Megastory: Bức tranh văn hóa Việt đa sắc mầu
Nền văn hóa Việt Nam thể hiện rõ tính thống nhất một nền văn hóa quốc gia – dân tộc, chống kỳ thị, cưỡng bức văn hóa của dân tộc này đối với dân tộc khác. Cho dù nhiều tộc người thiên di vào lãnh thổ Việt vào những thời kỳ lịch sử khác nhau, có tộc người đến sớm từ hàng nghìn năm, có tộc người đến từ vài trăm năm nay, nhưng đã sinh sống trên dải đất hình chữ S đều chung một ký ức về cội nguồn tổ tiên, đều là đồng bào cùng nhau kết nối vòng tay đoàn kết bằng sự hiểu biết, thủy chung, gắn bó, đùm bọc lẫn nhau.
Các tài liệu sử học cho thấy, Việt Nam là một cộng đồng văn hoá rộng lớn hình thành khoảng nửa đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên và phát triển rực rỡ vào giữa thiên niên kỷ này. Đó là cộng đồng văn hoá Đông Sơn, một nền văn hoá phát triển cao, mang những nét đặc trưng của văn hoá khu vực Đông Nam Á và nền văn minh lúa nước. Những con đường phát triển khác nhau của văn hoá bản địa tại lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả v.v… hội tụ, hợp thành nền văn hoá Đông Sơn – thời kỳ ra đời nhà nước đầu tiên ở Việt Nam dưới hình thức cộng đồng, từ đó các bộ lạc nguyên thuỷ phát triển thành dân tộc.
Giai đoạn văn hoá Văn Lang – Âu Lạc, thời đại đồ đồng sơ khai (gần năm 3000 đến cuối thiên niên kỷ 1 trước CN) với dấu ấn thời kỳ bình minh dựng nước, giữ nước của 18 đời vua Hùng, in đậm dấu ấn nguồn cội của lịch sử, văn hoá Việt Nam. Ở giai đoạn này văn hóa bản địa Việt cổ phát triển có sự kế tục thành tựu văn hoá giai đoạn trước, các thành tưu văn hoá tiêu biểu ở thời kỳ này là trống đồng Đông Sơn và văn minh trồng lúa nước.
Hát Xoan, tỉnh Phú Thọ thuộc tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, một dấu ấn văn hoá thời kỳ bình minh dựng nước, giữ nước vẫn lưu truyền đến ngày nay.
Xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam phân thành 6 giai đoạn gồm: Văn hóa tiền sử; Văn hóa Văn Lang – Âu Lạc; Văn hóa thời chống Bắc thuộc; Văn hóa Đại Việt; Văn hóa Đại Nam; Văn hóa hiện đại. Các giai đoạn này tạo thành ba lớp văn hoá chính gồm: Lớp văn hoá bản địa, lớp văn hoá giao lưu với Trung Hoa và lớp văn hoá giao lưu với phương Tây.
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử dựng nước, giữ nước, trong đó có thời kỳ ngàn năm Bắc thuộc. Nhưng sức sống mạnh mẽ của nguồn cội văn hoá bản địa đã giúp nền văn hoá Việt Nam không bị mất đi, không bị đồng hoá trước những nền văn hoá ngoại lai, trái lại còn Việt hoá làm phong phú thêm cho nền văn hoá của dân tộc.
DI SẢN VĂN HOÁ VIỆT
Nghiên cứu di sản văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử đất nước, các nhà nghiên cứu khái quát đời sống, kinh tế – xã hội nước ta theo các nhóm ngôn ngữ, 54 dân tộc ở Việt Nam thuộc 8 nhóm ngôn ngữ: Việt – Mường, Môn – Khơ me, Tày – Thái, Mông – Dao, Mã Lai – Đa Đảo, Tạng – Miến, Hán và Ka Đai.
Nhóm Ngôn ngữ Việt – Mường gồm 4 dân tộc: Kinh, Mường, Thổ, Chứt – Đồng bào sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước và đánh cá. Trong đời sống tín ngưỡng có tục thờ cúng ông bà tổ tiên và các nghề thủ công truyền thống phát triển ở trình độ cao.
Nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ me gồm 21 dân tộc: Khơ Me, Ba Na, Xơ Đăng, Cơ Ho, Hrê, Mnông, Xtiêng, Bru-Vân Kiều, Cơ Tu, Giẻ Triêng, Mạ, Khơ Mú, Co, Tà Ôi, Chơ Ro, Kháng, Xinh Mun, Mảng, Brâu, Ơ Đu, Rơ Măm. Đời sống kinh tế chủ yếu là canh tác nương rẫy theo phương pháp chọc lỗ tra hạt. Kiến trúc nhà rông, nhà dài Tây Nguyên, chùa của dân tộc Khơ Me, nghề thủ công đan lát và lễ hội văn hoá cộng đồng là những nét văn hoá độc đáo của cư dân Môn – Khơ Me.
Nhóm ngôn ngữ Tày – Thái có 8 dân tộc: Tày, Thái, Nùng, Sán Chay, Giáy, Lào, Lự, Bố Y. Đồng bào sống chủ yếu trồng lúa trên các thung lũng, ven sông suối, có hệ thống dẫn nước bằng mương, phai, lái, lín, cọn nước, ở nhà sàn. Đời sống tinh thần phong phú với nhiều điệu xoè và bài hát then độc đáo, nghề thủ công rèn, dệt vải khá phát triển với các sản phẩm đẹp và tinh tế.
Nhóm ngôn ngữ H’mông – Dao có 3 dân tộc dân tộc H’mông, Dao, Pà Thẻn; Nhóm ngôn ngữ Tạng – Miến gồm 6 dân tộc: Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Lô Lô, Cóng, Si La; Nhóm ngôn ngữ Kađai gồm 4 dân tộc Cờ Lao, La Chí, La Ha, Pu Péo, các dân tộc này giỏi canh tác nương rẫy và trên ruộng bậc thang. Chợ phiên là không gian văn hoá thể hiện rõ bản sắc văn hoá vùng cao như: Văn hoá ẩm thực, trang phục, nghệ thuật thêu thùa, in hoa trên vải , biểu diễn âm nhạc, múa khèn…
Nhóm ngôn ngữ Mã Lai – Đa Đảo gồm 5 dân tộc Chăm, Chu Ru, Gia Rai, Ê Đê, Ra Glai – sinh sống tập trung ở Tây Nguyên và dải đất ven biển miền Trung mang đậm nét mẫu hệ. Nhóm ngôn ngữ Hán có 3 dân tộc Hoa, Ngái, Sán Dìu – đồng bào cư trú ở ba miền Bắc, Trung, Nam, văn hoá Hán mang đậm nét phụ hệ.
Các kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực địa chí, văn hóa học và lịch sử – văn hóa Việt Nam đã đưa ra nhiều phương án nhận thức và phân loại đối với từng vùng miền văn hóa trong tổng thể không gian văn hóa Việt Nam. Theo phác thảo phân vùng văn hóa ở Việt Nam của Giáo sư Ngô Đức Thịnh, Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và cộng sự; theo cách phân chia này, không gian văn hóa Việt Nam được tạo thành từ 7 vùng văn hóa gồm: Đồng bằng Bắc Bộ, Đông Bắc Bắc Bộ, Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ, Duyên hải Bắc Trung Bộ, Duyên hải Trung và Nam Trung Bộ, Trường Sơn – Tây Nguyên, Nam Bộ.
23 tiểu vùng văn hóa gồm: Đất Tổ – Phú Thọ, xứ Bắc, Thăng Long – Hà Nội, xứ Đông, xứ Nam, xứ Lạng, rẻo cao Việt Bắc, Tây Bắc, miền núi Thanh – Nghệ, hỗn hợp Thái – Mường, xứ Thanh, xứ Nghệ, xứ Huế, xứ Quảng, Bình Định – Phú Yên, cực nam Trung Bộ, Trường Sơn, Bắc Tây Nguyên, Trung Tây Nguyên, Nam Tây Nguyên, sông Đồng Nai, Sài Gòn – Gia Định, đồng bằng sông Cửu Long. Các vùng và tiểu vùng văn hóa này có quy mô, sắc thái khác nhau, cùng hòa quyện nhau tạo nên sự đa dạng và thống nhất trong nền văn hoá Việt Nam.
NHỮNG SẮC THÁI RỰC RỠ CỦA VĂN HOÁ VIỆT
Trong cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc mang một bản sắc riêng thể hiện qua văn hoá ẩm thực, nhà ở, phong tục, tập quán, lễ hội, tín ngưỡng tôn giáo, tổ chức xã hội, văn học nghệ thuật, trang phục… Đó là những dấu hiệu để nhận biết nhau, giúp hiểu biết về nhau. Trong số đó trang phục truyền thống là một biểu trưng văn hoá phản ánh sinh động phong tục, tập quán, vẻ đẹp và bản sắc riêng của mỗi dân tộc trên mỗi vùng miền đất nước. Trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam gắn liền cùng quá trình dài lao động, sáng tạo chứa đựng những giá trị nghệ thuật, lịch sử của từng tộc người.
Mỗi bộ trang phục của mỗi dân tộc thể hiện bản sắc riêng qua việc tạo dáng, trang trí họa tiết trên đó. Cách tạo dáng trang phục của phụ nữ ở mỗi dân tộc cũng khác nhau. Hoa văn trang trí trên trang phục phản ánh sinh động môi trường sống, lòng yêu thiên nhiên, quê hương, con người… là cơ sở để thẩm định giá trị về sự đảm đang, tài năng khéo léo của người phụ nữ dân tộc đó. Những hoa văn trên trang phục tác động đến thị hiếu, tình cảm, thói quen của phụ nữ, đem lại niềm vui, hạnh phúc trong cuộc sống và lao động.
Trang phục truyền thống trong lễ cưới của người Dao Đỏ.
Trong các vùng văn hóa không thể không kể đến không gian văn hoá rộng lớn trải dài khắp đất nước của những lễ hội truyền thống, được tổ chức hàng năm tại mỗi ngôi làng, nhằm tưởng nhớ tới các vị anh hùng có công với đất nước, với làng xã, biểu đạt sâu sắc tinh thần gắn kết cộng đồng, đời sống, tín ngưỡng, bản sắc văn hóa của mỗi ngôi làng Việt.
Theo thống kê, nước ta có trên 6.000 lễ hội dân gian, lưu giữ nhiều tầng lớp văn hóa tín ngưỡng, ẩn chứa hệ tư tưởng đạo lý và triết học. Trong số đó có các lễ hội tiêu biểu như: Hội Gióng, Lễ hội Đống Đa, Lễ hội Cổ Loa, Hội Chùa Thầy, hội Thổi cơm thi làng Thi Cấm…
Nội dung các hội làng thường gắn với tục thờ cúng vị thành hoàng làng, quá trình thực hiện nghi lễ và các hoạt động vui chơi, giúp người dân gắn bó với nhau về tinh thần, có trách nhiệm với cộng đồng. Nhiều lễ hội phản ánh tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương, đất nước. Đồng thời phản ánh đậm nét vai trò của nhân dân – những người sáng tạo, kế thừa và trao truyền các sáng tạo văn hóa vật thể, phi vật thể, chủ nhân chân chính của loại hình di sản này.
Hội Gióng một trong bốn vị “Tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian Việt Nam, một hình tượng đẹp đẽ, hào hùng nhất trong kho tàng truyền thuyết Việt. Sức hấp dẫn Hội Gióng trước hết là ý nghĩa giáo dục lòng yêu nước, truyền thống võ công, ý chí quật cường và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
Nghi thức đá bát trong Hội Gióng, làng Phù Đổng (Gia Lâm – Hà Nội).
