều kiện thuận lợi:
– Kỹ thuật làm giấy và nghề in của người Trung Quốc được người Arập truyền vào phương Tây và được sử dụng rộng rãi ở một số nước Tây Âu trong đó có Ý. Đầu thế kỉ XV, châu Âu bắt đầu biết dùng bản khắc để in. Đến khi Johanne Guttenbec ở Đức phát minh ra kỹ thuật ấn loát bằng cách xếp chữ rời, nhất là vào năm 1440, Guttenbec phát minh ra được máy in và có thể in hai mặt chữ trên giấy, nhiều sách vở được xuất bản và văn hoá được phổ biến rộng rãi, giúp cho phong trào Văn hoá Phục hưng càng phát triển nhanh chóng hơn.
– Nghề đóng thuyền, sử dụng địa bàn, địa đồ, kỹ thuật đúc súng đạn tạo điều kiện cho các cuộc phát kiến địa lý thành công, mang lại sự giàu có cho châu Âu và mở ra cho khoa học những mảnh đất nghiên cứu mới.
– Văn hoá Phục hưng diễn ra gần như đồng thời với cải cách tôn giáo ở châu Âu, với cuộc đấu tranh của nông dân chống sự áp bức bóc lột của giai cấp phong kiến, tăng lữ, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống phong kiến.
– Ngoài ra, phong trào Văn hoá Phục hưng còn diễn ra trong thời kỳ chế độ quân chủ chuyên chế thắng lợi ở một số nước tiên tiến ở Châu Âu (Anh, Pháp…) làm chỗ dựa cho giai cấp tư sản lúc đó.
– Chủ nghĩa dân tộc đang hình thành và bắt đầu nổ ra những cuộc cách mạng tư sản tảo kỳ (Nêđeclan, Thuỵ Sĩ..)
Những sự kiện trên đều có tác động qua lại đối với phong trào Văn hoá Phục hưng, tạo thêm điều kiện cho phong trào Văn hoá Phục hưng nở rộ và phát triển.
Vậy phong trào “Văn hoá Phục hưng” là gì?
Người Ý gọi phong trào này là Renascita, người Pháp gọi là Renaissance. Nhưng dù là Renascita hay Renaissance đều có cùng 1 nghĩa là “Phục hưng” “Tái sinh”, hiểu nôm na là “sống lại”. Nhưng “Phục hưng” cái gì, cái gì được “tái sinh”, cái gì được làm cho “sống lại”.
Một số học giả phương Tây cho rằng phong trào này nhằm “Phục hưng”, nhằm làm “sống lại” nền văn hóa cổ đại Hy Lạp và Rôma được phát hiện nhờ những cuộc khai quật, nhờ những bản sách chép tay để lại còn giữ được.
Đúng là từ thế kỉ XIV – XVI, ở Châu Âu đã có cả một phong trào đi tìm kiếm những di tích của hai nền văn hoá cổ đại Hy Lạp và Rôma, người ta đua nhau học tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh để đọc được các bản chép tay đó. Nhưng sẽ sai lầm nếu cho rằng mục đích của phong trào Văn hoá Phục hưng chỉ mang ý nghĩa phục cổ đơn thuần. Thật ra từ khi giai cấp tư sản ra đời tất yếu nảy sinh tư tưởng chống lại những quan hệ phong kiến lỗi thời, lạc hậu cùng những tư tưởng bảo thủ, phản động của nhà thờ Thiên chúa giáo đang cản trở bước tiến của giai cấp này. Tư tưởng đó đã bắt gặp sự đồng cảm qua việc tìm hiểu nền văn hoá cổ đại và từ đó giai cấp tư sản trong khi phục hồi và làm hưng thịnh lại nền văn hoá rực rỡ cổ xưa đã thổi vào đó luồng gió mới, hơi thở mới của nhân sinh quan, thế giới quan tư sản. Tư Tưởng nhân văn chủ nghĩa là kim chỉ nam cho mọi suy nghĩ và hành động của con người thời đại Phục hưng.
Vậy, Phong trào Văn hoá Phục hưng là sự khôi phục lại, sự hưng thịnh lại những tinh hoa của nền văn hoá Hy – La cổ đại, phát triển lên ở trình độ cao hơn, nhưng trong đó ý thức hệ tư sản chiếm địa vị chi phối tuyệt đối.
Phong trào đó đã xuất phát từ Ý rồi lan tràn khắp châu Âu qua các thế kỉ XIV, XV, XVI, gây lên một làn sóng chống phong kiến sậu rộng, mãnh liệt và đã đánh tan những bóng ma của thời trung cổ. Enghen viết : “Thế kỉ XVI là thế kỉ toàn thịnh của nền Văn hoá Phục hưng”.
2. Thành tựu, nội dung của phong trào Văn hoá Phục hưng
2.1. Thành tựu
??? Đọc tài liệu và trả lời câu hỏi: Những thành tựu tiêu biểu của văn hóa Phục hưng?
Phong trào Văn hoá Phục hưng đã đạt được nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh vực, có rất nhiều tên tuổi các nhà bác học, văn học, nghệ thuật tiêu biểu, như Ăngghen đã nói: “Thời đại này cần phải có những vĩ nhân và chính nó đã tạo ra những vĩ nhân về tư tưởng, về nhiệt tình, về bản lĩnh, những vĩ nhân về mặt bác học và kiến thức toàn diện” (Phép biện chứng của tự nhiên)
* Văn học:
+ Đantê (1265 – 1324) là người đi tiên phong trong phong trào Văn hoá Phục hưng ở Ý. Tác phẩm chủ yếu của Đantê là “Thần khúc” (Divina Comedia), tập thơ gồm ba phần: địa ngục, nơi rửa tội và thiên đường. Trong tập thơ trường thiên này, Đantê khát vọng một quốc gia thống nhất, chống chia rẽ, ủng hộ nhà vua, đặt nhà vua lên chỗ cao nhất trên thiên đường. Trong khi đó, ông đặt nhiều Giáo hoàng đã chết vào địa ngục, đồng thời cũng để dành một vị trí tại lò lửa tầng 16 của địa ngục cho Giáo hoàng đương nhiệm lúc bấy giờ là Bônêphaxiô VIII. Điều này thể hiện rõ thái độ phê phán, đả kích giáo hoàng vào giáo hội. Hạn chế: Tác phẩm “Thần khúc” của Đantê vẫn mang nặng quan niệm tôn giáo. Ănghen đã nhận xét ông là “thi nhân cuối cùng của thời trung cổ đồng thời lại là thi nhân đầu tiên của thời đại mới”.
+ Bôcaxiô (1313 – 1375), một nhà nhân văn chủ nghĩa khác của Ý, nổi tiếng với tác phẩm “Câu chuyện mười ngày”. Nội dung của tác phẩm kể lại năm 1348, khi thành phố Phirenxê (quê hương của ông) bị bệnh dịch hạch, có 10 thanh niên gồm cả trai và gái đi về miền quê để tránh dịch bệnh, họ ở lại đó 10 ngày và kể cho nhau nghe 100 câu chuyện với đủ các đề tài, trong đó có nhiều chuyện kể về thói hoang dâm, giả dối của các giáo sĩ và những người quý tộc. Tác phẩm bộc lộ rõ khuynh hướng dân chủ và đặc điểm của chủ nghĩa hiện thực. Những điều mà ông ca tụng : đề xướng phát triển cá tính, ca ngợi sự lanh lợi của thương gia và những người làm nghề thủ công, chống lại chủ nghĩa cấm dục…đó chính là chủ nghĩa cá nhân của giai cấp tư sản. “Câu chuyện 10 ngày” của Bôcaxiô là tác phẩm có tính chất vạch thời đại trong lịch sử văn học Châu Âu.
+ Eratxmut (1466 – 1536), người Hà Lan, được mệnh danh là “ông hoàng của chủ nghĩa nhân văn”, tác phẩm tiêu biểu “Tán dương sự điên rồ”. Đây là tác phẩm trào phung sâu sắc, trong đó tác giả đã công kích bọn tăng lữ, đặc biệt là Giáo hoàng dùng những lời lẽ có vẻ “thâm thuý”, bàn cãi những vấn đề rỗng tuyếch để dạy đời nhưng bản chất là ngu xuẩn, tham lam, truỵ lạc, dâm ô.
+ Rabơle (1494 – 1553) là nhà nhân văn chủ nghĩa vĩ đại nhất của Pháp. Tác phẩm nổi tiếng là “Cuộc đời đáng chán của người khổng lồ Gác găng chuyê và người con Păngtagruyen”. Câu chuyện kể về một người khổng lồ Gác găngchuyê vừa mới lọt lòng đã đòi “uống”. Người ta phải lấy sữa của 170.913 con bò cho uống mới đủ. Con của Gác găngchuyê là Păngtagruyen cũng là một người khổng lồ. Anh cùng với người bạn của mình trong cuộc hành trình tìm lọ nước thần đã đặt chân đến một hòn đảo của những kẻ chuyên giơ lưng chịu đấm để đòi tiền bồi thường, đến hòn đảo của những loài chim chỉ biết hót và ăn cho béo, lại đến hòn đảo của những loài mèo xồm chuyên ăn hối lộ…cuối cùng đã đến được ngôi đền “Lọ nước thần” và nghe phán một tiếng “uống”.
Mặc dù là tác phẩm trào phúng có vẻ hoang đường nhưng nó lại chứa nhiều nội dung hiện thực phê phán rất có giá trị. Khi nói đến những người thực, việc thực trong xã hội lúc bấy giờ, đó là giáo hoàng, giáo sĩ, vua quan, là cuộc sống lười biếng, ăn bám, là những việc làm xấu xa đầy rẫy trong cuộc sống hàng ngày.
