Luận văn: Văn hóa giao tiếp của viên chức tại Văn phòng đất đai

  1. BỘ GIÁO DỤC

    VÀ ĐÀO TẠO
    —/—
    BỘ NỘI VỤ
    —/—
    HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
    LÊ THỊ THU HIỀN
    THỰC HIỆN VĂN HÓA GIAO TIẾP
    TẠI VĂN PHÕNG ĐĂNG KÝ ĐẤT ĐAI HÀ NỘI
    LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
    HÀ NỘI – 2016

  2. BỘ GIÁO DỤC

    VÀ ĐÀO TẠO
    —/—
    BỘ NỘI VỤ
    —/—
    HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
    LÊ THỊ THU HIỀN
    THỰC HIỆN VĂN HÓA GIAO TIẾP
    TẠI VĂN PHÕNG ĐĂNG KÝ ĐẤT ĐAI HÀ NỘI
    LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
    Chuyên ngành: Quản lý công
    Mã số: 60 34 04 03
    Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Bùi Kim Chi
    HÀ NỘI – 2016

  3. LỜI CAM ĐOAN
    Tôi

    xin cam đoan Luận văn này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, các
    kết quả nghiên cứu chưa từng được công bố ở bất cứ công trình nào khác, các
    số liệu khảo sát được sử dụng trong luận văn là kết quả do tôi tự tiến hành và
    tổng hợp. Các quan điểm của các tác giả khác, các số liệu của các nghiên cứu
    khác được sử dụng trong luận văn này đều được trích dẫn, dẫn nguồn đúng
    quy định.
    Hà Nội, ngày tháng năm 2016
    Học viên
    Lê Thị Thu Hiền

  4. LỜI CẢM ƠN
    Với

    tình cảm trân trọng nhất, tác giả luận văn xin bày tỏ lời cảm ơn
    chân thành, sâu sắc nhất tới TS. Bùi Kim Chi vì sự tận tình hướng dẫn, giúp
    đỡ của tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
    Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn đối với Ban Giám đốc, các Thầy, cô
    giáo của Học viện Hành chính quốc gia đã tận tình, chu đáo trong quá trình
    giảng dạy và truyền đạt kiến thức cho tôi. Xin cảm ơn toàn thể cán bộ, nhân
    viên của Học viện Hành chính quốc gia đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất
    cho tác giả trong thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành chương trình
    cao học.
    Xin chân thành cảm ơn các vị lãnh đạo, các đồng nghiệp, bạn bè công tác
    tại Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội đã luôn động viên, quan tâm, tạo điều
    kiện giúp đỡ tôi về mặt tài liệu, số liệu, để tôi có thể hoàn thiện luận văn này.
    Tuy đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư thời gian và công sức nghiên
    cứu hoàn thành luận văn, nhưng do hạn chế về chuyên môn, kiến thức, nên
    chắc chắn không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, thiếu sót. Kính mong
    nhận được sự góp ý của các Thầy, cô giáo, của đồng nghiệp và các bạn học
    viên, để luận văn ngày càng hữu ích hơn.
    Xin trân trọng cám ơn!
    Hà Nội, ngày … tháng … năm 2016
    Tác giả luận văn
    Lê Thị Thu Hiền

  5. DANH MỤC CHỮ

    CÁI VIẾT TẮT
    CBCCVC : Cán bộ, công chức, viên chức
    CCHC : Cải cách hành chính
    HCNN : Hành chính nhà nước
    VHGT : Văn hóa giao tiếp

  6. DANH MỤC BẢNG,

    BIỂU, HÌNH VẼ
    STT TÊN BẢNG, BIỂU TRANG
    1
    Bảng 2.1. Tổng hợp kết quả khảo sát thực trạng thực
    hiện nguyên tắc trong văn hóa giao tiếp của viên chức
    tại Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội
    50
    2
    Hình 2.1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc chuẩn mực
    đạo đức trong văn hóa giao tiếp của viên chức
    tại Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội (Tỷ lệ: %)
    51
    3
    Hình 2.2. Thực trạng thực hiện các quy định về chức
    năng, nhiệm vụ của viên chức tại Văn phòng Đăng ký
    đất đai Hà Nội (Tỷ lệ %)
    54
    4
    Hình 2.3. Thực trạng thực hiện nội dung về thái độ đối
    với đồng nghiệp trong văn hóa giao tiếp của viên chức
    Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội (Tỷ lệ %)
    55
    5
    Hình 2.4. Thực trạng thực hiện nội dung tôn trọng, gần
    gũi nhân dân trong văn hóa giao tiếp giữa viên chức
    57
    6
    Hình 2.5. Thực trạng tính hữu ích của các thông tin
    hướng dẫn của viên chức Văn phòng Đăng ký đất đai
    Hà Nội đối với công dân
    59

  7. MỤC LỤC
    MỞ ĐẦU

    ……………………………………………………………………………………………. 1
    Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VĂN HÓA GIAO TIẾP VÀ THỰC HIỆN
    VĂN HÓA GIAO TIẾP CỦA VIÊN CHỨC……………………………………….10
    1.1. TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA GIAO TIẾP ……………………………….10
    1.1.1. Khái niệm văn hóa ………………………………………………………………..10
    1.1.2. Khái niệm, bản chất giao tiếp…………………………………………………14
    1.1.3. Khái niệm văn hóa giao tiếp…………………………………………………..18
    1.1.4. Chức năng của giao tiếp………………………………………………………..19
    1.1.5. Vai trò và đặc điểm của giao tiếp……………………………………………20
    1.2. THỰC HIỆN VĂN HÓA GIAO TIẾP TRONG CÔNG SỞ ……….25
    1.2.1. Những nguyên tắc cơ bản trong thực hiện văn hóa giao tiếp công sở..25
    1.2.2. Những yếu tố tác động đến thực hiện văn hóa giao tiếp công sở…29
    1.2.3. Nội dung thực hiện văn hóa giao tiếp tại Văn phòng Đăng ký đất
    đai Hà Nội…………………………………………………………………………………….33
    TIỂU KẾT CHƢƠNG 1………………………………………………………………….43
    Chƣơng 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VĂN HÓA GIAO TIẾP CỦA
    VIÊN CHỨC TẠI VĂN PHÕNG ĐĂNG KÝ ĐẤT ĐAI HÀ NỘI………..44
    2.1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN PHÕNG ĐĂNG KÝ ĐẤT ĐAI HÀ NỘI..44
    2.1.1. Vị trí và chức năng………………………………………………………………..45
    2.1.2. Nhiệm vụ và quyền hạn………………………………………………………….45
    2.1.3. Tổ chức bộ máy và nhân sự ……………………………………………………46
    2.2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VĂN HÓA GIAO TIẾP CỦA VIÊN
    CHỨC TẠI VĂN PHÕNG ĐĂNG KÝ ĐẤT ĐAI HÀ NỘI……………….48
    2.2.1. Thực trạng thực hiện các nguyên tắc trong văn hóa giao tiếp…….48
    2.2.2. Thực trạng thực hiện các nội dung trong văn hóa giao tiếp……….52

  8. 2.3. ĐÁNH GIÁ

    THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VĂN HÓA GIAO TIẾP
    CỦA VIÊN CHỨC TẠI VĂN PHÕNG ĐĂNG KÝ ĐẤT ĐAI HÀ NỘI..60
    2.3.1. Những ưu điểm trong thực hiện văn hóa giao tiếp…………………….60
    2.3.2. Những hạn chế trong thực hiện văn hóa giao tiếp …………………….62
    2.3.3. Nguyên nhân của các hạn chế trong thực hiện văn hóa giao tiếp .63
    TIỂU KẾT CHƢƠNG 2………………………………………………………………….66
    Chƣơng 3. NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN VĂN HÓA GIAO
    TIẾP CỦA VIÊN CHỨC TẠI VĂN PHÕNG ĐĂNG KÝ ĐẤT ĐAI HÀ
    NỘI …………………………………………………………………………………………………..67
    3.1. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NGUYÊN TẮC NÂNG CAO HIỆU QUẢ
    THỰC HIỆN VĂN HÓA GIAO TIẾP……………………………………………..67
    3.1.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện văn hóa giao tiếp ….67
    3.1.2. Nguyên tắc nâng cao hiệu quả thực hiện văn hóa giao tiếp ……….71
    3.2. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN VĂN HÓA
    GIAO TIẾP CỦA VIÊN CHỨC TẠI VĂN PHÕNG ĐĂNG KÝ ĐẤT
    ĐAI HÀ NỘI…………………………………………………………………………………..73
    3.2.1. Đào tạo, bồi dưỡng về văn hóa giao tiếp và thực hiện văn hóa giao
    tiếp đối với đội ngũ công chức, viên chức, lao động…………………………..73
    3.2.2. Xây dựng chuẩn mực văn hóa giao tiếp …………………………………..75
    3.2.3. Tuyên truyền, phổ biến về văn hóa giao tiếp…………………………….77
    3.2.4. Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu Văn phòng Đăng ký đất
    đai Hà Nội…………………………………………………………………………………….79
    3.2.5. Thực hiện văn hóa xin lỗi và từ chức……………………………………….81
    TIỂU KẾT CHƢƠNG 3………………………………………………………………….84
    KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………….85
    TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………………….87

  9. 1
    MỞ ĐẦU
    1. Tính

    cấp thiết của đề tài
    Trong những năm qua, cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh
    tế – xã hội, nền hành chính Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể theo
    hướng ngày càng hiện đại, phục vụ ngày càng tốt hơn, đáp ứng đầy đủ hơn
    những nhu cầu của nhân dân, góp phần tạo lòng tin trong dân đối với chính
    quyền các cấp, đặc biệt đối với chính quyền cơ sở, thắt chặt mối quan hệ Nhà
    nước và nhân dân. Công cuộc cải cách hành chính (CCHC) đã đạt được
    những thành tựu lớn với những cải cách mang tính hệ thống và khá toàn diện
    về cả cơ cấu tổ chức lẫn thể chế hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước
    (HCNN). Trong đó, có một vấn đề được nhân dân, tổ chức hết sức quan tâm
    đó là chất lượng phục vụ. Để đảm bảo một nền hành chính thực sự hiện đại,
    hoạt động hiệu quả và phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn, chúng ta không
    thể không nhắc đến vai trò của giao tiếp trong quản lý HCNN.
    Giao tiếp là một trong những đặc trưng quan trọng, đồng thời là công cụ
    đóng vai trò quyết định cơ bản trong hành vi của con người. Nó không chỉ là
    điều kiện quan trọng của sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách
    mà còn đảm bảo cho con người đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả
    trong mọi lĩnh vực hoạt động. Giao tiếp diễn ra trong môi trường văn hóa,
    trong những nền văn hóa nhất định, gắn liền với từng bối cảnh, điều kiện văn
    hóa cụ thể.
    Hầu hết các công việc thuộc lợi ích công đều được tiến hành thông qua
    con đường giao tiếp. Vì vậy, chất lượng của nền hành chính công tùy thuộc
    vào chất lượng của các quá trình giao tiếp được tiến hành. Để tiến hành giao
    tiếp có hiệu quả, cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) cần hiểu bản chất,
    cần biết các loại giao tiếp và các nguyên tắc, công cụ cho giao tiếp hợp lý,

