Lập Bảng so sánh các quốc gia cổ đại Phương Đông và Phương Tây
Luật Minh Khuê có bài phân tích, so sánh các quốc gia cổ đại Phương Đông và Phương Tây sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về thế giới thời cổ đại:
Mục lục bài viết
1. Các quốc gia cổ đại phương Đông và các quốc gia cổ đại phương Tây
1.1 Lịch sử hình thành các quốc gia cổ đại phương Đông
Trong giai đoạn cuối thời nguyên thủy, cư dân ở lưu vực những dòng sông lớn như sông Nin ở Ai Cập, Ti Gơ Rơ và Ơ Phơ Rat ở Lưỡng Hà, sông Ấn và sông Hằng ở Ấn Độ, Hoàng Hà và Trường Giang ở Trung quốc .. mật độ ngày càng cao. Do sự màu mỡ, dễ trồng trọt tại đất ven sông nên nghề nông trồng lúa trở thành ngành kinh tế chính và ngày càng phát triển. Bên cạnh đó họ cũng biết làm thủy lợi, đắp đê ngăn lữ, đào kênh, máng dẫn nước vào ruộng. Nhờ thế việc thu hoạch lúa được diễn ra ổn định hằng năm. Từ đó lúa gạo dư thừa và tích trữ ngày càng nhiều. Trong xã hội bắt đầu phân hóa kẻ giàu, người nghèo. Dẫn đến Nhà nước ra đời, Từ cuối thiên niên kỉ IV đến đầu thiên niên kỉ III TCN, những quốc gia cổ đại phương Đông đầu tiên đã hình thành ở Ai Cập, vùng Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc hiện nay. Đây là những quốc gia xuất hiện sớm nhất trong lịch sử loài người
– Do đặc thù kinh tế ở các nước phương Đông là nghề nông. Nên bộ phận đông đảo nhất và vai trò quan trọng trong sản xuất là nông dân. Họ nhận ruộng đất ở công xã để canh tác, cày cấy và nộp một phần thu hoạch và lao dịch không công cho tầng lớp quý tộc
Tầng lớp quý tộc, quan lại là tầng lớp có nhiều của cải, quyền thế. Đứng đầu tầng lớp này là vua nắm mọi quyền hành. Họ đều có nhiều người hậu hạ phục dịch được gọi chung là nô lệ. Nô lệ có thân phận không khác gì con vật. Mâu thuận cao trào thì việc nội dậy là điều hiển nhiên. Những người nô lệ và dân nghèo đã nhiều lần nổi dậy. Điển hình năm 2300 trước công nguyên, một vụ bạo động bùng nổ ở La – gát ( Lưỡng Hà). Năm 1750 trước công nguyên, nô lệ và dân nghèo ở Ai Cập đã nổi dậy, cướp phá, đốt cháy cung điện.
Ở Lưỡng Hà, vua Ham – mu – ra – bi đã ban hành một bộ luật, được khắc trên đá: Phần trên của bia đá khắc hình Thần Sa – mát đang trao bộ luật cho vua Ham – mu – ra – bi; Phần dưới của bia đá khắc phần đầu của bộ luật. Trong đó có điều luật: dân tự do thuê ruộng cày, nếu ruộng không có thóc thì người này bị coi là chưa hết sức chăm bón, phải lấy người bên cạnh làm tiêu chuẩn để nộp thóc cho chủ ruộng; Nếu không cày cấy mà bỏ ruộng hoang thì người này phải căn cứ theo người bên cạnh để nộp thóc cho chủ ruộng và còn phải cày bừa ruộng đã bỏ hoang cho bằng phẳng rồi trả lại cho chủ ruộng.
Quá trình hình thành pháp luật, nhà nước thể chế chính trị
Để thực hiện việc cai trị đất nước, tầng lớp quý tộc đã lập ra bộ máy nhà nước do vua đứng đầu.Theo đó vua có quyền cao nhất trong mọi công việc, từ việc đặt ra luật pháp, chỉ huy quân đổi, cả việc xét xử những người có tội. Vua còn coi là người đại diện của thần thánh ở dưới trần gian, là Thiên tử ( con trời) theo quan niệm ở Trung Quốc, ở Ai Cập là Pha – ra – ôn ( ngôi nhà lớn), còn ở Lưỡng Hà thì gọi là En – si ( người đứng đầu)
Giúp việc cho vua chính là bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương gồm quý tộc ( công việc của học là thu thuế, xây dựng cung điện, đền tháp và chỉ huy quân đội).
1.2 Lịch sử hình thành các quốc gia cổ đại phương Tây
Ở miền Nam Âu có hai bán đảo nhỏ vươn dài ra Địa Trung Hải. Đó là các bán đảo Ban Căng và Italia. Tại đây vào khoảng đầu thiên niên kỉ I trước công nguyên đã hình thành hai quốc gia Hi Lạp và Rô ma; Do điều kiện đất đai ở đây không thuận lợi cho việc trồng lúa. Nên cư dân ở Hi Lạp và Rô – ma phải trồng thêm các loại cây lưu niên như nho, ô liu. Nhờ có công cụ sắt, các nghề thủ công như luyện kim, làm đồ mĩ nghệ, đồ gốm, nấu rượu nho, làm dầu ô liu … phát triển. Bờ biển Hi Lạp và Rô – ma có nhiều cảng tốt đặc biệt là ngoại thương, rất phát triển. Họ đã trao đổi các sản phẩm thủ công và rượu nho, dầu ô liu với Lưỡng Hà, Ai Cập bán rồi mua về lúa mì và súc vật.
