Một số giải pháp chủ yếu xây dựng nguồn lực văn hóa cho phát triển bền vững đất nước

Một số giải pháp chủ yếu xây dựng nguồn lực văn hóa cho phát triển bền vững đất nước

               

       

  1. Quan điểm của Đảng ta về phát triển văn hóa trong công cuộc đổi mới đồng bộ, toàn diện đất nước

 

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn coi trọng vai trò của văn hóa và hết sức quan tâm đến công tác văn hóa. “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Văn hóa có vai trò to lớn, quan trọng trong mọi mặt của đời sống xã hội. Đặc biệt, hơn 36 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta luôn chú trọng phát huy vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực, sức mạnh nội sinh thúc đẩy phát triển nhanh, bền vững đất nước, coi đây là một trong những nhiệm vụ chiến lược để phát triển quốc gia – dân tộc hùng cường, thịnh vượng.

 

 Thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta không ngừng bổ sung, phát triển đường lối xây dựng nền văn hóa mới phù hợp với tiến trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển văn hóa, nền tảng tinh thần của xã hội, Đại hội lần thứ X của Đảng đã xác định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế – xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội” (1). Đại hội lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sach phát triển là thể hiện rõ nhất tính ưu việt của chế độ ta. Tăng đầu tư của Nhà nước, đồng thời tăng cường huy động các nguồn lực xã hội cho phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vừa kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội” (2). Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Nhận thức sâu sắc của về mối quan hệ giữa văn hóa, kinh tế, chính trị đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về vai trò của văn hóa trong thời kỳ mới.

 

Đại hội lần thứ XII của Đảng xác định nhất quán đường lối “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (3).

 

 Một trong những mục tiêu của chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030, Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước” (4). Đây là quan điểm đúng đắn của Đảng về mối quan hệ giữa văn hóa với con người, nhấn mạnh vai trò của con người với tư cách là chủ thể, mục đích của phát triển văn hóa. Phát triển văn hóa là phương tiện phát triển con người và ngược lại. Đồng thời, Đảng xác định rõ: “Phát triển kinh tế – xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên” (5). Đồng thời, nhấn mạnh phải gắn kết giữa tăng trưởng kinh với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát huy nhân tố con người, lấy nhân dân làm trung tâm; phát huy vai trò của văn hóa – nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực của sự phát triển.

 

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, con người Việt Nam phát triển toàn diện phải là con người có văn hóa, thấm nhuần bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đảng ta xác định: “Coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển”. Việc đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển và kiên định phát triển con người toàn diện là tất yếu khách quan, góp phần xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, văn minh, hiện đại. Thực hiện tốt chính sách an sinh, bảo đảm phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Bảo đảm cung cấp và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là đối với người nghèo, người yếu thế trong xã hội, quan tâm chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân và cộng đồng. Có chính sách cụ thể phát triển văn hóa vùng đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.

 

Thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách và coi trọng giáo dục, đào tạo tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện. Cần có kế hoạch, cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh tế – xã hội. Đồng thời, xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ, trọng trách bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế. Ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ trong lĩnh vực văn hóa.

 

Có cơ chế, chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc Việt Nam, về lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý; cần cù sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống. Cùng với đó, tiếp tục hoạt động giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nền văn minh thế giới để không ngừng phát triển, hoàn thiện mình. Các giá trị văn hóa tiếp tục là điểm tựa, hành trang để đưa dân tộc Việt Nam xây dựng, phát triển kinh tế – xã hội; vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế. Bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc nhằm nâng cao sức mạnh nội sinh của dân tộc, tạo động lực để phát triển đất nước bền vững. Giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc giúp giữ được tính độc đáo, bảo đảm tính thống nhất, khơi dậy, phát triển tự hào dân tộc tạo nên sự gắn bó, đoàn kết – sức mạnh nội sinh quan trọng cho sự phát triển. Sự kết nối quá khứ và hiện tại chính là cơ sở, nền tảng, hành trang cho tương lai của dân tộc, đất nước. Hiện nay, việc phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp trên cơ sở những yêu cầu, chuẩn mực mới của thời đại chính là khát vọng vì một Việt Nam thịnh vượng, ý chí tự lực, tự cường là sức mạnh nội sinh cho đất nước phát triển nhanh và bền vững đất nước trong thời gian tới.