  10. 2
    dựa trên lợi

    ích. Đây không chỉ là xu hướng mà đã trở thành yêu cầu bức thiết
    đối với một nền hành chính hiện đại – nền hành chính ngày càng mang đậm
    tính chất phục vụ. Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy để có được những tiến
    bộ vượt bậc trong công cuộc cải cách nền hành chính Việt Nam trong thời
    gian qua không thể phủ nhận vai trò to lớn, mang tính chất quyết định của
    nhân tố con người. Tuy vậy, phải nhìn nhận một cách khách quan những hạn
    chế đang tồn tại ngay trong đội ngũ CBCCVC hiện nay là không nhỏ, mà hạn
    chế về văn hóa giao tiếp, ứng xử, về kỹ năng giao tiếp công sở là rất đáng
    quan tâm. Những biểu hiện tiêu cực như: hách dịch, cửa quyền, gây khó dễ
    cho dân, coi thường nhân dân, xa cách, lãnh đạm, vô cảm với dân thường thấy
    qua lối ứng xử hằng ngày không những đang là một trở ngại rất lớn đối với
    công cuộc cải cách nền hành chính nước nhà, ảnh hưởng đến chất lượng phục
    vụ của các dịch vụ công mà còn tác động tiêu cực đến mối quan hệ Nhà nước
    – công dân.
    Trong thời kỳ mới của nền hành chính nước nhà việc đào tạo bồi dưỡng
    kiến thức, kỹ năng liên quan đến hoạt động giao tiếp cho CBCCVC đã trở
    thành một yêu cầu tất yếu. Một số cơ quan, tổ chức ở các địa phương đã và
    đang quan tâm hơn tới hoạt động này nhưng chưa thực sự mang lại hiệu quả
    cao. Vậy, đào tạo gì là cơ bản, là cần kíp nhất, phù hợp nhất để mang lại hiệu
    quả cho hoạt động của cơ quan, tổ chức? Để trả lời thật chính xác câu hỏi vừa
    nêu, không còn cách nào khác là phải có những nhìn nhận, những cuộc đánh
    giá thật khách quan về những hạn chế trong thực hiện văn hóa giao tiếp của
    CBCCVC đang hằng ngày thực thi công vụ tại các cơ quan công quyền. Tuy
    nhiên, trên thực tế lại rất ít các cơ quan HCNN làm tốt công tác này.
    Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội là đơn vị sự nghiệp công lập, thuộc
    Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Hà Nội, trong quá trình thực thi
    nhiệm vụ có đặc thù thường xuyên phải trao đổi tiếp xúc với công dân và giữa

  11. 3
    các bộ phận

    với nhau. Văn hóa giao tiếp nói chung, văn hóa giao tiếp của đội
    ngũ viên chức nói riêng là một trong những yếu tố quan trọng, có tác động rất
    lớn đến kết quả, hiệu quả thực hiện các công việc, nhiệm vụ của viên chức tại
    Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội.
    Do đó, việc tiến hành nghiên cứu, đánh việc thực hiện văn hóa giao tiếp
    của viên chức là rất cần thiết và hữu ích, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
    quả thực hiện văn hóa giao tiếp của đội ngũ viên chức nói riêng. Qua đó,
    nhằm góp phần cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ, đáp ứng các yêu cầu,
    kỳ vọng của người dân.
    Xuất phát từ những lý do trên, đề tài “Thực hiện văn hóa giao tiếp của
    viên chức tại Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội” có ý nghĩa lý luận và thực
    tiễn làm Luận văn cao học chuyên ngành Quản lý công tại Học viện Hành
    chính Quốc gia.
    2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
    Có rất nhiều công trình nghiên cứu bàn về văn hóa giao tiếp, chúng ta có
    thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
     Kho bạc nhà nước – Bộ Tài chính (2007), Văn hoá công sở và giao
    tiếp hành chính: Tài liệu học tập dành cho CBCC hệ thống Kho bạc Nhà
    nước, Nxb Tài chính, H.: Nội dung chính bao gồm: Vai trò của văn hoá trong
    đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, tiêu thức văn minh, văn hoá nghề kho bạc.
    Vai trò văn hoá trong hoạt động công sở, kinh nghiệm văn hoá ứng xử ở công
    sở như giao tiếp với đồng nghiệp, với cấp trên, cấp dưới,… kỹ năng giao tiếp,
    môi trường giao tiếp;
     Lương Minh Nguyệt, Lương Minh Hà (2008), Nghệ thuật giao tiếp
    hành chính, công sở, Nxb. Khoa học và kỹ thuật, H.: Giới thiệu các hiện
    tượng tâm lý, những lý luận cơ bản về giao tiếp và kỹ năng giao tiếp trong
    hành chính, công sở;

  12. 4
     Chu Văn

    Đức (ch.b) (2005), Giáo trình kỹ năng giao tiếp: Dùng trong
    các trường THCN, Nxb. Hà Nội, H.: Giới thiệu về phong cách giao tiếp trong
    đời sống xã hội như cấu trúc, phương tiện và phong cách giao tiếp; các kỹ
    năng giao tiếp cơ bản như giao tiếp trực tiếp, thương lượng, giao tiếp qua điện
    thoại, thư tín và giao tiếp văn phòng; cùng văn hoá giao tiếp của người Việt
    Nam và người nước ngoài;
     Trần Đình Tuấn (2005), Loại bỏ sai lầm trong giao tiếp, Nxb. Văn
    hóa Thông tin, H.: Giới thiệu các phép tắc giao tiếp, các phương cách để tránh
    và khắc phục những sai lầm trong giao tiếp và các nguyên tắc giúp thích nghi
    với các môi trường khác nhau;
     Nguyễn Duy Chinh, Trương Ngọc Quỳnh (2009), Những thường thức
    giao tiếp cơ bản cần thiết, Nxb. Lao động xã hội, H.: Phân tích tầm quan
    trọng của lời nói trong khi giao tiếp. Nghệ thuật đối nhân xử thế và những
    thường thức giao tiếp cơ bản cần biết;
     Lương Thị Hiền (2014), Các phương tiện ngôn ngữ biểu thị quyền lực
    trong giao tiếp hành chính tiếng Việt, Luận án: Hệ thống hóa những nghiên
    cứu về ngôn ngữ học pháp luật; về quyền lực trong giao tiếp ngôn ngữ nói
    chung, giao tiếp pháp đình nói riêng; xác định đặc điểm cơ bản của giao tiếp
    pháp đình trong giao tiếp hành chính tiếng Việt. Hệ thống hóa những lý
    thuyết làm cơ sở cho nghiên cứu các phương tiện ngôn ngữ biểu thị quyền lực
    trong giao tiếp pháp đình. Nghiên cứu quyền lực trong ngôn ngữ tương tác
    pháp đình trên bình diện tổng thể. Nghiên cứu các phương tiện cụ thể biểu thị
    quyền lực trong giao tiếp pháp đình;
     Phạm Thị Tuyết (2009), Kỹ năng giao tiếp của cán bộ giao dịch ngân
    hàng, luận án: Tìm hiểu thực trạng kỹ năng giao tiếp với khách hàng của cán
    bộ giao dịch ngân hàng và nguyên nhân của thực trạng đó. Đề xuất và tiến
    hành thực nghiệm một số biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng giao tiếp của cán
    bộ giao dịch ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Bắc
    Hà Nội;

  13. 5
     Nhữ Văn

    Thao (2012), Kỹ năng giao tiếp của chính trị viên trong
    quân đội nhân dân Việt Nam, Luận án: Nghiên cứu thực trạng và các yếu tố
    ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp của chính trị viên trong quân đội nhân dân
    Việt Nam và đề xuất một số kiến nghị về biện pháp nhằm nâng cao kỹ năng
    giao tiếp cho chính trị viên trong giai đoạn hiện nay;
     Nguyễn Liên Châu (2000), Một số đặc điểm giao tiếp của hiệu trưởng
    trường tiểu học, Luận án: Làm rõ lý luận về đặc điểm giao tiếp, phân tích đặc
    điểm giao tiếp trong quản lý của cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung và của
    hiệu trưởng trường tiểu học nói riêng, tạo cơ sở để nâng cao hiệu quả quản lý
    của trường tiểu học;
     Nguyễn Văn Bính (2003), Giao tiếp và ứng xử với tư cách là thành tố
    của văn hóa trong hoạt động doanh nghiệp thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
    hóa đất nước, Luận án: Trình bày lý luận về giao tiếp, ứng xử và mối quan hệ
    hữu cơ giữa chúng và trong hoạt động của doanh nghiệp. Phân tích các yêu
    cầu về giao tiếp trong hoạt động doanh nghiệp thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
    đại hóa và việc xây dựng quan hệ giao tiếp, cách ứng xử trong hoạt động
    doanh nghiệp thời kỳ này;
     Võ Sĩ Lục (2002), Kỹ năng giao tiếp nghiệp vụ của trinh sát an ninh
    và phương pháp đánh giá chúng, Luận án: Trình bày tổng quan về giao tiếp,
    kỹ năng giao tiếp trong tâm lý học và trong hoạt động trinh sát an ninh. Hệ
    thống kỹ năng giao tiếp nghiệp vụ cần thiết, phù hợp của trinh sát an ninh.
    Các bài tập trắc nghiệm làm công cụ đo lường, đánh giá nhóm kỹ năng thu
    thập thông tin trong nghiệp vụ trinh sát an ninh;
     Nguyễn Phương Huyền (2012), Kỹ năng giao tiếp của cán bộ công
    chức, Luận án: Trình bày một số vấn đề lý luận cơ bản về kỹ năng giao tiếp
    của cán bộ, công chức hành chính. Nghiên cứu thực trạng kỹ năng giao tiếp
    của cán bộ, công chức ở các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn thành

  14. 6
    phố Hà Nội

    và đề xuất giải pháp cho công tác bồi dưỡng, góp phần nâng cao
    kỹ năng giao tiếp của cán bộ, công chức;
     Đào Thị Ái Thi (2008), Kỹ năng giao tiếp của đội ngũ công chức hành
    chính trong tiến trình cải cách nền hành chính nhà nước Việt Nam, Luận án:
    Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng về kỹ năng giao tiếp của
    đội ngũ công chức hành chính để đề xuất các giải pháp và xây dựng mô hình
    rèn luyện kỹ năng giao tiếp của công chức hành chính trong tiến trình cải cách
    hành chính nhà nước;
     Nguyễn Thị Thanh Tâm (2013), Trí tuệ cảm xúc của cán bộ chủ chốt
    cấp cơ sở trong giao tiếp công vụ, Luận án: Nghiên cứu một số vấn đề lý luận
    và thực tiễn về trí tuệ cảm xúc trong giao tiếp công vụ của nhóm xã hội là cán
    bộ chủ chốt cấp cơ sở để phát hiện những mặt mạnh, mặt yếu về năng lực trí
    tuệ cảm xúc của nhóm này biểu hiện trong giao tiếp công vụ. Đề xuất một số
    biện pháp nâng cao năng lực trí tuệ cảm xúc của cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
    trong giao tiếp công vụ, qua đó góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả
    hoạt động của hệ thống chính trị cấp cơ sở;
     Trần Thị Thanh Hà (2005), Một số kỹ năng giao tiếp trong vận động
    quần chúng của chủ tịch hội phụ nữ cấp cơ sở, Luận án: Nghiên cứu về giao
    tiếp trong vận động quần chúng của chủ tịch phụ nữ cấp cơ sở, làm rõ kỹ năng
    định hướng, định vụ và điều khiển quá trình giao tiếp của chủ tịch hội phụ nữ
    cấp cơ sở ở tỉnh Thanh Hóa. Đề xuất quy trình bồi dưỡng nâng cao kỹ năng
    định hướng giao tiếp trong vận động quần chúng cho chủ tịch hội phụ nữ cấp
    cơ sở;
     Trần Kim Phượng (2005), Vài nét về văn hóa trong giao tiếp công vụ,
    Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 1+2, tr. 93-94;
     Lưu Kiếm Thanh (2009), Ngôn ngữ – phương tiện giao tiếp công vụ,
    Tạp chí Quản lý nhà nước, số 161, tr.32-35;
     Đào Thị Ái Thi (2007), Hoàn thiện kỹ năng thuyết trình trong giao
    tiếp hành chính, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 134, tr. 32-34.