Quá trình hình thành pháp luật, nhà nước thể chế chính trị
Do đặc thù kinh tế phát triển của thủ công nghiệp và thương nghiệp đã dẫn tới sự hình thành phân hóa một số chủ xưởng, chủ lò, chủ các thuyền buôn rất giàu có kèm theo thế lực chính trị. Họ có nhiều nô lệ làm việc tại các nhà xưởng. Do đó Hi Lạp và Rô – ma rất đông. Công việc của nô lệ rất cực nhọc, họ phải làm việc tại tại các trang trại, trong các xưởng thủ công, khuân vác hàng hóa hoặc chèo thuyền. Họ không có tài sản riêng và bản thân họ cũng chính là một loại tài sản của chủ nô.
Vì bị đối xử như vậy, mâu thuẫn cao trào dẫn đến việc họ không ngừng đứng lên phản kháng lại chủ nô bằng nhiều hình thức khác nhau như bỏ trốn, phá hoại sản xuất thậm chí khởi nghĩa vũ trang. Điểm hình là cuộc khởi nghĩa của nô lệ do Xpac – ta – cút lãnh đạo, nổ ra vào năm 73 – 71 trước công nguyên làm cho giới chủ nô phải rung chuyển.
Tại đây nô lệ là lực lượng lao động chính trong xã hội, Là lực lượng tạo ra của cải trong xã hội. ( sản xuất lúa gạo ở các trang trại đến việc làm ra các sản phẩm thủ công như giày dép, quần áo …) bên cạnh đó họ cũng là người phục vụ cho tầng lớp quý tộc.
Chủ nô nắm mọi quyền hành chính trị. Nhà nước gồm nhiều bộ phận do dân tự do hay quý tộc bầu ra và làm việc theo thời hạn, giải quyết mọi việc trong nước và các cuộc chiến tranh. Như vậy, ở Hi Lạp và Rô – ma cổ đại đã hình thành hai giai cấp cơ bản là nô lệ và chủ nô.
2. So sánh các mặt của các quốc gia cổ đại phương Đông và phương Tây
Nội dung so sánh
Các quốc gia cổ đại phương Đông
Các quốc gia cổ đại phương Tây
Điều kiện tự nhiên
Có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho cuộc sống nông nghiệp của con người. Với nhiều đồng bằng ven sông rộng lớn, đất đai phì nhiêu, mềm xốp rất phù hợp cho việc phát triển nông nghiệp.
Ngoài ra lượng mưa được phân bổ đều theo mùa do đó nguồn nước dành cho trồng trọt, chăn nuôi và sinh hoạt luôn được đảm bảo.
Các vùng đồng bằng ven sông đều được bồi đắp thêm phù sa màu mỡ hàng năm từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc gieo trồng các loại cây lương thực
Trái lại với các quốc gia cổ đại phương Đông. Điều kiện của tự nhiên của các quốc gia cổ đại phương Tây không phù hợp với việc trồng lúa nói riêng và canh tác nông nghiệp nói chung. Nơi đây điều kiện phù hợp với phát triển nền kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp. Điển hình là bờ biẻn dài và nhiều vũng vịnh sâu, kín gió rất thuận tiện cho giao thông đường biển. Phần lớn lãnh thổ ở nơi đây là núi và cao nguyên, do đất đai không màu mỡ, không thuận lợi để phát triển nông nghiệp nhưng nơi đây phù hợp với việc trồng nho và oliu
Kinh tế
Công tác thủy lợi phát triển
Nền kinh tế nông nghiệp
Nền kinh tế công thương,ngoại thương hàng hải cực kỳ phát triển, đóng vai trò chủ đạo
Nông nghiệp tại đây không được phát triển
Thể chế chính trị
Nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền ( hay còn được gọi là chế độ chuyên chế cổ đại)
Bộ máy nhà nước là bộ máy của quý tộc, cộng hòa quý tộc, công hòa quý tộc ( hay chủ nô mang tính dân chủ chủ nô)
Xã hội
– Giai cấp thống trị: Vua là người đứng đầu có toàn quyền quyết định; sau đó là hệ thống quý tộc và quan lại
– Giai cấp bị trị: Nô lệ, nông dân, thợ thủ công
( mối quan hệ của hai giai cấp đối kháng nhau)
– Giai cấp thống trị: Chủ nô
– Giai cấp bị trị: Nô lệ
( mối quan hệ của hai giai cấp đối kháng nhau)
Lịch và thiên văn học
Do đặc tính canh tác nông nghiệp của con người nơi đây mà lịch pháp và thiên văn học được ra đời từ rất sớm. Sử dụng sự chuyển động của mặt trời, mặt trăng. Người phương Đông tạo ra lịch có tên gọi là nông lịch ( có 365 ngày trong một năm và được phân chia làm 12 tháng)
Họ biết được chu kỳ thời gian và mùa. Đơn vị thời gian là ngày, tuần, tháng và năm. Chia năm thành các mùa mưa, mua khô và mua gieo trồng đất bãi.
Họ định lượng thời gian bằng ánh sáng mặt trời và từ đó tính xác định 1 ngày có 24 giờ
Người Hy Lạp đã hiểu chính xác hơn về trái đất và hệ mặt trời; Cư dân cổ đại phương tây tính ra một năm có 365 và 1/4 ngày. Định ra 1 tháng lần lượt có 30 và 31 ngày và tháng 2 có 28 ngày
Chữ viết
Chữ viết được xuất hiện ở Lưỡng Hà và Ai Cập vào khoảng thiên niên kỉ IV trước công nguyên.
Hình thức ban đầu là chữ tượng hình có nghĩa là vẽ ra những điều mà họ muốn truyền đạt. Sau đó con người sáng tạo thêm chữ ký hiệu biểu thị khái niệm trừu tượng.
Dần dần họ bắt đầu cách điện hóa chữ viết thành các nét và thực hiện ghép các nét theo quy ước để có thể phản ánh ý nghĩ của con người một cách phong phú hơn được gọi là chữ tượng ý
So với các nước cổ đại phương Đông thì người Rôma, Hy Lập đã sáng tạo ra chữ viết cổ đại từ rất sớm. Nhưng do quá phức tạp, quá nhiều hình, nét và kí hiệu nên không được phổ biến.
Họ đã tạo ra hệ thống chữ cái A, B, C .Ban đầu chỉ có 20 chữ cái dần về có thêm 6 chữ cái nữa trở thành hệ thống chữ cái hoàn chỉnh như ngày nay
Hệ chữ số La Mã mà chúng ta vẫn đang sử dụng hiện nay được ra đời trong thời kỳ này
Khoa học Nghệ thuật
Do nhu cầu cần tính toán lại diện tích ruộng đất sau khi bị ngập nước, trong xây dựng,… nên toán học được ra đời khá sớm
Bắt đầu bằng cách dùng những ký hiệu đơn giản viết các chữ số từ 1 đến 10.
Đặc biệt là người Ai Cập cổ đại đã tính ra số Pi – 3,16; biết cách tính diện tích của hình tam giác, hình tròn; thể tích của hình cầu. Đồng thời người Lưỡng Hà biết làm các phép toán cộng, trừ, nhân, chia phát minh ra chữ số 0
Nghệ thuật kiến trúc của các nước cổ đại phương Đông rất phát triển. Điển hình là thành Babylon của Lương Hà, Kim tự tháp của Ai cập. Công trình kiến trúc mặc dù đã tồn tại cách đây hàng nghìn năm nhưng vẫn còn tồn tại đến nay. Điều đó minh chứng cho tài năng kiến trú của con người cổ đại phương Đông xuất sắc như thế nào.
Hiểu biết khoa học của con người thời cổ đại Hy Lạp Rô ma rất sâu sắc. Những định lý toán học và vật lý được ra đời. Những nhà khoa học nổi tiếng của các nước cổ đại phương Tây như: Ta – lét, Ơ – clít, Pi – ta – go ( Toán học); Ác – si – mét ( Vật lý); Hê – rô – đốt, Tu – xi – đít, Ta – xít họ đã đưa lịch sử vượt qua thời kỳ ghi chép tản mạn, họ đã tập hợp, phân tích và trình bày các dữ kiện lịch sử theo hệ thống.
Những tác phẩm kiến trúc nổi tiếng của người Hy Lạp cổ đại như: Thần nữ Mi – lô, Người lực sĩ ném đĩa, Nữ thần Athena đội mũ chiến binh. Và một số công trình khác như đền đài, đấu trường, máng dẫn nước. Mặc dù đồ sộ, thiết thực nhưng kiến trúc của Roma không được tươi tắn và gần gũi như công trình của Hy Lạp;
Ngoài ra Hy Lạp nổi bật với những bản hùng ca nổi tiếng như Iliad của Hô me. Nhà văn tên tuổi như Sô phốc, Etxi, Bripít; Kịch bản chính là hình thức nghệ thuật phổ biến nhất, người Rô – ma đã tự nhận kế thừa văn học nghệ thuật của người Hy Lạp
Trên đây là bài phân tích bảng so sánh các quốc gia cổ đại phương Đông và các quốc gia cổ đại phương Tây của Luật Minh Khuê. Hi vọng những thông tin mà chúng tôi phân tích, đưa ra trên đây sẽ giúp ích cho quý khách trong việc nghiên cứu và học tập. Trong trường hợp quý bạn đọc có điều chưa rõ về bài viết hay có bất cứ khúc mắc nào về vấn đề trên vui lòng liên hệ trực tiếp Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến theo số Holine: 1900.6162 để được hỗ trợ giải đáp một cách nhanh, hiệu quả nhất. Rất mong nhận được sự hợp tác và tin tưởng của quý khách, Luật Minh Khuê xin trân trọng cảm ơn !