 

Xây dựng quan hệ xã hội tích cực, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh phù hợp với điều kiện mới. Môi trường văn hóa là bộ phận của môi trường xã hội, vì thế, có vai trò to lớn đối với sự ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội. Đại hội lần thứ XIII của Đảng quán triệt: “Xây dựng môi trường văn hóa một cách toàn diện ở gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư, trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp để văn hóa thực sự là động lực, đột phá phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế” (6). Môi trường văn hóa lành mạnh góp phần giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống của con người trong sáng, lành mạnh, bảo đảm con người phát triển toàn diện.

 

Mặt khác, môi trường văn hóa lành mạnh sẽ thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo ra những sản phẩm văn hóa có giá trị. Phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật, chú trọng nâng cao giá trị tư tưởng, nghệ thuật, đồng thời bảo đảm tự do, dân chủ trong sáng tạo văn học, nghệ thuật. Văn học, nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng góp phần tạo dựng nên nền tảng tinh thần của xã hội, phát triển văn hóa. Các tác phẩm văn học, nghệ thuật phải trở thành công cụ sắc bén để giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi người, hướng con người vươn tới khát vọng chân, thiện, mỹ, nhất là đối với thế hệ trẻ. Tiếp tục phát huy vai trò của gia đình trong xây dựng môi trường văn hóa. Gia đình là cái nôi quan trọng nhất trong việc giáo dục, hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa của mỗi con người. Gia đình là tế bào của xã hội, môi trường văn hóa gia đình tốt thì xã hội mới phát triển. Do đó, cần xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh và nâng cao vai trò của nhà trường trong xây dựng môi trường văn hóa. Mỗi trường học phải trở thành không gian văn hóa góp phần quan trọng trong giáo dục, đào tạo, rèn luyện con người về lý tưởng, nhân cách, phẩm chất, lối sống. Cùng với đó, xây dựng đời sống văn hóa ở mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị để mỗi nơi đều là một môi trường văn hóa lành mạnh góp phần điều chỉnh các cá nhân, quan hệ xã hội để văn hóa thực sự là động lực, đột phá phát triển kinh tế – xã hội và chủ động hội nhập quốc tế.

 

Để tiếp tục xây dựng, giữ gìn, chấn hưng và phát triển nền văn hóa của dân tộc, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, ngày 24 tháng 11 năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu, yêu cầu tập trung “ Khơi dậy mạnh mẽ hơn nữa tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, tinh thần đoàn kết, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn dân tộc; phát huy cao độ những giá trị văn hóa, sức mạnh và tinh thần cống hiến của mọi người Việt Nam, tạo nguồn lực nội sinh và động lực đột phá để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025, 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra” (7)

 

 Khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, mục tiêu, động phát triển kinh tế – xã hội; Phát huy vai trò của văn hóa là một trong những nhiệm vụ trọng tâm góp phần thúc đẩy phát triển bền vững đất nước. Trong bối cảnh giao lưu, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc cụ thể hóa hơn nữa nội dung, động lực và phương thức phát huy vai trò của văn hóa trong thực tiễn cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ cả chiều rộng lẫn chiều sâu, nhằm phát huy một cách tối đa vai trò của văn hóa trong tiến trình phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng vì hạnh phúc của nhân dân.

 

 

     2. Phát huy mạnh mẽ nguồn lực văn hóa cho phát triển bền vững đất nước

     Nguồn lực văn hóa được xem là nguồn lực đặc biệt, là sức mạnh thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một trong những mục tiêu quan trọng được Đảng ta xác định là xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học; xây dựng văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

 

Nhiệm vụ xây dựng con người phải gắn với xây dựng văn hóa làm nền tảng tinh thần, trong đó con người là chủ thể sáng tạo văn hóa và thụ hưởng các giá trị, sản phẩm văn hóa; chú trọng xây dựng con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn; cao về trí tuệ, năng lực, kỹ năng sáng tạo; khỏe về thể chất; nâng cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật. Chú trọng nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế; phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường dịch vụ và sản phẩm văn hóa; chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Nguồn lực văn hóa – vốn văn hóa không đứng ngoài kinh tế, chính trị, xã hội trong quá trình phát triển đất nước. Văn hóa có sứ mệnh làm nền tảng, làm mục tiêu cho phát triển kinh tế – xã hội. Cho nên, nguồn lực văn hóa trở thành nguồn lực đặc biệt, khơi dậy, thúc đẩy các nguồn lực khác, tạo sức mạnh tổng hợp trong phát triển bền vững đất nước.