  15. 7
    3. Mục đích,

    nhiệm vụ nghiên cứu
    3.1.Mục đích nghiên cứu
    Tìm hiểu thực trạng thực hiện văn hóa giao tiếp của viên chức tại Văn
    phòng Đăng ký đất đai Hà Nội; đồng thời đánh giá các ưu điểm, hạn chế trong
    thực hiện văn hóa giao tiếp của viên chức. Từ đó, đưa ra phương hướng, giải
    pháp nâng cao hiệu quả thực hiện văn hóa giao tiếp của viên chức Văn phòng
    Đăng ký đất đai Hà Nội.
    3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
     Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về giao tiếp, văn hóa giao tiếp,
    văn hóa giao tiếp của viên chức và thực hiện văn hóa giao tiếp của viên chức;
     Trình bày khái quát về lịch sử thành lập, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu
    tổ chức của Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội; số lượng, cơ cấu, đặc điểm
    của đội ngũ công chức, viên chức tại Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội;
     Đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện văn hóa giao tiếp của viên chức
    tại Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội;
     Hệ thống hóa các quan điểm, phương hướng của Đảng và Nhà nước,
    các quy định của thành phố Hà Nội về nâng cao văn hóa giao tiếp, ứng xử
    trong thực thi hoạt động công vụ của đội ngũ công chức, viên chức;
     Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện văn hóa giao tiếp
    của đội ngũ viên chức tại Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội.
    4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
    4.1.Đối tượng nghiên cứu
    Luận văn nghiên cứu việc thực hiện văn hóa giao tiếp của đội ngũ viên
    chức tại Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội với các nội dung chủ yếu: Giao
    tiếp với đồng nghiệp; giao tiếp với các cơ quan, đơn vị, tổ chức và công dân.
    4.2.Phạm vi nghiên cứu
     Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực hiện văn hóa giao tiếp của
    viên chức Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội từ 2014 – 2016;

  16. 8
     Về không

    gian: Luận văn tiến hành nghiên cứu thực hiện văn hóa giao
    tiếp của viên chức Văn phòng Đăng ký đất đai trên địa bàn thành phố Hà Nội.
    5. Phƣơng pháp nghiên cứu
    5.1.Phương pháp tổng hợp, phân tích
    Luận văn sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích các tài liệu sẵn có bao
    gồm các công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến đề tài nghiên cứu, các
    báo cáo, thống kê có đề cập đến các thông tin, số liệu liên quan đề tài luận văn.
    5.2.Phương pháp điều tra xã hội học
    Luận văn sử dụng phương pháp điều tra xã hội học nhằm cung cấp các
    số liệu trong chương 2; cụ thể:
    Đối tượng khảo sát bao gồm 2 nhóm:
    Phiếu 1- Dành cho Viên chức Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội với
    tổng số phiếu điều tra là 80 phiếu;
    Phiếu 2 – Dành cho người dân và các tổ chức đến thực hiện các công
    việc tại Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội với tổng số phiếu là 80 phiếu.
    6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
    Kết quả nghiên cứu đề tài luận văn sau khi bảo vệ thành công sẽ là tài
    liệu phong phú bổ sung thêm cơ sở lý luận, những giải pháp thiết thực về việc
    thúc đẩy hiệu quả thực hiện văn hóa giao tiếp công sở nói chung, VHGT tại
    văn phòng đăng ký đất đai Hà Nội nói riêng.
    Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện VHGT của viên chức tại văn
    phòng đăng ký đất đai Hà Nội có thể được tiếp tục nghiên cứu để áp dụng trên
    thực tế với phạm vi rộng rãi hơn. Kết quả nghiên cứu của luận văn là tư liệu
    tham khảo cho nghiên cứu và giảng dạy các môn học/ chuyên đề liên quan
    đến kỹ năng giao tiếp, văn hóa giao tiếp thuộc các chương trình đào tạo, bồi
    dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời, cũng là mô hình học hỏi cho
    các cơ quan, đơn vị khác có nhu cầu.

  17. 9
    7. Kết cấu

    luận văn
    Luận văn được kết cấu thành 4 phần, cụ thể: Phần mở đầu, nội dung
    chính, kết luận và tài liệu tham khảo. Nội dung chính của Luận văn được chia
    thành 3 chương, bao gồm:
    Chương 1: Cơ sở lý luận văn hóa giao tiếp và thực hiện văn hóa giao tiếp
    của viên chức
    Chương 2: Thực trạng thực hiện văn hóa giao tiếp của viên chức tại Văn
    phòng Đăng ký đất đai Hà Nội
    Chương 3: Nâng cao hiệu quả thực hiện văn hóa giao tiếp của viên chức
    tại Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội.

  18. 10
    Chƣơng 1
    CƠ SỞ

    LÝ LUẬN VĂN HÓA GIAO TIẾP
    VÀ THỰC HIỆN VĂN HÓA GIAO TIẾP CỦA VIÊN CHỨC
    1.1. TỔNG QUAN VỀ VĂN HÓA GIAO TIẾP
    1.1.1. Khái niệm văn hóa
    Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác
    nhau, tùy từng góc độ tiếp cận, hoặc mục đích nghiên cứu của mỗi học giả.
    Theo thống kê chung các nghiên cứu về văn hóa, hiện nay trên thế giới có
    khoảng hơn 260 cách hiểu về khái niệm văn hóa.
    Ở nghĩa bao hàm nhất, rộng lớn nhất, văn hoá được hiểu là những giá trị
    do con người sáng tạo, bắt đầu từ khi hình thành xã hội loài người.
    Ở phương Đông, thuật ngữ văn hoá đã xuất hiện từ rất sớm. Trong Chu
    Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và từ hoá: Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo
    hoá thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hoá thành thiên hạ). Người được coi là sử
    dụng thuật ngữ văn hoá sớm nhất là Lưu Hướng (sống khoảng giai đoạn từ
    năm 77 TCN đến ă năm thứ 6 TCN), thời Tây Hán. Ông sử dụng thuật ngữ
    này với nghĩa như một phương thức giáo hoá con người – văn trị giáo hoá.
    Văn hoá ở đây được dùng đối lập với vũ lực (phàm dấy việc võ là vì không
    phục tùng, dùng văn hoá mà không sửa đổi, sau đó mới thêm chém giết).
    Ở phương Tây, để chỉ đối tượng mà chúng ta nghiên cứu, người Pháp,
    người Nga có từ “kuitura”. Những chữ này lại có chung gốc Latinh là chữ
    “cultus animi” là trồng trọt tinh thần. Vậy chữ “cultus” là văn hoá với hai khía
    cạnh: trồng trọt, thích ứng với tự nhiên, khai thác tự nhiên và giáo dục đào tạo
    cá thể hay cộng đồng để họ không còn là con vật tự nhiên, và họ có những
    phẩm chất tốt đẹp.

  19. 11
    Trong “Tuyên bố

    về những chính sách văn hoá”, UNESCO (1982) xác
    định: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể những
    nét riêng biệt, tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách
    của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ
    thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,
    những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hoá đem
    lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hoá làm cho chúng
    ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và
    dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hoá mà chúng ta xét đoán được
    những giá trị và thực thi những sự lựa chọn. Chính nhờ văn hoá mà con người
    tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn
    thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt
    những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản
    thân” [23, tr.169].
    Ở Việt Nam, cũng đã có một số nhà nghiên cứu đưa ra các cách hiểu
    khác nhau về khái niệm văn hóa, có thể kể đến như:
    Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, giải thích từ “Văn hóa” với 5
    góc độ: Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người
    sáng tạo ra trong lịch sử. Nói một cách tổng quát là những hoạt động của con
    người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống và tinh thần. Nói khái quát về tri thức,
    trình độ cao trong sinh hoạt xã hội là biểu diện cao về văn minh. Trong trình
    độ chuyên môn khái niệm văn hóa dùng để chỉ nền văn hóa của một thời kỳ
    lịch sử được xác định trên cơ sở một tổng thể di vật lưu lại được có những đặc
    điểm giống nhau [15, tr. 358].
    Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần
    do con người sáng tạo ra trong lịch sử” [27, tr.345].
    Trong Xã hội học văn hóa, tác giả Đoàn Văn Chúc cho rằng: “Văn hóa –
    vô sở bất tại: Văn hóa – không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất cả

  20. 12
    những sáng tạo

    của con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi
    nào có con người nơi đó có văn hóa” [4, tr.46].
    Trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm
    cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
    con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
    tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình” [20, tr.45].
    Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm văn hoá được hiểu theo cả ba
    nghĩa rộng, hẹp và rất hẹp:
    Theo nghĩa rộng: “văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt
    cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những
    nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [13, tr.5]
    Theo nghĩa hẹp, văn hoá là những giá trị tinh thần. Người viết: “Trong
    công cuộc kiến thiết nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là
    quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá. Nhưng văn hoá là
    một kiến trúc thượng tầng (báo Cứu quốc, tháng 8- 1945)” [13, tr.2].
    Theo nghĩa rất hẹp, văn hoá đơn giản chỉ là trình độ học vấn của con
    người được đánh giá bằng trình độ học vấn phổ thông, thể hiện ỏ việc Hồ Chí
    Minh yêu cầu mọi người “phải đi học văn hóa”, “xóa mù chữ”…
    Đặc biệt, năm 1943 Hồ Chí Minh viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
    đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ
    viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công
    cụ cho sinh hoại hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn
    bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là sự tổng hợp
    của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã
    sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh
    tồn”[13, tr.27]. Đây có thể coi là định nghĩa văn hóa của Hồ Chí Minh, và đây
    cũng là lần duy nhất, không thấy Hồ Chí Minh trở lại định nghĩa văn hóa này.

  21. 13
    Văn hóa là

    sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển
    trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham
    gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn
    hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội
    hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác
    xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã
    hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động
    của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người
    tạo ra và được con người thừa nhận, bao gồm trong đó là Chân – Thiện – Mỹ.
    Như vậy, trên thực tế, có rất nhiều quan niệm, cách định nghĩa thuật ngữ
    văn hóa. Nhưng cho đến nay, vẫn chưa có được một sự nhất trí chung và cũng
    chưa có định nghĩa nào thoả mãn được cả về định tính và định lượng. Điều
    đó, theo chúng tôi, có thể xuất phát từ những nguyên nhân sau đây:
    Trước hết, trong số những người nghiên cứu văn hóa, hoặc, như người ta
    thường gọi, những nhà văn hóa, ngoài những định kiến và những hạn chế có
    tính chất lịch sử, rất nhiều người bị mắc những bệnh nghề nghiệp. Họ thường
    qui văn hóa vào những lĩnh vực hạn hẹp cụ thể, thường bói văn hóa, cũng như
    bói cuộc sống nói chung, theo kiểu thầy bói xem voi, bằng cách xem xét
    những bộ phận cá biệt của nó chứ chưa có một cách tiếp cận tổng thể.
    Thứ hai,văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, rất phong phú và phức tạp, do
    đó khái niệm văn hóa cũng đa nghĩa. Khi đề cập đến nó mỗi người có một
    cách hiểu riêng tùy thuộc vào góc độ tiếp cận của họ là điều dễ hiểu.
    Thứ ba, giống như tất cả các ngành khoa học xã hội khác, ngành văn hóa
    học có lịch sử phát sinh và phát triển lâu dài trong lịch sử loài người. Trong
    quá trình lịch sử đó nội dung của khái niệm văn hóa cũng thay đổi theo.
    Trong phạm vi Luận văn này, thuật ngữ văn hóa được hiểu theo cách
    định nghĩa của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc

  22. 14
    (UNESCO): “Văn hóa

    phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động
    mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong
    quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu
    thành một hệ thông các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên
    đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình”[23, tr.57].
    1.1.2. Khái niệm, bản chất giao tiếp
    1.1.2.1.Khái niệm giao tiếp
    Giao tiếp là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn bởi giao tiếp đóng vai trò
    góp phần quyết định đối với sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân. Giao
    tiếp vừa là phương tiện kết nối xã hội, giữa con người với con người; vừa là
    phương tiện thể hiện nhân cách của từng người trong xã hội đó. Giao tiếp, tiếp
    xúc giữa con người với nhau sẽ tạo nên tâm lý, nhân cách, triết lý sống của
    mỗi người.
    Hiện nay, có nhiều cách tiếp cận khái niệm giao tiếp, xuất phát từ các
    chuyên ngành khoa học khác nhau, mục đích nghiên cứu khác nhau, cụ thể:
    Nhà tâm lý học người Mỹ Osgood C.E cho rằng “giao tiếp bao gồm các
    hành động riêng rẽ mà thực chất là chuyển giao thông tin và tiếp nhận thông
    tin. Giao tiếp là một quá trình hai mặt: Liên lạc và ảnh hưởng lẫn nhau” [Dẫn
    lại theo 28, tr. 23]. Tuy nhiên, ông vẫn chưa chỉ ra nội hàm của hai mặt đó.
    Nhà tâm lý học Fisher đã đưa ra khái niệm như sau: “Giao tiếp là một
    quá trình xã hội thường xuyên bao gồm các dạng thức ứng xử rất khác nhau
    về lời lẽ, cử chỉ, cái nhìn; theo quan điểm ấy, không có sự đối lập giữa giao
    tiếp bằng lời và giao tiếp không bằng lời. Giao tiếp là một tổng thể toàn vẹn”
    [Dẫn lại theo 28, tr. 23].
    Trong cuốn Những vấn đề giao tiếp trong tâm lý học (Tiếng Nga), giáo
    sư tâm lý học B.F.Lomov coi giao tiếp là phạm trù cơ bản của tâm lý học hiện
    đại và định nghĩa: “Giao tiếp là mối quan hệ, tác động qua lại giữa con người,
    với tư cách là chủ thể” [Dẫn lại theo 28, tr. 23].