+ Xécvantec (1547 – 1616): là nhà tiểu thuyết nổi tiếng Tây Ban Nha. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông và đồng thời cũng là một kiệt tác của văn học thế giới là “Đônkihôtê” (Đông ki sốt). Tác phẩm này được viết ròng rã trong 10 năm trời là một bức tranh chân thực rõ ràng về cuộc sống ở Tây Ban Nha trong thế kỉ XVI, là một tác phẩm châm biếm đả kích xã hội phong kiến nói chung. Xécvantec kể lại câu chuyện buồn cười và cảm động của một con người cuồng vọng đã ôm một ý nguyện làm chàng hiệp sĩ phong kiến đi ngao du các nơi làm nên những sự nghiệp vĩ đại, quyết tâm chiến đấu với mọi sự bất bình với một tinh thần dũng cảm không hoang mang. Nhưng con người hiệp sĩ Đông ki sốt đó hoàn toàn không hiểu được cuộc sống hiện thực hàng ngày nên đã gặp những hoàn cảnh buồn cười và đáng thương. Trong cuốn tiểu thuyết này, Xécvantec không những chế giễu tàn dư của lý tưởng hiệp sĩ phong kiến (đại diện của quý tộc phong kiến) mà còn nêu ra một hiện thực xã hội về nước Tây Ban Nha quý tộc quân chủ đang trong giai đoạn tàn lụi của chế độ phong kiến, đồng thời báo hiệu sự xuất hiện của thời đại Phục hưng với những con người mới, tính cách mới.
+ W.Sêchspia (1564 – 1616): là tác giả tiêu biểu của nghệ thuật kịch thời Phục hưng, đồng thời là người tiêu biểu cho văn hoá nước Anh thời kỳ này. Ông xuất thân từ một gia đình thị dân giàu có ở thành phố Strandford. Trong thời niên thiếu, gia đình ông bị suy sụp nên ông phải tự kiếm sống từ sớm. Ông từng làm người phu giữ ngựa , tạp dịch, đóng vai phụ tại kịch viện ở Luân Đôn. Năm 30 tuổi, ông trở thành nhà viết kịch nổi tiếng nhất nước Anh. Trong 20 năm hoạt động sáng tác (1592 – 1612), Sêchxpia đã để lại 36 vở kịch gồm hài kịch : Đêm thứ 12, người lái buôn thành Vênêxia; bi kịch : Rômeo và Juliet, Hamlet, Otenlo, Vua Lia, Macbet; Kịch lịch sử như Risot II, Risot III, Henri IV. Trong các tác phẩm của mình, Sêchspia đã đưa lên sân khấu các nhân vật thuộc tất cả các tầng lớp trong xã hội và đề cập đến nhiều mặt, nhiều mâu thuẫn phức tạp trong cuộc sống xã hội vào giai đoạn chế độ phong kiến đang suy tàn và CNTB bắt đầu xuất hiện.
* Nghệ thuật:
+ Người mở đầu kỷ nguyên mới của nghệ thuật Phục hưng là Leona de Vinxi. Mọi cuốn từ điển như Bách khoa danh nhân, lịch sử mỹ thuật, lịch sử văn hoá, khi nói đến Leona de Vinxi đều bắt đầu bằng những câu : “Một trong những người vĩ đại, ông là linh hồn cua thời kỳ Phục hưng, một nghệ sĩ toàn diện lỗi lạc, một nhà bác học, một nhà phát minh được xem là khuôn mặt đặc sắc nhất thời đại”. Đặc điểm hội hoạ của ông là thiên về mô tả tính cách và hoạt động nội tâm của nhân vật. Những tác phẩm tiêu biểu của ông là “bữa tiệc cuối cùng”, “Đức mẹ đồng trinh trong hang đá”, “nàng Giôcông”.
Trong tất cả các bức vẽ chân dung của Leona de Vinxi, bức La Joconde được xem là một bức tranh đạt nhất và cũng là tác phẩm được lưu lại hoàn hảo nhất. Người phụ nữ trong tranh có tên là Lisa Ghêrarettini, lúc bấy giờ độ 25 tuổi, vợ của một luật gia ở Florenxơ tên là Francesco de Joconde. Joconde là một bức tranh gây ra nhiều tranh luận. Cho đến nay mọi người mọi người xem tranh vẫn luôn muốn hiểu Monalisa đã nghĩ gì trong đôi mắt, nụ cười kia là một nụ cười vui hay buồn, hóm hỉnh hay khinh miệt. Leona de Vinxi đã để ra gần 4 năm để hoàn thành bức tranh này.
Bức tranh “Bữa tiệc cuối cùng” : Bữa ăn mà chúa Giêsu dùng bữa với 12 thánh tông đồ. Chúa ngồi ở giữa, tay trái, tay của trái tim đặt ngửa giữa bàn, tay phải lật sấp cùng với lời người đã phán ra : “ở trong số các người có 1 người sẽ phản ta. Người đó là ai?”. Câu nói ấy của Chúa gây ra những phản ứng khác nhau trên từng khuôn mặt của các thánh tông đồ, từ phải sang trái, từng nhóm 3 người theo cảm xúc kinh ngạc, nghi ngờ, đau xót và căm giận. Đây là một bức tranh rất hoàn hảo về mô tả nhân vật, bố cục và màu sắc.
+ Mikenlănggiơlô : là một nhà điêu khắc, 1 họa sĩ, 1 kiến trúc sư, 1 kỹ sư, 1 nhà thơ…1 danh nhân toàn diện, là bậc thầy lớn của nhân loại.
Bức tranh “Sáng tạo thế giới”: vẽ trên trần nhà thờ Sicxtin ở Roma, trong đó có 343 nhân vật mà mỗi người đều lớn gấp mấy lần người thật và người nào cũng tỏ ra có một sức lực vô tận, do đó đã làm tăng thêm sự hùng vĩ của nhà thờ. Để vẽ bức tranh lớn này, Mikenlănggiơlô đã phải nằm ngửa trên giàn giáo lao động suốt 4 năm trời (1508 – 1512). Ở ô giữa cửa vòm Mikenlănggiơlô dành cho tạo sinh con người. Đức chúa trời bay trong không trung bằng một phép màu nhiệm không dùng đến đôi cánh như một thiên thần. Đức chúa trời là một người cao tuổi, đẹp, quắc thước và đường bệ. Adam – con người đầu tiên thu nhận sự sống của Chúa Trời, nét mặt đăm chiêu suy nghĩ, tuy có nhìn về phía người đã ban cho mình sự sống nhưng hình như Adam đã đoán trước được nỗi đau khổ của kiếp người nên đôi mắt có phần u uẩn, bàn tay trái đưa lên để nhận hơi sống của Chúa cũng có phần uể oải…
Bức tranh “Cuộc phán xét cuối cùng” vẽ trên tường nhà thờ Sicxtin, dài 17 thước, cao 13 thước. Toàn bộ bức tranh ngả về hung đỏ trên nền xanh lơ nhạt, sắc độ đậm nhạt phong phú. Trong bức bích hoạ này, tác giả đã vẽ nhiều người chui từ trong mộ ra để nghe xét xử, họ tỏ ra rất đau khổ, quằn quại. Ngay chúa Giêsu đứng trên trời cao cũng mất đi cái vẻ trang nghiêm vốn có mà tỏ ra đang vô cùng thương xót chúng sinh. Sau lưng Chúa là Đức mẹ dáng hoảng hốt nép mình vào con. Người ta tưởng như có thể nghe được hồi kèn thức tỉnh của các thiên thần..các mồ đều mở nắp, linh hồn người chết thoát ra, kẻ được lên thiên đàng, người xuống hoả ngục….Có ý kiến đã nhận xét “nếu muốn biết khả năng sáng tạo của con người đến mức nào hãy đến xem Sicxtin”
Về điêu khắc, các bức tượng Đavit, Môidơ, người nô lệ bị trói…là những tác phẩm tương đối tiêu biểu, đặc biệt tượng Davit tạc bằng đá cẩm thạch, cao 5.3 m. Khác với thần thoại trong kinh thánh, Mikenlănggiơlô không thể hiện Davit là một thiếu niên mà là một lực sĩ đầy sức mạnh. Vì vậy, năm 1504, tượng này được dựng tại một quảng trường ở Phirenxê để thể hiện tinh thần của kẻ thống trị phải anh dũng bảo vệ thành phố.
* Khoa học tự nhiên:
Các nhà khoa học thời Văn hoá Phục hưng thường gắn với triết học vì triết học kinh viện chủ nghĩa làm tê liệt mọi tìm tòi, nghiên cứu, ngăn cản mọi tiến bộ khoa học cho nên khoa học muốn phát triển thì cần phải đấu tranh với triết học kinh viện và kẻ bảo vệ là Giáo hội.
– Trong lĩnh vực thiên văn học:
Thời trung cổ quan điểm thiên văn học lưu hành rộng rãi nhất là “Thuyết địa tâm” của Ptôlêmê, một nhà thiên văn học thời cổ của La Mã. Học thuyết này cho rằng trái đất đứng yên không chuyển động và là trung tâm của vũ trụ, mặt trời, mặt trăng và các hành tinh khác đều xoay quanh trái đất. Thuyết này đã trở thành cây cột đá vững chắc cho mọi học thuyết, cho Giáo hội thời trung cổ, ai phủ nhận học thuyết này có nghĩa là chống lại với quyền uy của Giáo hội.
Đi đôi với việc phát triển hàng hải cũng như sự tiến bộ về mặt tri thức khoa học, người ta lại càng chứng thực “Thuyết địa tâm” của Ptôlêmê không phù hợp với thực tế.
+ Nicôlai Côpecnic : nhà bác học, triết học Ba Lan vĩ đại. Ông đã dựa voà sự quan sát và tính toán sự vận hành của mặt trời, mặt trăng và các hành tinh để tổng kết thành quả nghiên cứu của các nhà thiên văn học tiền bối rồi viết ra quyển “Bàn về sự vận hành của các thiên thể” (xuất bản năm 1543), nêu ra “Thuyết nhật tâm” khai sáng ra môn thiên văn học cận đại. Nội dung của Thuyết nhật tâm là khẳng định trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là trung tâm của quỹ đạo mặt trăng, mặt trời mới là trung tâm của vũ trụ, mỗi ngày mặt trời chuyển động từ đông sang tây.
