Luật di sản văn hóa là gì? Quản lý nhà nước về di sản văn hóa?
Luật di sản văn hóa là đạo luật quy định hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hóa ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Mục lục bài viết
1. Tìm hiểu về luật di sản văn hóa
Với nhận thức di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân, để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào kho tàng di sản văn hóa thế giới và để tăng cường hiệu lực quản lí nhà nước, nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, ngày 29.6.2001, Quốc hội Khóa X đã thông qua Luật di sản văn hoá (Luật số 28/2001/QH10). Đây là đạo luật về di sản văn hoá đầu tiên trong lịch sử lập pháp của nước ta và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01.01.2002. Luât di sản văn hoá gồm 74 điều, được chia làm 7 chương:
Chương I – Những quy định chung (Điều 1 đến Điều 13);
Chương lÏ – Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hoá (Điều 14 đếnĐiều 16);
Chương III – Bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá phi vật thể (Điều 17 đến Điều 27);
Chương IV – Bảo vệ và phát huy giá trị văn hoá vật thể (Điều 28 đến Điều 53);
Chương V – Quản lí nhà nước về di sản văn hoá (Điều 54 đến Điều 68); Chương VỊ – Khen thưởng và xử lí vi phạm (Điều 69 đến Điều 72);
Chương VII – Điều khoản thi hành (Điều 73 đến Điều 74).
Di sản văn hoá trong Luật này được hiểu bao gồm cả di sản văn hoá phi vật thể và di sản văn hoá vật thể. Đó là những sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tỉnh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống dân tộc và những tri thức dân gian khác. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Luật di sản văn hoá quy định rõ trách nhiệm giữ gìn, bảo vệ, phát huy di sản văn hoá không chỉ thuộc về ngành văn hoá mà là trách nhiệm chung của mọi cơ quan nhà nước, mọi tổ chức, cá nhân và của toàn xã hội. Một quy định rất quan trọng của Luật là việc thừa nhận quyền sở hữu tư nhân đối với một số loại di sản văn hoá bên cạnh các hình thức sở hữu truyền thống như sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cộng đồng đối với di sản văn hoá, Quy định này tạo điều kiện để huy động toàn dân tham gia vào việc giữ gìn, bảo vệ, phát huy các dị sản văn hoá mà cha ông đã dày công vun đắp và truyền lại. Theo quy định của Luật thì mọi tổ chức, cá nhân đều có các quyền và nghĩa vụ như sở hữu hợp pháp di sản văn hóa; tham quan, nghiên cứu dị sản văn hóa; tôn trọng, bảo vệ và phát huy giá trị dị sản văn hóa; thông báo kịp thời địa điểm phát hiện di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh; giao nộp di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia do mình tìm được cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi gần nhất; ngăn chặn hoặc để nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyển ngăn chặn, xử lí kịp thời những hành vi phá hoại, chiếm đoạt, sử dụng trái phép di sản văn hóa.
Luật cũng quy định rõ trình tự, thủ tục công nhận di sản văn hoá, các biện pháp bảo vệ di sản văn hoá, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Thủ tướng Chính phủ, Bộ Văn hoá – Thông tin, Hội đồng di sản văn hoá quốc gia, Uỷ ban nhân dân các cấp và các cơ quan khác trong việc công nhận, bảo vệ, giữ gìn, quản lí các di sản văn hoá (cả di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể).
Luật nghiêm cấm các hành vi xâm phạm tới di sản văn hoá như chiếm đoạt, làm sai lệch di sản văn hóa; hủy hoại hoặc gây nguy cơ hủy hoại di sản văn hóa; đào bới trái phép địa điểm khảo cổ; xây dựng trái phép; lấn chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh; mua bán, trao đổi và vận chuyển trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích lịch sử – văn hóa, danh lam thắng cảnh; đưa trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước ngoài.
Hiện nay, Luật di sản văn hóa năm 2001 đã được sửa đổi bổ sung vào năm 2009 (Xem: Luật di sản văn hóa sửa đổi, bổ sung năm 2009) và đã được hợp nhất trong văn bản hợp nhất số 10/VBHN-VPQH năm 2013 về Luật di sản văn hóa
2. Quản lý nhà nước về di sản văn hoá
Trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, việc giáo dục truyền thống lịch sử, xây dựng các di sản văn hoá là điều vô cùng quan trọng và cần thiết. Vai trò quản lý nhà nước về văn hóa thể hiện:
1. Tổ chức, Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên môn về di sản văn hoá;
2. Huy động, Quản lý, sử dụng các nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;
3. Tổ chức, chỉ đạo khen thưởng trong việc bảo vệ và phát huy giá tri di sản vãn hoá;
4. Tổ chức và Quản lý hợp tác quốc tế về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá;
5. Thanh tta, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về di sản văn hoá.
Điều 1 Luật di sản văn hoá quy định:
“Di sản văn hoá là sản phẩm tinh thần, vật chat có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Xem: Điều 4 Luật di sản văn hoá sửa đổi năm 2009.
Di sản văn hoá bao gồm di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá phi vật thể. Trong đó di sản văn hoá phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thể hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác”. Di sản văn hoá vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học, bao gồm di tích lịch sử-văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cỗ vật, bảo vật quốc gia.(1)
Nhà nước thống nhất Quản lý di sản văn hoá thuộc sở hữu toàn dân; công nhận và bảo vệ các hình thức sở hữu tập thể, sở hữu chung của cộng đồng, sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác về di sản vãn hoá theo quy định của pháp luật.