 

Tiếp thu tinh thần của thời đại, trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng định văn hóa là kết quả của kinh tế; đồng thời, là động lực phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, đời sống, phải biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển. Nguồn lực con người là tổng thể những tiềm năng, năng lực của mỗi cá nhân và cộng đồng đã, đang và sẽ tạo ra sức mạnh để thúc đẩy xã hội phát triển. Nước ta với gần 100 triệu dân, là nguồn lực quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội.

 

Nguồn lực sản phẩm văn hóa là nguồn lực được kết tinh bởi vốn tài nguyên thiên nhiên ban tặng, được vật thể hóa thành các sản phẩm vật chất chứa đựng những giá trị văn hóa phi vật thể, bao gồm di tích lịch sử, văn hóa, các danh lam thắng cảnh… với các sản phẩm văn hóa sáng tạo của con người. Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa đa dân tộc, phong phú về thể loại, trong đó đã có 8 di sản thế giới được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của nhân loại (5 di sản văn hóa, 2 di sản tự nhiên và 1 di sản hỗn hợp). Đây là những điều kiện thuận lợi để chúng ta phát triển du lịch, dịch vụ nhằm phát huy hiệu quả giá trị các di sản văn hóa, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới.

 

      Trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách đầu tư cho phát triển văn hóa, từng bước đưa các ngành thông tin, truyền thông, báo chí, xuất bản phát triển; quan tâm, chú trọng các hoạt động sáng tác văn học, nghệ thuật; ngành điện ảnh, truyền hình không ngừng chuyển biến cả về chất và lượng; đội ngũ những người làm công tác văn hóa được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên. Cùng với đó là những đổi mới trong cơ chế quản lý, tạo lập khung pháp lý cho các chủ thể trong các hoạt động văn hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi để văn hóa phát triển bền vững trong sự gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế – xã hội. Chất lượng, hiệu quả hoạt động văn hóa từng bước được nâng cao; xây dựng môi trường văn hóa được chú trọng, nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của từng vùng, miền được kế thừa, phát triển. Nhiều chủ trương, chính sách, quy định pháp luật được ban hành đã tạo cơ sở chính trị –  pháp lý và điều kiện để xây dựng con người. Nhiều chuẩn mực tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của con người thời đại Hồ Chí Minh đã được đưa vào một số văn bản pháp luật, vào quy ước, hương ước tại các làng, xã, vào quy định, nội quy của các cơ quan, đơn vị, tổ chức xã hội. Cấp ủy, chính quyền, đoàn thể chính trị – xã hội đẩy mạnh các phong trào khởi nghiệp, thiện nguyện, gắn với phong trào thi đua yêu nước, xây dựng giá trị chuẩn mực con người Việt Nam.

 

 

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với “Cuộc vận động xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”; quan tâm hơn đến thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở với việc xây dựng hương ước, quy ước văn hóa, thực hiện nếp sống trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Nhiệm vụ bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc có chuyển biến tích cực, huy động được nhiều nguồn lực xã hội, giữ gìn di sản văn hóa truyền thống, nhất là một số loại hình nghệ thuật có nguy cơ bị mai một; khai thác giá trị của di sản văn hóa gắn với phát triển du lịch. Một số chính sách, pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho công tác xây dựng và phát triển văn hóa, con người được ban hành. Hệ thống thiết chế văn hóa được đầu tư và từng bước chuyển đổi cơ chế, đổi mới về phương thức hoạt động. Vai trò của văn học, nghệ thuật trong việc nuôi dưỡng tâm hồn, tình cảm của con người được coi trọng phát huy hơn. Hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại ngày càng chủ động hơn, phù hợp hơn.

 

Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn những hạn chế, bất cập, như việc xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam chưa đạt được mục tiêu đề ra; đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp rất đáng lo ngại; môi trường văn hóa có những mặt chưa thực sự lành mạnh; việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa đạt hiệu quả chưa cao. Tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán, văn hóa đặc trưng của một số dân tộc thiểu số có nguy cơ mai một dần. Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Một số chủ trương, quan điểm về văn hóa chậm được thể chế; chưa giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong quản lý văn hóa; có nơi còn xem nhẹ, buông lỏng quản lý về hoạt động văn hoá. Việc xây dựng môi trường văn hóa, danh hiệu phong trào văn hóa ở một số nơi còn mang nặng tính hình thức, thị hiếu tầm thường, chạy theo thành tích; sự chênh lệch hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền tiếp tục gia tăng; tệ nạn xã hội, xâm hại tình dục trẻ em, gian lận trong kinh doanh vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm, tham nhũng, tiêu cực đang diễn biến hết sức phức tạp, gây mất lòng tin, hoang mang trong nhân dân và xã hội. Một số chính sách về văn học, nghệ thuật chưa mang tính chiến lược; đầu tư cho văn học, nghệ thuật còn thấp; nhiều bất cập trong đầu tư cho hoạt động quảng bá, phổ biến tác phẩm. Việc phát triển công nghiệp văn hóa còn chậm, chưa theo kịp xu hướng phát triển của thế giới.