Học thuyết của Côpecnic chẳng những đã lật đổ lập luận sai lầm của cái gọi là “Thượng đế đã chọn trái đất là trung tâm của vũ trụ” đả kích thế giới quan của tôn giáo mà còn có ý nghĩa như một cuộc cách mạng trong nhận thức của con người về thế giới. Từ những luận điểm cơ bản của Côpecnic, các nhà bác học kế tục ông như Brunô, Kêplơ, Galilê đã mở rộng và phát triển thêm những hiểu biết của con người về vũ trụ.
Trên mộ của Côpecnic người ta đã ghi dòng chữ “Người đã giữ lại Mặt trời và đẩy Trái đất chuyển dịch”.
– Brunô là người đã tích cực hưởng ứng học thuyết của Côpecnic. Ông cũng vốn là một giáo sĩ, nhưng trong khi Giáo hội cấm lưu hành tác phẩm của Côpecnic thì ông lại phát triển thêm một bước, ông cho rằng vũ trụ là vô tận, mặt trời không phải là trung tâm của vũ trụ mà chỉ là trung tâm của Thái dương hệ của chúng ta, ngoài ra còn có rất nhiều Thái dương hệ khác. Ông còn là nhà triết học khi chứng minh vật chất luôn luôn vận động, luôn luôn biến đổi và tồn tại vĩnh viễn. Giáo hội Thiên chúa đã tuyên bố ông là “tín đồ dị giáo” và rút phép thông công của ông và buộc ông phải rời bỏ tổ quốc vĩnh viễn. Năm 1592, Brunô trở về Ý và bị cầm tù 7 năm, mặc dù vậy ông vẫn không từ bỏ học thuyết của mình.Năm 1600, Brunô bị Giáo hội La Mã thiêu sống.
– Giôhan Kêplơ (1571 – 1630), nhà thiên văn học người Đức, thông qua sự quan sát tinh vi và chính xác, ông đã nắm được quy luật vận hành của các hành tinh. Ông đã chứng minh quỹ đạo của trái đất xoay quanh mặt trời có hình quả trám chứ không phải hình tròn, mặt trời nằm tại tiêu điểm của hình quả trám nói trên, sự vận hành của các hành tinh không đều nhau, càng gần mặt trời thì tốc độ chuyển động càng nhanh.
– Galilê : là một nhà thiên văn học người Ý, tiếp tục phát triển quan điểm của Côpecnic và Brunô. Ông là người đầu tiên dùng kính viễn vọng phóng to gấp 30 lần để quan sát bầu trời và ông đã nhận thấy học thuyết của Côpecnic là đúng. Ông phát hiện nhiều ngôi sao mới cũng như khoảng cách và quy luật vận hành của nó. Ông phát hiện bên cạnh Mộc tinh còn có 4 vệ tinh xoay quanh, bề mặt của mặt trăng có núi cao và hố sâu, mặt trời có đốm đen, ngân hà là do vô số các vì sao kết hợp lại chứ không phải do thượng đế sáng tạo ra để chiếu sáng cho địa cầu như giáo hội đã tuyên truyền.ông cũng là người mở đầu cho ngành khoa học thực nghiệm. Những luận cứ của ông đã bị Giáo hội công kích kịch liệt. Giáo hội bắt Galilê hạ ngục năm ông 70 tuổi và bắt phải quỳ xin tuyên thệ bỏ thuyết quả đất quay của mình. Toà án dị giáo còn quản thúc Galilê cho đến khi chết. Người ta đã ca ngợi “Colombo phát hiện ra tân đại lục, còn Galilê phát hiện ra vũ trụ mới”.
Ngoài ra các lĩnh vực khác như vật lý học, toán học, y học, triết học…cũng đạt được những thành tựu quan trọng.
2.2. Nội dung
Phong trào Văn hoá Phục hưng tuy có tiếp thu và kế thừa một số yếu tố của văn hoá Hy Lạp- La Mã cổ đại nhưng thực chất đây không phải là một phong trào phục cổ mà là một phong trào văn hoá hoàn toàn mới dựa trên nền tảng kinh tế xã hội mới và được chỉ đạo bởi một hệ tư tưởng mới. Tư tưởng chỉ đạo của phong trào Văn hoá Phục hưng là chủ nghĩa nhân văn.
Vậy chủ nghĩa nhân văn có nghĩa là gì?
Nhân là người, văn là vẻ đẹp, chủ nghĩa nhân văn được hiểu là chủ nghĩa đề cao cái đẹp con người.
Nhà triết học Vonghin đã định nghĩa : “chủ nghĩa nhân văn là toàn bộ những quan điểm tu tưởng về đạo đức bắt nguồn không phải từ cài gì siêu nhiên kỳ ảo ngoài đời sống nhân loại mà là từ những vấn đề thực tế, tồn tại trên mặt đất với tất cả những nhu cầu, những khả năng trần thế đó đòi hỏi phải được phát triển đầy đủ, phải được thoả mãn”.
Sêcxpia ca ngợi: “ Kỳ diệu thay là con người. Con người cao quý làm sao về trí tuệ, vô tận làm sao về năng khiếu, về hình dung và dáng vóc, nó đẹp tự nhiên tựa thiên nhiên. Về trí tuệ nó có thể sánh tài thượng đế, thật là vẻ đẹp của thế gian, kiểu mẫu của loài người”.
Chủ nghĩa nhân văn là tư tưởng chú trọng đến con người, chú trọng cuộc sống hiện tại, chủ trương con người được hưởng quyền hưởng mọi lạc thú ở đời. Nó hoàn toàn đối lập với quan niệm của Giáo hội Thiên Chúa chỉ sùng bái chúa, chỉ chú ý đến cuộc sống của linh hồn sau khi chết ở Thiên đàng và đề xướng chủ nghĩa cấm dục.
Nội dung của chủ nghĩa nhân văn thể hiện ở các điểm sau :
1.Đề cao giá trị con người, đòi quyền tự do cá nhân
Nếu như Giáo hội phong kiến quan niệm Thượng đế là trung tâm, con người bị lệ thuộc vào thượng đế, phải tôn thờ chúa. Kinh thánh cho rằng, con người ngay từ khi sinh ra đã mắc phải tội lỗi là ăn trái cấm. Chính vì thế, Chúa đã ném loài người xuống trần thế để tu tỉnh lại. Tiếp theo Chúa ném tiếp con rắn xuống ý muốn khuyên con người ta phải tu nhân tích đức, nếu không sẽ bị trừng phạt rất nặng nề, con người xuống trần thế để luyện khổ hạnh. Bởi vậy, “Cuộc đời là 1 thung lũng đầy nước mắt”, và con người là “khách bộ hành lang thang trên mặt đất…”.
Trái lại chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng lại coi con người là trung tâm của vũ trụ, con người là gương mẫu và kích thước đo lường vạn vật. Chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng lây lại một khẩu hiệu của Hy Lạp cổ đại “Tôi là con người thì không có cái gì thuộc về con người lại xa lạ đối với tôi”. Do đó, tất cả các tác phẩm văn học cũng như nghệ thuật của thời kì Phục hưng đều tràn đầy tình yêu người, yêu đời sâu sắc.
+ Trước hết là đề cao tự do, chính nghĩa và đạo đức
Đônkihôtê đã từng nói với Xăngxô Panxa: “Xăngxô ạ, tự do là một trong những của cải quý báu nhất mà thượng đế ban cho con người, vì tự do cũng như vì danh dự, có thể và cần phải hy sinh cả tính mạng nữa. Ngược lại làm mất tự do là điều tệ hại nhất trong những điều ác của con người. Ta nói điều đó Xăngxô ạ, bởi vì người thấy bữa tiệc linh đình dành cho chúng ta trong lâu đài nọ mà chúng ta vừa từ giã, trước những thức ăn ngon lành và những đồ nhắm chắc là dịu ngọt, ta vẫn phải chịu dày vò vì đói và khát. Vì ta không được ăn được uống những thức ăn với sự tự do như là khi ăn uống những thức ăn ta làm ra. Kẻ nào ăn miếng bánh tự tay mình làm ra mà không phải mang ơn ai bố thí là kẻ sung sướng nhất trên đời”.
“Tự do là điều quý báu nhất của loài người. Những kho tàng trong lòng đất hay dưới biển khơi cũng không quý bằng” (Xécvantéc).
Đồng thời, con người phải được giáo dục và phát triển một cách toàn diện và phải được sống thoải mái, tận hưởng mọi lạc thú ở đời.
+Tu viện Têlem mà Rabơle đề xướng là kiểu mẫu của hình thức giáo dục đó, nó hoàn toàn trái ngược với các tu viện khác, không có đồng hồ, không có tiếng chương quy định giờ giấc nghiệt ngã, không có những buổi cầu kinh và những cuộc tranh luận cuồng tín. Tu viện chỉ nhận con trai từ 12 tuổi đến 18 tuổi, con gái từ 10 đến 15 tuổi. Hoạt động của tu viện tuỳ theo nhu cầu chứ không có chương trình, giờ giấc, kỷ luật. Một khẩu hiệu lớn được treo ngay trước cổng tu viện “Muốn làm gì thì làm”. Nơi đó nam thanh nữ tú tự do ra vào ca hát nhảy múa, tự do tìm hiểu và yêu nhau.
+Tự do yêu đương là một biểu hiện nổi bật nhất của ý thức đòi quyền tự do cá nhân. Toàn bộ tác phẩm của ông toát lên một tư tưởng “yêu đương là phải hành động”. Các tác phẩm như Otenlô, Romeo và Juliet tuy là những câu chuyện bi kịch về tình yêu đôi lứa, song nó vẫn toát lên sức sống mãnh liệt của khát vọng hạnh phúc mà không thể có bức tường rào nào cản trở và ngăn cản họ.