– Chủ tịch uỷ ban nhân dân cẩp tỉnh quyết định xếp hạng di tích cấp tỉnh, cấp bằng xếp hạng di tích cấp tỉnh;
– Bộ trưởng Bộ văn hóa, thể thao và đu lịch quyết định xếp hạng di tích quốc gia, cấp bằng xếp hạng di tích quốc gia;
– Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt, cấp bằng xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt; quyết định việc đề nghị Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc xem xét đưa di tích tiêu biểu của Việt Nam vào Danh mục dĩ sản thế giới.
Trong trường hợp di tích đã được xểp hạng mà sau đó có đủ căn cứ xác định là không đủ tiêu chuẩn hoặc bị huỷ hoại không có khả năng phục hồi thì người có thẩm quyền quyết định xếp hạng di tích nào có quyền ra quyết định huỷ bỏ xếp hạng đối với di tích đó.
Việc bảo vệ, bảo quản, tu bổ và phục hồi các di tích được thực hiện theo quy định của pháp luật về di sản văn hoá.
3. Đối với di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia:
Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, vãn hoá, khoa học.
Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu vê lịch sử, vãn hoá, khoa học, có từ một ttăm năm tuổi ttở lên.
Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiểm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hoá, khoa học.
Mọi di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thu được trong quá trình thăm dò, khai quật khảo cổ và do tổ chửc, cá nhân phát hiện, giao nộp phải được tạm nhập vào kho bảo quản của bảo tàng cấp tỉnh nơi phát hiện. Bảo tàng cấp tỉnh có trách nhiệm tiếp nhận, Quản lý và báo cáo Bộ văn hoá, thể thao và du lịch.
4. Bộ trưởng Bộ văn hoá, thể thao và du lịch là người có thẩm quyền
– Có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép đưa di vật, cổ vật ra nước ngoài.
– Không đưa di vật, cổ vật thuộc loại không được mang ra nước ngoài theo quy định cùa Thông tư số 19/2012/TT-BVHTTDL ngày 28/12/2012.
Di sản văn hoá phải được bảo vệ và phát huy giá trị, đó là mục đích của quản ư nhà nước về di sàn văn hoá. Hoạt động trực tiếp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá chính là hoạt động bảo tồn, bào tàng. Hoạt động bảo tồn, bảo tàng trực tiếp lưu giữ, tôn tạo các di sản văn hoá làm giàu thêm truyền thống văn hoá của dân tộc và tinh hồa văn hoá thế giới, đáp ứng nhu cầu hiểu biết, hưởng thụ văn hoá tinh thần của nhân dân, giáo dục truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Các sưu tập về lịch sử, tự nhiên và xã hội được bảo quản và trưng bày tại các bảo tàng. Bảo tàng Việt Nam bao gồm: Bảo tàng quốc gia; bảo tàng chuyên ngành; bảo tàng cấp tỉnh và bảo tàng tư nhân.
5. Thẩm quyền quyết định thành lập bảo tàng
Thẩm quyền quyết định thành lập bảo tàng được Điều 50 Luật di sản văn hoá quy định như sau:
– Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành thuộc bộ, ngành, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội ở trung ương theo đề nghị của Bộ trưởng, người đứng đầu ngành, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội ở trung ương;
– Bộ trưởng, người đứng đầu ngành, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội ở trung ương quyết định thành lập bảo tàng chuyên ngành thuộc đơn vị trực thuộc theo đề nghị của người đứng đầu đơn vị trực thuộc;
– Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập bảo tàng cẩp tỉnh theo đề nghị cùa cơ quan có thẩm quyền về văn lịch và quảng cáo; Nghị định của Chính phủ số 131/2013/NĐ-CP ngày 16/10/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan.
Cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá thông tin bao gồm: Uỷ ban nhân dân các cấp; cơ quan thanh tra chuyên ngành; cơ quan hải quan, bộ đội biên phòng; cơ quan công an; cảnh sát biển; cơ quan hải quan; cơ quan thuế; cơ quan Quản lý thị trường. Tuy nhiên vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hoá có rất nhiều loại, mỗị cơ quan chỉ có thẩm quyền xử phạt đối với những loại vi phạm được pháp luật quy định. Sự phân định thẩm quyền cụ thể giữa các cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về văn hoá được xác định trong các văn bản pháp luật có liên quan.
Khi xử phạt vi phạm hành chính ttong lĩnh vực văn hoá, người có thẩm quyền xử phạt được áp dụng những hình thức xử phạt và biện pháp được pháp luật quy định đối với hành vi đó. Các hình thức xử phạt bổ sung và các biện pháp khác được áp dụng kèm theo hình thức phạt chính nhằm xử lý triệt để vi phạm, loại trừ nguyên nhân, điều kiện tái phạm và khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra.
Việc xử lý tang vật, phương tiện vi phạm ttong lĩnh vực văn hoá phải tuân theo quy định tại Điều 82 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là vật có giá trị lịch sử, giá trị văn hoá, bảo vật quốc gia, cổ vật thì chuyển giao cho cơ quan Quản lý nhà nước chuyên ngầnh để Quản lý, xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối với tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đã được cấp có thẩm quyền ra quyết định chuyển giao cho cơ quan nhà nước Quản lý, sử dụng thì cơ quan đã ra quyết định tịch thu.
Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập)