Mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo những quan niệm chung nhất, văn hóa là tổng thể những hành động của con người được kết tinh và đặc trưng bởi hệ thống giá trị phù hợp với mỗi dân tộc và thời đại.
“Chính trị” trong ngôn ngữ phương Tây (Politic) là “khoa học và nghệ thuật giành, giữ và thực thi quyền lực”. ở phương Đông, bản thân từ “chính trị” trong nguyên nghĩa đã bao hàm ý cai trị, quản lý đất nước, xã hội hướng theo chính đạo.
Các Mác đã quan niệm rằng con người khi sinh ra trước hết phải sống, phải lo đáp ứng những yêu cầu tối thiểu có tính sinh học, sau đó mới quan tâm đến những vấn đề của khoa học, triết học, chính trị …
Khi con người chia tay với thời đại mông muội, nguyên thuỷ, chất phác, bước vào thời kỳ biến động đầy khổ đau, có kẻ giàu áp bức người nghèo, có giai cấp và Nhà nước… mối quan hệ chính trị giữa kẻ áp bức và người bị áp bức nảy sinh. Từ cái dáng vẻ thô sơ, tàn bạo buổi ban đầu khi con người tập sử dụng quyền lực chính trị, chính trị ngày càng tinh vi, hoàn thiện với sự phát triển kinh tế, xã hội, với sự hình thành, phát triển của văn hóa và sự chín chắn của những bản tính người của nhân loại. Nói cách khác, tùy theo sự tham dự và thẩm thấu của văn hóa vào chính trị đến độ sâu rộng như thế nào mà chính trị càng trở nên có văn hóa. Ngược lại, chính trị khi thừa nhận vị thế của văn hóa và chuyển tải càng nhiều các giá trị văn hóa vào quá trình thực thi quyền lực, thì càng có ý nghĩa tích cực, hiệu quả. Bản thân nó tùy theo chất văn hóa nhiều ít của mỗi nền chính trị mà có thể định lượng được sự phát triển văn hóa nhân loại, tộc người, xã hội người, của mỗi dân tộc, quốc gia và của nhân loại trên con đường văn minh.
Sự giao thoa giữa chính trị và văn hóa diễn ra đều đặn tự nhiên nhưng lại tùy thuộc rất lớn vào những đại diện ở cả hai phía. Lịch sử nhân loại chứng kiến không nhiều trường hợp – chỉ đối với những vĩ nhân kiệt xuất, trong những thời điểm lịch sử nhất định nào đó – chính trị và văn hóa mới luôn nhất quán, không phân biệt trong một con người.
Khi tranh biện với Lương Đăng về nhã nhạc, Nguyễn Trãi, nhà tư tưởng và anh hùng dân tộc kiệt xuất thế kỷ XV đã từng nhấn mạnh: Hòa bình là gốc của nhạc, yên vui là thanh âm của nhạc, việc đặt lễ nhạc cốt tìm những âm điệu réo rắt, thuận tại, sao bằng trước lo an dân, trị quốc, sao cho người người cùng no đủ, khắp chốn hang cùng ngõ hẻm không còn tiếng hờn giận oán sầu.
Đối với Hồ Chí Minh trong tư tưởng chính trị của Người, luôn bao trùm và nhất quán một mục đích, một khát vọng: nước được độc lập, dân được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Sinh ra và lớn lên trong cảnh mất nước, nhà tan, sớm chứng kiến cảnh đế quốc đè nén, áp bức đồng bào, Người sớm nuôi ý tưởng tìm con đường “cứu giúp, giải phóng cho đồng bào”. Ra đi để tìm đường cứu nước, trải qua bao gian khổ, bôn ba, khi tìm thấy con đường đúng đắn, Người chia sẻ niềm vui với đối tượng đầu tiên là “đồng bào bị đọa đầy đau khổ…” Độc lập, tự do là giá trị hàng đầu trong hệ giá trị xã hội của dân tộc và cũng là yêu cầu hàng đầu của chính trị, là nền tảng và môi trường có tầm quan trọng bậc nhất cho sự tồn tại, phát triển của văn hóa, của mỗi dân tộc và của cả nhân loại. Tuy nhiên đó chưa phải là tất cả.