Hiện nay, các sản phẩm văn hoá tinh thần gắn bó với cộng đồng các dân tộc, mang giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc dân tộc, đang được sự quan tâm đặc biệt của các cấp, ngành quản lý, thể hiện qua việc tích cực tái tạo và lưu truyền các tinh hoa di sản văn hoá cho thế hệ tiếp nối bằng nhiều hình thức như truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác. Các di sản văn hóa phi vật thể như: Tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân gian; nghệ thuật trình diễn dân gian; tập quán xã hội và tín ngưỡng; lễ hội truyền thống; nghề thủ công truyền thống; tri thức dân gian được cộng đồng xã hội nhìn nhận là tài sản văn hoá có ý nghĩa trọng yếu, là nền tảng của văn hoá truyền thống Việt Nam, động lực để gìn giữ bản sắc Việt Nam trước những nền văn minh thế giới trong quá trình hội nhập quốc tế.
Mới đây, Đề án “Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch phê duyệt nhằm: Bảo tồn và phát huy trang phục truyền thống của các dân tộc thiểu số, đáp ứng yêu cầu “di sản văn hóa vừa là động lực, vừa là mục tiêu” góp phần cho sự phát triển bền vững văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam; Đưa trang phục truyền thống phổ biến hơn trong cuộc sống của đồng bào các dân tộc thiểu số, nâng cao lòng tự hào, ý thức bảo tồn và phát huy trang phục truyền thống các dân tộc.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VHTTDL) cũng vừa ban hành Quyết định số 805/QĐ-BVHTTDL về việc Xây dựng bộ ảnh chuyên đề “Sắc màu các dân tộc Việt Nam”, nhằm phản ánh những nét văn hóa đặc trưng về tập quán sinh hoạt, trang phục truyền thống, hoạt động tín ngưỡng, lễ hội v.v… của mỗi dân tộc anh em đã làm nên bức tranh văn hóa Việt Nam đặc sắc. Những nét đẹp độc đáo ấy là niềm tự hào của mỗi dân tộc nói riêng, của Việt Nam nói chung, được bạn bè quốc tế trân trọng, quan tâm và yêu thích.
Lễ rước truyền thống của nhân dân hai thôn Đình Cả và Lộ Bao (xã Nội Duệ, huyện Tiên Du, Bắc Ninh) – một nghi lễ có ý nghĩa tâm linh được tổ chức đều đặn hằng năm, gắn liền với dấu ấn lịch sử, văn hóa của vùng đất quan họ.
Nhận thức Đảng ta về vị trí, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển đất nước đã xác định rõ: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Văn hóa ngày càng được đề cao trong các mối quan hệ xã hội, các lĩnh vực hoạt động, xây dựng văn hoá con người ở thời kỳ mới. Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng xác định: Phát triển kinh tế – xã hội là trung tâm; xây dựng Ðảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần.
Việt Nam đất nước của cộng đồng 54 dân tộc anh em, trong dòng chảy của lịch sử, dù một dân tộc đã cư trú ở Việt Nam hàng nghìn năm hay mới vài ba trăm năm, dù có những dân tộc hàng triệu người, có dân tộc chỉ vài trăm người, nhưng mỗi dân tộc đều gắn bó số phận mình với lịch sử chung của các dân tộc trong nước. Đứng trước những thử thách sống còn, thiên tai, địch hoạ xảy ra với đất nước, càng làm các dân tộc xích lại gần nhau hơn, đoàn kết nhau để chống chọi, tồn tại và phát triển. Trải qua quá trình đó, các dân tộc coi nhau như anh em một nhà, chung đúc một truyền thống đoàn kết bền vững, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xứng đáng với lời Bác Hồ đã căn dặn trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai, Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững quyền tự chủ của chúng ta”.
54 dân tộc anh em trên dải đất hình chữ S cùng nối vòng tay lớn.