Nền văn hóa là gì? Các đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam?

Nền văn hóa là gì? Đặc trưng của nền văn hóa. Các đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam.

    Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc luôn có những nét văn hóa riêng mang tính đặc trưng. Văn hóa là nền tảng cho sự phát triển phồn thịnh của mỗi đất nước, bao gồm toàn bộ các giá trị vật chất và tinh thần được tạo ra trong quá trình lao động, sinh sống… theo bề dài lịch sử của mỗi quốc gia. Vậy nền văn hóa là gì? Và các đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam như thế nào?

    Tư vấn luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.6568

    1. Nền văn hóa là gì?

    Hiện nay văn hóa chưa có một định nghĩa chính xác và thống nhất. Có rất nhiều ý kiến xoay quanh khái niệm văn hóa như sau:

    Theo UNESCO thì “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Khái niệm này nhấn mạnh chủ yếu vào quá trình hình thành và phát triển mang tính lịch sử của mỗi cộng đồng người từ quá khứ cho đến hiện tại đã tạo nên những bản sắc riêng mang tính đặc trưng của từng dân tộc, và đó chính là văn hóa.

    Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa chính là “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.” Định nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho ta cái nhìn khái quát và toàn cảnh hơn, văn hóa là xuất phát từ chính hoạt động của con người – những hoạt động vì mục đích sinh tồn trong cuộc sống loài người lặp đi lặp lại mang nét riêng, và lưu truyền từ đời này qua đời khác tạo thành văn hóa.

    Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam – Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin, xuất bản năm 1998, thì văn hóa “là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử”

    Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra một loạt quan niệm về văn hóa:

    – Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.

    – Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần (nói tổng quát)

    – Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sng1 tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội.

    Như vậy, thực tế có thể thấy văn hóa là một nền giá trị không thể thiếu ở mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Văn hóa bao trùm toàn bộ khía cạnh đời sống của con người, từ tiếng nói, ngôn ngữ, tôn giáo, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh,… của từng đất nước, đây là tất cả những giá trị do chính con người sáng tạo ra. Văn hóa mang ý nghĩa về mặt tinh thần nhằm phục vụ cho nhu cầu và lợi ích của con người, của quốc gia, dân tộc .

    Xem thêm: Những thành tựu văn hóa cổ đại phương Đông và phương Tây

    2. Đặc trưng của nền văn hóa:

    Thứ nhất, văn hóa có tính hệ thống:

    Tính hệ thống của văn hóa được hiểu là mối liên hệ gắn bó, mật thiết giữa các yếu tố với nhau, các yếu tố đó chính là các sự kiện để kết nối những hiện tượng, quy luật lại với nhau trong quá trình hình thành và phát triển. Phải có tính hệ thống thì văn hóa mới có thể thực hiện được chức năng xã hội. Văn hóa về bản chất đã bao trùm lên tất cả mọi mặt của đời sống – xã hội, lên tất cả các lĩnh vực ở mọi quốc gia. Chính vì vậy, mới làm tăng sự ổn định của đời sống xã hội, là nền tảng vững chắc để xã hội phát triển tiến bộ.

    Thứ hai, văn hóa có tính giá trị:

    Giá trị là nền tảng cốt lõi của văn hóa. Bản chất của văn hóa là mang đến cái tốt, cái đẹp, chân – thiện – mĩ. Ở mỗi quốc gia, văn hóa chính là thước đo sự giá trị từ xưa đến nay, từ lịch sử hình thành đến hiện tại.

    Văn hóa vốn tự bản thân có có những giá trị về vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất), giá trị về tinh thần (phục vụ cho nhu cầu về tinh thần); theo ý nghĩa thì có giá trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ; theo thời gian thì có giá trị vĩnh cửu và giá trị nhất thời.

    Thứ ba, văn hóa có tính nhân sinh:

    Tính nhân sinh là vì con người, mang giá trị đến cho con người. Đây chính là yếu tố để phân biệt nền văn hóa như một hiện tượng xã hội do con người sáng tạo ra với các giá trị tự nhiên khác. Mang tính nhân sinh, tức là văn hóa có sự kết nối giữa con người với con người, vật với vật và vật với người. Và đây là ý nghĩa sâu sắc nhất mà văn hóa có được.

    Thứ tư, văn hóa có tính lịch sử:

    Văn hóa như ta hiểu được hình thành từ thời xưa cho đến nay, lặp đi lặp lại truyền từ đời này qua đời khác. Do vậy văn hóa mang tính lịch sử rất rõ nét. Tính lịch sử đã tạo nên một bề dày, chiều sâu cho nền văn hóa. Và nghiễm nhiên, nền văn hóa nào lịch sử càng dày thì có sức hút và giá trị càng cao. Văn hóa có tính lịch sử cao cần phải được gìn giữ và phát huy, không ngừng tái tạo để hoàn thiện hơn.