+ Đề cao chính nghĩa và đạo đức
Những lời Đôngkisôt khuyên nhủ Xăngxô thật ý nghĩa: “Xăngxô ạ, con phải lấy nguồn gốc nghèo nàn của mình làm vinh dự, đừng sợ nói cho người khác biết rằng mình xuất thân từ nông dân. Khi người ta thấy mình chẳng hổ thẹn thì cũng chẳng có ai bới móc gì. Bởi vì thà rằng nghèo nàn mà có đạo đức còn hơn là quyền quý mà gian ác. Dòng máu thì có thể di truyền còn việc làm tốt đẹp thì phải luôn trau dồi mới có đạo đức, tự bản thân nó có giá trị gấp trăm ngàn lần dòng máu”.
– Đề cao vẻ đẹp con người : Vẻ đẹp thể chất – vẻ đẹp trí tuệ, tâm hồn
Bất chấp sự cấm đoán của Giáo hội, nhiều họa sĩ đã chú ý miêu tả vẻ đẹp của con người, nhất là vẻ đẹp hình thể người phụ nữ. Những bức danh họa của Lêona dơ Vanhxi, Raphaen tràn trề yêu đời, yêu người.
Nhà thơ Pháp Ăngtoan Đuy Baip đã kêu gọi mọi người không nên bỏ lỡ tuổi thanh xuân:
Này cô thiếu nữ xinh tươi
Hoa hồng đang độ kịp thời hái đi
Kẻo rồi sẽ có một khi
Tuổi thanh xuân hết hoa kia cũng tàn
Rôngxa (Pháp) kêu gọi hãy tận hưởng tuổi thanh xuân vì nó đã qua đi là không bao giờ trở lại
Mai sau nàng sẽ già nua
Chiều bên bếp lửa quay tơ một mình
Bồi hồi nhớ lại ngày xanh
Thơ chàng ca ngợi sắc tình ngày xưa
Chủ nghĩa nhân văn quan niệm con người bước vào cõi đời như một đấng anh hùng bước vào trần thế, con người đứng vững hai chân trên cõi đời thực tế. Chính vì vậy, những đòi hỏi của con người phải được đáp ứng. Chủ nghĩa nhân văn cũng đề cao lý trí của con người, chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa ngu dân, bưng bít con người trong vòng ngu dốt “tin rồi hãy hiểu” mà phải ngược lại “hiểu rồi hãy tin”.
Tóm lại, nó đã làm đảo lộn thế giới quan và nhân sinh quan thống trị suốt thời trung cổ.
2. Tư tưởng phê phán lên án Giáo hội – tăng lữ và phong kiến thế tục
Đây là nội dung tư tưởng được thể hiện trong hầu hết các tác phẩm văn học thời Phục hưng. Ví dụ trong “ Thần khúc” Đantê đã đặt các giáo hoàng hay giáo sĩ ở địa ngục để vĩnh viễn chịu sự đày đọa ở đó, thậm chí giáo hoàng Bôniphaxiô VIII đương thời cũng đã dành sẵn một chỗ trong lò lửa ở tầng địa ngục thứ 6.
– Trong tác phẩm “Gácgănchuya và Păngtagruyen”, ngòi bút đả kích, phê phán của Rabơle được thể hiện rất rõ nét. Rabơle không hề kiêng nể bọn vua chúa phong kiến cũng như những kẻ cầm đầu giáo hội. Những kẻ đại diện tối cao này bị biến thành những vai hề dưới ngòi bút của ông. Ông viết: “Bắt được tên vua Anacnơ làm tù binh, Panuyêcgiơ cho hắn ăn mặc thật lố lăng rồi dẫn ra trước mặt Păngtagruyen và nói : “ Đó là một tên vua đấy. Tôi muốn cải thiện hắn thành một con người lương thiện, còn bọn vua chúa chết tiệt này chỉ là đồ con bò, chẳng hiểu gì hết, chẳng có giá trị gì hết ngoài việc bóp nặn người dân lành dưới quyền chúng nó và làm náo động thế giới bằng các cuộc chiến tranh do chúng gây ra để thỏa mãn lòng tham muốn bỉ ổi của chúng”.
Rabơle còn tỏ rõ thái độ căm phẫn của mình đối với những kẻ cầm quyền trong giáo hội. Rabơle đã mượn các loài chim ở đảo Xônăngtơ để ám chỉ giáo hoàng (chim chúa papơgô), hồng y giáo chủ (chim lông đỏ), giáo sĩ và tu sĩ (chim lông đen tuyền hoặc có khoang trắng) và lên án cả tập đoàn ấy chỉ biết hót và ăn cho béo.
Và đây là bức tranh biếm họa về bọn người nắm “cán cân công lý”: bọn mèo lông xù là những con vật ghê tởm và quái dị. Chúng ăn thịt trẻ con và ngốn ngấu thức ăn quanh những chiếc bàn bằng đá cẩm thạch (ám chỉ bàn ở tòa pháp viên), lông lá của chúng không mọc ra ngoài mà mọc vào bên trong (ám chỉ những chiếc áo lông thú của bọn quan tòa lông quay vào trong, mặt ngoài của áo rất nhẵn), mỗi con đều mang theo một cái túi mở rộng thay cho mọi thứ mề đay, phù hiệu. Mỗi con lại mang theo một kiểu riêng : con thì quàng vào cổ như là đeo băng, con thì thắt trễ xuống cái bụng phệ, con thì đeo lủng lẳng bên hông…Bọn chúng có những bộ vuốt rất chắc, rất dài, và sắc như thép khiến cho bất cứ vật gì đã rơi vào tay chúng thì đừng hòng tuột khỏi tay.
Vở hài kịch “Theo đuổi tình yêu vô hiệu” cảu Sêcxpia chủ yếu cũng nhằm chế giễu thói đạo đức giả của các triết gia kinh viện. Những học giả kiêm giáo sĩ đáng kính này thề suốt đời xa rời cuộc sống trần tục chỉ chuyên tâm nghiên cứu nền triết học thần bí cao siêu của chúa, nhưng khi họ vừa thấy công chúa nước Pháp và đám thị tì đến thì họ quên ngay lời thề, hăm hở theo đuổi, săn đón, cuối cùng họ phải thú nhận rằng con mắt của đàn bà đẹp đẽ và hấp dẫn hơn bao tủ sách khô khan của khoa thần học.
3. Đề cao tinh thần dân tộc
Cùng với sự ra đời của giai cấp tư sản thì chủ nghĩa dân tộc tư sản cũng đã dần dần hình thành. Do đó, văn thơ của họ nói lên lòng yêu quê hương, sự gắn bó với dân tộc, tinh thần qúy trọng tiếng nói của dân tộc. Từ trước người ta quen diễn đạt bằng tiếng Latinh, thứ ngôn ngữ bác học của Rôma cổ. Các tác giả thời Phục hưng đều biết bằng tiếng dân tộc mình vì muốn cho quần chúng có thể đọc được và cũng vì lòng yêu tha thiết tiếng mẹ đẻ.
-Rôngxa – nhà thơ lớn nhất trong tao đàn “thất tinh” của Văn hóa Phục hưng Pháp đã cho rằng những ai tôn kính tiếng mẹ đẻ và đề cao dân tộc mình đều “xứng đáng được đúc tượng và được tặng hoa”.
-Đantê đã hết lời ca ngợi Tổ quốc mình, tự hào kiêu hãnh về sự oai hùng cảu Tổ quốc, hy vọng vào tương lai của một nước Ý thống nhất và giàu mạnh. Suốt thời gian lưu vong, bao giờ những kỷ niệm về xứ Phirenxê vẫn nóng bỏng và đau xót trong lời thơ của thi sĩ Đantê đã kêu gọi hồn đất nước : “”Phirenxê hỡi, dậy mà vui, hỡi Phirenxê vĩ đại. Hãy giương cánh bay cao trên đất nước thân yêu”.
-Xecvantec – một nhà nhân văn của phong trào Văn hóa Phục hưng đã nêu cao truyền thống dân chủ và nhân đạo của dân tộc Tây Ban Nha. Trong tác phẩm “Đônkihôtê”, đằng sau câu chuyện hài hước về hiệp sĩ Đôngkisôt dường như chỉ mua vui giải trí ấy, Xecvantec đã đề cập đến nhiều vấn đề nghiêm túc liên quan mật thiết tới vận mệnh của đất nước mình, của nhân dân mình: thảm cảnh của đất nước Tây Ban Nha dưới ách thống trị của bọn phong kiến và tăng lữ đã phơi bày và tố cáo, cuộc sống của người dân, tương lai của Tổ quốc đã được đặt thành vấn đề đáng lo ngại, băn khoăn.
-Sêcxpia trân trọng lịch sử nước Anh và đã làm sống lại qúa khứ hiện tại của nước Anh tươi vui cũng như đau thương tang tóc trong những vở kịch bất hủ. Ông viết nhiều kịch lịch sử lấy đề tài từ lịch sử nước Anh, Ailen, Scotlen. Cái gì đã thôi thúc Sêcxpia viết kịch lịch sử? ông viết kịch lịch sử nhằm mục đích gì? Sêcxpia bước vào kịch trường giữa lúc mà tình cảm yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc của người Anh lên cao. Chiến thắng năm 1588 đánh tan hạm đội Acmacta của Tây Ban Nha đã đưa nước Anh lên địa vị cường quốc hùng mạnh nhất ở Châu Âu, trở thành con sói biển, hạm đội của nó tung hoành trên khắp đại dương. Triều đại Elizabeth I đang được đông đảo thần dân ngưỡng mộ. Nữ hoàng được ca ngợi như một người thuyền trưởng đã vượt qua muôn trùng sóng gió để đưa đất nước cập bến vinh quang. Sêcxpia tắm mình trong không khí đó. Ông dựng lại quá khứ để ca ngợi nhân dân mình, ca ngợi những ông vua, những vị tướng, những anh hùng có tên hoặc không có tên đã làm rạng rỡ đất nước.
Điều đáng chú ý là các tác giả thời Văn hóa Phục hưng đều viết bằng tiếng nói của dân tộc mình. Sáng tác bằng ngôn ngữ dân tộc chính là niềm tự hào của họ. Họ đã làm cho kho tàng ngôn ngữ dân tộc ngày càng phong phú.
Đantê nói: “Tiếng nói của dân tộc là tiếng nói của tôi. Không phải tôi chỉ yêu tiếng nói của dân tộc tôi mà tôi còn yêu dân tộc với tất cả tấm lòng chân thành”.
Rôngxa – nhà thơ Pháp cũng nói: “Vì tiếng mẹ đẻ của anh, anh lại cần phải biết nó một cách sâu sắc chu đáo hơn nữa…Ai là người rời bỏ tiếng cổ Hy Lạp, La Mã để tôn kính tiếng mẹ đẻ của mình, những người ấy là những người con tốt, là những công dân biết ơn Tổ quốc, những người ấy xứng đáng được đúc tượng và tặng hoa, tên tuổi và công đức được đời đời ghi nhớ”.
Makiewin – nhà sử học kiêm nhà văn Ý đã viết những lời hết sức nồng nhiệt đối với Tổ quốc như sau: “ Mỗi lần có thể đề cao thanh danh Tổ quốc, mặc dù có nguy nan cho bản thân, tôi vẫn không ngần ngại và tự nguyện làm. Trong đời sống của mỗi người, nghĩa vụ đối với Tổ quốc là vĩ đại nhất. Đời sống của mình chính nhờ Tổ quốc mình mới được hưởng. Nhờ Tổ quốc mà ta được hưởng các của cải, quyền lợi của tạo hóa hay số mệnh ban cho. Tổ quốc càng vinh dự bao nhiêu thì vận mệnh chúng ta con đẻ của Tổ quốc càng huy hoàng bấy nhiêu”.
4. Đề cao khoa học, kỹ thuật, giáo dục, chống lại tư tưởng duy tâm thần bí
Dưới chế độ phong kiến, Giáo hội đã biến khoa học thành “đầy tớ của thần học” và không cho phép vượt ra khỏi khuôn khổ của tín ngưỡng tôn giáo. Giai cấp tư sản mới ra đời rất cần khoa học thực nghiệm để phục vụ quyền lợi của chính bản thân mình. Do vậy, muốn khoa học kỹ thuật phát triển thì phải đấu tranh chống lại sự chi phối và kìm hãm của Giáo hội.
Nhà thiên văn học thiên tài người Ba Lan Copecnic với học thuyết Thái dương hệ của mình đã giáng một đòn mạnh mẽ vào lý thuyết của Giáo hội coi Trái đất là trung tâm của vũ trụ…Ăngghen đã nói về học thuyết của Copecnic như sau : “ Nó là một cuộc cách mạng trên trời và nó báo trước một cuộc cách mạng trong quan hệ trần gian, quan hệ xã hội”.
Một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất nhất thời Phục hưng là Galilê. Ông đã nghiên cứu và quy luật vận động của vật thể, đặt cơ sở đầu tiên cho môn cơ học, đồng thời có những phát kiến về thiên văn. Ông từng chế ống nhòm và dùng nó làm vật quan sát bầu trời…Đương thời người ta đã phải ngạc nhiên thốt lên : “Côlômbô phát hiện ra được đại dương mới, Galilê phát hiện ra được vũ trụ mới”.
Khoa học giải phẫu cơ thể con người ra đời cũng là một cuộc cách mạng tấn công vào quan điểm của Giáo hội như Xecve đã vẽ hệ thống tuần hoàn máu, sự lưu thông máu. Vêđan – nhà bác học người Bỉ đã phát hiện ra hệ thống nội tạng của con người.
Để đạt được những thành tựu đó, các nhà khoa học thời Phục hưng đã phải đổ mồ hôi, nước mắt và cả máu. Copecnic bị nhà thờ truy lùng, Brunô bị thiêu trên giàn lửa dị giáo, Galilê bị tù giam cho đến lúc chết, Misen Xecve cũng bị hỏa thiêu…Nhưng tinh thần khoa học vẫn tiếp tục phát triển đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, có những kết quả quan trọng và bắt đầu được ứng dụng trong kỹ thuật và đời sống như việc sáng chế ra máy in, việc cải tiến kỹ thuật khai mỏ, chế tạo máy…
- Đánh giá
* ??? Thảo luận: Ý nghĩa tích cực và hạn chế của phong trào văn hóa Phục hưng.
* Ý nghĩa (mặt tiến bộ)
– Thực chất, đây là một cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng giữa giai cấp tư sản mới ra đời chống lại giai cấp phong kiến đang suy tàn. Giai cấp tư sản lúc này đang đại diện cho một nền kinh tế mới, tiến bộ, đang tiêu biểu cho xu thế phát triển của lịch sử. Nền văn hóa của nó căn bản mang ý nghĩa tiến bộ. Trong khi đấu tranh phê phán tư tưởng và hành động của giáo hội và giai cấp phong kiến, đề cao giá trị con người, đòi giải phóng con người, nó đã có vai trò rất tích cực là đã phát động quần chúng chống lại chế độ cũ.
Lúc này, giai cấp tư sản mới ra đời chưa trưởng thành nên hệ tư tưởng của nó cũng chưa chuẩn bị trực tiếp cho cuộc cách mạng tư sản. Nhưng chính vì thế, chính ở buổi ban đầu mới mẻ đó, chưa bị vướng vào lắm những quan hệ mâu thuẫn của bản thân nó, trong khi phê phán cái cũ, nó đã có thể đề cao những giá trị tốt đẹp nhất, cao quý nhất của con người: con người lao động, nó đã có sự đồng cảm nhất định với người lao động. Giá trị vĩ đại của chủ nghĩa nhân văn, của nền văn hóa Phục hưng cũng là ở đó.
– Phong trào Văn hóa Phục hưng được xem là một bước tiến lớn trong lịch sử văn minh Tây Âu, thể hiện bằng thành tựu của nó trên mọi lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học tự nhiên…phong trào văn hóa Phục hưng đã đặt cơ sở nền móng cho việc phát triển văn minh Tây Âu trong các giai đoạn tiếp theo. Trên cơ sở đó, phong trào văn hóa Phục hưng đã đóng góp nhiều thành tựu to lớn quan trọng vào kho tàng tri thức của văn minh nhân loại.
Ăngghen đã nhận xét trong “Phép biện chứng của tự nhiên”: “những hình thái lừng lẫy, tiếng tăm của thời này đánh tan những ma quỷ tối tăm của thời trung cổ…Những bức rào ngăn cách của nhãn quan địa cầu cũ đã bị đập tan. Đây là lần đầu tiên người ta thực sự phát hiện ra trái đất. Người ta đã đặt được nền móng cho việc mậu dịch thế giới sau này và cho việc chuyển từ thủ công nghiệp sang công trường thủ công và công trường thủ công lại là điểm xuất phát của nền đại công nghiệp hiện đại. Sự độc tài tinh thần của Giáo hội đã bị phá vỡ. Một thứ tư tưởng tự do thoải mái trong phán đoán hấp thu của người Arập và thấm nhuần thứ triết học Hy Lạp vừa mới phát hiện ra ngày càng ăn sâu vào tinh thần người ta và chuẩn bị cho chủ nghĩa duy vật hồi thế kỉ XVIII ra đời…Đó là một sự đảo lộn vĩ đại mà nhân loại chưa bao giờ trải qua”.
* Hạn chế
– Hạn chế lớn nhất của chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng là trong khi chống lại Giáo hội, thì với tư cách là đại biểu của một giai cấp bóc lột, các nhà tư tưởng của nó thực tế không thủ tiêu tôn giáo mà thay bằng một thứ tôn giáo khác (tôn giáo cải cách) một kiểu áo “may vừa khổ người giai cấp tư sản hơn”. Tại sao lại là hạn chế?
– Mặt khác, trong khi đề cao giá trị con người, giai cấp tư sản lại ủng hộ sự áp bức bóc lột để làm giàu. Họ kêu gọi giai cấp tư sản “phải vận động” với nghệ thuật cao độ sự giả dối và bịp bợm, con người bằng máu và bằng sắt, sống bằng cướp đoạt và cướp đoạt bằng bạo lực với đủ mọi hình thức, mọi thủ đoạn, ủng hộ bóc lột để làm giàu. Chủ nghĩa tư bản đã ra đời và phát triển trong giai đoạn đầu với sự tàn bạo và đau đớn, “với máu và bùn nhơ”.
– Trong khi đề cao giá trị con người, đòi quyền tự do cá nhân nhưng chủ yếu là con người của giai cấp tư sản. Con người lao động cũng được nói tới song rất ít. Khi đòi giải phóng cá nhân, các nhà Văn hóa Phục hưng đã đặt nền móng cho một thứ chủ nghĩa cá nhân, thậm chí đi đến cực đoan, vốn là bản chất của nền kinh tế hàng hóa, sau này nó phát triển lên thành một thứ nhân sinh quan ích kỷ và tội lỗi.
Nhưng mặt tiến bộ là chủ yếu. Vì vậy, Ăngghen đã viết: “Đó là một cuộc cách mạng tiến bộ vĩ đại nhất mà loài người chưa từng thấy, một thời đại cần đến những con người khổng lồ và đã sinh ra những con người khổng lồ, khổng lồ về tư tưởng, về nhiệt tình và về tính cách, khổng lồ về tài năng mọi mặt và về sự hiểu biết sâu rộng của họ”.
V. PHONG TRÀO CẢI CÁCH TÔN GIÁO VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠO TIN LÀNH
1. Nguyên nhân
Ở thời trung kỳ trung đại, địa vị Cơ đốc giáo rất quan trọng. Các vua chúa phong kiến muốn tăng cường quyền lực của mình nên đề cao Giáo hội, biến Giáo hội thành một thế lực tinh thần, bắt mọi người cúi đầu ủng hộ vương quyền và thần quyền. Giáo hội được vua chúa các nước ban tặng rất nhiều ruộng đất và tài sản. Giai cấp tăng lữ trở thành những lãnh chúa phong kiến có thế lực và giàu có, bóc lột sức lao động của nông nô.