 

Nguyên nhân của thực trạng trên chủ yếu là nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa trong một số cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, các tổ chức xã hội và một bộ phận nhân dân chưa đầy đủ, sâu sắc và chưa được quan tâm một cách tương xứng với kinh tế và chính trị; công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý văn hóa chưa thực sự đổi mới, nhất là trong việc xây dựng, đào tạo, bố trí đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa. Các quy định hiện hành của pháp luật chưa ngang tầm với những đòi hỏi cấp bách và lâu dài của cuộc sống, với sự nghiệp đổi mới toàn diện, đồng bộ của đất nước nói chung và chiến lược “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” nói riêng mà Đảng đã đề ra. Do vậy, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa có mặt còn bất cập, chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Chưa phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp, sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ của các chủ thể văn hóa, khích lệ, động viên tính tích cực xã hội của nhân dân, nhất là đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển văn hóa. Công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để hình thành cơ sở lý luận, khoa học, đúc kết hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam còn chậm, chưa được quan tâm đúng mức với yêu cầu thời kỳ phát triển mới của đất nước.

 

3. Một số giải pháp chủ yếu để phát huy các nguồn lực văn hóa nhằm phát triển bền vững đất nước

 

    Để tăng cường đầu tư, khai thác và phát huy tối đa các nguồn lực văn hóa cho phát triển bền vững đất nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp chủ yếu sau đây:

 

Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt, nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò của văn hóa, của nguồn lực văn hóa, xây dựng con người đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xác định rõ việc xây dựng, bồi dưỡng, phát triển nguồn lực văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị, mà nòng cốt là ngành văn hoá. Chú trọng tính đặc thù của văn hóa, vừa bảo đảm để văn hóa, văn học, nghệ thuật phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng, đạo đức của Đảng, vừa bảo đảm tự do sáng tạo của cá nhân trên cơ sở phát huy tính tự giác cao, tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, đân tộc. Phát huy vai trò của nhân dân trong hoạt động thiết thực để vừa bảo tồn, gìn giữ, vừa phát huy những di sản văn hóa vô giá của cha ông; đồng thời, không ngừng nỗ lực sáng tạo để làm giàu thêm “vốn văn hóa” của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới.

 

Hai là, bổ sung, hoàn thiện chính sách phát triển văn hóa, nguồn lực văn hóa trong thời kỳ mới. Chú trọng đầu tư những thiết chế văn hóa phù hợp, thiết thực, hiệu quả; tạo sự dân chủ trong hoạt động sáng tạo, quảng bá, tiêu dùng, hưởng thụ các sản phẩm văn hóa có chất lượng; khuyến khích năng lực sáng tạo của các văn nghệ sĩ và người dân. Có cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút và trọng dụng nhân tài trong phát triển văn hoá. Đầu tư mọi nguồn lực cho phát triển giáo dục – đào tạo của ngành văn hoá; phát triển mạnh mẽ và quản lý có hiệu quả lĩnh vực thông tin – truyền thông, báo chí – xuất bản, nhất là mạng xã hội, nhằm xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước văn minh, hiện đại, nhân văn.

 

Ba là, tập trung xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng con người Việt Nam có thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, có nhân cách, lối sống đẹp với các đặc tính cơ bản “yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”. Tăng cường giáo dục thẩm mỹ, gắn giáo dục thể chất với giáo dục tri thức, đạo đức, kỹ năng xã hội cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ. Xây dựng lối sống văn hoá “thượng tôn pháp luật”, tôn trọng đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa”, “tương thân tương ái”, nhân nghĩa. Tôn vinh, nhân rộng các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Tăng cường và đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, những người làm công tác văn hóa, văn học, nghệ thuật có đủ phẩm chất đạo đức, chính trị và năng lực, kỹ năng chuyên môn trong ngành văn hoá, nghệ thuật, có sức lan tỏa, lôi cuốn công chúng trong sinh hoạt văn hóa lành mạnh.