    3. Các đặc trưng của nền văn hóa Việt Nam:

    Nền văn hóa hình thành từ nền tảng nông nghiệp trồng lúa nước:

    Từ bao lâu này, ai cũng biết đến Việt Nam là một nước đi lên từ nông nghiệp và nông nghiệp là nguồn sống chính. Với điều kiện tự nhiên, nước Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, hình chữ S, chạy dài từ Bắc xuống Nam, diện tích đất liền 331.212 km2, đường bờ biển dài 3.260km. Dựa theo địa lý, biển nước ta rộng gấp hơn 3 lần diện tích đất liền và chiếm khoảng 29% diện tích toàn biển Đông, nơi có tới trên 3.000 hòn đảo lớn nhỏ.

    Việt Nam có 54 dân tộc, dân số hơn 96,2 triệu người, trong đó dân tộc Kinh hơn 82 triệu, chiếm đa số 85,3% (theo tổng điều tra dân số 01/4/2019), sau đó là các dân tộc Tày, Thái, Mường, Khơ-me. Cư dân của 5 dân tộc này đều lấy nghề trồng lúa nước làm nguồn sống chính. Từ thời phong kiến, đại bộ phận người Việt sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt và chủ yếu là trồng lúa nước.

    Nền văn hóa đề cao giá trị gia đình truyền thống:

    Gia đình là hai tiếng thiêng liêng, từ đời này qua đời khác giá trị của gia đình không bao giờ thay đổi. Gia đình chính là tế bào của xã hội, là nơi sinh thành, nuôi dưỡng cũng như là cái nôi phát triển của mỗi con người. Đặc trưng của dân tộc Việt Nam, giá trị văn hóa gia đình đúc kết từ ự thích nghi và ứng phó của dân tộc đối với tự nhiên và xã hội trước những thách thức của lịch sử. Bản sắc thể hiện gia đình là việc thờ cúng tổ tiên, đó là tín ngưỡng từ xưa đến nay của người Việt; coi trọng mồ mả, ngày giỗ chạp của các cụ, ông bà, cha mẹ. Đó là sự tôn trọng thành kính nhất của mỗi con người, mỗi gia đình dành cho người sinh thành ra mình.

    Nền văn hóa mang đậm tính cộng đồng, tính tự trị văn hóa làng xã:

    Làng xã là một tổ chức xã hội độc đáo trong xã hội phong kiến Việt Nam. Làng xã thể hiện rõ nét tính chất cộng đồng. Tại đó, các thành viên gắn bó, có quan hệ mật thiết trong mọi sinh hoạt đời sống. Làng là quê cha đất tổ, là nơi chôn rau cắt rốn, nơi được mọi người trân trọng gọi là quê hương. Cha ông ta có câu: “Quê hương là chùm khế ngọt/ Cho con trèo hái mỗi ngày”. Tính cộng đồng và tính tự trị là cơ sở để làng Việt mang bản sắc riêng của mỗi vùng miền. Ở Việt Nam, làng là một thực thể tự trị nhưng làng và nước lại có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau, tạo nên giá trị tình làng nghĩa nước.

    Nền văn hóa thể hiện rõ nét tinh thần yêu nước, ý thức quốc gia – dân tộc: 

    Lịch sử đã chứng minh dân tộc Việt Nam là dân tộc quật cường, hi sinh dưới bao ách thống trị đô hộ. Trước thách thức của lịch sử, người Việt đã tự vệ cho dân tộc mình bằng vũ khí văn hóa là đề cao, lan tỏa sâu rộng tinh thần yêu nước thương nòi, ý thức về quốc gia – dân tộc. Tình yêu nước là nền tảng vững chắc tạo nên khí thế anh hùng của quốc gia, của dân tộc. Người Việt Nam hiểu rằng, mất văn hóa là mất nước. Do vậy, yêu nước trước hết là tình yêu văn hóa, giữ gìn nền văn hóa của quốc gia.

    Nền văn hóa dân tộc đa dạng: 

    Việt Nam là quốc gia đa dân tộc (54 dân tộc), trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số nên văn hóa dân tộc Kinh giữ vai trò chủ đạo. Nền văn hóa đa dạng chính là tiềm năng, thế mạnh của đất nước Việt Nam. Mỗi dân tộc lại có những nét đặc trưng cơ bản riêng, từ đó tạo nên một bức tranh văn hóa đa sắc màu nhưng vẫn có tính thống nhất. Thống nhất quốc kỳ, quốc huy, quốc hiệu, quốc ca… của nước. Thống nhất phép tắc của nhà nước, lấy tiếng nói người Kinh làm ngôn ngữ phổ thông trong giao tiếp, quy định chữ viết quốc gia trong mỗi thời kỳ lịch sử…