Về chính trị: Ngay từ thế kỷ XII, XIII, quyền lực của Giáo hoàng đã rất lớn. Giáo hoàng Inôxantô III đã viết: “chúng ta được phó sứ mệnh thống trị mọi người và mọi nước”, “Giáo hoàng đem lại vinh quang và uy tín cho vương quyền như mặt trời đem lại ánh sáng cho mặt trăng”, “Giáo hoàng là đại diện cho Thượng đế trên trái đất, không những là chủ của tăng lữ mà cũng là thủ lĩnh của hoàng đế nữa”[1]
Về kinh tế: Giáo hội có thế lực lớn mạnh, có nhiều lãnh địa, nhiều nông nô phụ thuộc, bóc lột người nông nô tàn bạo không kém gì bọn quý tộc võ sĩ, ngoài việc thu tô còn làm giàu bởi nhiều nguồn thông qua các hoạt động tôn giáo (đồ cúng tế trong các lễ hội tôn giáo, bắt tín đồ đóng góp dưới nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là tín đồ thường xuyên phải nộp thuế thập phân) (1/10 thu nhập). Giáo hoàng lại thu được rất nhiều tiền thuế và cống phẩm của giai cấp tăng lữ và bán thẻ “miễn tội”. Giáo hội tuyên truyền rằng người nào mua được thẻ xá tội có thể thoát khỏi nhục hình ở địa ngục, khi chết được lên thiên đường.
Trong những thế kỷ XIII, XIV, Giáo hội ngày càng trở nên thối nát, trở thành đối tượng của mọi tầng lớp xã hội. Các tăng lữ trong hàng giáo phẩm không giữ được giới luật, bị tha hoá, đồi bại, rất giàu sang, xa hoa, mâu thuẫn với những giáo lý tốt đẹp mà họ tuyên truyền (bán thẻ xá tội là hành động bỉ ổi nhất).
® Trong thời trung đại, “bọn giáo sĩ chiếm độc quyền văn hoá. Giáo hội là sự tổng hợp chung nhất, là sự thừa nhận nền thống trị phong kiến. Trong hoàn cảnh như vậy, tất cả các sự đả kích nói chung vào chế độ phong kiến, phải trước hết là những cuộc đả kích vào Giáo hội. Để có thể thay đổi được những quan hệ xã hội hiện tại, phải tước bỏ cái vòng hào quang thiêng liêng của chúng” (Ăngghen, “Cách mạng dân chủ tư sản ở Đức”, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1963, tr 56 – 57) (dẫn theo)[2]
“Giai cấp tư sản đang lên coi Giáo hội là một thế lực kinh tế xã hội và tinh thần cản trở bước tiến của họ. Cuộc đấu tranh chống phong kiến đã làm cháy lên ngọn lửa của phong trào cải cách tôn giáo” (Ăngghen “Lời nói đầu quyển Biện chứng tự nhiên”, Mác – Ăngghen tuyển tập, T2, Sự thật, Hà Nội, 1972, tr 70 – 71) (dẫn theo)[3]
“Ngay trong cái mà người ta gọi là chiến tranh tôn giáo ở thế kỷ XVI, thì trước hết là vấn đề lợi ích vật chất rất thiết thực của các giai cấp, và những cuộc chiến tranh ấy là những cuộc đấu tranh giai cấp…Nếu hồi ấy các cuộc đấu tranh giai cấp có mang nhãn hiệu tôn giáo, nếu những lợi ích, nhu cầu, yêu sách của các giai cấp khác nhau được che giấu bởi cái mặt nạ tôn giáo, thì điều đó cũng chẳng làm cho sự vật thay đổi chút nào và cũng dễ cắt nghĩa được bởi những điều kiện của thời đại” (Ăngghen, “Cách mạng dân chủ tư sản ở Đức”, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1963, tr 56 – 57) (dẫn theo)[4]
Cải cách tôn giáo tất yếu nổ ra, đầu tiên ở Đức, sau đó lan sang Thuỵ Sĩ, Anh, Pháp.
Tại sao nổ ra đầu tiên ở Đức?
+ Kinh tế: Trước khi cải cách tôn giáo, Đức là nước phong kiến lạc hậu. Nông nghiệp của nước Đức tụt hậu hơn Anh và Nêđéclan, về công nghiệp tụt hậu hơn ý, Phlăngđrơ và Anh. Trong khi đó về mậu dịch thì người Anh, nhất là người Hà Lan đã bắt đầu vượt qua những thương nhân người Đức. Chỉ riêng mặt khai thác vàng bạc thì nước Đức khẳng định là đứng đầu hoàn toàn châu Âu.
Hơn nữa, sự phát triển kinh tế giữa các vùng của nước Đức không cân đối và rất phân tán, cả nước không hình thành được thị trường thống nhất. ở phía Nam có quan hệ mậu dịch và thị trường tiêu thụ riêng, ở phía Đông và phía Tây gần như không có sự qua lại kinh tế với nhau.
Sự phát triển chỉ tập trung xung quanh một số trung tâm công nghiệp, thương nghiệp cá biệt.
+ Chính trị: trong lúc Anh, Pháp hoàn thành xong quá trình chuyển từ phong kiến phân quyền sang tập quyền thì ở Đức vẫn duy trì chế độ phong kiến cát cứ. Đầu thế kỷ XVI, tại nước Đức ngoài 7 chư hầu lớn có quyền bầu chọn nhà vua còn có đến mười mấy đại chư hầu khác và hơn 200 tiểu chư hầu. Các chư hầu đều có chính quyền riêng, quân đội riêng, pháp luật riêng, tiền tệ riêng. Giữa họ đều độc lập với nhau trở thành “quốc gia trong quốc gia”. Các chư hầu thi hành chế độ độc quyền trong nội bộ lãnh địa của họ. Giữa các chư hầu thường xuyên đánh nhau hoặc liên kết với nhau chống lại vua Đức. Quyền lực của vua Đức rất nhỏ yếu trong lãnh thổ của quốc gia nên không đủ sức thực hiện sự thống trị tập quyền. ở trong nước trạm thuế mọc lên rất nhiều, từ Main đến Kolh chưa đến 200 km mà có đến 13 trạm gác để đánh thuế[5]. Quan thuế ở mỗi địa phương đều khác nhau, tiền tệ ở nước Đức rất phức tạp, có đến hàng nghìn loại.
Sự chia cắt về chính trị lâu dài đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.
® nảy sinh nhiều mâu thuẫn chằng chéo, mâu thuẫn giữa phong kiến với nông dân, giữa thị dân với phong kiến, trong nội bộ giai cấp phong kiến với nhau, đặc biệt là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Đức với Giáo hội, đứng đầu là Giáo hoàng.
Ở Đức, Giáo hội chiếm 1/3 diện tích ruộng đất, bóc lột nhân dân vô cùng tàn tệ. Giáo hội chẳng những có quyền trưng thu các loại thuế mà còn cưỡng chế nông nô phải chấp hành mọi nghĩa vụ phong kiến đối với họ. Ngoài các loại thuế, họ còn thu đủ thứ tiền có liên quan đến tôn giáo kể cả tiền bán phiếu chuộc tội. ở Đức do chính trị chia cắt, quyền lực của nhà vua quá suy yếu đã giúp cho Giáo hội có điều kiện mở rộng quyền lực hơn, đồng thời cũng giúp cho Giáo hoàng La Mã tha hồ khống chế bóc lột quốc gia này. Giáo hoàng La Mã sống một cuộc sống xa hoa chủ yếu dựa vào sự cung cấp của Giáo hội Đức. Theo thống kê, đầu thế kỷ XVI, hàng năm Giáo hội La Mã đã thu được tiền của bóc lột từ nước Đức gấp 21 lần tiền thuế của vua Đức thu được vào năm 1497[6]. Do vậy, nước Đức trong thời bấy giờ được gọi là “con bò sữa của Giáo hoàng”. Trong lúc đó, nông dân chết đói, dân nghèo thành thị không có việc làm, lang thang khắp nơi, tiểu quý tộc phá sản, tăng lữ cấp dưới thiếu thốn sống chật vật. Mọi tầng lớp nhân dân Đức đều trực tiếp hay gián tiếp oán giận Giáo hội. Để chống lại những phản ứng của nhân dân, Giáo hoàng và Giáo hội có biện pháp đàn áp rất tàn khốc. Những toà án dị giáo được đặt ra khắp nơi để buộc tội những người chống đối là dị giáo đem thiêu sống trên cột lửa. ở Đức, các nhà nhân văn chủ nghĩa như Eratxmút, Huttơn có ảnh hưởng rất lớn. Các ông đã đả kích kịch liệt bọn tăng lữ vô hạnh đặc biệt là Giáo hoàng Rôma – “một kẻ dựa vào cái ngu xuẩn của loài người mà hoành hành trên thế giới”. (Tác phẩm “Tán dương sự điên rồ” của Eratxmút trong vài năm đã xuất bản tới 27 lần và được dịch ra nhiều thứ tiếng ở châu Âu)
Dưới sự thao túng của Giáo hội La Mã, Giáo hội Đức luôn tỏ ra hết sức ngang ngược, làm cho mối mâu thuẫn giữa Giáo hội Rôma, Giáo hội Đức và quần chúng nhân dân Đức trở thành mối mâu thuẫn dân tộc và giai cấp đan kết nhau. Giáo hội Đức đã làm cho các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội Đức hết sức oán hận. Giáo hội Đức mà người đỡ đầu là Giáo hoàng Rôma đã trở thành chướng ngại quan trọng để cho nước Đức kết thúc cục diện chia cắt giữa các chư hầu phong kiến và thực hiện thống nhất trong cả nước.
Trong hoàn cảnh đó, Đức là nơi nổ ra phong trào cải cách tôn giáo sớm nhất.
2. Nội dung của cải cách tôn giáo ở Đức (thế kỷ XVI)
– Máctin Luthơ (1483 – 1546) là người mở đầu và lãnh đạo phong trào cải cách tôn giáo ở Đức. Ông xuất thân từ một gia đình thương nhân bậc trung. Máctin Luthơ đã từng theo học ngành luật tại trường đại học Erfurt. Lúc bấy giờ, trường đại học này vừa là trung tâm của triết học kinh viện, vừa là nơi tụ tập chủ yếu của các nhà hoạt động chủ nghĩa nhân văn. Khi tốt nghiệp đại học, Máctin Luthơ nhận được bằng thạc sĩ. Sau đó ông vào tu viện Augustin. Năm 1507 ông được ban chức Cha, 1508 ông đến Víttenbéc. Năm 1512, ông nhận được bằng tiến sĩ thần học, đồng thời được mời làm giáo sư giảng dạy tại trường Đại học Víttenbéc.
Năm 1517, Giáo hoàng phái một tu sĩ vô học và thô lỗ mang hàng bó thẻ miễn tội đi khắp nơi bán, hắn nói rằng chỉ cần đồng tiền mua thẻ kêu trong túi của hắn là linh hồn người mua lập tức được cứu thoát. Trước hành động bán thẻ xá tội bỉ ổi đó, Luthơ đã viết bản “Luận văn 95 điều” dán trước cửa nhà thờ của mình, tố cáo việc mua bán thẻ miễn tội và kêu gọi mọi người phản đối. Kháng nghị của Luthơ lập tức được truyền bá khắp nước Đức, vượt xa cả ý muốn của Luthơ vì chính Luthơ cũng không muốn xung đột với Giáo hoàng. Giáo hoàng bèn đuổi Luthơ ra khỏi Giáo hội. Được sự ủng hộ của nhân dân, Luthơ vứt chỉ dụ của Giáo hoàng vào đống lửa đốt cháy (1520). Hành động đó “giống như tia lửa đánh trúng vào thùng thuốc súng làm cho toàn thể xã hội Đức chuyển động” (Ăngghen) ® dẫn đến chiến tranh nông dân Đức. Luthơ còn viết tiếp một bài văn châm biếm nhan đề “Chống lại quyết định phản Thiên Chúa”. Những việc làm của Luthơ được đông đảo nhân dân Đức hưởng ứng.
– Nội dung tư tưởng cải cách của Luthơ:
+ Luthơ vẫn thừa nhận Cơ đốc giáo và kinh thánh nguyên thuỷ của đạo Cơ đốc (thừa nhận tôn giáo của những người nghèo khổ, thừa nhận tính chất tiến bộ của nó), lên án sự thối nát của Giáo hội đã xuyên tạc, bóp méo tôn giáo nguyên thuỷ. (“Bọn nhà giàu lên được Thiên đường còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim”)
+ Đề cao học thuyết cứu vớt con người bằng lòng tin (con người chỉ cần có niềm tin vào Chúa Trời là có thể được cứu vớt), phản đối quan niệm nhà thờ, cho rằng con người được cứu vớt bằng việc làm điều thiện (ví dụ: không đấu tranh, không làm đảo lộn trật tự xã hội vốn được Chúa Trời sắp xếp, con người phải biết yên phận, phải thực hiện theo những điều Chúa dạy), đồng thời phản đối các hình thức lễ nghi phức tạp tốn kém do các chức sắc tôn giáo tiến hành.
+ Đề cao chủ nghĩa cá nhân, trái với lễ giáo phong kiến ràng buộc (mọi con người đều ràng buộc với nhau và phân theo cấp bậc). Chủ trương giảm bớt ngày lễ, một tôn giáo rẻ tiền, ít tốn kém, cần tiết kiệm thời gian, tiền của để kinh doanh ® phản ánh nguyện vọng của tầng lớp thị dân Đức, đặc biệt là tầng lớp trên. Thậm chí Luthơ cho rằng không cần có tầng lớp tăng lữ, chỉ cần có mục sư truyền đạo.
+ Đòi tách Giáo hội Đức khỏi Giáo hoàng Vaticăng, tịch thu mọi tài sản của Giáo hội, ruộng đất của nhà thờ chuyển cho quý tộc, tư sản ® phản ánh nguyện vọng của mọi tầng lớp xã hội Đức, đặc biệt là thị dân.
– Đánh giá:
+ Những nội dung đó chứng tỏ tôn giáo cải cách của Luthơ mang tính chất tư sản, muốn đả phá những cơ sở triết lý tư tưởng phong kiến như mê tín dị đoan, lừa bịp, ngăn trở tư tưởng thực nghiệm, nhất là cách làm tiền bóc lột kiểu phong kiến, đề cao lòng tin theo kiểu tư sản và chỉ tổ chức những cuộc hành lễ không tốn kém, mất ít thì giờ và không hại sản xuất. Nhưng cải cách tôn giáo của Luthơ còn nhiều điểm hạn chế như vẫn phải sử dụng thần học và tôn giáo (khi giai cấp tư sản mạnh thì nó sử dụng tư tưởng cách mạng triệt để hơn là chủ nghĩa duy vật máy móc như các nhà triết học ánh sáng ở Pháp thế kỷ XVIII), không đề ra rõ ràng cách giải quyết các yêu cầu xã hội, chỉ ngăn trở những hành động nhũng nhiễu của phong kiến mà không dám giành quyền chỉ huy trong tôn giáo, cho nên về sau giai cấp quý tộc phong kiến lợi dụng lúc giai cấp tư sản thoả hiệp, đã nắm lấy cải cách tôn giáo làm công cụ thống trị mới về tinh thần của mình, chỉ dành cho giai cấp tư sản rất ít quyền lợi như thủ tiêu sự đồi bại của Giáo hội, bớt làm tiền bừa bãi…
+ Cải cách tôn giáo của Luthơ lan tràn khắp nước Đức rất nhanh chóng nhưng mỗi giai cấp đều hiểu cải cách tôn giáo theo quan điểm của mình. Lãnh chúa quý tộc và thị dân giàu có quan niệm cải cách tôn giáo chỉ đơn thuần là đóng cửa các nhà thờ Cơ đốc giáo để chiếm lấy ruộng đất và tài sản, để có quyền có thế. Thị dân muốn làm yếu lãnh chúa quý tộc và Giáo hội để nước Đức thống nhất tập trung. Nông dân và dân nghèo thành thị không những chỉ muốn cải cách Giáo hội mà còn muốn cải tạo toàn bộ xã hội. Phong trào quần chúng ấy khiến cho lãnh chúa phong kiến và cả thị dân giàu đều sợ hãi, Luthơ cũng hoang mang và thoả hiệp với lãnh chúa và thị dân giàu. Luthơ trở thành lãnh tụ của phái “cải cách tôn giáo ôn hoà” chống lại phái cách mạng triệt để của Tômát Muynxơ.
Thái độ của Luthơ ban đầu biểu hiện một cách mãnh liệt nhất “bản chất nông dân” của ông “Nếu sự giận dữ điên cuồng của chúng (tức là của các giáo sĩ Rôma) cứ tiếp tục kéo dài, thì theo ý tôi, có lẽ không có biện pháp nào ngăn chặn nó tốt hơn là các vua chúa và vương công dùng bạo lực, tự vũ trang và tấn công vào những quân xấu xa đang đầu độc toàn thế giới ấy, và dùng vũ khí chứ không phải dùng lời nói để vĩnh viễn chấm dứt vai trò của chúng. Nếu chúng ta trừng phạt quân ăn cắp bằng gươm, quân sát nhân bằng giá treo cổ, bọn tà giáo bằng lửa, thì tại sao chúng ta lại không tấn công vào bọn thầy tai hại tuyên truyền sự đồi bại ấy, vào bọn giáo hoàng, hồng y giáo chủ, giám mục, và tất cả cái bè lũ ở Sodoma Rôma bằng tất cả các loại vũ khí mà chúng ta có, tại sao chúng ta lại không rửa tay chúng ta trong máu của chúng?”[7]
Nhưng “là một giáo sư đáng kính ở trường đại học Wittenberg qua một đêm đã trở thành có thế lực và tiếng tăm, một vĩ nhân được một đám đông sùng bái và xu nịnh vây quanh”, Luthơ đã không do dự phản bội lại phong trào: “Tôi không muốn người ta bảo vệ kinh Phúc âm bằng bạo lực và đổ máu. Lời nói đã chinh phục thế giới, nhờ lời nói mà giáo hội được duy trì, vậy thì cũng chính bằng lời nói mà giáo hội sẽ được phục hưng, còn những kẻ phản Chúa đã đạt được mục đích của chúng mà không dùng đến bạo lực, thì chúng cũng sẽ bị diệt vong mà không cần đến bạo lực”[8]
Luthơ và Giáo hoàng đã câu kết với nhau để chống lại “những bầy nông dân khát máu và cướp bóc”: “Những ai có thể làm được thì phải phân thây chúng, phải bóp cổ và đâm chết chúng, một cách bí mật và công khai, giống như người ta giết những con chó dại!” – Luthơ thét lên. “Bởi thế, hỡi các ngài thân mến, các ngài hãy đến giúp đỡ, hãy cứu vớt, nếu ai có thể thì hãy đâm chúng, hãy đánh chúng, hãy bóp cổ chúng, và nếu trong việc này có ai bị chết thì hạnh phúc thay cho người đó, bởi vì không có một cái chết nào sung sướng hơn thế”[9]
“Người nông dân chỉ cần cám yến mạch là đủ; họ không nghe lời nói và không biết lẽ phải, cho nên hãy làm cho họ biết nghe lời bằng roi vọt, và súng; bản thân họ xứng đáng với điều đó. Chúng ta phải cầu xin cho họ để họ biết vâng lời; nếu không thì không thể có sự nhân từ được. Lúc đó, hãy để cho súng nói lên tiếng nói của chúng, nếu không họ sẽ gây hại gấp nghìn lần” [10]
3. Cải cách tôn giáo của Canvanh ở Thuỵ Sĩ
– Giăng Can vanh (1509 – 1564) là người Pháp, đã từng học luật ở trường Đại học Pari và các trường đại học khác ở Pháp. Ông từng giao thiệp và chịu ảnh hưởng của các nhà nhân văn chủ nghĩa Đức, Pháp đương thời, đến khi ở Pháp có nội chiến mới chạy sang lánh nạn ở Thuỵ Sĩ, làm mục sư ở Giơnevơ. Lúc này Thuỵ Sĩ là một nước tự do kiểu tư sản là miếng đất tốt để tôn giáo cải cách phát triển.Tôn giáo Luthơ cũng đã truyền bá sang nhưng do tính chất hạn chế của tôn giáo này nên nó cũng không được hoan nghênh lắm.