Sau khi và đồng thời với cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, tạo ra nền tảng tồn tại và không khí cho sự hít thở của văn hóa, Hồ Chí Minh mới có điều kiện thực hiện tiếp lý tưởng chính trị của mình: Đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Nước được độc lập, tự do mà dân không được hưởng hạnh phúc, thì độc lập, tự do chỉ như cái bánh vẽ, không có ý nghĩa gì “bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở dâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích: Làm cho ích quốc, lợi dân”(1). Người quan niệm: Chủ nghĩa xã hội, mục đích của nó, nói một cách đơn giản và dễ hiểu là không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Trong buổi bế mạc hội nghị lần IX (mở rộng) của BCHTW Đảng Lao động Việt Nam, Người nhấn mạnh: phải luôn nhớ rằng: Điều quan trọng bậc nhất trong kế hoạch kinh tế hiện nay của chúng ta là nhằm cải thiện đời sống của nhân dân (Báo Nhân dân 27.04.1956).
Cho đến cuối cuộc đời, tình cảm xót xa, thương cảm, những điều nhắn gửi chân thành Người vẫn dành cho nhân dân, cho đủ mọi kiếp người. Với nhân dân lao động ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh, Người yêu cầu: Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân (Di chúc).
Người luôn chú trọng giáo dục và nâng cao “tính văn hóa” cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là trong điều kiện Đảng cầm quyền. Cán bộ là gốc của công việc, nhưng phải gồm cả đức – tài, hay nói theo cách diễn đạt truyền thống là phải bao gồm cả tâm và tài. Người dặn cán bộ học ở trường Đảng, theo thứ tự là học để làm người, học để phụng sự giai cấp, đoàn thể và dân tộc, chứ không phải để làm quan, vinh thân, phì gia. Người yêu cầu cán bộ phải học, phải rèn luyện “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” và những biểu hiện sai trái, phi văn hóa trong quan hệ với mình, với người, với dân, với công việc.
Có thể hiểu trong nhiều trường hợp, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, theo sự phân định có ý nghĩa tương đối,văn hóa là lĩnh vực hoạt động tinh thần và chủ thể của những hoạt động ấy (nhà văn hóa, văn nghệ sĩ …) phải luôn gắn bó mật thiết với chính trị. Theo Người, khi dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do, văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng. Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và chính trị.
Trong tương quan giữa văn hóa và chính trị, kinh tế phải đi trước: Muốn tiến lên CNXH thì phải phát triển kinh tế, văn hóa… tục ngữ ta có câu: “có thực mới vực được đạo”, vì thế kinh tế phải đi trước.
Tuy nhiên, văn hóa, văn nghệ cũng có vai trò quan trọng không kém trên các mặt trận khác. “Văn hóa, văn nghệ cũng là một mặt trận – anh chị em là chiến sỹ trên mặt trận ấy”(2). Người yêu cầu “văn hóa hóa kháng chiến, kháng chiến hóa văn hóa”, văn nghệ sỹ phải đem ánh sáng văn hóa đến các mặt trận kháng chiến, góp vào xây dựng một nền văn hóa mới từ trong kháng chiến. Đồng thời, văn nghệ cũng phải “lưỡng hồi lao thạch mã”, phải kháng chiến hóa văn hóa, tự tắm gội mình trong dòng sông chảy xiết của cuộc kháng chiến, tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến, phải “soi đường cho quốc dân đi”, phải thấm thuần cái tinh thần và hào khí “khi cần quăng bút lấy Long tuyền” chiến đấu, hi sinh cùng cuộc kháng chiến gian lao và anh dũng của dân tộc.
Chính trị và văn hóa luôn song hành. Trong hòa bình, chính sách kinh tế phải đi liền với chính sách văn hóa – xã hội, phát triển kinh tế phải gắn bó với tiến bộ và công bằng xã hội vì “không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng, không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”.
Phải bảo đảm cho tất cả các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc, những người, tầng lớp có hoàn cảnh khó khăn; chiến tranh, thiên tai, miền xuôi, miền ngược.. đều có điều kiện và cơ hội tiến bộ về kinh tế – xã hội, đều được hưởng những thành quả kinh tế – văn hóa.
Mối quan hệ chặt chẽ giữa chính trị – văn hóa và ngược lại văn hóa – chính trị còn được thể hiện, quán xuyến trong hành xử chính trị, trong quan niệm và ứng xử chính trị, đối xử với những con người – dù là cá nhân hay một giai cấp, tầng lớp, dù là đồng chí, đồng bào hay phía đối phương… nó thể hiện tập trung trong tính nhân văn – nhân bản của những quyết sách chính trị ở Người. Đó là mối quan hệ biện chứng theo cả hai chiều. Nếu chính trị định hướng và tạo môi trường cho sự phát triển của văn hóa, thì văn hóa cũng phải đi cùng, tham gia tích cực vào chính trị và phổ nét văn hóa vào tư tưởng, tổ chức, cấu trúc và hành xử chính trị, thậm chí điều chỉnh tư tưởng và hành xử chính trị, góp phần tối ưu hóa các quyết sách chính trị, tạo nên “văn hóa chính trị”.