 

Bốn là, đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hóa và đời sống văn hóa lành mạnh, gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và cuộc vận động: “Xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”. Có cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc nuôi dưỡng, giáo dục và bảo vệ thanh thiếu nhi, hình thành nhân cách, đạo đức trong sáng và kỹ năng ứng xử có văn hoá trong cộng đồng và xã hội. Xây dựng ý thức bảo vệ môi trường, ứng xử đúng đắn với môi trường sống. Thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa tiến bộ, văn minh. Huy động các nguồn lực đầu tư, thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các vùng, miền, các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Có những chế tài xử lý mạnh, đủ sức răn đe đối với những hành vi xâm hại văn hóa dân tộc; ngăn chặn, đẩy lùi những tư tưởng của các thế lực thù địch, phản động, những sản phẩm phi văn hóa trên các mạng xã hội. Đấu tranh loại trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, các hành vi tiêu cực, cơ hội, vi phạm pháp luật, truyền bá tư tưởng sai trái, lối sống thực dụng, trái thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng xấu đến xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam.

 

Năm là, xử lý hài hòa giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa các dân tộc với phát triển kinh tế, du lịch bền vững ở các địa phương, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam. Chú trọng thực hiện các chương trình phục hồi, bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một; giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, các giá trị văn hóa nhân văn trong tôn giáo, tín ngưỡng. Tạo điều kiện, khuyến khích sự sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ để có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật. Đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật, nâng cao tính chuyên nghiệp, đồng thời phát triển sâu rộng văn học, nghệ thuật quần chúng trong cộng đồng xã hội. Phát huy vai trò của báo chí, nâng cao hiệu quả hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là trên môi trường mạng để xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, hiện đại phù hợp với nền kinh tế số, văn hóa số, xã hội số, công dân số.

 

Sáu là, tăng cường phát triển du lịch, thương mại dịch vụ, trong đó đặc biệt chú trọng phát triển sản phẩm du lịch mang bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Có cơ chế, chính sách hợp lý để phát triển các ngành, nghề thủ công truyền thống. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, ưu tiên đầu tư một số cơ sở đào tạo trọng điểm, chất lượng cao và một số ngành công nghiệp văn hóa chủ đạo, có khả năng dẫn dắt các hoạt động văn hóa. Tăng cường bảo hộ quyền tác giả, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Tạo nhận thức sâu sắc của toàn xã hội về vị trí, vai trò của ngành công nghiệp văn hóa trên một số lĩnh vực chủ yếu phù hợp với lợi thế của đất nước. Phát huy mặt tích cực của cơ chế thị trường; tăng cường và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư để phát triển công nghiệp văn hóa. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách khuyến khích hoạt động sáng tạo, thu hút đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, tạo thuận lợi để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa theo hướng văn minh, hiện đại và bền vững. Nâng cao hiệu quả việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ và các quyền liên quan, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. Đẩy mạnh việc giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè thế giới thông qua các phương tiện truyền thông mới và các hoạt động giao lưu văn hóa.

 

Bảy là, phát huy vai trò của các cấp ủy Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy vai trò của các cấp chính quyền trong quản lý, điều hành, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội, đồng bào các dân tộc Việt Nam trong xây dựng, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực văn hóa cho sự phát triển bền vững đất nước trong thời kỳ mới. Cần xác định rõ chiến lược, chính sách bảo đảm phù hợp cho xây dựng nguồn lực văn hóa; chú trọng tạo dựng, hình thành và phát triển ngành công nghiệp văn hóa, trọng tâm là phát triển ngành du lịch, thương mại dịch vụ. Phát động và tổ chức thực hiện tốt, thiết thực, hiệu quả các phong trào, cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa trong các cộng đồng dân cư, gia đình, cơ quan, đơn vị, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp…tạo ra một lối sống đẹp của con người có văn hóa, nhân văn trong xã hội Việt Nam hùng cường, thịnh vượng./.

 

 TS. Nguyễn Văn Hùng,

                 Hội đồng Lý luận Trung ương

 

               ————————————————

Chú thích tài liệu tham khảo:

(1, 2, 3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, phần II (Đại hội X, XI, XII). Nxb. CTQGST, Hà Nội, 2019, tr.119, tr.326 – 327, tr.671.

(4,5,6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQGST, Hà Nội, 2021, t.1, tr.115 – 116, tr.110, tr.262.

(7). Bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc, ngày 24 tháng 11 năm 2021.