  23. 15
    Theo Từ điển

    tiếng Việt của Trung tâm ngôn ngữ học Hà Nội thì “Giao
    tiếp là sự trao đổi tiếp xúc với nhau thông qua các phương tiện giao tiếp” [15,
    tr.216].
    Từ điển tâm lý học của Vũ Dũng đưa ra khái niệm “Giao tiếp là quá trình
    thiết lập và phát triển tiếp xúc giữa cá nhân, xuất phát từ nhu cầu phối hợp
    hoạt động. Giao tiếp bao gồm hàng loạt các yếu tố như trao đổi thông tin, xây
    dựng chiến lược, hoạt động thống nhất, tri giác và tìm hiểu người khác. Giao
    tiếp có ba khía cạnh chính: giao lưu, tác động tương hỗ và tri giác” [5, tr.47].
    Theo Từ điển tâm lý của Nguyễn Khắc Viện, “giao tiếp là quá trình
    truyền đi, phát đi một thông tin từ một người hay một nhóm người cho một
    người hay một nhóm người khác, trong mối quan hệ tác động lẫn nhau (tương
    tác). Thông tin hay thông điệp được nguồn phát mã hóa, nguồn nhận phải giải
    mã và cả hai bên đều vận dụng một mã chung” [26, tr.51].
    Trong Giáo trình tâm lý học đại cương, tác giả Trần Thị Minh Đức (Chủ
    biên) định nghĩa: “Giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con người với con
    người nhằm mục đích nhận thức, thông qua sự trao đổi với nhau về thông tin,
    về cảm xúc, sự ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau” [6, tr.34].
    Như vậy, có thể thấy, có khá nhiều cách định nghĩa về khái niệm giao
    tiếp, các định nghĩa này đều có những điểm khác nhau nhưng đều chỉ ra
    những dấu hiệu cơ bản của giao tiếp như:
    – Giao tiếp là một hiện tượng đặc thù của con người, nghĩa là chỉ riêng
    con người mới có giao tiếp thông qua sử dụng phương tiện ngôn ngữ và chỉ
    được thực hiện trong xã hội loài người;
    – Giao tiếp thể hiện sự trao đổi thông tin, hiểu biết lẫn nhau, sự rung cảm
    và ảnh hưởng lẫn nhau;
    – Giao tiếp là cách thể hiện mối quan hệ với một hay nhiều người, trên
    cơ sở quan hệ chính trị hay kinh tế… của xã hội;

  24. 16
    – Giao tiếp

    dựa trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau giữa con người với con người.
    Qua đó, có thể thấy có 3 loại giao tiếp cơ bản:
    – Giao tiếp truyền thống: Được thể hiện trên các mối quan hệ giữa người
    với người được hình thành lâu dài trong quá trình phát triển xã hội. Đó là
    quan hệ gia đình, họ hàng, quan hệ làng xóm, cộng đồng nhỏ nơi mọi người
    đều quen biết nhau. Loại giao tiếp này chỉ bị chi phối bởi các yếu tố về tập
    quán sinh hoạt.
    – Giao tiếp chức năng: Được thực hiện trên các mối quan hệ ứng xử xã
    hội và hiệu quả công việc. Đó là quan hệ giữa cấp trên – cấp dưới, người mua
    – người bán, nhà nước – công dân,…
    – Giao tiếp tự do: Loại giao tiếp này mang nhiều đặc tính cá nhân của
    người giao tiếp, được cảm thụ chủ quan như một giá trị thực tại, mục đích tự
    thân. Trong hoạt động giao tiếp thường ngày thì đây là loại giao tiếp được sử
    dụng nhiều nhất, hiệu quả nhất.
    Như vậy, có thể hiểu, Giao tiếp là quá trình tiếp xúc tâm lý giữa những
    con người nhất định trong xã hội có tính mục đích và mang tính hệ thống
    chuẩn mực về hành vi, ngôn ngữ nhằm trao đổi thông tin, tình cảm, hiểu biết,
    vốn sống,… tạo nên những ảnh hưởng, tác động qua lại để con người đánh
    giá, điều chỉnh và phối hợp với nhau.
    1.1.2.2. Bản chất của giao tiếp
    Dù xem xét ở góc độ nào, mục đích nghiên cứu nào, khi đưa ra những
    quan niệm về giao tiếp, các quan niệm đều có những điểm chung nhất thuộc
    về bản chất của giao tiếp. Giao tiếp là một quá trình truyền đi một thông điệp,
    nó bao gồm một người gửi và một hay nhiều người nhận. Thông điệp là ý
    tưởng đã được mã hoá để người phát tin (giao tiếp) và người nhận. Theo quan
    niệm này, giao tiếp là một quá trình dựa trên sự trao đổi giữa hai hay nhiều

  25. 17
    người sử dụng

    một mã cử chỉ, từ ngữ để có thể hiểu được một thông tin chính
    thức hay phi chính thức được chuyển từ người phát tin đến người nhận tin.
    Giao tiếp là một tập hợp các hoạt động trước hết nhằm thực hiện sự kết
    nối quan hệ giữa các cá nhân với nhau. Vì vậy, mọi sự giao tiếp đều chứa
    thông tin và nó thường làm cho thông tin được chuyển theo hai chiều:
    – Một thông điệp được chuyển tải hoặc chia sẻ giữa hai hay nhiều người.
    – Số lượng người tham gia và chia sẻ thông tin tùy thuộc vào nội dung,
    nhu cầu của người nhận tin. Có những loại thông tin trong giao tiếp chứa
    đựng thông tin của một cá nhân, có những loại thông tin nội dung của nó chứa
    đựng liên quan đến sự quan tâm của nhiều người.
    – Giao tiếp là một cuộc đối thoại hai chiều, quá trình đối thoại làm thay
    đổi cả người gửi lẫn người nhận, tức là có sự chia sẻ thông tin, hai bên điều
    chỉnh mục tiêu, điều chỉnh hành vi qua sự tác động lẫn nhau để cùng hiểu biết
    về tình huống, có cùng tiếng nói, đem lại lợi ích nhiều nhất có thể.
    Giao tiếp là một quá trình hai chiều, nghĩa là người phát tin hay truyền
    thông tin, thông điệp không chỉ đơn giản thực hiện việc phát tin, truyền tin mà
    thôi mà còn chú ý đến sự tiếp nhận thông tin của người nhận tin. Đây là một
    quá trình tâm lý phức tạp, trải qua ba giai đoạn, gắn với ba trạng thái tâm lý
    cơ bản như sau:
    – Trao đổi thông tin, tiếp xúc tâm lý.
    – Hiểu biết, thấu hiểu lẫn nhau, rung cảm tâm lý.
    – Tác động lẫn nhau, ảnh hướng tới nhau.
    Nếu không thực hiện tốt, hoặc thực hiện không đầy đủ quá trình ba bước
    cơ bản trên, quá trình giao tiếp sẽ giảm sút hiệu quả, hoặc không đạt được
    mục đích mong muốn trong giao tiếp.
    Quá trình giao tiếp cũng chính là quá trình trao đổi thông tin. Người gửi
    muốn truyền ý nghĩ, ý tưởng, thông tin, thông điệp thì phải mã hóa thông tin

  26. 18
    đó thành lời

    nói, chữ viết, hành vi, cử chỉ hay các hình thức biểu hiện phi
    ngôn ngữ khác. Thông điệp này được truyền đi thông qua nhiều kênh, nhiều
    hình thức khác nhau để đến được với người nhận một cách trực tiếp hoặc gián
    tiếp. Từ đó, người nhận lại phải tiến hành giải mã thông điệp, thông tin nhận
    được để hiểu đúng ý mà người gửi muốn truyền đạt.
    Quá trình giải mã thông tin vô cùng phức tạp, khó khăn và trên thực tế
    thường xảy ra việc giải mã sai dẫn đến hiểu nhầm, hiểu sai trong giao tiếp.
    Khi đã kết thúc giải mã thông tin, thông điệp, người nhận sẽ phản hồi
    đến người gửi rằng họ đã nhận được thông tin, thông điệp và hoàn thành quá
    trình giao tiếp.
    Giao tiếp được cấu thành từ 6 yếu tố: người gửi thông điệp; thông điệp;
    kênh truyền thông điệp; người nhận thông điệp; phản hồi từ người nhận thông
    điệp; và, bối cảnh giao tiếp.
    1.1.3. Khái niệm văn hóa giao tiếp
    Văn hóa giao tiếp (VHGT) là một phạm trù mang tính xã hội mà yếu tố
    văn hóa chỉ được đề cập đến trong phạm vi giao tiếp, gắn trực tiếp với các nội
    dung có liên quan đến hoạt động giao tiếp.
    VHGT là những hiểu biết về phong tục, tập quán, chuẩn mực đạo đức, giá
    trị chuẩn mực chung của đời sống xã hội. Một người có hành vi ứng xử đúng
    đắn trong hoạt động giao tiếp phải tuân thủ những chuẩn mực xã hội đó, hành
    động theo các quy ước, yêu cầu có tính đạo đức, ràng buộc về mặt tâm lý.
    VHGT của một dân tộc, một quốc gia hay một xã hội là hệ thống những
    nguyên tắc, chuẩn mực văn hóa, đạo đức… được biểu hiện tập trung ở lối
    sống, phong tục, tập quán và truyền thống văn hóa chung của dân tộc, quốc
    gia hay xã hội đó. VHGT là hạt nhân để tạo dựng nền nếp, lối sống chuẩn
    mực cho mỗi cá nhân, mỗi nhóm người nhất định trong xã hội. VHGT mang
    trong mình những giá trị văn hóa, đạo đức và thẩm mỹ phù hợp với bản sắc

  27. 19
    của mỗi dân

    tộc, là sự kết tinh giữa nét truyền thống và các giá trị hiện đại
    mang tính nhân loại.
    Có thể quan niệm: VHGT là một bộ phận trong tổng thể nền văn hóa
    nhằm chỉ quan hệ giao tiếp có văn hóa, phù hợp với các giá trị văn hóa chung
    của cộng đồng, xã hội (như lịch sự, thân thiện, cởi mở, chân thành, tôn trọng
    trong giao tiếp) và bao gồm tổ hợp các thành tố: lời nói, cử chỉ, hành vi, thái
    độ, cách ứng xử…
    1.1.4. Chức năng của giao tiếp
    Chức năng của giao tiếp có thể chia thành 2 nhóm cơ bản, với những
    chức năng cụ thể sau đây:
    * Thứ nhất, nhóm chức năng xã hội, bao gồm:
    – Chức năng thông tin: Chức năng thông tin được biểu hiện ở khía cạnh
    truyền thông (trao đổi thông tin) của giao tiếp, con người trao đổi cho nhau
    những thông tin nhất định.
    – Chức năng tổ chức, phối hợp hành động: Trong một tổ chức nào đó,
    một công việc thường do một hoặc nhiều bộ phận, nhiều người cùng thực
    hiện. Để có thể hoàn thành công việc đạt kết quả tốt như mong đợi, những bộ
    phận, con người này phải hành động một cách thống nhất, có tính hướng đích
    giống nhau, phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng. Muốn vậy, họ phải tiếp
    xúc, trao đổi, bàn bạc, phân công công việc, nhiệm vụ cho từng bộ phận, từng
    cá nhân; đồng thời, trong quá trình thực hiện cũng phải có những liên hệ,
    tương tác, phản hồi để nắm bắt được tiến độ thực hiện của từng nội dung công
    việc cụ thể hay những điều chỉnh trong kế hoạch hoạt động.
    – Chức năng điều khiển: Chức năng điều khiển được thể hiện ở khía cạnh
    tác động qua lại trong giao tiếp. Trong giao tiếp, chúng ta ảnh hưởng tới
    người đối giao và ngược lại, người đối giao cũng sẽ có những ảnh hưởng trở
    lại đối với chúng ta dưới nhiều hình thức khác nhau như bắt chước, thuyết
    phục, thỏa hiệp, ám thị,…

  28. 20
    – Chức năng

    điều chỉnh: Thông qua giao tiếp, mỗi cá nhân đánh giá về
    người khác và về chính mình để từ đó có những điều chỉnh sao cho phù hợp
    với từng người, từng hoàn cảnh cụ thể để đạt được những mục đích về công
    việc hoặc đời sống của riêng mình.
    * Thứ hai, nhóm chức năng tâm lý, bao gồm:
    – Chức năng động viên, khích lệ: trong giao tiếp, con người khơi dậy ở
    nhau những cảm xúc, tình cảm nhất định nhằm đạt đến sự thấu hiểu, khả năng
    chia sẽ cảm xúc lẫn nhau.
    – Chức năng thiết lập, phát triển, củng cố các mối quan hệ: Giao tiếp
    không chỉ là hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa người với người mà còn là
    cách thức để con người thiết lập các mối quan hệ mới, phát triển và củng cố
    các mối quan hệ đã có.
    – Chức năng cân bằng cảm xúc: Trong cuộc sống, con người có rất nhiều
    cảm xúc cần được thổ lộ, biểu hiện ra bên ngoài như niềm vui, nỗi buồn, sung
    sướng hay đau khổ… và đều mong muốn có thể được một người khác chia sẻ.
    Chỉ trong giao tiếp, thông qua giao tiếp, con người mới tìm được sự đồng
    cảm, cảm thông và giải tỏa được cảm xúc của bản thân.
    – Chức năng hình thành, phát triển tâm lý, nhân cách: Khi các giao tiếp
    cơ bản không thực hiện được các chức năng cơ bản này thì điều đó không
    những ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống, suy nghĩ, hành vi của con người, để
    lại những ký ức có hại trong mỗi cá nhân trong quá trình hình thành, phát
    triển, tâm lý, nhân cách của từng người.
    1.1.5. Vai trò và đặc điểm của giao tiếp
    1.1.5.1.Vai trò của giao tiếp
    Giao tiếp là một hoạt động đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống
    hàng ngày của con người. Dù trong đời sống xã hội thường ngày hay trong
    công việc, giao tiếp đều là cầu nối giữa con người với con người giúp con

  29. 21
    người đạt đến

    sự thấu hiểu lẫn nhau, chia sẻ cùng nhau để vận hành các mối
    quan hệ tốt hơn, hiệu quả hơn, đạt được mục tiêu của giao tiếp.Có thể nêu một
    số vai trò cơ bản sau đây của hoạt động giao tiếp:
     Một là, giao tiếp là điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội
    Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người. Nếu không có giao tiếp với
    người khác thì con người không thể phát triển, tâm lý, cảm xúc không có khả
    năng phát triển bình thường, không thể xuất hiện các ý nghĩ, ý tưởng; trái lại,
    có thể xuất hiện các dấu hiệu bệnh lý.
    Nếu không có giao tiếp thì không có sự tồn tại xã hội, vì xã hội luôn là
    một cộng đồng người có sự ràng buộc, liên kết với nhau.
    Qua giao tiếp chúng ta có thể xác định được các mức độ nhu cầu, tư
    tưởng, tình cảm, vốn sống, kinh nghiệm…của đối tượng giao tiếp, nhờ đó mà
    chủ thể giao tiếp đáp ứng kịp thời, phù hợp với mục đích và nhiệm vụ giao
    tiếp.Từ đó tạo thành các hình thức giao tiếp giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá
    nhân với nhóm, giữa nhóm với nhóm hoặc giữa nhóm với cộng đồng.
     Hai là, giao tiếp là nhu cầu sớm nhất của con người từ khi tồn tại đến
    khi mất đi
    Từ khi con người mới sinh ra đã có nhu cầu giao tiếp, nhằm thỏa mãn
    những nhu cầu của bản thân.Ở đâu có sự tồn tại của con người thì ở đó có sự
    giao tiếp giữa con người với con người, giao tiếp là cơ chế bên trong của sự
    tồn tại và phát triển con người.
    Để tham gia vào các quan hệ xã hội, giao tiếp với người khác thì con
    người phải có một cái tên, và phải có phương tiện để giao tiếp.Lớn lên, con
    người phải có nghề nghiệp, mà nghề nghiệp do xã hội sinh ra và quy định.
    Việc đào tạo, chuẩn bị tri thức cho nghề nghiệp phải tuân theo một quy định
    cụ thể, khoa học… không học tập tiếp xúc với mọi người thì sẽ không có

  30. 22
    nghề nghiệp theo

    đúng nghĩa của nó, hơn nữa muốn hành nghề phải có nghệ
    thuật giao tiếp với mọi người thì mới thành đạt trong cuộc sống.
    Trong quá trình lao động con người không thể tránh được các mối quan
    hệ với nhau. Đó là một phương tiện quan trọng để giao tiếp và một đặc trưng
    quan trọng của con người là tiếng nói và ngôn ngữ.
    Giao tiếp giúp con người truyền đạt kinh nghiệm, thuyết phục, kích thích
    đối tượng giao tiếp hoạt động, giải quyết các vấn đề trong học tập, sản xuất
    kinh doanh, thỏa mãn những nhu cầu hứng thú, cảm xúc tạo ra.
    Qua giao tiếp giúp con người hiểu biết lẫn nhau, liên hệ với nhau và làm
    việc cùng nhau.
     Ba là, thông qua giao tiếp con người tham gia vào các mối quan hệ xã
    hội, lĩnh hội nền văn hóa xã hội, đạo đức, chuẩn mực xã hội
    Trong quá trình giao tiếp thì cá nhân điều chỉnh, điều khiển hành vi của
    mình cho phù hợp với các chuẩn mực xã hội, quan hệ xã hội, phát huy những
    mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực.
    Cùng với hoạt động giao tiếp con người tiếp thu nền văn hóa, xã hội, lịch
    sử biến những kinh nghiệm đó thành vốn sống. Kinh nghiệm của bản thân
    hình thành và phát triển trong đời sống tâm lý. Đồng thời góp phần vào sự
    phát triển của xã hội.
    Nhiều nhà tâm lý học đã khẳng định, nếu không có sự giao tiếp giữa con
    người thì một đứa trẻ không thể phát triển tâm lý, nhân cách và ý thức tốt
    được.Nếu con người trong xã hội mà không giao tiếp với nhau thì sẽ không có
    một xã hội tiến bộ, con người tiến bộ.Nếu cá nhân không giao tiếp với xã hội
    thì cá nhân đó sẽ không biết phải làm những gì để cho phù hợp với chuẩn mực
    xã hội, cá nhân đó sẽ rơi vào tình trạng cô lập về tinh thần và đời sống sẽ gặp
    rất nhiều khó khăn.

  31. 23
    Trong khi giao

    tiếp với mọi người thì họ truyền đạt cho nhau những tư
    tưởng, tình cảm, thấu hiểu và có điều kiện tiếp thu được những tinh hoa văn
    hóa nhân loại, biết cách ứng xử như thế nào là phù hợp với chuẩn mực xã hội.
     Bốn là, thông qua giao tiếp con người hình thành năng lực tự ý thức
    Trong quá trình giao tiếp, con người nhận thức đánh giá bản thân mình
    trên cơ sở nhận thức đánh giá người khác. Theo cách này họ có xu hướng tìm
    kiếm ở người khác để xem ý kiến của mình có đúng không, thừa nhận không.
    Trên cơ sở đó họ có sự tự điều chỉnh, điều khiển hành vi của mình theo hướng
    tăng cường hoặc giảm bớt sự thích ứng lẫn nhau.
    Tự ý thức là điều kiện trở thành chủ thể hành động độc lập, chủ thể xã
    hội.Thông qua giao tiếp thì cá nhân tự điều chỉnh, điều khiển hành vi theo
    mục đích tự giác.Thông qua giao tiếp thì cá nhân có khả năng tự giáo dục và
    tự hoàn thiện mình.
    Cá nhân tự nhận thức về bản thân mình từ bên ngoài đến nội tâm, tâm
    hồn, những diễn biến tâm lý, giá trị tinh thần của bản thân, vị thế và các quan
    hệ xã hội.Khi một cá nhân đã tự ý thức được thì khi ra xã hội họ thường nhìn
    nhận và so sánh mình với người khác xem họ hơn người khác ở điểm nào và
    yếu hơn ở điểm nào, để nỗ lực và phấn đấu, phát huy những mặt tích cực và
    hạn chế những mặt yếu kém.Nếu không giao tiếp cá nhân đó sẽ không biết
    những gì mình làm có được xã hội chấp nhận không, có đúng với những gì
    mà xã hội đang cần duy trì và phát huy hay không.
    1.1.5.2.Đặc điểm của giao tiếp
    Giao tiếp mang một số đặc điểm sau:
    Thứ nhất, tính nhận thức. Chủ thể của hoạt động giao tiếp nhận thức
    được đầy đủ hoặc không đầy đủ về quá trình giao tiếp này, bao gồm mục đích
    giao tiếp, nhiệm, vụ, nội dung của tiến trình giao tiếp, phương tiện giao tiếp;
    ngoài ra, có thể hiểu được đặc trưng của giao tiếp là khả năng nhận thức và

  32. 24
    hiểu biết lẫn

    nhau của các chủ thể giao tiếp. Nhờ đó, tâm lý, ý thức con người
    không ngừng được phát triển. Nếu không có quá trình giao tiếp với những
    người xung quanh, một đứa trẻ sinh ra sẽ không có khả năng để nhận thức các
    sự vật, hiện tượng mà nó bắt gặp.
    Thứ hai, giao tiếp mang tính trao đổi thông tin. Dù với bất kỳ mục đích
    nào trong quá trình giao tiếp cũng xảy ra sự trao đổi thông tin, tư tưởng, tình
    cảm, thế giới quan, nhân sinh quan. Nhờ đặc điểm này của giao tiếp mà mỗi
    cá nhân có thể tự hoàn thiện mình theo những yêu cầu, đỏi hỏi của xã hội, của
    nghề nghiệp, của vị trí xã hội mà họ đảm đương. Cũng nhờ đặc điểm này,
    những phẩm chất tâm lý, hành vi ứng xử, thái độ biểu hiện của con người
    được nảy sinh và phát triển theo các hình mẫu nhân cách mà mỗi cá nhân
    mong muốn trở thành.
    Thứ ba, giao tiếp là một quan hệ xã hội, mang tính chất xã hội. Quan hệ
    xã hội chỉ được thực hiện thông qua giao tiếp con người với con người. Con
    người vừa là thành viên tích cực của các mối quan hệ xã hội, vừa hoạt động
    tích cực để vận hành, duy trì các mối quan hệ xã hội đó.
    Thứ tư, giao tiếp giữa các chủ thể mang tính chất lịch sử phát triển xã
    hội. Giao tiếp bao giờ cũng được thực hiện với nội dung cụ thể, trong một
    khoảng thời gian xác định, không gian nhất định.
    Thứ năm, giao tiếp mang tính kế thừa chọn lọc. Bản thân giao tiếp chứa
    đựng sự kế thừa, cự chọn lọc, tiếp tục sáng tạo những giá trị vật chất, tinh
    thần thông qua các phương tiện giao tiếp nhằm lưu giữ, bảo tồn những dấu ấn
    về tư tưởng, tình cảm, vốn kinh nghiệm sống của con người. Giao tiếp được
    phát triển liên tục, không ngừng đối với các cá nhân, nhóm xã hội, dân tộc,
    cộng đồng tạo nên nền văn hóa, các thời kỳ văn minh của nhân loại.
    Thứ sáu, quá trình giao tiếp mang tính chủ thể. Quá trình giao tiếp được
    thực hiện bởi các chủ thể nhất định, là cá nhân hoặc các nhóm người. Các cá