ở một lĩnh vực tưởng như chỉ có sức mạnh bạo lực, khó chứa đựng sáng tạo văn hóa và do đó, khó nhận biết được sự ẩn chứa những giá trị văn hóa nhất – lĩnh vực quân sự – với Hồ Chí Minh cũng trở thành văn hóa, cũng hàm chứa đầy giá trị nhân đạo nhân văn sâu sắc. Với Hồ Chí Minh, chính trị trọng hơn quân sự, người trước, súng sau, tuyên truyền trọng hơn tác chiến, khi cần thiết mới phải dùng bạo lực. Bạo lực cách mạng là tổng hợp của lực lượng chính trị, đấu tranh chính trị, lực lượng vũ trang, đấu tranh vũ trang và sự kết hợp của hai lực lượng, hai hình thức đấu tranh đó với nhau.
Bạo lực cách mạng từ trong bản chất và cội nguồn sức mạnh của nó chính là từ tính nhân đạo. Do đó, không phải một trận đánh diệt nhiều địch được coi là đẹp, người chỉ huy cao nhất việc “Võ” của cách mạng lại được Hồ Chí Minh đặt tên là “Văn”.
Sự thẩm thấu ở tầng bậc rất cao, rộng của văn hóa phương Đông và phương Tây là nền tảng vững chắc góp phần hình thành thiên tài chính trị và phong cách chính trị Hồ Chí Minh. Văn hóa tuân thủ chặt chẽ quy luật kế thừa, nhưng lại luôn là một hệ thống động và mở. Chủ nghĩa Mác – Lênin là lý thuyết chính trị cao nhất để giải phóng con người, nhưng nó nằm trong sự tồn tại và vận dụng của dòng chảy không ngừng và tư duy của cả nhân loại. Vì thế, với Hồ Chí Minh, một học thuyết chủ yếu hình thành từ cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp ở phương Tây, lấy giải phóng giai cấp vô sản làm trung tâm, lại có thể dung hợp hài hòa những yếu tố nhân bản và hợp lý của đạo Phật, đạo Thiên chúa, cùng những đại diện tư tưởng kiệt xuất của các dân tộc như M.Găngđi, Tôn Dật Tiên, của tư tưởng đạo đức, hành xử “Nhập thế” của Nho giáo, có thể chứa đựng tinh thần của Nhân quyền và Dân quyền, của tư tưởng “tự do, bình đẳng, bác ái” đã bị chủ nghĩa tư bản làm cho biến dạng, nhưng với Người, chúng đã được hệ thống và nâng cao, được hoàn thiện. Sự kết hợp chặt chẽ văn hóa và chính trị từ trong bản chất là đặc tính nhất quán của những tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mác – những lãnh tụ chủ yếu sống và hoạt động ở phương Tây. Từ điểm xuất phát của minh triết phương Đông, từ vị trí của các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh vừa kế thừa, vừa đem đến những cách tiếp cận và giá trị mới cho văn hóa – chính trị Mác xít. Người tiếp thu tinh thần nhân đạo và tính chiến đấu, triệt để của học thuyết dấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác, tính khoa học của nền văn minh kỹ thuật phương Tây. Đồng thời, Người đã làm hồi sinh nền văn hóa dân tộc, cũng như cả nền văn minh minh triết phương Đông đã bị ngộ nhận và thua thiệt do sự thất bại của các dân tộc chủ thể của nó trước chủ nghĩa tư bản phương Tây, từ đó thấm nhuần và kết hợp tinh hoa của hai dòng văn hóa, hai dòng tư duy chính trị, tạo nên một hiện tượng mà Ô.Mandenxtan khi gặp Người hồi đầu thế kỷ trước nhận xét “từ Nguyễn ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai”.