– Nội dung học thuyết Canvanh: thể hiện trong tác phẩm “Lời khuyên về lòng tin Thiên Chúa” (1536). Hạt nhân của học thuyết Canvanh là “Thuyết định mệnh” (Chúa sinh ra con người, số phận con người do Chúa sắp đặt trước).
+ Can vanh vẫn bảo vệ tín ngưỡng tôn giáo Cơ đốc, vẫn giữ những thuyết về Thượng đế, nhưng chỉ nhận một giáo điều độc nhất là Thánh kinh.
+ Con người “bản chất đầy hư hỏng” có thể được cứu vớt, không phải bằng những hình thức lễ giáo mà chỉ cần lòng tin. Can vanh quả quyết lòng tin là “một thiên tư đặc biệt” do trời phú cho mọi người.
Điểm mới trong tư tưởng của Canvanh:
+ Canvanh giải thích thuyết định mệnh theo quan điểm, lợi ích của giai cấp tư sản: trong xã hội có hai hạng người, một hạng người được Chúa lựa chọn, một hạng người bị Chúa ghét bỏ. Người được Chúa lựa chọn có cuộc sống đầy đủ, sung túc, có quyền bóc lột người khác. Hạng người bị Chúa ghét bỏ thấp kém về địa vị xã hội, bần hàn, sống khổ hạnh. Người giàu là do Chúa cho thế, người nghèo là do Chúa buộc thế.
+ Khuyến khích làm giàu, kêu gọi làm giàu bằng mọi cách. Trong thế giới cạnh tranh, thành công hay thất bại đều do Chúa quyết định. Canvanh dạy tín đồ: “Sứ mệnh của mỗi người đã được Thượng đế xác định từ lâu vì vậy bất cứ làm nghề nào người ta cũng phải nêu cao thành tích trong sự nghiệp của mình để chứng tỏ rằng mình là người dân mà Thượng đế đã chọn lựa”, “Thương nhân và chủ xí nghiệp phải kiếm trăm phương nghìn kế để tăng thêm của cải, vì của cải đó là do Thượng đế phó thác cho họ”[11]. Việc bóc lột lao động của người làm thuê theo Can vanh là hợp với ý chí Thượng đế
® Cách giải thích của Canvanh đáp ứng đúng nguyện vọng của giai cấp tư sản. “Cải cách của Canvanh đã đáp ứng được nhu cầu của giai cấp tư sản tiên tiến nhất hồi đó. Học thuyết về định mệnh của ông là biểu hiện tôn giáo của mọt sự thật là trong thế giới buôn bán của cạnh tranh, thành công hay thất bại không phải do hoạt động cũng không phải do khéo léo của người ta mà là do những hoàn cảnh độc lập đối với sự kiểm soát của người ta. Những hoàn cảnh đó không phụ thuộc vào ý muốn hay hành động của ai cả; nó bị những thế lực kinh tế bên trên và vô hình bắt sao chịu vậy…”
Cải cách Canvanh giống như một chiếc áo cắt và may vừa với khổ người của giai cấp tư sản (Ăngghen)
+ Tổ chức: Canvanh là người đầu tiên đứng ra xây dựng Giáo hội của tôn giáo mới (Tân giáo hay còn gọi là đạo Tin Lành, đạo Thệ phản) đối lập với Cựu giáo.
Chủ trương xây dựng một khu cư dân công xã của những người được lựa chọn. Trong khu công xã đó, mục sư giảng sư làm chức vụ truyền đạo, giảng kinh thánh, tổ chức các nghi lễ. Người quản lý về phần đời là các trưởng lão. Lễ nghi rất đơn giản: không thờ ảnh tượng trừ cây thập giá…Để đảm bảo địa vị độc tôn của mình, đạo Canvanh cũng thi hành những chính sách đàn áp tôn giáo: có toà án, hoả thiêu những người bị coi là đi ngược với giáo lý Canvanh. Canvanh nói: “Cần phải dùng kiếm để trừng phạt dị giáo đồ”, “Thượng đế không tha thứ cho nhân dân không theo Người, Người hạ lệnh huỷ diệt triệt để các thành phố, tiêu diệt hết ảnh hưởng của dị giáo đồ”[12]. Người ta gọi Canvanh là “Giáo hoàng Giơnevơ”.
® Xét qua nội dung tư tưởng, triết lý, quan niệm tổ chức, chính trị…của tôn giáo Canvanh, ta thấy tính chất tư sản của Canvanh giáo rõ rệt hơn hẳn Luthơ giáo. Tuy Canvanh giáo cũng còn mặt hạn chế là sử dụng tôn giáo và thần học, nhưng ý thức hệ tư tưởng tư sản đã rõ ràng như thuyết định mệnh, tư tưởng làm giàu…, lại còn có những tổ chức có tính chất dân chủ và tự do (Hội đồng tôn giáo) do giai cấp tư sản nắm để điều khiển Giáo hội và củng cố tinh thần độc lập của tín đồ. Do đó, Canvanh giáo đã truyền bá nhanh chóng sang nhiều nước châu Âu: Anh, Pháp, Nêđéclan. Chính tư tưởng cải cách tôn giáo của Canvanh là ngọn cờ hiệu triệu, tập hợp nhân dân Nêđéclan đứng lên chống ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha làm bùng nổ cuộc cách mạng tư sản đầu tiên trên thế giới.
Đứng trước phong trào cải cách lan rộng như vậy, Giáo hội điên cuồng chống lại: liên tục triệu tập Hội nghị Giáo chủ của các nước châu Âu họp trong các năm 1545 – 1547, 1551 – 1552, 1562 – 1563 đi đến một số quyết định quan trọng, ví dụ như: Lập ra hội Giêsu (còn gọi là Tăng đoàn Thiên Chúa) do một tên quý tộc người Tây Ban Nha thiết lập ra để ủng hộ Giáo hoàng, bảo vệ Giáo hội Thiên Chúa, phương châm là đào tạo con người biết phục tùng và trung thành với Giáo hội.
4. Cải cách tôn giáo ở Anh
– Đầu thế kỉ XVI, chủ nghĩa tư bản Anh đã phát triển khá mạnh mà giáo hội Cơ Đốc giáo đã trở thành lực lượng cản trở sự phát triển đó.
– Dựa vào các tầng lớp có thế lực ở Anh, năm 1534, vua Anh Henri VIII ra “sắc luật về quyền tối cao”, qua đó Henri VIII được quyền li hôn không cần sự chấp thuận của Giáo hoàng. Tiếp đó, Henri VIII đã tuyên bố cắt đứt quan hệ về tôn giáo với Rôma, thành lập giáo hội riêng của Anh do ông đứng đầu gọi là Anh giáo.
– Những biện pháp cải cách nửa vời của Henri VIII không làm cho giai cấp tư sản thỏa mãn. Trong khi đó, tôn giáo Canvanh với tính chất triệt để hơn đã được giai cấp tư sản Anh tiếp thu và gọi tôn giáo này là Thanh giáo, nghĩa là tôn giáo trong sạch. Tín đồ Thanh giáo xóa bỏ hết những tàn dư của đạo Cơ đốc, đơn giản hóa các nghi lễ, đồng thời cắt đứt quan hệ với Anh giáo.
=> Như vậy, trong nửa đầu thế kỉ XVI, ở Tây Âu đã xuất hiện nhiều loại tôn giáo cải cách. Các loại tôn giáo này có những điểm chung như sau:
– Chỉ tin vào kinh thánh, trong đó chủ yếu là kinh Phúc âm.
– Đơn giản hóa các nghi lễ, không thờ ảnh tượng, không thờ mẹ Maria
– Không lệ thuộc vào Giáo hoàng và tòa thánh Rôma
– Bỏ chế độ độc thân cho các mục sư. Tín đồ được tham gia quản lý giáo hội.
Do các tôn giáo này chủ yếu tin vào kinh Phúc âm nên được gọi chung là tôn giáo Phúc âm. Chữ Phúc âm có nghĩa là tin mừng, tin lành nên người ta gọi loại tôn giáo này là đạo Tin lành.
[1] Trường Đại học sư phạm, Lịch sử thế giới trung cổ, Q2, NXB Giáo dục,Hà Nội, 1960, tr 52.
[2] Phạm Hồng Việt, Nguồn tài liệu cần thiết cho việc nhận thức lịch sử thế giới, NXB Thuận Hoá, Huế, 1992, tr 67
[3] Ph¹m Hång ViÖt, S®d, tr 66.
[4] Phạm Hồng Việt, Sđd, tr 67.
[5] Lưu Minh Hàn (chủ biên), Phong Đảo (dịch), “Lịch sử thế giới, tập 2: thời trung cổ”, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tr.602
[6] Lưu Minh Hàn (chủ biên), sđd, tr 603.
[7] C. Mác – Ăngghen, “Tuyển tập”, tập II, NXB Sự thật, Hà Nội, 1981, tr 212.
[8] C. Mác – Ăngghen, “Tuyển tập”, tập II, NXB Sự thật, Hà Nội, 1981, tr 213.
[9] C. Mác – Ăngghen, “Tuyển tập”, tập II, NXB Sự thật, Hà Nội, 1981, tr 216.
[10] C. Mác – Ăngghen, “Tuyển tập”, tập II, NXB Sự thật, Hà Nội, 1981, tr 216.
[11] Trường Đại học Sư phạm, “Lịch sử thế giới trung cổ”, Q2, NXB Giáo dục,Hà Nội, 1960, tr 59.
[12] Trường Đại học Sư phạm, “Lịch sử thế giới trung cổ”, Q2, NXB Giáo dục,Hà Nội, 1960, tr 61.