  33. 25
    nhân trong quá

    trình giao tiếp là các cặp chủ thể – khách thể luôn đổi chỗ cho
    nhau, cùng chịu sự chi phối và tác động lẫn nhau tạo thành các chủ thể giao
    tiếp. Mức độ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các chủ thể giao tiếp phụ thuộc rất
    nhiều vào các đặc điểm cá nhân của chủ thể như vị trí xã hội, vai trò xã hội,
    tính cách, uy tín, giới tính, tuổi tác… cũng như các mối quan hệ xã hội khác và
    mối tương quan giữa họ.
    Thứ bảy, giao tiếp có tính lan truyền, lây lan các cảm xúc, tâm trạng. Sự
    biểu cảm thể hiện đầu tiên bằng nét mặt có ý nghĩa tiến hóa sinh học, cũng
    như ý nghĩa tâm lý – xã hội, nó phản ánh khả năng đồng cảm, ảnh hưởng lẫn
    nhau của con người. Sự chuyển hóa các trạng thái cảm xúc này hay khác
    không thể nằm ngoài khuôn khổ của hoạt động giao tiếp xã hội.
    1.2. THỰC HIỆN VĂN HÓA GIAO TIẾP TRONG CÔNG SỞ
    1.2.1. Khái niệm thực hiện văn hóa giao tiếp
    Theo Từ điển Tiếng Việt, “Thực hiện” là một động từ, dùng để chỉ
    những việc làm hay hành động cụ thể.
    Thực hiện văn hóa giao tiếp trong công sở nói chung và các đơn vị sự
    nghiệp công lập nói riêng việc triển khai các hoạt động và các cách thức nhằm
    làm cho văn hóa giao tiếp trở thành những việc làm và hành động cụ thể, biểu
    hiện trong thực tiễn công việc hàng ngày ở cơ quan, đơn vị. Việc thực hiện
    này thường tuân theo một bộ quy tắc ứng xử, hay còn gọi là Quy chế giao tiếp
    của các cơ quan, đơn vị.
    Theo lý thuyết, văn hóa công sở bao gồm 5 nội dung lớn: hệ thống giá
    trị cốt lõi, quy tắc giao tiếp ứng xử, quy tắc giải quyết công việc, đạo đức
    nghề nghiệp và cơ chế thúc đẩy, động viên, tạo động lực.
    Cũng theo Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
    ban hành ngày 02/8/2007 về việc ban hành Quy chế Văn hóa công sở tại các

  34. 26
    cơ quan Hành

    chính nhà nước, quy định văn hóa công sở gồm các nội dung:
    Trang phục, giao tiếp và ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức; bài trí
    công sở.
    Như vây, qua đây, có thể thấy văn hóa giao tiếp là một bộ phận nằm
    trong văn hóa công sở. Và việc thực hiện văn hóa giao tiếp phải nằm trong
    khung tham chiếu, phù hợp với việc thực hiện văn hóa công sở nói chung.
    1.2.2. Những nguyên tắc cơ bản trong thực hiện văn hóa giao tiếp
    công sở
     Nguyên tắc tuân theo pháp luật
    Đây là nguyên tắc cơ bản, bao trùm toàn bộ hoạt động giao tiếp trong
    công sở. Nội dung của nguyên tắc này đòi hỏi: Người cán bộ, công chức, viên
    chức, người thực thi hoạt động công vụ phải tuân theo thủ tục, trình tự, thẩm
    quyền mà pháp luật đã quy định; căn cứ vào pháp luật, chính sách, quyết định
    của cấp có thẩm quyền; Không một cơ quan, tổ chức, cá nhân nào được can
    thiệp trái pháp luật vào quá trình giao tiếp. Cán bộ, công chức, viên chức phải
    tuân thủ pháp luật, xử lý mọi tình huống linh hoạt “có lý, có tình” trong từng
    trường hợp giao tiếp cụ thể, phải lấy giáo dục, thuyết phục làm chính.
     Nguyên tắc bảo đảm chính xác trung thực, khách quan
    Muốn quá trình giao tiếp đạt được hiệu quả, thì cán bộ, công chức, viên
    chức phải bảo đảm tính chính chính xác khi đưa ra những tư liệu, nhận định,
    kết luận, quyết định…Vì vậy, việc đảm bảo tính chính xác trong quá trình tiếp
    xúc với các chủ thể tham gia quá trình giao tiếp sẽ giúp cho hoạt động hành
    chính đạt được hiệu quả cao. Tính khách quan, toàn diện đòi hỏi người tiến
    hành giao tiếp phải đánh giá trung thực tình hình vụ việc; xem xét toàn diện
    các khía cạnh kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của từng công vụ, nhiệm vụ;
    phải đề cập đến ý nghĩa tác dụng tích cực hoặc tiêu cực của công vụ cần thực

  35. 27
    hiện, hoặc của

    vụ việc cần giải quyết; không có thái độ thiên lệch và bóp méo
    sự thật để có thái độ tiếp xúc với các đối tượng cho phù hợp. Khi giao tiếp với
    các đối tượng, người cán bộ, công chức, viên chức phải chuẩn bị kỹ về tâm lý,
    nắm chắc pháp luật, đảm bảo chứng cứ đầy đủ, sẵn sàng đối thoại đấu tranh
    để làm sáng tỏ chân lý của sự việc một cách khách quan và chính xác.
     Nguyên tắc công khai, dân chủ
    Tính công khai của giao tiếp trong công sở thể hiện ở chỗ vào những
    thời điểm thích hợp cán bộ, công chức, viên chức phải thông báo đầy đủ nội
    dung cần công khai trong tổ chức và với nhân dân để những người có trách
    nhiệm và có liên quan biết để nhằm khuyến khích sự tham gia của nhân dân
    và tổ chức vào hoạt động này. Tính dân chủ cũng cần phải được bảo đảm khi
    giao tiếp hành chính. Cán bộ, công chức, viên chức cần phải lắng nghe, tôn
    trọng ý kiến của các chủ thể có liên quan như các đối tượng được có quyền
    giải trình, tiếp xúc với cơ quan, tổ chức, cá nhân cần có thái độ tôn trọng, trao
    đổi thông tin chính xác trong phạm vi thẩm quyền của mình và phù hợp với
    quy định của pháp luật.
    Nguyên tắc công khai, dân chủ nhằm đảm bảo sự bình đẳng trước pháp
    luật trong mối quan hệ các bên. Trong hoạt động hành chính, giao tiếp cũng
    cần có phong cách nhằm gây thiện cảm với các đối tượng, nhất là phải đảm
    bảo dân chủ, công khai, gần gũi với các đối tượng, qua đó làm cho họ được
    thoải mái, tự tin. Việc bình đẳng, dân chủ trong giao tiếp sẽ rút ngắn khoảng
    cách giữa cán bộ, công chức, viên chức và các đối tượng. Tuy nhiên, cần phải
    đảm bảo được sự nghiêm túc và tôn trọng lẫn nhau, giữ vững tính lịch sự,
    giao tiếp có văn hóa, đồng thời tránh việc tự do, bình đẳng quá trớn.
     Nguyên tắc thận trọng, cân bằng, trách nhiệm, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”
    Mục đích của giao tiếp là làm hài lòng người dân, tức đối tượng phục vụ
    của hoạt động hành chính, các đối tượng tham gia vào quá trình giao tiếp, nên

  36. 28
    nó mang tính

    chính trị, pháp lý, xã hội sâu sắc. Vì thế, đòi hỏi người cán bộ,
    công chức, viên chức phải thận trọng, có trách nhiệm cao, bởi mọi sự nóng
    vội, chủ quan như biểu thị thái độ khi giao tiếp nóng nảy, bực tức đều dễ dẫn
    đến sai lầm, xung đột giữa các bên, không đạt được hiệu quả trong hoạt động
    hành chính.
    Nhìn chung, để hoạt động hành chính có hiệu quả thì thái độ, ứng xử của
    người cán bộ, công chức, viên chức phải luôn chuẩn mực, luôn thể hiện sự
    bình tĩnh, tự chủ trong mọi tình huống, nhất là không được thể hiện thái độ
    trịch thượng, quan cách hay nóng nảy, cáu giận. Khi giao tiếp với công dân
    hoặc đối tượng, đòi hỏi người cán bộ, công chức, viên chức luôn phải biết tự
    kiềm chế, vừa thể hiện sự cởi mở, chân thành, thông cảm nhưng lại nghiêm
    túc, đúng mực. Đặc biệt, người cán bộ, công chức, viên chức phải luôn cảm
    giác được sự cân bằng về mặt cảm xúc.
     Nguyên tắc chuẩn mực đạo đức
    Người cán bộ, công chức, viên chức phải có phong cách làm việc tốt,
    phải coi trọng và luôn ứng xử theo những tiêu chuẩn, nguyên tắc, chuẩn mực
    đạo đức của xã hội, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp. Phong cách làm
    việc tốt của người cán bộ, công chức, viên chức trước hết là tinh thần trách
    nhiệm cao trong công việc. Có trách nhiệm cao thì mới có khả năng tạo ra
    hiệu quả công tác tốt.
    Cán bộ, công chức, viên chức luôn là những người có chức vụ, thẩm
    quyền, có vị trí công tác nhân danh quyền lực nhà nước. Do đó, phong cách
    làm việc tốt của người cán bộ, công chức, viên chức trước hết là phải biết dựa
    vào quần chúng, gần gũi quần chúng. Mặt khác, người cán bộ, công chức, viên
    chức phải biết phòng, chống các biểu hiện chủ quan, tác phong quan liêu, đại
    khái, phô trương, quan cách trong quá trình thực hiện các công vụ, nhiệm vụ.
     Nguyên tắc hài hoà các lợi ích

  37. 29
    Nguyên tắc này

    thừa nhận quan niệm giao tiếp dưới hình thức thông
    cảm, thống nhất với nhau không phải là tranh đua, đối địch. Thành công của
    giao tiếp không phải là sự việc chiến thắng đối tác mà là đem lại lợi ích càng
    nhiều càng tốt cho cả hai bên. Trong hầu hết các tình huống, đều tồn tại
    những giải pháp thích hợp với lợi ích của cả hai bên, hợp tác các bên sẽ có cơ
    may tìm ra giải pháp tốt nhất. Nguyên tắc này phù hợp với hoạt động hành
    chính là hoạt động mà mọi người hợp tác để thực hiện công vụ. Những người
    giao tiếp có ý thức rõ về lợi ích của họ và lợi ích của phía bên kia sẽ dự kiến
    được cách thức, lựa chọn các giải pháp để có các lợi ích đó. Họ sẽ cùng
    nghiên cứu tìm các cơ may xây dựng được giải pháp đem lại lợi ích tối đa cho
    mỗi bên.
    1.2.3. Những yếu tố tác động đến thực hiện văn hóa giao tiếp công sở
     Yếu tố chính trị và hệ thống pháp luật
    Với tư cách là một bộ phận của nền tảng tinh thần của xã hội, đạo đức và
    lối sống luôn luôn có vị trí và vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã
    hội ở mọi thời kỳ lịch sử. Khi nền kinh tế xã hội có bước phát triển mạnh mẽ,
    sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay đang đi vào chiều
    sâu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đạo đức, lối sống công dân nói chung và
    đạo đức, lối sống cán bộ, công chức, viên chức nói riêng càng trở nên quan
    trọng và cấp bách.
    Chủ trương đúng đắn của Đảng về việc xây dựng và phát triển đạo đức,
    lối sống tiên tiến lành mạnh, có văn hóa ứng xử văn minh, lịch sử cho đội ngũ
    cán bộ, công chức, viên chức trong tình hình mới đang được triển khai rộng
    rãi. Để nâng cao hiệu quả công tác này, cần phải xác định cụ thể những nhân
    tố tác động chủ yếu tới đạo đức, lối sống của công chức, viên chức hiện nay,
    đồng thời tích cực dự báo một số xu hướng biến động trong thời gian tới.