Chỉ ở tầng bậc cao mới có thể nhìn thấy sự tương đồng trong sự khác biệt của hai dòng văn hóa – chính trị này, mới có thể dung hợp chúng một cách nhuần nhuyễn, uyển chuyển, góp phần quan trọng để Nguyễn ái Quốc vượt qua những giới hạn của những người yêu nước tiên phong đương thời ở Việt Nam, tiếp nhận chủ nghĩa Lênin, kết hợp con đường cứu nước với cách mạng vô sản, đưa cuộc giải phóng dân tộc ở Việt Nam hòa cùng những dòng chảy lớn của thời đại. Chính khả năng dung hợp biện chứng này mới góp phần tạo nên nét đặc sắc của “văn hóa chính trị Hồ Chí Minh” với giá trị to lớn, sâu sắc và sức lay động mạnh mẽ của nó, tạo nên và duy trì cuộc cách mạng đầy tính nhân văn ở Việt Nam, cả trong cuộc giải phóng cũng như trong xây dựng, kiến tạo.
Từ đó, chính trị trong Hồ Chí Minh không chỉ định hướng cho giai cấp vô sản mà còn định hướng cho cả dân tộc và phù hợp với những giá trị bền lâu và tiên tiến của nhân loại. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh không chỉ là ngọn cờ tư tưởng của giai cấp vô sản, mà còn hàm chứa tinh hoa tư tưởng, văn hóa của dân tộc và nhân loại. Nó có khả năng làm chuyển động cả cộng đồng dân tộc đa dạng, làm nên những thay đổi vĩ đại. Tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh do đồng thuận với nhân loại tiến bộ nên được sự ủng hộ, đồng tình quốc tế rộng rãi, đồng thời có tác động tích cực đẩy nhanh dòng chảy của văn minh, tiến bộ nhân loại.
Trong tư tưởng và hoạt động của Hồ Chí Minh thấm đượm và tràn đầy tính nhân văn – văn hóa. Chính trị không còn mang bóng dáng của sự áp đặt quyền lực, mà nhuần nhị, uyển chuyển như dòng chảy tự nhiên thuận lòng người, hợp đạo trời, đầy giá trị nhân bản. Dân tộc Việt Nam và bạn bè quốc tế tiếp nhận những tư tưởng và hành xử chính trị của Người như tiếp nhận nước uống, cơm ăn, khí trời, như tiếp nhận thế giới tự nhiên từ bao đời nay đã nuôi dưỡng và bồi đắp nên con người và xã hội của họ. Từ rất lâu trước khi chúng ta bàn đến và nhận thức được sự cần thiết của văn hóa chính trị, chính trị và văn hóa đã hòa nhập làm một trong tư tưởng và con người Hồ Chí Minh. Hai thuộc tính danh nhân văn hóa và anh hùng giải phóng dân tộc ở Người chỉ là một.
Sự nhất quán hai thành tố văn hóa – chính trị bắt nguồn từ bản chất văn hóa và chính trị chân chính. Mọi nền tảng chính trị chân chính đều lấy việc phục vụ con người, giải phóng con người làm mục đích tối cao. Hoạt động văn hóa, giá trị cao nhất của văn hóa cũng xoay quanh những lĩnh vực thuộc bản chất người, kết tinh những giá trị tinh hoa trong quá trình phát triển của dân tộc và thời đại. Cả hai yếu tố chính trị và văn hóa đều đã được chuẩn bị, tích lũy từ cuộc đời hoạt động cách mạng đầy phong phú, sôi nổi của Người và đều đạt đến độ sâu sắc, hoàn thiện.
Tìm hiểu và thấm nhuần tư tưởng đặc sắc của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị và ngược lại (giữa chính trị và văn hóa) có ý nghĩa lý luận và thời sự thiết thực với tất cả chúng ta – nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền, khi mọi cán bộ Đảng viên đều có thể tham gia ít nhiều vào hệ thống chính trị. Hơn nữa, điều đó lại càng quan trọng khi Đảng ra đời trong một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến đầy dấu tích tiểu nông, nay lại hoạt động trong thời điểm đầy tính chất quá độ – có nhiều thuận lợi nhưng vẫn không ít nguy cơ tác động và nhiễu xạ tổ chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị. Đồng thời, di sản Văn hóa – chính trị của Người – do tính nhân bản và tiên phong của nó – còn rọi ánh sáng xa rộng đến toàn bộ cấu trúc, sự vận hành và xu hướng phát triển của nền văn hóa – chính trị của dân tộc ta trong tương lai./.
________________________
(1) Hồ Chí Minh (1984), Toàn tập, T.4, Sự thật, tr.240.
(2) Hồ Chí Minh (1989), Toàn Tập, T.8, Sự Thật, tr.639.