  38. 30
    Việc nghiên cứu

    những nhân tố chủ yếu tác động đến đạo đức, lối sống
    của cán bộ, công chức, viên chức hiện nay dựa trên phương pháp luận duy vật
    biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê nin. Là một hình thái của ý thức xã hội,
    đạo đức, lối sống, văn hóa ứng xử suy cho cùng đều bị quyết định bởi lực
    lượng sản xuất nói chung. Mặt khác, đạo đức, lối sống cũng có sự tác động
    qua lại với các hình thái khác của ý thức xã hội, đồng thời còn tác động trở lại
    đối với vận động của tồn tại xã hội. Tham gia tác động đến đạo đức, lối sống,
    văn hóa ứng xử của công chức hiện nay còn có hàng loạt nhân tố vật chất và
    tinh thần, kinh tế – xã hội, văn hóa chính trị trong nước và quốc tế, truyền
    thống và hiện đại…Hơn nữa, sự tác động đang diễn ra rất khác nhau: thuận và
    nghịch, tích cực và tiêu cức, toàn diện và cục bộ, lâu dài và nhất thời, tình thế.
    Cán bộ, công chức, viên chức là lực lượng lao động đặc biệt của đất
    nước. Điều này được thể hiện ở chỗ hoạt động của cán bộ, công chức, viên
    chức trong lĩnh vực tham gia quá trình thực thi pháp luật. Họ là lực lượng chủ
    yếu đảm trách mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, cán bộ, công chức, viên
    chức(hành chính) là người tổ chức hoạt động quản lý nhà nước nhằm phát
    triển kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân, giữ trọng trách bảo đảm có hiệu
    quả và phát huy sức mạnh của bộ máy nhà nước, là nhân tố quyết định sự
    thành công hay thất bại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tính chất
    hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thể hiện ở vai trò quản lý,
    điều hành hoặc phục vụ công tác quản lý trong hệ thống bộ máy hà nước từ
    Trung ương đến địa phương.
    Các quy định về đạo đức, văn hóa công vụ được điều chỉnh bằng nhiều
    văn bản pháp luật, trong đó nổi bật là các văn bản như Quyết định
    03/2007/QĐ-BNV của Bộ Nội vụ về việc ban hành Quy tắc ứng xử của cán
    bộ, công chức, viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương;
    Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2012; Quy chế thực

  39. 31
    hiện văn hóa

    công sở ban hành kèm theo Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg
    ngày 02/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ. Khác với những người lao động
    bình thường khác, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ngoài việc chịu sự
    điều chỉnh chung của các văn bản pháp luật chung, còn chịu sự điều chỉnh của
    những văn bản đặc thù trong tính chất công việc. Văn hóa ứng xử của công
    chức, viên chức trong quản lý hành chính nhà nước phải tuân thủ tính định
    hướng chính trị của Đảng, những quy định đặc thù của pháp luật. Cán bộ,
    công chức, viên chức Việt Nam là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát
    của nhân dân, phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng
    cao trình độ và năng lực công tác để thực hiện tốt nhiệm vụ công vụ được
    giao. Tham gia sinh hoạt với cộng đồng nhân dân nơi cư trú, lắng nghe ý kiến
    và chịu sự giám sát của nhân dân; có nếp sống lành mạnh, trung thực, cần
    kiệm liêm chính, chí công vô tư; không được quan liêu, cửa quyền, hách dịch,
    cửa quyề, tham nhũng.
     Yếu tố tâm lý
    Trong giao tiếp, những cảm xúc cùng loại được lặp đi lặp lại là cơ sở
    hình thành những tình cảm tương ứng. Đồng thời, tình cảm cũng làm nảy sinh
    cảm xúc, sự rung động tương ứng. Tình cảm và cảm xúc là yếu tố chi phối
    nhận thức của chúng ta về đối tượng giao tiếp. Ngoài ra, nó cũng chi phối
    hành vi con người trong giao tiếp, nhất là sự chi phối của định kiến. Vì vậy,
    trong giao tiếp, người cán bộ, công chức, viên chức cần biết tự kiềm chế và
    làm chủ cảm xúc của mình. Nói một cách đơn giản người cán bộ, công chức,
    viên chức khi giao tiếp với người dân trong quá trình giải quyết công việc
    phải làm chủ được cảm xúc của mình, không để những yếu tố liên quan đến
    tình cảm, cảm xúc cá nhân (áp lực từ công việc, tình cảm cá nhân, vui,
    buồn…) gây trở ngại, ảnh hưởng đến giải quyết chung.

  40. 32
     Yếu tố

    kinh tế
    Kinh tế là một trong những yếu tố hết sức nhạy cảm trong giao tiếp, đặc
    biệt là giao tiếp của người cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công
    vụ, nhiệm vụ. Đã có những trường hợp cán bộ, công chức, viên chức lợi dụng
    chức vụ, thẩm quyền của mình trong giao tiếp đã gây khó khăn, phiền hà,
    nhũng nhiễu với người dân để vụ lợi. Cũng có trường hợp, người dân vì muốn
    được ưu tiên giải quyết công việc nhanh chóng đã chủ động thực hiện những
    hành vi trái pháp luật như hối lộ người có thẩm quyền…Bởi vậy, nâng cao đời
    sống vật chất, tinh thần, đảm bảo cho người cán bộ, công chức, viên chức sẽ
    góp phần quyết định thái độ và tinh thần làm việc tích cực trong giao tiếp của
    người cán bộ, công chức, viên chức.
     Yếu tố xã hội
    Hành vi giao tiếp của con người nói chung, của cán bộ, viên chức nói
    riêng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố mang tính xã hội như: nhóm xã hội, gia
    đình, giai cấp, vai trò, địa vị xã hội hay các chuẩn mực xã hội… hay từ chính
    những người dân khi đến tổ chức liên hệ giải quyết công việc. Đó là những
    ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của các nhóm xã hội, những tác động mang
    tính vô thức của yếu tố gia đình; ảnh hưởng của những hành vi, chuẩn mực
    tương ứng với vai trò, vị trí xã hội của mỗi cá nhân hay những hệ giá trị,
    chuẩn mực hành vi của xã hội nói chung, của nền hành chính nói riêng mà
    mỗi cán bộ, công chức, viên chức cần quan tâm. Dưới tác động của bối cảnh
    hội nhập và toàn cầu hóa, người dân ngày càng quan tâm nhiều hơn đến chất
    lượng phục vụ của một nền hành chính hiện đại, điều đó đòi hỏi nền hành chính
    phải tiến hành cải cách để có thể đáp ứng được yêu cầu, mà trước tiên thể hiện
    qua hành vi giao tiếp của những cán bộ, công chức, viên chức hàng ngày tiếp
    xúc trực tiếp với người dân. Hơn thế nữa, sự hiểu biết của người dân cũng ngày
    càng được nâng lên, đặt ra yêu cầu đối với chính những người cán bộ, công
    chức, viên chức không ngừng hoàn thiện bản thân mình cả về chuyên môn
    nghiệp vụ lẫn kỹ năng giao tiếp hành chính trong thực thi công vụ.

  41. 33
    1.2.4. Nội dung

    thực hiện văn hóa giao tiếp trong công sở
    Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội là một trong những cơ quan có ban
    hành đầy đủ các văn bản quy phạm, quy định về văn hóa công sở, đặc biệt là
    văn hóa giao tiếp gắn liền với đặc thù hoạt động của cơ quan. Sau đây, tác giả
    luận văn sẽ trình bày nội dung thực hiện VHGT tại Văn phòng Đăng ký đất
    đai giữa viên chức với viên chức và viên chức với công dân.
    1.2.4.1.Nội dung thực hiện văn hóa giao tiếp giữa viên chức với viên chức
    Căn cứ vào Quyết định số 117-QĐ/BCSĐTNMT của Bộ Tài nguyên và
    Môi trường ban hành ngày 11/4/2014 về Quy chuẩn đạo đức nghề nghiệp của
    cán bộ, công chức, viên chức, người lao động ngành tài nguyên và môi
    trường; Căn cứ vào Quyết định số 105/QĐ-VPĐKĐĐ ban hành ngày
    10/01/2015, về việc Ban hành Quy chế làm việc của Văn phòng Đăng ký đất
    đai Hà Nội, có thể thấy nội dung thực hiện VHGT giữa viên chức với viên
    chức bao gồm:
    Thứ nhất, thực hiện phối hợp hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ, quyền
    hạn được giao; hiểu biết, trách nhiệm, yêu ngành, yêu nghề, vượt khó để hoàn
    thành tốt nhiệm vụ được giao. Đây là nội dung cơ bản, bao trùm và định hướng
    việc thực hiện văn hóa giao tiếp nói chung, văn hóa công sở nói riêng tại Văn
    phòng Đăng ký đất đai Hà Nội. Việc phối hợp hoạt động không chỉ thuần túy là
    việc đáp ứng một cách máy móc các nguyên tắc, yêu cầu, đòi hỏi về phân công
    nhiệm vụ giữa các bộ phận chuyên môn, giữa các viên chức với nhau mà còn là
    tạo điều kiện thuận lợi nhất để từng bộ phận, từng viên chức có liên quan trong
    từng công việc, nhiệm vụ cụ thể có thể hoàn thành một cách tốt nhất phần việc
    được giao của từng người và của cả tập thể thực hiện.
    Quá trình phối hợp hoạt động này diễn ra trong bối cảnh phải thực hiện
    nhiều hoạt động giao tiếp giữa các bộ phận, phòng ban và giữa các viên chức
    với nhau, trong đó bao gồm cả giao tiếp chính thức và giao tiếp phi chính

  42. 34
    thức, giao tiếp

    bằng văn bản và giao tiếp phi văn bản. Các giao tiếp thực hiện
    chính thức và văn bản hóa được tuân thủ các chuẩn mực về giao tiếp trong
    hoạt động công vụ được ban hành trong các văn bản quy phạm pháp luật và
    có tính bắt buộc cao nhằm đáp ứng các điều kiện tối thiểu để hoàn thành được
    các công việc cụ thể, tức tính hiệu lực. Tuy nhiên, để tạo được kết quả tốt nhất
    với hiệu quả tối đa, trong quá trình thực hiện các công vụ, nhiệm vụ, đội ngũ
    viên chức Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội còn buộc phải sử dụng các hình
    thức giao tiếp không chính thức và phi văn bản. Các hình thức giao tiếp này
    tuy không chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các văn bản pháp lý có hiệu lực bắt
    buộc nhưng bị ràng buộc bởi yếu tố văn hóa tổ chức và các mục tiêu mà tổ
    chức cần đạt được, trong đó cụ thể hơn là yêu cầu hoàn thành công việc mà
    những người tham gia quá trình giao tiếp đều phải đạt được.
    Như vậy, việc thực hiện phối hợp hoạt động theo các chức năng, nhiệm
    vụ được giao giữa các bộ phận chuyên môn và giữa từng viên chức với nhau
    được đảm bảo dựa trên các quy định pháp lý của các cơ quan hành chính cấp
    trên, các yêu cầu về chuyên môn nghề nghiệ, quy chế làm việc của Văn phòng
    Đăng ký đất đai Hà Nội. Đồng thời, để góp phần tạo nên hiệu quả tốt nhất
    trong giao tiếp nhằm đảm bảo quá trình hoạt động diễn ra liên tục, không bị
    gián đoạn, việc thực hiện văn hóa giao tiếp của viên chức còn bao gồm việc
    tuân thủ các giá trị chuẩn mực đạo đức chung, các yếu tố thuộc về văn hóa
    công sở nơi làm việc.
    Thứ hai, phải có thái độ lịch sự, tôn trọng đồng nghiệp, đoàn kết, chân
    tình, thẳng thắn, hợp tác, giúp nhau cùng tiến bộ. Đây là nội dung có tính chất
    tiền đề trong thực hiện văn hóa giao tiếp giữa đội ngũ viên chức với nhau
    trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao. Việc tôn trọng lẫn nhau, có thái
    độ, hành vi lịch sự, nhã nhặn là yếu tố quan trọng nhằm đảm bảo đội ngũ viên
    chức có được tâm thế tốt nhất khi thực hiện giao tiếp.

  43. 35
    Thái độ lịch

    sự không những là nội dung trong thực hiện văn hóa giao
    tiếp tại các công sở mà còn có phạm vi rộng lớn hơn rất nhiều trong mọi loại
    hình giao tiếp giữa con người với con người. Thái độ lịch sự không những
    nhằm mục đích làm cho người đối giao cảm thấy được tôn trọng, được đánh
    giá đúng tầm mức giá trị mà còn khiến cho chủ thể giao tiếp xây dựng hình
    ảnh đẹp trong mắt những người khác khi tham gia vào quá trình giao tiếp.
    Bởi, hành vi, thái độ của mỗi người hay mỗi viên chức là một trong những
    tiêu chí quan trọng để đánh giá giá trị về mặt văn hóa, trình độ giao tiếp của
    người đó hay viên chức đó.
    Tuy nhiên, để đánh giá mức độ “lịch sự” trong thái độ giao tiếp của viên
    chức lại không hề dễ dàng bởi khác với các chỉ tiêu trong các ngành khoa học
    kỹ thuật, tự nhiên và kinh tế, tiêu chí này hoàn toàn mang tính chất định tính
    và khó đo lường do chịu sự chi phối mang tính chất chủ quan rất lớn. Thông
    thường, có thể đánh giá mực độ “lịch sự” trong giao tiếp thông qua các khía
    cạnh như ngôn ngữ, hành vi, cử chỉ, trang phục. Trong nhiều trường hợp, để
    đánh giá mức độ lịch sự trong giao tiếp, có nhiều quan niệm cho rằng, nó đối
    lập với bất lịch sự, tức không phù hợp với chuẩn mực văn hóa giao tiếp
    chung. Do vậy, để việc đánh giá thường bị rơi vào lối tư duy “vòng quanh”,
    rất khó thực hiện.
    Tôn trọng đồng nghiệp được hiểu là có cái nhìn khách quan, chấp nhận
    giá trị con người thực, bao gồm cả yếu tố thống nhất lẫn khác biệt giữa những
    viên chức với nhau. Nội dung này đòi hỏi phải được thực hiện từ tất cả mọi
    phía trong giao tiếp, nói khác đi là tính hai chiều trong thực hiện văn hóa giao
    tiếp.Ví dụ, ngoài việc vận dụng các giá trị chuẩn mực giao tiếp chung trong
    đó những người được coi là có ngôi thứ về tuổi tác, học vấn thấp phải tôn
    trọng người có tuổi tác cao, kinh nghiệm nhiều, uy tín lớn thì những viên chức
    có trình độ cao hơn, tuổi tác lớn hơn, kinh nghiệm phong phú hơn… cũng cần

  44. 36
    đối xử một

    cách bình đẳng, công tâm với các viên chức trẻ, kinh nghiệm ít;
    không vì cậy mình lớn tuổi hơn, công tác lâu năm hơn để tỏ ra trịch thượng,
    cao ngạo hay có những đòi hỏi vô lý như đòi hưởng các ưu tiên, ưu đãi.
    Thứ ba, sử dụng ngôn ngữ giao tiếp chuẩn mực, rõ ràng, mạch lạc. Đây
    cũng là một nội dung hết sức quan trọng bởi suy đến cùng, ngôn ngữ là
    phương tiện giao tiếp cơ bản nhất của con người. Trước đây, ngôn ngữ được
    hiểu là tiếng nói, chữ viết nhưng ngày nay, nó được hiểu rộng ra bao gồm mọi
    hệ thống tín hiệu được sử dụng để giao tiếp, trong đó có cả ngôn ngữ được
    văn bản hóa và cả ngôn ngữ hình thể (hoặc ngôn ngữ cơ thể) như các điệu bộ,
    hành vi, cử chỉ…
    Ngôn ngữ giao tiếp chuẩn mực được hiểu là ngôn ngữ giao tiếp chính
    thức, phổ thông; không sử dụng ngôn ngữ không phổ biến, thiếu rõ ràng như
    tiếng lóng, các ám hiệu, ký hiệu không liên quan đến nội dung công tác.
    Tính rõ ràng của ngôn ngữ giao tiếp được biểu hiện thông qua tính đơn
    nghĩa của ngôn ngữ. Ngôn ngữ giao tiếp rõ ràng là ngôn ngữ không có ẩn ý,
    hàm ý, không gây nên nhiều cách hiểu khác nhau cho người khác.
    Tính mạch lạc của ngôn ngữ giao tiếp được hiểu là tính thống nhất, hệ
    thống trong việc truyền đạt các ý tưởng, thông điệp. Đồng thời, là tính phối
    hợp chặt chẽ giữa các ý tưởng, thông điệp được truyền đạt trong quá trình
    giao tiếp. Tính mạch lạc của ngôn ngữ giao tiếp có tác dụng làm cho người
    đối giao có khả năng nắm bắt, tiếp thu thông tin truyền đạt một cách chính
    xác và nhanh nhất có thể.
    Thứ tư, lắng nghe ý kiến của đồng nghiệp. Ở đây, ý kiến đồng nghiệp
    được hiểu là các ý kiến, quan điểm mang tính chất chuyên môn về công việc
    mà không bao gồm các ý kiến cá nhân về đời tư hay các vấn đề không trực
    tiếp liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.

  45. 37
    Việc lắng nghe

    ý kiến của đồng nghiệp có ý nghĩa rất lớn, thể hiện ở chỗ:
    Thứ nhất, lắng nghe ý kiến đồng nghiệp để có thêm những cách nhìn nhận,
    đánh giá ở những khía cạnh, góc độ khác; thứ hai, lắng nghe ý kiến đồng
    nghiệp để khắc phục những khác biệt, củng cố tính thống nhất để đi tới hành
    động một cách nhất quán, có sự đồng thuận, nhất trí cao.
    Thứ năm,công bằng, vô tư, khách quan khi nhận xét, đánh giá. Việc nhận
    xét, đánh giá về đồng nghiệp trong cơ quan, đơn vị, tổ chức là một hoạt động
    mang tính chính thức, có tính định kỳ trong các kỳ sơ kết, tổng kết hoạt động
    hay kết thúc các dự án, các nhiệm vụ cụ thể; hoặc có tính bất kỳ, đột xuất để
    đáp ứng các yêu cầu cụ thể khi có những vấn đề mới như đề bạt, bổ nhiệm
    hoặc phục vụ công tác thanh tra công vụ.
    Việc tham gia đánh giá, nhận xét đồng nghiệp của viên chức phải đảm
    bảo tính công bằng, vô tư, khách quan, tức cung cấp cho chủ thể yêu cầu đánh
    giá, nhận xét những thông tin chính xác, trung thực về người được đánh giá
    để đảm bảo trong việc đưa ra các quyết định phù hợp về khen thưởng, đề bạt
    trong trường hợp có thành tích cao, có đóng góp quan trọng, hoặc xử lý kỷ
    luật trong trường hợp có vi phạm pháp luật hay kỷ luật công vụ.
    Nhận xét, đánh giá của viên chức đối với đồng nghiệp phải đảm bảo
    không thiên kiến, không “tô hồng” hay “bôi đen” về người được đánh giá. Viên
    chức không được vì tình cảm cá nhân riêng tư, lợi dụng các cuộc thu thập ý
    kiến nhận xét, đánh giá để trù dập, bịa đặt sai sự thật, lợi dụng việc đó để hạ uy
    tín, danh dự; đồng thời cũng không vì có tình cảm cá nhân tốt mà bao che,
    dung túng cho những sai phạm của đồng nghiệp, người được đánh giá.
    Thứ sáu, thực hiện dân chủ và đoàn kết nội bộ. Để đảm bảo dân chủ
    trong cơ quan, đơn vị, mỗi viên chức phải chủ động thực hiện việc bày tỏ
    quan điểm, chính kiến về các nội dung thuộc phạm vi công việc trên tinh thần
    cởi mở, thẳng thắn. Tuy nhiên, việc góp ý, bày tỏ quan điểm đó phải mang

  46. 38
    tính chính thức

    thông qua các hội nghị về chuyên môn, hội nghị về tổ chức –
    cán bộ hoặc bằng văn bản, tuyệt đối không sử dụng các hình thức phi chính
    thức như trao đổi riêng, tụ tập các nhóm để biểu đạt, tuyên truyền nhằm tránh
    gây xáo trộn, mất ổn định, làm hoang mang tâm lý hay tạo dư luận không tốt
    trong nội bộ cơ quan, đơn vị.
    Bên cạnh thực hiện dân chủ, một nội dung quan trọng trong thực hiện
    văn hóa giao tiếp của viên chức Văn phòng Đăng ký đất đai Hà Nội là góp
    phần đảm bảo đoàn kết nội bộ trong cơ quan, đơn vị. Để có được điều này,
    trước hết mỗi viên chức cần phải có tinh thần vì lợi ích chung của cơ quan,
    đơn vị, thực hiện các nhiệm vụ của mình một cách tốt nhất, đồng thời phối
    hợp, hỗ trợ đồng nghiệp hoàn thành nhiệm vụ. Thêm nữa, mỗi viên chức phải
    trang bị cho mình nhận thức đầy đủ, đúng đắn về phong cách giao tiếp, tuân
    thủ quy chế phát ngôn, xây dựng tính chịu trách nhiệm cho mọi phát ngôn,
    hành vi của mình. Từ đó, sẽ có sự cân nhắc trong suốt quá trình công tác
    nhằm đảm bảo tính thống nhất và đoàn kết trong cơ quan, tổ chức.
    Thứ bảy, giữ gìn uy tín, danh dự cho cơ quan, tổ chức, đơn vị và đồng
    nghiệp, nêu gương cần, kiệm, liêm, chính, sống và làm việc theo Hiến pháp và
    pháp luật. Ở đây, cần hiểu rằng uy tín, danh dự của cơ quan, tổ chức, đơn vị và
    của đồng nghiệp cũng gián tiếp là uy tín và danh dự cá nhân của mỗi viên chức
    trong công tác và trong đời tư. Do đó, giữ gìn uy tín, danh dự của cơ quan,
    đồng nghiệp cũng chính là giữ gìn uy tín, danh dự cho bản thân từng viên chức.
    Giữ gìn uy tín, danh dự ở đây được hiểu thống nhất với nội dung nhận
    xét, đánh giá công bằng, khách quan. Giữ gìn uy tín, danh dự là không xuyên
    tạc, bịa đặt; đồng thời, có ý kiến bảo vệ, tranh luận (nếu cần thiết) đối với
    những ý kiến, quan điểm không có thật nhằm hạ uy tín, danh dự của cơ quan,
    đơn vị, tổ chức và đồng nghiệp.